Cảm nhận 14 câu đầu bài thơ Tây Tiến (2 Dàn ý + 9 mẫu) | Văn mẫu 12

TOP 9 mẫu cảm nhận khổ 1 Tây Tiến dưới đây được viết rất hay với văn phong rõ ràng, dễ hiểu có thể tự học để mở rộng, nâng cao kiến thức, sẽ giúp các em học môn Ngữ văn tốt hơn và có sự chuẩn bị tốt hơn khi học. 

Cảm nhận 14 câu đầu bài thơ Tây Tiến
Dàn ý cảm nhận 14 câu đầu bài thơ Tây Tiến
Dàn ý số 1
1. Mở bài: Giới thiệu tác giả Quang Dũng và bài thơ Tây Tiến
- Dẫn dắt vào đoạn 1 của bài thơ: Đoạn đầu của bài Tây Tiến thể hiện một thời kháng
chiến gian khổ, hào hùng của đoàn quân.
2. Thân bài
2.1 Ký ức về núi rừng Tây Bắc và đoàn quân Tây Tiến
- “Sông Mã”, “Tây Tiến” đều như trở thành những người thân thương ruột thịt mà
Quang Dũng dành trọn tình cảm nhớ thương.
- “Nhớ chơi vơi” là nỗi nhớ lạ lùng của những người lính từ phố thị.
=> Núi rừng Tây Bắc đã khắc vào tâm hồn của họ những kỷ niệm không bao giờ
quên, đồng thời cũng là nỗi trống trải, lạc lõng trong lòng tác giả.
2.2 Hình ảnh núi rừng Tây Bắc con đường hành quân gian khổ của những
người lính
- “Sài Khao”, “Mường Lát” là những địa danh gợi nhắc về địa bàn hoạt động của binh
đoàn Tây Tiến, mở rộng sang các không gian khác trong bài thơ.
- Nỗi nhớ ở đây dường như dàn trải khắp vùng không gian rộng lớn, mỗi một nơi bước
chân tác giả đi qua, ông đều dành những tình cảm yêu thương đặc biệt, trở thành kỷ
niệm khắc sâu trong lòng.
- Những kỷ niệm nhỏ như sự “mỏi” sau chặng hành quân, ngọn đuốc hoa bập bùng
trong đêm tối đều chứng minh nỗi nhớ lớn lao của tác giả.
- Gợi sự hiểm trở của núi rừng Tây Bắc, sự vất vả những nỗ lực kiên cường của
người lính chiến khi hành quân.
- “Súng ngửi trời” hình ảnh nhân hóa thú vị, thể hiện tâm hồn lãng mạn, hồn nhiên
và hài hước của người lính chiến trong gian khổ.
- “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi” vẻ đẹp của sự sống, sự thi vị lãng mạn giữa núi
rừng hoang vu, gợi sự bình yên, chốn dừng chân cho người lính.
2.3 Hình ảnh người lính và kỷ niệm tình quân dân
Cảm nhận 14 câu đầu bài thơ Tây Tiến
- Hai câu thơ “Anh bạn… quên đời”:
Sự hy sinh cao cả của người lính chiến, tư thế hiên ngang, oai hùng sẵn sàng xả
thân vì Tổ quốc.
Niềm xót xa cùng với sự cảm phục tinh thần hy sinh của Quang Dũng dành cho
đồng đội.
- Bốn câu kết đoạn: “Chiều chiều… nếp xôi”
Vẻ oai linh, hùng vĩ của núi rừng Tây Bắc với kết cấu thơ tân kỳ, dùng động từ
mạnh, thêm vào đó là sự nguy hiểm rình rập nơi rừng thiêng nước độc của ác
thú.
Sự bừng tỉnh khỏi kỷ niệm của tác giả, quay về hiện thực với nỗi nhớ tha thiết,
nồng nàn, nhớ tình quân dân ấm nồng với nắm xôi, hương lửa những ngày còn
chiến đấu.
