Các nước phát triển tập trung chủ yếu khu
vục nào sau đây?
1. Nước phát triển gì?
Nước phát triển (developed country) các nước tiên tiến về kinh tế, nền
kinh tế được đặc trưng bởi khu vực công nghiệp dịch vụ lớn, múc thu nhập
đầu người cao. những nước công nghiệp hiện nay, mức thu nhập bình
quân đầu người thường cao so với những nước nông nghiệp. Điều này khiến
nhiều nước nông nghiệp trên thế giới muốn thực hiện công nghiệp hóa, tức
phát triển công nghiệp tỉ trọng cao hơn so với các ngành khác. Các nước
công nghiệp cũng thường Chỉ số phát triển con người (HDI) thuộc vào loại
cao, các quốc gia này n hay được nhắc tới là c nước phát triển, nước
tiên tiến.
1.1. Đặc điểm của các nước phát triển
- bình quân tổng sản phẩm trong ớc theo đầu người (GDP/người) cao.
- Đầu nước ngoài (FDI) nhiều.
- Chỉ số phát triển con người (HDI) cao.
1.2. Cần những để được coi một nước phát triển?
Thuật ngữ các nước phát triển được sử dụng để chỉ những quốc gia thu
nhập bình quân đầu người (thu nhập bình quân của mỗi người dân) hoặc
tổng sản phẩm quốc nội (GDP) bình quân đầu người cao, mức sống cao
(chất lượng, số lượng hàng hóa dịch vụ sẵn trong hội), tuổi thọ cao
(tuổi thọ trung bình dự kiến của công dân tại một quốc gia) c phép đo
khác liên quan đến chất lượng cuộc sống của nhân. Tuy nhiên, các tiêu
chí phải sự tương quan thích hợp. Một quốc gia GDP bình quân đầu
người cao nhưng sở hạ tầng kém bất bình đẳng về thu nhập cũng
không được xem nền kinh tế phát triển. Mặt khác, những yếu tố phi kinh tế
như chỉ số phát triển con người (HDI), trình đ học vấn, tỷ lệ biết ch trình
độ chăm sóc sức khỏe cũng phản ánh mức độ phát triển của một quốc gia.
Những nước phát triển còn được gọi các quốc gia thuộc Thế giới th nhất,
các nước công nghiệp phát triển, các nền kinh tế tiên tiến... Hầu hết quốc gia
phát triển nằm Tây bán cầu, bao gồm Mỹ, Canada các quốc gia Tây Âu.
Australia New Zealand cũng những quốc gia phát triển. Đa số ớc
châu Á không phải nền kinh tế phát triển, nhưng một số ít đã đáp ứng được
các tiêu chí cần thiết n Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore. Các đặc khu hành
chính của Trung Quốc bao gồm Hong Kong Macau cũng được xếp vào
nhóm nền kinh tế phát triển. Khái niệm về các nước phát triển xuất hiện lần
đầu trong Chiến tranh Lạnh. Năm 1952, n nhân chủng học sử học người
Pháp Alfred Sauvy (1898-1990) đặt ra thuật ngữ Thế giới thứ ba để t
tình trạng của những quốc gia nghèo khó trên thế giới. Khi thuật ngữ này phổ
biến, mọi người bắt đầu sử dụng cụm từ Thế giới thứ nhất để chỉ Mỹ châu
Âu, Thế giới thứ hai cho Liên Xô các đồng minh. Theo thời gian, những
thuật ngữ này trở nên lỗi thời. Các thuật ngữ quốc gia phát triển quốc gia
đang phát triển, vốn tập trung nhiều hơn vào yếu tố kinh tế, được sử dụng
nhiều hơn. Theo trang Investopedia, mặc không quy chuẩn nghiêm
ngặt để đánh giá một quốc gia phát triển hay đang phát triển, tiêu chí phổ
biến nhất được sử dụng để xác định GDP bình quân đầu người. Một số
nhà kinh tế quốc tế đánh giá GDP bình quân đầu người từ 12.000-15.000
USD/năm đủ để đánh giá một quốc gia vào nhóm phát triển. Tuy nhiên, một
số khác cho rằng mức GDP bình quân đầu người tối thiểu của một quốc gia
phát triển phải trên 25.000-30.000 USD. Theo dữ liệu của Ngân hàng Thế
giới (WB), GDP bình quân đầu người của một số quốc gia phát triển tiêu biểu
thế giới năm 2019 như Mỹ 65.111 USD/năm, Australia 54.907 USD/năm,
Đức 46.259 USD/năm, Nhật Bản 40.847 USD/năm. Dữ liệu cho thấy GDP
bình quân đầu người của Việt Nam năm 2019 2.715 USD/năm, tăng 5,79%
so với năm 2018.
