4.2. Cách nhìn cổ truyền về con người hội
4.2.1. Nguồn gốc: Xuất phát từ sự gắn mật thiết của con người nông nghiệp với
thiên nhiên, từ tưởng coi con người vũ trụ nằm trong một thể thống nhất
(thiên địa vạn vật nhất thể), người xưa đã áp dụng các nh nhận thức về vũ trụ
vào việc giải không chỉ cấu tạo hoạt động của con người sinh vật, cả cho
lĩnh vực con người hội.
- Trên nguyên tắc, cũng như mọi vật trong trụ hoặc các thành phần của một
bộ phận trên thể, mỗi nhân trong hội đều thể được đặc trưng bởi
một trong 5 hành: Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ.
- Đối với các thành phần của một bộ phận trên cơ thể (ví dụ như c khu vực
trên khuôn mặt, các ngón tay trên một bàn tay) việc quy hành được thực hiện
dựa vào vị trí, đặc điểm của chúng (xem hình 2.10).
Hình 2.10. Ngũ hành trên mặt bàn tay
- Đối với các nhân trong hội, việc quy hành được thực hiện dựa vào mối
dây liên hệ dễ thấy thời điểm ra đời (tuổi) của mỗi con người xác định
theo hệ can chi. Trên sở đó: (a) những đặc trưng của mỗi hành s được
gán cho thành phần, nhân ứng với nó; (b) mối quan hệ giữa thành phần,
nhân đó với thành phần, nhân khác sẽ được xác định theo các quy luật
tương tác (tương sinh, tương khắc) giữa các hành.
- Thậm chí không cần đợi quy về hành, các quy luật tương sinh tháng khắc đã
được phổ hiến cho ngay cả nội bộ các chi, các can với các luật “tam hợp”,
“tứ xung” để áp dụng vào việc xem xét mối quan hệ giữa những người ứng
với các can, chi, hành ấy trong quan hệ bạn, hôn nhân,...
- Tương tự như Ngũ hành, hệ thống 12 chi cũng xác định được cho các
thành phần của một bộ phận trên thể (các khu vực trên khuôn mặt, các bộ
phận trên một bàn tay, xem hình 2.11)
Hình 2.11. Can chi trên c bộ phận thể người (a-b) chân (c)
- Cũng dựa vào can chi, Ngũ hành, thuật xem Tử vi. Đây một lối đoán số
khá thịnh hành Việt Nam, gốc từ Trung Hoa, do trần Đoàn (tự Đồ Nam,
hiệu Hi Di) đời Tống soạn ra.
4.2.2. Ngày nay, không ai thể phủ nhận tầm quan trọng của dự đoán học dự
đoán hội. Lĩnh vực này đang ngày càng trở thành mối quan tâm chung của các
nhà khoa học thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau.
- Để đưa ra được các dự đoán đúng, điều quan trọng phải xây dựng được các
hình đúng. Muốn xây dựng được hình đúng thì phải đầy đủ dữ kiện. Con
người tồn tại trong không gian, thời gian thừa hưởng các tính cách, đặc điểm di
truyền; vậy một hệ thống dự đoán về con người trong hội tối thiểu phải
hình hóa được 3 bình diện đó.
- Hạn chế: T cách nhìn tổng thể này, thể thấy rằng ngay một cách đoán số thịnh
hành nhất là tử vi cũng còn rất nhiều khiếm khuyết: chỉ mới hình hóa được
một thông số duy nhất là thời gian. Chính vậy hiệu quả giải đoán theo t vi
nhìn chung còn rất thấp; những người khả năng giải đoán cao đều do đã kết hợp
tử vi với việc dùng một vốn tri thức tổng hợp (Dịch học những tri thức hội
khác), thậm chí không nhất thiết phải dùng đến tử vi.
- Truyền thống duy tổng hợp phản ánh cả trong cách đào tạo con người: các cụ
ngày xưa không học t thôi, đã học thì đồng thời sẽ biết cả bốn khoa: NHO-Y-LÍ-
SỐ; không giỏi thì thôi, đã giỏi một khoa thì thường cũng khá cả mấy khoa kia.
(Hành trình tìm hiểu về các môn của Đông phương bắt đầu bằng các môn Nho - Y
- Số.
Nho: Tứ thư, Ngũ kinh, những môn Lễ giáo đ hiểu căn bản, học đ thi ra làm
Quan
Y: Học về cây cỏ làm thuốc chữa bệnh cứu người
Lý: Dịch lý, Địa cái lẽ biến dịch trong trời đất
Số: Các môn bói toán Tử vi, Tứ trụ định hướng đi trong cuộc đời).