3. Kết bài
3.1 Giá trị nội dung
- Đoạn thơ 14 câu tái hiện nét thiên nhiên con người Tây Bắc, trên nền thiên
nhiên những người lính Tây Tiến hiện lên thật oai hùng, bi tráng.
3.2 Giá trị nghệ thuật
- Nghệ thuật tương phản và cường điệu, cách sử dụng từ láy gợi hình, gợi cảm để khắc
họa một bức tranh giàu màu sắc, đường nét.
- Bút pháp hiện thực kết hợp với cảm hứng lãng mạn; chất họa kết hợp với chất nhạc
=> dựng lại con đường hành quân giữa núi rừng Tây Bắc hiểm trở, khắc nghiệt, hùng
vĩ và thơ mộng.
Nghệ thuật hài thanh: Tác giả sử dụng câu thơ nhiều thanh trắc tạo nên sự trắc
trở.
Thơ mộng, trữ tình: với các từ ngữ độc đáo, ấn tượng: “hoa về” chứ không phải
“hoa nở”; “đêm hơi” chứ không phải “đêm sương”.
Dàn ý số 2
I. Mở bài:
Giới thiệu tác giả Quang Dũng
Giới thiệu bài thơ Tây Tiến
Cảm nhận 14 câu đầu bài thơ Tây Tiến
II. Thân bài:
- Hai dòng thơ đầu: Nỗi nhớ bao trùm, mạch cảm hứng chủ đạo của bài thơ
“Sông Mã”, “Tây Tiến” đều như trở thành những người thân thương ruột thịt
mà Quang Dũng dành trọn tình cảm nhớ thương.
“Nhớ chơi vơi” là nỗi nhớ lạ lùng của những người lính từ phố thị.
=> Núi rừng Tây Bắc đã khắc vào tâm hồn của họ những kỷ niệm không bao giờ
quên, đồng thời cũng là nỗi trống trải lạc lõng trong lòng tác giả.
- Hai câu thơ tiếp:
“Sài Khao”, “Mường Lát” là những địa danh gợi nhắc về địa bàn hoạt động của
binh đoàn Tây Tiến, mở rộng sang các không gian khác trong bài thơ.
Nỗi nhớ ở đây dường như dàn trải khắp vùng không gian rộng lớn, mỗi một nơi
bước chân tác giả đi qua, ông đều dành những tình cảm yêu thương đặc biệt,
trở thành kỷ niệm khắc sâu trong lòng.
Những kỷ niệm nhỏ như sự “mỏi” sau chặng hành quân, ngọn đuốc hoa bập
bùng trong đêm tối đều chứng minh nỗi nhớ lớn lao của tác giả.
- Bốn câu thơ tiếp “Dốc…xa khơi”:
Gợi sự hiểm trở của núi rừng Tây Bắc, sự vất vả và những nỗ lực kiên cường
của người lính chiến khi hành quân.
“Súng ngửi trời” là hình ảnh nhân hóa thú vị, thể hiện tâm hồn lãng mạn, hồn
nhiên và hài hước của người lính chiến trong gian khổ.
“Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi” là vẻ đẹp của sự sống, sự thi vị lãng mạn giữa
núi rừng hoang vu, gợi sự bình yên, chốn dừng chân cho người lính.
- Hai câu thơ “Anh bạn…quên đời”:
Sự hy sinh cao cả của người lính chiến, tư thế hiên ngang, oai hùng sẵn sàng xả
thân vì Tổ quốc.
Niềm xót xa cùng với sự cảm phục tinh thần hy sinh của Quang Dũng dành cho
đồng đội.
- Bốn câu kết đoạn: “Chiều chiều…nếp xôi”
Vẻ oai linh, hùng vĩ của núi rừng Tây Bắc với kết cấu thơ tân kỳ, dùng động từ
mạnh, thêm vào đó là sự nguy hiểm rình rập nơi rừng thiêng nước độc của ác
thú.