Như vậy, GDP bình quân đầu người của M cao gấp 24 lần của Việt Nam.
Con số này của Đức, Singapore Nhật Bản cao hơn Việt Nam lần lượt 17,
24, 14 lần. Trong số các quốc gia đang phát triển với nền kinh tế chuyển đổi
trong khu vực, GPD bình quân đầu người của Trung Quốc 10.262
USD/năm, Malaysia 11.415 USD/năm Thái Lan 7.808 USD/năm, tức cao
gấp Việt Nam từ 4-5 lần. Tuy nhiên, một nền kinh tế phát triển không chỉ
được đánh giá dựa trên GDP bình quân đầu người. Điển hình trường hợp
của Qatar. Đây một trong những quốc gia GDP bình quân đầu người
cao nhất thế giới (69.688 USD o năm 2019). Tuy nhiên, nước này bị Liên
Hợp Quốc xếp vào nhóm nền kinh tế đang phát triển. Nguyên nhân quốc
gia này sự bất bình đẳng về thu nhập, thiếu sở hạ tầng quan trọng, ít
hội giáo dục cho ng dân thu nhập trung bình thấp. Một yếu tố khác
được sử dụng để xác định quốc gia phát triển hay không là chỉ số phát
triển con người (HDI). Chỉ số này xem xét ba yếu tố, bao gồm tỷ lệ biết chữ,
mức độ tiếp cận giáo dục các dịch vụ chăm sóc sức khỏe, được định
lượng thành con số chuẩn hóa từ 0 đến 1. Hầu hết nước phát triển ch số
HDI trên 0,8. Năm 1993, Liên Hợp Quốc bắt đầu sử dụng xếp hạng HDI để
xếp hạng các quốc gia vùng lãnh thổ theo chất lượng cuộc sống của công
dân. Năm 2019, Na Uy được xếp hạng cao nhất với chỉ số HDI 0,954. Theo
sau lần lượt Thụy (0.946), Ireland (0,942) Đức (0,939). Năm 2019,
Việt Nam tiến sát mức cao về HDI nằm trong nhóm c nước tốc đ
tăng trưởng HDI cao nhất trên thế giới. Với chỉ số HDI 0,693, Việt Nam chỉ
cần thêm 0,007 điểm để tiến vào nhóm những quốc gia HDI mức cao.
Đối với những quốc gia khó phân loại hơn, các chuyên gia kinh tế còn xác
định tình trạng phát triển thông qua những yếu t hội khác như tuổi th của
người dân hay tỷ lệ tử vong trẻ sinh. Hầu hết nền kinh tế phát triển đều
t lệ tử vong trẻ sinh thấp hơn 10/1.000 trẻ tuổi thọ trung bình của
người dân đạt từ 75 tuổi trở n.
2. Các nước phát triển tập trung ch yếu khu vực
Sự phân bố của nhóm nước phát triển nhóm nước đang phát triển trên thế
giới một cách khái quát các nưộc phát triển nằm Bắc bán cầu - c nước
đang phát 1 triển nằm Nam bán cầu. Các nước phát triển những quốc
gia nền kinh tế trình độ cao, thu nhập bình quân đầu người lớn, chỉ số
HDI cao.
=> Các ớc này tập trung chủ yếu khu vực Bắc (Hoa Kì, Canađa),
Tây Âu (Anh, Pháp, Ý, Thủy Sĩ, Đức…) và Ô-xtrây-li-a.
-Thu nhập bình quân đầu người còn được gọi tổng sản phẩm quốc nội bình
quân đầu người. Đơn giản đây tổng chi tiêu thống kinh tế phản ánh giá
trị mới của hàng hóa dịch vụ tính bình quân trên đầu người trong một
khoảng thời điểm nhất định. Thu nhập bình quân đầu người sẽ được tính
bằng tổng sản phẩm trên địa bàn chia cho tổng dân số trung bình.
