




Preview text:
lOMoAR cPSD| 61573419
Khái niệm + những vấn đề cơ bản + Quy luật QHSX
Vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất của ĐCS VN trong quá trình phát triển nền kinh tế ở Việt Nam hiện nay
/*1.1 Khái niệm phương thức sản xuất
Phương thức sản xuất là sự thống nhất giữa lực lượng sản xuất ở một trình độ
nhất định và quan hệ sản xuất tương ứng tạo thành cách thức sản xuất mà con người
thực hiện trong quá trình sản xuất ra của cải vật chất trong một giai đoạn nhất định
của lịch sử. Phương thức sản xuất bao gồm hai mối quan hệ cơ bản là con người
quan hệ với giới tự nhiên được gọi là lực lượng sản xuất và con người quan hệ với
nhau được gọi là quan hệ sản xuất.*/
1.2. Những vấn đề cơ bản về quan hệ sản suất và lực lượng sản xuất.
1.2.1. Lực lượng sản xuất.
Lực lượng sản xuất biểu hiện mối quan hệ giữa con người và giới tự nhiên trong
quá trình sản xuất tạo ra của cải vật chất đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển, là
thước đo quan trọng trong sự tiến bộ của xã hội loài người. Trải qua những giai
đoạn phát triển khác nhau, lực lượng sản xuất sẽ có tính chất và trình độ khác nhau.
Lực lượng sản xuất là sự kết hợp giữa người lao động với tư liệu sản xuất: -
Người lao động: Là chủ thể của quá trình lao động sản xuất với sự vận dụng trí
tuệ, năng lực và kinh nghiệm của con người vào tư liệu sản xuất để tạo ra vật chất.
- Tư liệu sản xuất: Là toàn bộ điều kiện vật chất cần thiết để con người tiến hành
quá trình lao động sản xuất, đây được xem là yếu tố thiết yếu của lực lượng sản
xuất. Nó bao gồm tư liệu lao động và đối tượng lao động. Đối tượng lao động: lOMoAR cPSD| 61573419
Không phải toàn bộ giới tự nhiên mà chỉ một bộ phận của giới tự nhiên được
con người đưa vào sản xuất để tạo ra của cải. Bao gồm cả những cái có sẵn
trong tự nhiên và cả dạng nhân tạo bởi trong quá trình sản xuất cần những đối
tượng lao động mới để mở rộng khả năng sản xuất của con người Tư liệu lao
động: Là vật thể hay phức hợp vật thể mà con người đặt dưới mình với đối
tượng lao động, giúp con người tác động lên đối tượng lao động. Tư liệu lao
động và đối tượng lao động là những yếu tố vật chất của quá trình lao động sản
xuất tạo nên tư liệu sản xuất. Do con người tạo ra như phương tiện lao động và
công cụ lao động. Công cụ lao động được xem như hệ thống “chủ lực” của sản
xuất, thể hiện trình độ chinh phục tự nhiên của con người, kết nối trung gian
giữa người và tư liệu sản xuất làm giảm áp lực và tăng năng xuất lao động của con người.
/*Trong toàn bộ yếu tố của lực lượng sản xuất, người lao động là yếu tố không
thể thiếu, là chủ thể sáng tạo có vai trò quyết định nhất, sử dụng trí tuệ để chế
tạo và vận dụng công cụ lao động vào quá trình sản xuất*/
1.2.2. Quan hệ sản xuất.
Quan hệ sản xuất là biểu hiện mối quan hệ giữa người với người trong quá trình
sản xuất, cũng giống như lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất thuộc lĩnh vực đời
sống xã hội. Nó có tính khách quan và tồn tại độc lập với ý muốn chủ quan của
con người, thể hiện sự đặc trưng của mỗi hình thái kinh tế - xã hội nhất định.
Quan hệ sản xuất bao gồm các kết cấu sau:
- Quan hệ sỡ hữu về tư liệu sản xuất.
- Quan hệ tổ chức quản lí.
- Quan hệ phân phối sản phẩm lao động. lOMoAR cPSD| 61573419
Ba mặt nói trên có mối quan hệ biện chứng thống nhất với nhau, mỗi mặt đều có
tác động thúc đẩy hoặc kìm hãm qua lại, trong đó quan hệ sở hữu về tư liệu sản
xuất có ý nghĩa quyết định đối với những quan hệ khác.
Trong quá trình hình thành và phát triển của xã hội loài người tồn tại hai loại
hình sở hữu cơ bản về tư liệu sản xuất: sở hữu tư nhân và sơ hữu công cộng. -
Sỡ hữu tư nhân là loại hình sở hữu thể hiện mối quan hệ thống trị và bóc lột
giữa người với người trong sản xuất và đời sống xã hội khi mà tư liệu sản xuất
chỉ tập trung trong tay số ít người.
- Sỡ hữu công cộng là loại hình sở hữu mà tư liệu sản xuất thuộc về cộng đồng,
nhờ đó mà quan hệ xã hội trở nên bình đẳng, công bằng.
Quan hệ tổ chức và quản lý có tác động lớn đối với quá trình sản xuất, là nhân tố
ảnh hưởng trực tiếp đến việc tổ chức, điều khuyển quá trình sản xuất và quyết
định quy mô, tốc độ của nền kinh tế.
