








Preview text:
Cách phân loại hợp đồng và nguyên tắc khi giao kết hợp đồng?
1. Khái quát về giao kết hợp đồng
Việc chuyển giao các lợi ích này không phải tự nhiên thiết lập mà chỉ được
hình thành khi có hành vi có ý chí của của chủ thể, như C. Mác đã từng nói:
"Tự chúng, hàng hoá không thể đi đến thị trường và trao đổi với
nhau được. Muốn cho những vật đó trao đổi với nhau, thì những
người giữ chúng phải đối xử với nhau như những người mà ý
chí nằm trong các vật đó".
Theo đó, chỉ khi có sự thể hiện và thống nhất ý chí giữa các bên, thì quan hệ
trao đổi lợi ích vật chất mới được hình thành và được gọi là hợp đồng dân sự.
Tuy nhiên, cùng với sự phát triển chung của xã hội, của việc giao lưu, buôn
bán, hợp tác kinh tế, thương mại, đã dẫn đến việc hình thành rất nhiều quan
hệ hợp đồng giữa các chủ thể khác nhau như hợp đồng kinh tế, hợp đồng lao
động... Theo đó, hợp đồng theo nghĩa chung nhất được hiểu là sự thoả thuận
giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt các quyền và nghĩa vụ
trong những quan hệ cụ thể.
Trong pháp luật tư sản, chế định hợp đồng tồn tại trong lĩnh vực công pháp
và tư pháp, song đặc biệt phát triển trong lĩnh vực tư pháp. Điều 1101 Bộ luật
Dân sự Napoleon quy định, hợp đồng là sự thoả thuận giữa các bên, theo đó
một hoặc nhiều người cam kết với một hoặc nhiều người khác về việc chuyển
giao một vật, làm hoặc không làm một công việc nào đó. Trên cơ sở kế thừa
những hạt nhân hợp lý, khoa học của khái niệm này, tại Điều 1101 Bộ luật
Dân sự Pháp hiện hành cũng đưa ra định nghĩa tương tự như vậy về hợp đồng.
Trước hết, theo PGS.TS Thái Vĩnh Thắng, thì cần phải phân biệt hai loại hợp
đồng là hợp đồng hành chính và hợp đồng dân sự. Bởi hai loại hợp đồng phải
tuân theo chế độ pháp lý khác nhau và khi có tranh chấp xảy ra cũng được
giải quyết ở hai loại toà án khác nhau. Cơ sở để phân biệt hai loại hợp đồng
này là có hay không có sự bình đẳng giữa các chủ thể pháp luật. Cụ thể,
trong hợp đồng dân sự, các chủ thể luôn có quan hệ bình đẳng; còn trong
hợp đồng hành chính một bên luôn là pháp nhân công quyền tham gia vì lợi
chung, còn bên kia có thể là pháp nhân công hoặc tư hoặc là cá nhân và vì
lợi ích của mình, vì thế vấn đề bình đẳng giữa các chủ thể khó có thể đạt được.
2. Cách phân loại hợp đồng theo Bộ luật Dân sự của Cộng hoà Pháp
Dựa trên những căn cứ khác nhau, Bộ luật Dân sự hiện hành của Cộng hoà
Pháp phân chia hợp đồng thành 8 loại sau:
- Hợp đồng song vụ - Điều 1102 ;
- Hợp đồng đơn vụ - Điều 1103;
- Hợp đồng ngang giá - Điều 1104;
- Hợp đồng không ngang giá - Điều 1104;
- Hợp đồng không có đền bù - Điều 1105;
- Hợp đồng có đền bù - Điều 1106;
- Hợp đồng có tên - khoản 1 Điều 1107;
- Hợp đồng không có tên - khoản 1 Điều 1107.
Ngoài cách phân chia hợp đồng theoBộ luật Dân sự hiện hành của Pháp nói
trên, hợp đồng còn có thể được phân loại theo quan điểm khoa học khi
nghiên cứu hệ thống pháp luật châu Âu lục địa. Theo quan điểm của nhà luật
học người Pháp Corinne Renault-Brahinsky thì hợp đồng được phân thành các loại sau;
- Hợp đồng có hiệu lực từ thời điểm thoả thuận và hợp đồng không có hiệu
lực từ thời điểm thoả thuận. Trong đó, loại hợp đồng chưa có hiệu lực từ thời
điểm thoả thuận lại được chia thành hai nhóm là nhóm các hợp đồng chỉ có
hiệu lực khi các bên phải tuân thủ những thủ tục chặt chẽ được quy định từ
trước và nhóm các hợp đồng thực tế;
- Hợp đồng thực hiện ngay và hợp đồng thực hiện theo định kỳ;
- Hợp đồng cá thể và hợp đồng tập thể;
- Hợp đồng chủ thể đơn và hợp đồng chủ thể kép.