GDP một chỉ số quan trọng trong việc đánh giá tổng quan sự ng trưởng
nền kinh tế một quốc gia tại thời điểm nhất định. Chỉ số này thường được
sử dụng rộng rãi trong lĩnh vực kinh tế tài chính. GDP được viết tắt từ Gross
Domestic Product, dịch ra nghĩa tổng sản phẩm nội địa hoặc tổng sản
phẩm quốc nội. Đây một chỉ số để đo lường tổng giá trị thị trường của c
hàng hóa dịch vụ cung cấp cuối cùng được sản xuất ra trong phạm vị một
quốc gia hoặc một thời điểm nhất định. Giá trị thị trường của các hàng hóa
dịch vụ biểu thị số tiền người tiêu dùng thể chi trả, chỉ số này phản ánh
được chính xác giá trị của những loại hàng hóa dịch vụ này. Nói đơn giản
hơn, GDP chỉ thể hiện giá trị cuối cùng của những loại hàng hóa dịch vụ,
không kể đến quá trình. Thông thường, chỉ số được tính theo lãnh thổ kinh tế
như hình thức kinh doanh (tổ chức, nhân hoặc gia đình,..), đơn vị hoạt
động sản xuất kinh doanh,....
- Phát triển kinh tế quá trình lớn lên, tăng tiến mọi mặt của nền kinh tế.
bao gồm sự tăng trưởng kinh tế đồng thời sự hoàn chỉnh về mặt cấu,
thể chế kinh tế, chất lượng cuộc sống công bằng hội.
- Chỉ số phát triển con người (HDI) thước đo tổng hợp phản ánh sự phát
triển của con người trên các phương diện: sức khỏe (thể hiện qua tuổi thọ
trung nh tính từ lúc sinh); tri thức (thể hiện qua ch số giáo dục) thu nhập
(thể hiện qua tổng thu nhập quốc gia bình quân đầu người). HDI nhận giá trị
từ 0 đến 1. HDI càng gần 1 nghĩa trình độ phát triển con người càng cao,
trái lại càng gần 0 nghĩa trình độ phát triển con người càng thấp.
* Những điểm khác nhau giữa các nước phát triển các nước đang
phát triển:
Nước đang phát triển nước phát triển những đặc điểm khá khác nhau,
giúp chúng ta phân biệt quốc gia nào phát triển quốc gia nào đang trong
quá trình xây dựng để vươn tới quốc gia phát triển.
Về thu nhập bình quân đầu người GDP: Các nước phát triển thu nhập
bình quân đầu người GDP cao so với các nước đang phát triển.
Về tạo ra doanh thu: Các nước phát triển tạo ra doanh thu từ lĩnh vực công
nghiệp. Người lại các nước đang phát triển tạo doanh thu t lĩnh vực dịch
vụ.
Về sở h tầng: Các quốc gia phát triển sở hạ tầng tốt môi
trường tốt hơn về sức khỏe an toàn, vốn không các nước đang phát
triển.
Về tỷ lệ biết chữ: các nước phát triển tỷ lệ biết chữ cao, nhưng các
nước đang phát triển tỷ lệ chữ cao n.
Về tỷ lệ sinh và tử vong: Các nước phát triển, tỷ lệ sinh tỷ lệ tử vong thấp,
trong khi các nước đang phát triển cả hai tỷ lệ này đều cao.
Về sử dụng i nguyên: Tài nguyên được sử dụng hiệu quả các nước phát
triển. Bên cạnh đó, việc sử dụng tài nguyên hợp không được thực hiện
các nước đang phát triển.
Về mức sống của người dân: Các nước phát triển mức sống của người n
cao mức vừa phải các nước đang phát triển.

Preview text:

Các nước phát triển tập trung chủ yếu ở khu vục nào sau đây?