Quan hệ phân phối sản phẩm lao động bị chi phối bởi quan hệ sỡ hữu về tư liệu
sản xuất và quan hệ tổ chức quản lí nhưng lại đóng vai trò là chất xúc tác trực
tiếp đến lợi ích và thái độ của con người trong quá trình lao động sản xuất, nó có
thể thúc đẩy hoặc cản trở sản xuất phát triển.
1.3. Quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất được xem là hai khía cạnh của phương
thức sản xuất, giữa chúng tồn tại mối quan hệ biện chứng chặt chẽ với nhau.
Chúng phụ thuộc và tác động lẫn nhau tạo thành quy luật xã hội cơ bản của lịch
sử loài người. Quy luật thể hiện động lực và xu thế phát triển của lịch sử.
1.3.1. Tính chất và trình độ của Lực lượng sản xuất. lOMoAR cPSD| 61573419
Tính chất của lực lượng sản xuất là tính chất của tư liệu sản xuất và của người lao
động. Có tính cá thể hoặc xã hội, thể hiện sự đòi hỏi trong nền sản xuất. Trình độ
của lực lượng sản xuất được thể hiện qua trình độ chuyên môn, kỹ năng lao động
của con người, sự phát triển của các công cụ lao động, trình độ phân công lao
động và tổ chức quản lí lao động xã hội, quy mô của nền sản xuất. Tính chất và
trình độ của lực lượng sản xuất quyết định sự ra đời và phát triển của quan hệ sản
xuất, hình thành quan hệ chặt chẽ giữa người lao động với nhau.
1.3.2. Lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất.
Trong mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất thì lực lượng sản
xuất đóng vai trò quyết định sự hình thành, phát triển và biến đổi của quan hệ sản
xuất. Và chỉ làm biến đổi cục bộ chứ không thể thay đổi toàn diện bởi quy luật
này thể hiện sự cân đối hài hòa của bản chất mối quan hệ trên. Lực lượng sản xuất
được xem là nội dung của quá trình sản xuất có xu hướng phát triển và biến đổi
thường xuyên, còn quan hệ sản xuất là hình thức xã hội của sản xuất có yếu tố
tương đối ổn định và bảo thủ, khi nội dung thay đổi làm hình thức thay đổi theo.
/*Sự phù hợp giữa chúng tạo động lực giúp cho sản xuất phát triển cân đối,
có hiệu quả giữa các yếu tố, làm tăng năng suất lao động đồng thời giảm chi
phí và thời gian sản xuất.*/
1.3.3. Sự tác động trở lại của Quan hệ sản xuất đối với Lực lượng sản
xuất.Trong mối quan hệ biện chứng, quan hệ sản xuất giữ vai trò
hình thức kinh tế của quá trình sản xuất, là tiền đề tạo ra mục tiêu
thích hợp cho lực lượng sản xuất. Do đó quan hệ sản xuất đã tác
động trở lại, quy định mục đích, cách thức sản xuất và phân phối
những lợi ích từ quá trình sản xuất, gây ra tác động trực tiếp tới thái
độ của người lao động, năng suất, chất lượng cũng như hiệu quả của lOMoAR cPSD| 61573419
quá trình sản xuất và cải tiến công cụ lao động và ngược lại. Từ đó
có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất
- Sự phù hợp giữa giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất tạo động lực
vàđiều kiện giúp thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển,
- Ngược lại, khi quan hệ sản xuất lỗi thời do tính chất ổn định không còn phùhợp
với tính chất vận động của lực lượng sản xuất thì sẽ kìm hãm, thậm chí phá
hoại lực lượng sản xuất, điều này thường xảy ra trong lịch sử do sự vận động
của xã hội. Tuy nhiên, sự kìm hãm đó chỉ diễn ra trong điều kiện nhất định và
mức giới hạn quy định
Đây được xem là quy luật cơ bản, chi phối sự vận động của xã hội loài người và
không ngừng phát triển phá vỡ sự phù hợp.
/*Khi cả hai không đồng nhất, phù hợp với nhau sẽ tạo ra mâu thuẫn về mặt xã hội
được gọi là mâu thuẫn giai cấp và chỉ mang tính chất tạm thời, khi đó mâu thuẫn
giữa lực lượng sản xuất mới và quan hệ sản xuất cũ sẽ được giải quyết bằng cách
thay thế quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới phù hợp với lực lượng sản xuất.*/
/*1.4. Ý nghĩa của phương pháp luận.
Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
có ý nghĩa vô cùng quan trọng, việc nhận thức đúng đắn quy luật này giúp cho
việc nắm bắt quan điểm, hoạch định đường lối, chính sách, là cơ sở khoa học để
nhận thức rõ sự đổi mới trong tư duy kinh tế của Đảng và Nhà nước ta. Khi có
xuất hiện mâu thuẫn giữa sự phát triển của lực lượng sản xuất với sự lạc hậu của
quan hệ sản xuất thì cần phải có những cuộc cải cách, đổi mới mà cao hơn là một
cuộc cách mạng chính trị để có thể giải quyết được mâu thuẫn, từ đó từng bước
khôi phục, tạo lập sự phù hợp giữa chúng.*/