Ở nước ta, chế định hợp đồng trong Bộ luật Dân sự năm 1995 chỉ tập trung
điều chỉnh các vấn đề về hợp đồng dân sự với cách hiểu là hợp đồng đáp
ứng nhu cầu tiêu dùng. Theo đó, căn cứ vào mục đích, chủ thể, nội dung và
một số yếu tố khác, pháp luật phân biệt hợp đồng thành ba loại chủ yếu là
hợp đồng dân sự (do Bộ luật Dân sự điều chỉnh), hợp đồng kinh tế (do Pháp
lệnh Hợp đồng kinh tế và Luật Thương mại điều chỉnh) và hợp đồng lao động
nhằm xác định chính xác việc áp dụng văn bản pháp luật có liên quan, cũng
như cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp. Tuy nhiên, sự phân biệt
trên đã dẫn đến nhiều khó khăn trong việc áp dụng pháp luật và gây chậm trễ
trong quá trình giải quyết các tranh chấp về hợp đồng, không bảo vệ được
tuyệt đối quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể tham gia giao kết hợp đồng.
Khắc phục nhược điểm trên, đồng thời học hỏi kinh nghiệm, tinh hoa của các
nước trên thế giới để có thể tham khảo có chọn lọc phù hợp với điều kiện
kinh tế – văn hoá - xã hội của Việt Nam trong thời kỳ đổi mới và đáp ứng
được các yêu cầu trong quá trình hoọi nhập với các nước, Bộ luật dân sự
năm 2005 (từ Điều 388 đến Điều 427) đã mở rộng phạm vi điều chỉnh trên
quán triệt quan điểm xây dựng các quy định về hợp đồng dân sự thành nền
tảng cho pháp luật về hợp đồng, thành các quy định gốc về hợp đồng, thống
nhất pháp luật về vấn đề này. Từ đây, tạo cơ sở cho các loại hợp đồng nói
chung, không phân biệt hợp đồng dân sự, hợp đồng kinh tế hay hợp đồng
thương mại; các văn bản pháp luật khác chỉ quy định các đặc thù trong các
hợp đồng chuyên biệt, nếu có hay nói cách khác trong trường hợp pháp luật
chuyên ngành có uy định cụ thể về hợp đồng thì ưu tiên áp dụng các quy định
riêng về hợp đồng đó. Cũng chính vì lẽ đó, mà trong bài viết này, chúng tôi
xin tập trung vào việc phân loại hợp đồng cũng như phân tích các nguyên tắc
khi giao kết hợp đồng dựa trên cơ sở các quy định pháp luật dân sự, mà cụ
thể là trong Bộ luật Dân sự năm 2005.
Hiện nay, ở Việt Nam việc phân loại hợp đồng áp dụng theo quy định của Bộ luật dân sự năm 2015.
3. Phân loại hợp đồng
Trước đây, điều 338 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định:
"Hợp đồng dân sự là sự thoả thuận giữa các bên về việc xác lập,
thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự".