1. Nước phát triển là gì?
Nước phát triển (developed country) là các nước tiên tiến về kinh tế, có nền
kinh tế được đặc trưng bởi khu vực công nghiệp và dịch vụ lớn, múc thu nhập
đầu người cao. Ở những nước công nghiệp hiện nay, mức thu nhập bình
quân đầu người thường cao so với những nước nông nghiệp. Điều này khiến
nhiều nước nông nghiệp trên thế giới muốn thực hiện công nghiệp hóa, tức là
phát triển công nghiệp có tỉ trọng cao hơn so với các ngành khác. Các nước
công nghiệp cũng thường có Chỉ số phát triển con người (HDI) thuộc vào loại
cao, và các quốc gia này còn hay được nhắc tới là các nước phát triển, nước tiên tiến.
1.1. Đặc điểm của các nước phát triển
- Có bình quân tổng sản phẩm trong nước theo đầu người (GDP/người) cao.
- Đầu tư nước ngoài (FDI) nhiều.
- Chỉ số phát triển con người (HDI) cao.
1.2. Cần có những gì để được coi là một nước phát triển?
Thuật ngữ các nước phát triển được sử dụng để chỉ những quốc gia có thu
nhập bình quân đầu người (thu nhập bình quân của mỗi người dân) hoặc
tổng sản phẩm quốc nội (GDP) bình quân đầu người cao, mức sống cao
(chất lượng, số lượng hàng hóa và dịch vụ sẵn có trong xã hội), tuổi thọ cao
(tuổi thọ trung bình dự kiến của công dân tại một quốc gia) và các phép đo
khác liên quan đến chất lượng cuộc sống của cá nhân. Tuy nhiên, các tiêu
chí phải có sự tương quan thích hợp. Một quốc gia có GDP bình quân đầu
người cao nhưng cơ sở hạ tầng kém và bất bình đẳng về thu nhập cũng
không được xem là nền kinh tế phát triển. Mặt khác, những yếu tố phi kinh tế
như chỉ số phát triển con người (HDI), trình độ học vấn, tỷ lệ biết chữ và trình
độ chăm sóc sức khỏe cũng phản ánh mức độ phát triển của một quốc gia.
Những nước phát triển còn được gọi là các quốc gia thuộc Thế giới thứ nhất,
các nước công nghiệp phát triển, các nền kinh tế tiên tiến... Hầu hết quốc gia
phát triển nằm ở Tây bán cầu, bao gồm Mỹ, Canada và các quốc gia Tây Âu.
Australia và New Zealand cũng là những quốc gia phát triển. Đa số nước
châu Á không phải là nền kinh tế phát triển, nhưng một số ít đã đáp ứng được
các tiêu chí cần thiết như Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore. Các đặc khu hành
chính của Trung Quốc bao gồm Hong Kong và Macau cũng được xếp vào
nhóm nền kinh tế phát triển. Khái niệm về các nước phát triển xuất hiện lần
đầu trong Chiến tranh Lạnh. Năm 1952, nhà nhân chủng học và sử học người
Pháp Alfred Sauvy (1898-1990) đặt ra thuật ngữ Thế giới thứ ba để mô tả
tình trạng của những quốc gia nghèo khó trên thế giới. Khi thuật ngữ này phổ
biến, mọi người bắt đầu sử dụng cụm từ Thế giới thứ nhất để chỉ Mỹ và châu
Âu, Thế giới thứ hai cho Liên Xô và các đồng minh. Theo thời gian, những
thuật ngữ này trở nên lỗi thời. Các thuật ngữ quốc gia phát triển và quốc gia
đang phát triển, vốn tập trung nhiều hơn vào yếu tố kinh tế, được sử dụng
nhiều hơn. Theo trang Investopedia, mặc dù không có quy chuẩn nghiêm
ngặt để đánh giá một quốc gia phát triển hay đang phát triển, tiêu chí phổ
biến nhất được sử dụng để xác định là GDP bình quân đầu người. Một số
nhà kinh tế quốc tế đánh giá GDP bình quân đầu người từ 12.000-15.000
USD/năm là đủ để đánh giá một quốc gia vào nhóm phát triển. Tuy nhiên, một
số khác cho rằng mức GDP bình quân đầu người tối thiểu của một quốc gia
phát triển phải trên 25.000-30.000 USD. Theo dữ liệu của Ngân hàng Thế
giới (WB), GDP bình quân đầu người của một số quốc gia phát triển tiêu biểu
thế giới năm 2019 như Mỹ là 65.111 USD/năm, Australia 54.907 USD/năm,
Đức 46.259 USD/năm, Nhật Bản 40.847 USD/năm. Dữ liệu cho thấy GDP
bình quân đầu người của Việt Nam năm 2019 là 2.715 USD/năm, tăng 5,79% so với năm 2018.