Cảm nhận 14 câu đầu bài thơ Tây Tiến
Sự bừng tỉnh khỏi kỷ niệm của tác giả, quay về hiện thực với nỗi nhớ tha thiết,
nồng nàn, nhớ tình quân dân ấm nồng với nắm xôi, hương lửa những ngày còn
chiến đấu.
III. Kết bài:
- Khái quát lại giá trị nội dung và nghệ thuật của đoạn thơ.
Cảm nhận Tây Tiến 14 câu thơ đầu - Mẫu 1
“Nước những người chưa bao giờ khuất
Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất
Những buổi ngày xưa vọng nói về”.
Người lính cách mạng vẫn thường hiện lên trong ức những người con đất Việt với
niềm tự hào xúc động mãnh liệt nhất. Ta đã tìm thấy anh giữa đoàn quân trùng
trùng ra trận, ta đã nhận ra anh giữa chiến trường lửa đạn. Có người lính lam lũ, hiền
lành trong thơ Chính Hữu, người lính sôi nổi, trẻ trung trong thơ Phạm Tiến Duật.
Nhưng chưa đâu, người lính lại hài hòa bi tráng như trong Tây Tiến của Quang
Dũng. Cái can đảm, hào hùng của người lính chống Pháp sáng ngời lên giữa âm u,
khắc nghiệt của núi rừng Tây Bắc, đặc biệt là trong khổ thơ đầu.
Quang Dũng sáng tác Tây Tiến vào năm 1948 tại Phù Lưu Chanh khi ông đã chuyển
về đơn vị. Nhớ về một thời oanh liệt đã qua, nhớ đến đồng đội cũ, cảm hứng về Tây
Tiến cháy lên trong lòng tác giả. Đó cảm hứng của những chàng trai Nội từ giã
quê hương lên đường đi kháng chiến, đó ức của một đất nước những năm đầu
Cách mạng, đất nước với cảnh núi non hùng nơi biên cương Tây Bắc. Bài thơ ban
đầu được đặt tựa đề “Nhớ Tây Tiến”, về sau chữ “Nhớ” được bỏ đi, có lẽ cũng bởi bao
trùm bài thơ là nỗi nhớ một thời Tây Tiến gian khổ, hào hùng.
Quang Dũng đã viết về người lính Tây Tiến bằng những vẫn thơ tươi thắm nhất của
lòng mình. Hình ảnh người lính hiện về trong hồi ức nhà thơ như một biểu tượng xa
vời trong không gian thời gian. Kỉ niệm về người lính Tây Tiến đã xa lại rất
gần, để khi nhìn lại, nỗi nhớ bỗng bật ra thành lời:
“Sông mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi.”
Sôngtrong ức Quang Dũng những người đồng đội nơi xuất phát kỉ niệm,
khởi đầu của một chặng đường gian khổ, là cái gốc nỗi nhớ trong miền ký ức rất riêng
của cuộc hành quân chiến đấu những người lính năm xưa. Dòng sông ấy như một
nhân chứng lịch sử đứng đó chở che, dõi theo từng bước chân của người lính; “xa rồi
Tây Tiến ơi!” những kí ức vẫn còn rõ rệt lắm! Bao tình cảm được dồn nén vào từ “ơi”
Cảm nhận 14 câu đầu bài thơ Tây Tiến
dâng lên một dấu chấm than để mở ra bao nhiêu dạt dào của cảm xúc nỗi nhớ. Nỗi
nhớ vang vọng lên, khắc sâu tình cảm nhớ thương của người chiến năm nào. Điệp
từ “nhớ” đi liền với tính từ “chơi vơi” xoáy sâu vào tâm hồn độc giả, ào ạt như một cái
thác trong ức Quang Dũng. Nỗi nhớ cuộn trào trong tâm hồn nhà thơ, đưa ông
vào trạng thái ảo, triền miên của ức, cuốn trôi ông vào núi rừng, hai trận chiến
ngày xưa để rồi khiến ông khắc khoải trong nỗi nhớ chơi vơi. Chơi vơi! Một nỗi nhớ
thật lạ lùng! Xuân Diệu hình như cũng từng chơi vơi trong nỗi nhớ như thế:
“Sương nương theo trăng ngừng lưng trời
Tương tư nâng lòng lên chơi vơi”.