4.2.3. Do nhìn thấy mối quan hệ mật thiết giữa con người với tự nhiên (vũ trụ),
người xưa không chỉ đưa những kết quả nhận thức về trụ áp dụng vào xem xét
con người, còn ngược lại, lấy con người làm trung tâm để xem xét đánh giá tự
nhiên. Con người hành Thổ trong Ngũ hành, trung tâm của trụ.
- Xu hướng này trước hết th hiện việc dùng những kích cỡ của chính nh để đo
đạc tự nhiên trụ. Người Việt đo chiều dài bằng đơn vị bản thước (sau
này thường gọi thước ta để phân biệt với thước mét của phương Tây, thước Tây):
Một thước bằng 2 gang tay (≈ 40 cm). Khi làm nhà, người Việt dùng công cụ tính
toán cái thước tầm (hay rui mực) hình thành trên sở đơn vị đo bản đốt
gốc ngón tay út của người chủ nhà (xem §V - §4). Khi định vị các huyệt trên thể
con người để châm cứu, thầy thuốc Đông y dùng thước đo thốn - một thốn bằng
một đốt giữa ngón tay giữa của người bệnh.
- Việc dùng kích cỡ của con người để đo đạc tự nhiên này thể hiện hàng loạt đặc
tính của lối duy biên chứng (động) của văn hóa nông nghiệp: linh hoạt (việc đo
đạc thể thực hiện bất cứ lúc (nào bất cứ đâu rất đơn giản dễ dàng), chủ
quan (đo đạc sự vật bằng kích cỡ nằm ngay trong mình), do vậy tương đối
(thước của mỗi người mỗi khác, khi đo lại thể du di ít nhiều). Cái thước mét hay
bản vẽ thiết kế phương Tây thì khác hẳn: nguyên tắc máy móc (không dụng
cụ không đo được), khách quan (quan sát đo đạc bằng kích cỡ nằm ngoài con
người), do vậy tuyệt đối (mọi người đều thấy kết quả như nhau).

Preview text:

4.2. Cách nhìn cổ truyền về con người xã hội
4.2.1.
Nguồn gốc: Xuất phát từ sự gắn bó mật thiết của con người nông nghiệp với
thiên nhiên, từ tư tưởng coi con người và vũ trụ nằm trong một thể thống nhất
(thiên địa vạn vật nhất thể), người xưa đã áp dụng các mô hình nhận thức về vũ trụ
vào việc lí giải không chỉ cấu tạo và hoạt động của con người sinh vật, mà cả cho
lĩnh vực con người xã hội.
- Trên nguyên tắc, cũng như mọi vật trong vũ trụ hoặc các thành phần của một
bộ phận trên cơ thể, mỗi cá nhân trong xã hội đều có thể được đặc trưng bởi
một trong 5 hành: Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ.
- Đối với các thành phần của một bộ phận trên cơ thể (ví dụ như các khu vực
trên khuôn mặt, các ngón tay trên một bàn tay) việc quy hành được thực hiện
dựa vào vị trí, đặc điểm của chúng (xem hình 2.10).
Hình 2.10. Ngũ hành trên mặt và bàn tay
- Đối với các cá nhân trong xã hội, việc quy hành được thực hiện dựa vào mối
dây liên hệ dễ thấy là thời điểm ra đời (tuổi) của mỗi con người xác định
theo hệ can chi. Trên cơ sở đó: (a) những đặc trưng của mỗi hành sẽ được
gán cho thành phần, cá nhân ứng với nó; (b) mối quan hệ giữa thành phần,
cá nhân đó với thành phần, cá nhân khác sẽ được xác định theo các quy luật
tương tác (tương sinh, tương khắc) giữa các hành.
- Thậm chí không cần đợi quy về hành, các quy luật tương sinh tháng khắc đã
được phổ hiến cho ngay cả nội bộ các chi, các can với các luật “tam hợp”,
“tứ xung” để áp dụng vào việc xem xét mối quan hệ giữa những người ứng
với các can, chi, hành ấy trong quan hệ bè bạn, hôn nhân,. .
- Tương tự như ở Ngũ hành, hệ thống 12 chi cũng xác định được cho các
thành phần của một bộ phận trên cơ thể (các khu vực trên khuôn mặt, các bộ
phận trên một bàn tay, xem hình 2.11)
Hình 2.11. Can chi trên các bộ phận cơ thể người (a-b) và chân gà (c)
- Cũng dựa vào can chi, Ngũ hành, là thuật xem Tử vi. Đây là một lối đoán số
khá thịnh hành ở Việt Nam, gốc từ Trung Hoa, do trần Đoàn (tự là Đồ Nam,
hiệu là Hi Di) đời Tống soạn ra.