Như vậy, GDP bình quân đầu người của Mỹ cao gấp 24 lần của Việt Nam.
Con số này của Đức, Singapore và Nhật Bản cao hơn Việt Nam lần lượt 17,
24, 14 lần. Trong số các quốc gia đang phát triển với nền kinh tế chuyển đổi
trong khu vực, GPD bình quân đầu người của Trung Quốc là 10.262
USD/năm, Malaysia 11.415 USD/năm và Thái Lan 7.808 USD/năm, tức cao
gấp Việt Nam từ 4-5 lần. Tuy nhiên, một nền kinh tế phát triển không chỉ
được đánh giá dựa trên GDP bình quân đầu người. Điển hình là trường hợp
của Qatar. Đây là một trong những quốc gia có GDP bình quân đầu người
cao nhất thế giới (69.688 USD vào năm 2019). Tuy nhiên, nước này bị Liên
Hợp Quốc xếp vào nhóm nền kinh tế đang phát triển. Nguyên nhân là quốc
gia này có sự bất bình đẳng về thu nhập, thiếu cơ sở hạ tầng quan trọng, ít
cơ hội giáo dục cho công dân có thu nhập trung bình và thấp. Một yếu tố khác
được sử dụng để xác định quốc gia có phát triển hay không là chỉ số phát
triển con người (HDI). Chỉ số này xem xét ba yếu tố, bao gồm tỷ lệ biết chữ,
mức độ tiếp cận giáo dục và các dịch vụ chăm sóc sức khỏe, được định
lượng thành con số chuẩn hóa từ 0 đến 1. Hầu hết nước phát triển có chỉ số
HDI trên 0,8. Năm 1993, Liên Hợp Quốc bắt đầu sử dụng xếp hạng HDI để
xếp hạng các quốc gia và vùng lãnh thổ theo chất lượng cuộc sống của công
dân. Năm 2019, Na Uy được xếp hạng cao nhất với chỉ số HDI 0,954. Theo
sau lần lượt là Thụy Sĩ (0.946), Ireland (0,942) và Đức (0,939). Năm 2019,
Việt Nam tiến sát mức cao về HDI và nằm trong nhóm các nước có tốc độ
tăng trưởng HDI cao nhất trên thế giới. Với chỉ số HDI 0,693, Việt Nam chỉ
cần thêm 0,007 điểm để tiến vào nhóm những quốc gia có HDI ở mức cao.
Đối với những quốc gia khó phân loại hơn, các chuyên gia kinh tế còn xác
định tình trạng phát triển thông qua những yếu tố xã hội khác như tuổi thọ của
người dân hay tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh. Hầu hết nền kinh tế phát triển đều
có tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh thấp hơn 10/1.000 trẻ và tuổi thọ trung bình của
người dân đạt từ 75 tuổi trở lên.
2. Các nước phát triển tập trung chủ yếu ở khu vực
Sự phân bố của nhóm nước phát triển và nhóm nước đang phát triển trên thế
giới một cách khái quát là các nưộc phát triển nằm ở Bắc bán cầu - các nước
đang phát 1 triển nằm ở Nam bán cầu. Các nước phát triển là những quốc
gia có nền kinh tế ở trình độ cao, thu nhập bình quân đầu người lớn, chỉ số HDI cao.
=> Các nước này tập trung chủ yếu ở khu vực Bắc Mĩ (Hoa Kì, Canađa),
Tây Âu (Anh, Pháp, Ý, Thủy Sĩ, Đức…) và Ô-xtrây-li-a.

-Thu nhập bình quân đầu người còn được gọi là tổng sản phẩm quốc nội bình
quân đầu người. Đơn giản đây là tổng chi tiêu thống kê kinh tế phản ánh giá
trị mới của hàng hóa và dịch vụ tính bình quân trên đầu người trong một
khoảng thời điểm nhất định. Thu nhập bình quân đầu người sẽ được tính
bằng tổng sản phẩm trên địa bàn chia cho tổng dân số trung bình.