Từ định nghĩa trên về hợp đồng dễ nhận thấy, hợp đồng dân sự chính là bản
"giao kèo" để ghi nhận những quyền và nghĩa vụ dân sự giữa các bên chủ
thể tham gia hợp đồng. Trong sự đa dạng về nội dung của hợp đồng cũng
như phụ thuộc vào cách tiếp cận vấn đề khác nhau mà hợp đồng có thể được
phân hành từng nhóm khác nhau dựa trên những căn cứ, dấu hiệu đặc trưng cụ thể:
- Dựa vào hình thức của hợp đồng, hợp đồng được phân thành hợp đồng
bằng văn bản, hợp đồng có công chứng, chứng thực, phảI đăng ký hoặc xin
phép, hợp đồng theo mẫu…
- Dựa vào mối liên hệ về quyền và nghĩa vụ giữa các bên chủ thể tham gia
hợp đồng, thì hợp đồng được chia thành hai loại là hợp đồng song vụ và hợp
đồng đơn vụ, trong đó:
+ Hợp đồng song vụ là hợp đồng mà mỗi bên đều có nghĩa vụ đối với nhau,
hay nói cách khác mỗi bên chủ thể tham gia hợp đồng vừa là người có quyền
lại vừa có nghĩa vụ. Do vậy, trong nội dung của hợp đồng này, quyền dân sự
của chủ thể tham gia này đối lập tương ứng với nghĩa vụ của chủ thể tham
gia hợp đồng kia và ngược lại. Ví dụ trong hợp đồng mua bán tài sản, thì bên
bán có nghĩa vụ giao tài sản cho bên mua và nhận tiền, còn bên mua có
nghĩa vụ nhận tài sản và trả tiền cho bên bán. Mặc dù trong Bộ luật Dân sự
không quy định việc bắt buộc hợp đồng mua bán phải được thể hiện dưới
hình thức cụ thể nào, song trong trường hợp hợp đồng được giao kết theo
hình thức văn bản thì phải lập thành nhiều văn bản để mỗi bên giữ một bản
khi thực hiện. Khi các bên đã thoả thuận thời hạn thực hiện nghĩa vụ thì mỗi
bên phải thực hiện nghĩa vụ của mình khi đến hạn; không được hoãn thực
hiện với lý do bên kia chưa thực hiện nghĩa vụ đối với mình, trừ trường hợp
tài sản của bên kia đã bị giảm sút nghiêm trọng đến mức không thể thực hiện
được nghĩa vụ như đã cam kết cho đến khi bên kia có khả năng thực hiện
được nghĩa vụ hoặc có người bảo lãnh; hoặc nếu bên thực hiện nghĩa vụ
trước chưa thực hiện nghĩa vụ của mình khi đến hạn. Trong trường hợp các
bên không thoả thuận bên nào thực hiện nghĩa vụ trước thì các bên phải
đồng thời thực hiện nghĩa vụ đối với nhau; nếu nghĩa vụ không thể thực hiện
đồng thời thì nghĩa vụ nào khi thực hiện mất nhiều thời gian hơn thì nghĩa vụ
đó phải được thực hiện trước.
+ Hợp đồng đơn vụ là hợp đồng mà chỉ một bên có nghĩa vụ. Điều này có
nghĩa là trong hợp đồng đơn vụ, chỉ có một hay nhiều chủ thể có nghĩa vụ mà
không có quyền gì đối với chủ thể kia, còn một hay nhiều chủ thể kia là người
có quyền nhưng không phải thực hiện nghĩa vụ nào (ví dụ hợp đồng tặng cho
tài sản). Do đó, nếu hợp đồng được giao kết dưới hình thức viết thì chỉ cần
lập thành bản và giao cho bên có quyền giữ hợp đồng. Trong quá trình thực
hiện hợp đồng, bên có nghĩa vụ phải thực hiện nghĩa vụ đúng như đã thoả
thuận; chỉ được thực hiện trước hoặc sau thời hạn nếu được bên có quyền đồng ý.
Trong cách phân loại hợp đồng này, cơ sở để xác định một hợp đồng là song
vụ hay hợp đồng đơn vụ chính là mối liên hệ giữa quyền và nghĩa vụ của các
bên giao kết tại thời điểm hợp đồng có hiệu lực.
- Dựa vào sự phụ thuộc lẫn nhau về hiệu lực giữa các hợp đồng, hợp đồng
được phân thành hai loại sau:
+ Hợp đồng chính là hợp đồng mà hiệu lực không phụ thuộc vào hợp đồng
phụ. Theo đó, khi hợp đồng chính đã tuân thủ đầy đủ các điều kiện mà pháp
luật quy định, thi đương nhiên phát sinh hiệu lực, nghĩa là phát sinh hiệu lực
bắt buộc đối với các bên kể từ thời điểm giao kết.
+ Hợp đồng phụ là hợp đồng mà hiệu muốn có hiệu lực khi có 2 điều kiện sau:
thứ nhất, phải tuân thủ đầy đủ các điều kiện luật định về chủ thể, nội dung,
đối tượng cũng như hình thức của hợp đồng,…; thứ hai, hợp đồng chính có hiệu lực.