4.2.2. Ngày nay, không ai có thể phủ nhận tầm quan trọng của dự đoán học và dự
đoán xã hội. Lĩnh vực này đang ngày càng trở thành mối quan tâm chung của các
nhà khoa học thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau.
- Để đưa ra được các dự đoán đúng, điều quan trọng là phải xây dựng được các mô
hình đúng. Muốn xây dựng được mô hình đúng thì phải có đầy đủ dữ kiện. Con
người tồn tại trong không gian, thời gian và thừa hưởng các tính cách, đặc điểm di
truyền; vì vậy một hệ thống dự đoán về con người trong xã hội tối thiểu phải mô
hình hóa được 3 bình diện đó.
- Hạn chế: Từ cách nhìn tổng thể này, có thể thấy rằng ngay một cách đoán số thịnh
hành nhất là tử vi cũng còn rất nhiều khiếm khuyết: Nó chỉ mới mô hình hóa được
một thông số duy nhất là thời gian. Chính vì vậy mà hiệu quả giải đoán theo tử vi
nhìn chung còn rất thấp; những người có khả năng giải đoán cao đều do đã kết hợp
tử vi với việc dùng một vốn tri thức tổng hợp (Dịch học và những tri thức xã hội
khác), thậm chí không nhất thiết phải dùng đến tử vi.
- Truyền thống tư duy tổng hợp phản ánh cả trong cách đào tạo con người: các cụ
ngày xưa không học thì thôi, đã học thì đồng thời sẽ biết cả bốn khoa: NHO-Y-LÍ-
SỐ; không giỏi thì thôi, đã giỏi một khoa thì thường cũng khá cả mấy khoa kia.
(Hành trình tìm hiểu về các môn của Đông phương bắt đầu bằng các môn Nho - Y - Lý – Số.
Nho: Tứ thư, Ngũ kinh, những môn Lễ giáo để hiểu căn bản, học để thi ra làm Quan
Y: Học về cây cỏ làm thuốc chữa bệnh cứu người
Lý: Dịch lý, Địa lý cái lẽ biến dịch trong trời đất
Số: Các môn bói toán Tử vi, Tứ trụ định hướng đi trong cuộc đời).
4.2.3. Do nhìn thấy mối quan hệ mật thiết giữa con người với tự nhiên (vũ trụ),
người xưa không chỉ đưa những kết quả nhận thức về vũ trụ áp dụng vào xem xét
con người, mà còn ngược lại, lấy con người làm trung tâm để xem xét đánh giá tự
nhiên. Con người là hành Thổ trong Ngũ hành, là trung tâm của vũ trụ.
- Xu hướng này trước hết thể hiện ở việc dùng những kích cỡ của chính mình để đo
đạc tự nhiên và vũ trụ. Người Việt đo chiều dài bằng đơn vị cơ bản là thước (sau
này thường gọi là thước ta để phân biệt với thước mét của phương Tây, thước Tây):
Một thước bằng 2 gang tay (≈ 40 cm). Khi làm nhà, người Việt dùng công cụ tính
toán là cái thước tầm (hay rui mực) hình thành trên cơ sở đơn vị đo cơ bản là đốt
gốc ngón tay út của người chủ nhà (xem §V - §4). Khi định vị các huyệt trên cơ thể
con người để châm cứu, thầy thuốc Đông y dùng thước đo là thốn - một thốn bằng
một đốt giữa ngón tay giữa của người bệnh.
- Việc dùng kích cỡ của con người để đo đạc tự nhiên này thể hiện rõ hàng loạt đặc
tính của lối tư duy biên chứng (động) của văn hóa nông nghiệp: linh hoạt (việc đo
đạc có thể thực hiện bất cứ lúc (nào ở bất cứ đâu rất đơn giản và dễ dàng), chủ
quan (đo đạc sự vật bằng kích cỡ nằm ngay trong mình), và do vậy mà tương đối
(thước của mỗi người mỗi khác, khi đo lại có thể du di ít nhiều). Cái thước mét hay
bản vẽ thiết kế phương Tây thì khác hẳn: nó nguyên tắc máy móc (không có dụng
cụ không đo được), khách quan (quan sát đo đạc bằng kích cỡ nằm ngoài con
người), và do vậy mà tuyệt đối (mọi người đều thấy kết quả như nhau).