GDP là một chỉ số quan trọng trong việc đánh giá tổng quan sự tăng trưởng
nền kinh tế ở một quốc gia tại thời điểm nhất định. Chỉ số này thường được
sử dụng rộng rãi trong lĩnh vực kinh tế tài chính. GDP được viết tắt từ Gross
Domestic Product, dịch ra có nghĩa là tổng sản phẩm nội địa hoặc tổng sản
phẩm quốc nội. Đây là một chỉ số để đo lường tổng giá trị thị trường của các
hàng hóa và dịch vụ cung cấp cuối cùng được sản xuất ra trong phạm vị một
quốc gia hoặc một thời điểm nhất định. Giá trị thị trường của các hàng hóa và
dịch vụ biểu thị số tiền mà người tiêu dùng có thể chi trả, chỉ số này phản ánh
được chính xác giá trị của những loại hàng hóa và dịch vụ này. Nói đơn giản
hơn, GDP chỉ thể hiện giá trị cuối cùng của những loại hàng hóa và dịch vụ,
không kể đến quá trình. Thông thường, chỉ số được tính theo lãnh thổ kinh tế
như hình thức kinh doanh (tổ chức, cá nhân hoặc gia đình,. ), đơn vị hoạt
động sản xuất kinh doanh,....
- Phát triển kinh tế là quá trình lớn lên, tăng tiến mọi mặt của nền kinh tế. Nó
bao gồm sự tăng trưởng kinh tế và đồng thời có sự hoàn chỉnh về mặt cơ cấu,
thể chế kinh tế, chất lượng cuộc sống và công bằng xã hội.
- Chỉ số phát triển con người (HDI) là thước đo tổng hợp phản ánh sự phát
triển của con người trên các phương diện: sức khỏe (thể hiện qua tuổi thọ
trung bình tính từ lúc sinh); tri thức (thể hiện qua chỉ số giáo dục) và thu nhập
(thể hiện qua tổng thu nhập quốc gia bình quân đầu người). HDI nhận giá trị
từ 0 đến 1. HDI càng gần 1 có nghĩa là trình độ phát triển con người càng cao,
trái lại càng gần 0 nghĩa là trình độ phát triển con người càng thấp.
* Những điểm khác nhau giữa các nước phát triển và các nước đang phát triển:
Nước đang phát triển và nước phát triển có những đặc điểm khá khác nhau,
giúp chúng ta phân biệt rõ quốc gia nào phát triển và quốc gia nào đang trong
quá trình xây dựng để vươn tới quốc gia phát triển. 
Về thu nhập bình quân đầu người và GDP: Các nước phát triển có thu nhập
bình quân đầu người và GDP cao so với các nước đang phát triển. 
Về tạo ra doanh thu: Các nước phát triển tạo ra doanh thu từ lĩnh vực công
nghiệp. Người lại các nước đang phát triển tạo doanh thu từ lĩnh vực dịch vụ. 
Về cơ sở hạ tầng: Các quốc gia phát triển có cơ sở hạ tầng tốt và môi
trường tốt hơn về sức khỏe và an toàn, vốn không có ở các nước đang phát triển. 
Về tỷ lệ biết chữ: Ở các nước phát triển tỷ lệ biết chữ cao, nhưng ở các
nước đang phát triển tỷ lệ mù chữ cao hơn. 
Về tỷ lệ sinh và tử vong: Các nước phát triển, tỷ lệ sinh và tỷ lệ tử vong thấp,
trong khi ở các nước đang phát triển cả hai tỷ lệ này đều cao. 
Về sử dụng tài nguyên: Tài nguyên được sử dụng hiệu quả ở các nước phát
triển. Bên cạnh đó, việc sử dụng tài nguyên hợp lý không được thực hiện ở
các nước đang phát triển. 
Về mức sống của người dân: Các nước phát triển mức sống của người dân
cao ở mức vừa phải ở các nước đang phát triển.
Document Outline

  • Các nước phát triển tập trung chủ yếu ở khu vục nà
    • 1. Nước phát triển là gì?
      • 1.1. Đặc điểm của các nước phát triển
      • 1.2. Cần có những gì để được coi là một nước phát
    • 2. Các nước phát triển tập trung chủ yếu ở khu vực