- Dựa vào tính chất có đi có lại về lợi ích của các chủ thể tham gia hợp đồng,
hợp đồng được chia thành hợp đồng có đền bù và hợp đồng không có đền bù, trong đó:
+ Hợp đồng có đền bù là loại hợp đồng mà mỗi bên chủ thể sau khi thực hiện
cho bên kia một lợi ích, hay công việc nhất định sẽ nhận lại được từ bên kia
một lợi ích tương ứng. Tuy nhiên, không phải trong mọi trường hợp, nhất thiết
hai bên đều phải nhận được (được hưởng) lợi ích vật chất thì mới được coi là
đền bù tương ứng. Bởi trong cuộc sống, nhu cầu của con người là rất đa
dạng, phong phú, cho nên các bên tham gia hợp đồng có thể thoả thuận giao
kết những hợp đồng mà một bên sẽ được hưởng lợi ích vật chất, còn bên kia
sẽ được hưởng lợi ích tinh thần.
+ Hợp đồng không có đền bù là hợp đồng mà một bên thực hiện cho bên kia
một lợi ích mà không nhận lại từ bên kia một lợi ích nào. Ví dụ, hợp đồng
tặng cho không kèm theo bất cứ một điều kiện nào. Trong cuộc sống thường
nhất, không phải trong mọi trường hợp các chủ thể đều sử dụng hợp đồng
như một phương tiện để trao đổi những lợi ích nhất định, mà đôi khi các chủ
thể còn sử dụng hợp đồng làm phương tiện để giúp đỡ lẫn nhau, hay nói
khác đi, việc các chủ thể giao kết hợp đồng dựa trên cơ sở tình cảm, tinh
thần tương thân tương ái, giúp đỡ nhau trong lúc khó khăn, hoạn nạn. Tiền
đề của hợp đồng không có đền bù, do đó là mối quan hệ sẵn có giữa các chủ
thể chứ không phải là các lợi ích như trong hợp đồng có đền bù; hay nói khác
đi sự chi phối của yếu tố tình cảm đã vượt lên trên tính chất của quy luật giá trị.
- Dựa vào thời điểm phát sinh hiệu lực, hợp đồng được chia thành hai loại sau:
+ Hợp đồng có hiệu lực tại thời điểm giao kết (hay còn được gọi là hợp đồng
ưng thuận). Đây là những hợp đồng mà theo quy của pháp luật, quyền và
nghĩa vụ của các bên phát sinh ngay sau khi các bên chủ thể thoả thuận xong
về các nội dung chủ yếu của hợp đồng. Trong việc thực hiện hợp đồng này,
cho dù các bên tham gia chưa trực tiếp thực hiện nghĩa vụ cam kết nhưng
quyền yêu cầu thực hiện nghĩa vụ đối với bên kia đã phát sinh. Ví dụ, trong
hợp đồng mua bán tài sản, thời hạn thực hiện hợp đồng mua bán do các bên
thoả thuận. Bên bán phải giao tài sản cho bên mua đúng thời hạn đã thoả
thuận; bên bán chỉ được giao tài sản trước hoặc sau thời hạn nếu được bên
mua đồng ý. Khi các bên không thoả thuận thời hạn giao tài sản thì bên mua
có quyền yêu cầu bên bán giao tài sản và bên bán cũng có quyền yêu cầu
bên mua nhận tài sản bất cứ lúc nào, nhưng phải báo trước cho nhau một thời gian hợp lý.
+ Hợp đồng thực tế là hợp đồng mà sau khi thoả thuận, hiệu lực của hợp
đồng chỉ phát sinh tại thời điểm các bên đã chuyển giao cho nhau đối tượng
của hợp đồng. Ví dụ, hợp đồng cho vay tiền hoặc các tài sản khác, hợp đồng
gửi giữ tài sản, hợp đồng cầm cố tài sản.
Ngoài các loại hợp đồng trên, theo quy định tại khoản 5, 6 Điều 406 Bộ luật
Dân sự năm 2005 còn phân hợp đồng dân sự thành các loại sau:
- Hợp đồng vì lợi ích của người thứ ba là hợp đồng mà các bên giao kết hợp
đồng đều phải thực hiện nghĩa vụ và người thứ ba được hưởng lợi ích từ việc
thực hiện nghĩa vụ đó. Khi thực hiện hợp đồng vì lợi ích của người thứ ba thì
người thứ ba có quyền trực tiếp yêu cầu bên có nghĩa vụ phải thực hiện
nghĩa vụ đối với mình; nếu các bên có tranh chấp về việc thực hiện hợp đồng
thì người thứ ba không có quyền yêu cầu thực hiện nghĩa vụ cho đến khi
tranh chấp được giải quyết. Bên có quyền cũng có thể yêu cầu bên có nghĩa
vụ thực hiện hợp đồng vì lợi ích của người thứ ba. Trong trường hợp người
thứ ba từ chối lợi ích của mình trước khi bên có nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ
thì bên có nghĩa vụ không phải thực hiện nghĩa vụ, nhưng phải báo cho bên
có quyền và hợp đồng được coi là bị huỷ bỏ, các bên phải hoàn trả cho nhau
những gì đã nhận; nếu người thứ ba từ chối lợi ích của mình sau khi bên có
nghĩa vụ đã thực hiện nghĩa vụ thì nghĩa vụ được xem là đã hoàn thành và
bên có quyền vẫn phải thực hiện cam kết đối với bên có nghĩa vụ. Khi người
thứ ba đã đồng ý hưởng lợi ích thì dù hợp đồng chưa được thực hiện, các
bên giao kết hợp đồng cũng không được sửa đổi hoặc huỷ bỏ hợp đồng, trừ
trường hợp được người thứ ba đồng ý.
- Hợp đồng có điều kiện là hợp đồng mà việc thực hiện phụ thuộc vào việc
phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt một sự kiện nhất định. Sự kiện nhất định
được coi là điều kiện để hợp đồng được thực hiện hay chấm dứt khi đáp ứng ba yêu cầu sau:
+ Sự kiện thoả thuận phảI phù hợp với quy định của pháp luật và trong tráI đạo đức xã hội
+ Sự kiện phảI mang tính khách quan, xuất hiện trong tương lai sau khi hợp
đồng được giao kết. Việc xuất hiện sự kiện hay không xuất hiện sự kiện hoàn
toàn nằm ngoài ý chí chủ quan của các chủ thể tham gia hợp đồng;
+ Trong trường hợp điều kiện là một công việc phải thực hiện thì đó phải là
những công việc có thể thực hiện được.
Hiện nay, điều 402 của Bộ luật dân sự năm 2015 quy định về các loại hợp đồng chủ yếu
Hợp đồng gồm các loại chủ yếu sau đây:
1. Hợp đồng song vụ là hợp đồng mà mỗi bên đều có nghĩa vụ đối với nhau.
2. Hợp đồng đơn vụ là hợp đồng mà chỉ một bên có nghĩa vụ.
3. Hợp đồng chính là hợp đồng mà hiệu lực không phụ thuộc vào hợp đồng phụ.
4. Hợp đồng phụ là hợp đồng mà hiệu lực phụ thuộc vào hợp đồng chính.
5. Hợp đồng vì lợi ích của người thứ ba là hợp đồng mà các bên giao kết hợp
đồng đều phải thực hiện nghĩa vụ và người thứ ba được hưởng lợi ích từ việc
thực hiện nghĩa vụ đó.
6. Hợp đồng có điều kiện là hợp đồng mà việc thực hiện phụ thuộc vào việc
phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt một sự kiện nhất định.
Tựu trung lại, dựa vào các tiêu chí khác nhau mà hợp đồng được phân thành
nhiều loại khác nhau như dựa vào quy định của Bộ luật Dân sự, dựa trên
phương diện lý luận khoa học pháp lý. Trong thực tiễn áp dụng pháp luật,
việc phân loại hợp đồng có ý nghĩa nhất định, bởi qua việc phân loại hợp
đồng sẽ xác định những đặc điểm chung và riêng của từng nhóm hợp đồng,
và từ đó góp phần nâng cao hiệu quả trong quá trình điều chỉnh các quan hệ hợp đồng.
4. Nguyên tắc giao kết hợp đồng
Về cơ bản, các nguyên tắc giao kết hợp đồng trong Bộ luật Dân sự năm 1995
tiếp tục được duy trì tại Điều 389 Bộ luật Dân sự năm 2005, nên việc giao kết
hợp đồng dân sự phải tuân theo các nguyên tắc sau đây:
Tự do giao kết hợp đồng nhưng không được trái pháp luật, đạo đức xã hội[.
Bộ luật Dân sự quy định cho các chủ thể được tự do giao kết hợp đồng nhằm
tạo điều kiện cho các chủ thể có thể thoả mãn nhu cầu vật chất cũng như tinh
thần. Dựa trên nguyên tắc này, mọi cá nhân, tổ chức khi có đủ các điều kiện
tư cách chủ thể đều có thể tham gia giao kết bất kỳ một giao dịch/ hợp đồng
dân sự nào, nếu muốn. Tuy nhiên, hợp đồng chỉ có hiệu lực pháp luạt, được
pháp luật công nhận và bảo vệ khi ý chí của các bên giao kết hợp đồng phù
hợp với ý chí của nhà nước. Hay nói cách khác, sự tư do ý chí giao kết hợp
đồng của các chủ thể phải nằm trong khuôn khổ, giới hạn nhất định – giới
hạn lợi ích của các cá nhân khác, lợi ích chung của xã hội và trật tự công
cộng. Nếu để các bên tự do vô hạn, thì hợp đồng dân sự sẽ trở thành
phương tiện để kể giàu bóc lột người nghèo và sẽ là nguy cơ đối với lợi ích
chung của xã hội. Vì vậy, phải đi xa hơn nữa trong vấn đề tăng cường sự can
thiệp của nhà nước vào các quan hệ pháp luật tư, các việc dân sự… không
được bỏ qua một khả năng tối thiểu nào để mở rộng sự can thiệp của nhà
nước vào các quan hệ dân luật. Chính vì vậy, trong xã hội ta – xã hội xã hội
chủ nghĩa, lợi ích chung của toàn xã hội (lợi ích cộng đồng) và đạo đức xã hội
không cho phép bất cứ cá nhân, tổ chức nào được lợi dụng ý chí tự do để
biến những hợp đồng dân sự thành phương tiện bóc lột. Bên cạnh việc bảo
đảm lợi ích của mình, các chủ thể phải chú ý tới quyền, lợi ích của người
khác, của toàn xã hội; tự do của mỗi chủ thể không được tráI pháp luật, đạo
đức xã hội. Lợi ích của cộng đồng, của toàn xã hội được quy định bởi pháp
luật và đạo đức xã hội trở thành giới hạn cho sự tự do ý chí của các chủ thể
khi tham gia giao kết hợp đồng nói riêng, và trong mọi hành vi của chủ thể nói chung.
5. Nguyên tắc Tự nguyện, bình đẳng, thiện chí, hợp tác, trung thực và ngay thẳng
Nguyên tắc này được quy định nhằm bảo đảm trong việc giao kết hợp đồng
không ai bị cưỡng ép hoặc bị những cản trở trái với ý chí của mình; đồng thời
thể hiện bản chất của quan hệ pháp luật dân sự. Quy luật giá trị đòi hỏi các
bên chủ thể khi tham gia các quan hệ trao đổi phải bình đẳng với nhau; không
ai được viện lý do khác biệt về hoàn cảnh kinh tế, thành phần xã hội, dân tộc,
giới tính hay tôn giáo… để tạo ra sự bất bình đẳng trong quan hệ dân sự.
Hơn nữa, ý chí tự nguyện của cac bên chủ thể tham gia hợp đồng chỉ được
bảo đảm khi các bên bình đẳng với nhau trên mọi phương diện. Chính vì vậy,
pháp luật không thừa nhận những hợp đồng được giao kết thiếu sự bình
đẳng và ý chí tự nguyện của một trong các bên chủ thể. Tuy nhiên, trên thực
tế thì việc đánh giá một hợp đồng có được giao kết bảo đảm ý chí tự nguyện
của các bên hay chưa, trong một số trường hợp lại là một công việc hoàn
toàn không đơn giản và khá phức tạp bởi nhiều nguyên do chủ quan và khách quan khác nhau.
Như chúng ta đã biết, việc giao kết hợp đồng chỉ được coi là tự nguyện khi
hình thức của hợp đồng phản ánh một cách khách quan, trung thực mong
muốn, nguyện vọng của các bên chủ thể tham gia hợp đồng.
Tóm lại, Chính vì vậy, việc nghiên cứu tìm hiểu nó một cách chi tiết, khoa học
vấn đề này luôn được đặt ra nhằm ngày càng làm hoàn thiện hơn các quy
định pháp luật về hợp đồng, giúp các chủ thể có thể tự bảo đảm được lợi ích
cá nhân cũng như lợi ích cộng đồng khi tham gia giao kết hợp đồng.
Document Outline
- Cách phân loại hợp đồng và nguyên tắc khi giao kết
- 1. Khái quát về giao kết hợp đồng
- 2. Cách phân loại hợp đồng theo Bộ luật Dân sự của
- 3. Phân loại hợp đồng
- 4. Nguyên tắc giao kết hợp đồng
- 5. Nguyên tắc Tự nguyện, bình đẳng, thiện chí, hợp