“Nhớ chơi vơi” một nỗi nhớ nhẹ tênh nặng vô cùng, lơ lửng, vương vấn trong tâm
hồn, bao la bát ngát lại có chiều sâu. Nếu nỗi nhớ trong thơ Xuân Diệu là tình cảm lứa
đôi thì điểm đến của nỗi nhớ trong thơ Quang Dũng tình cảm thiêng liêng, dữ dội
dành cho mảnh đất Tây Bắc nhớ thương. Âm hưởng của câu thơ trong cách sử dụng
vần giữachơi vơi” “ơi” tạo lên một hiệu quả ngữ âm trọn vẹn. lan tỏa, ngân
dài từng tiếng vọng vào vách đá để rồi vang lại vào tâm hồn người đọc xúc cảm thiêng
liêng mà Quang Dũng dành trọn cho Tây Tiến. Cũng bằng tình cảm thiêng liêng ấy,
Quang Dũng đưa người đọc đến với những kỉ niệm đã lùi vào quá vãng, đến với âm u
khắc nghiệt của núi rừng, đến với cái can đảm, hào hùng của người chiến sĩ.
người từng trải qua những ngày tháng khốc liệt chiến tranh, hơn ai hết, Quang
Dũng hiểu rõ về khó khăn, gian khổ nơi biên cương:
“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi”.
Cái khắc nghiệt đầu tiên đoàn quân nếm trải màn sương dày đặcbản làng Sài
Khao. Nó bao phủ, che mờ của đoàn quân, nó thấm vào từng thớ thịt lạnh buốt. Sượng
giá khiến đoàn quân lãnh lẽo, thấm mệt. Những khắc nghiệt của tự nhiên không làm
tinh thần người chiến nao núng. Tình yêu nước đã khiến những chàng traithành
thêm quật cường, bất khuất, xua tan mọi giá rét, cực khổ, đẩy lùi tất thảy mệt mỏi gian
lao. Trên chặng đường hành quân xưa của Chế Lan Viên sương giá cũng một ức
thấm đượm nỗi nhớ:
Nhớ bản sương giăng, nhớ đèo mây phủ
Nơi nao qua, lòng lại chẳng yêu thương?”
Chế Lan Viên với Quang Dũng đã gặp nhau ở một ý thơ, một nỗi nhớ gọi lên trong ta
cảm tưởng họ đang cùng hành quân trên một chặng đường. Nhưng người lính đó dẫu
có là ai, chiến đấu ở đâu thì họ đều vượt qua khắc nghiệt tự nhiên rồi bừng sáng lên vẻ
đẹp hùng dũng, kiên cường. Quang Dũng là một cây bút lãng mạn, hào hoa, cách sử
Cảm nhận 14 câu đầu bài thơ Tây Tiến
dụng từ ngữ của ông mang nhiều lớp nghĩa. Chi tiết “hoa về trong đêm hơi” tùy theo
cách hiểu của mỗi người lại mang một sắc thái độc đáo. Đó thể hình ảnh người
con gái Tây Bắc, cũng thể sự mỏi mệt trên đường hành quân khiến người chiến
sĩ hoa mắt. Hoặc, “hoa về” là ánh sáng lấp lánh của ngọn đuốc trong cảnh chập tối mờ
hơi sương. hiểu theo cách nào, hình nh thơ Quang Dũng vẫn thật đẹp đẽ, thi vị,
sáng ngời. Câu thơ xóa tan mỏi mệt để đoàn quân tiếp bước. Khó khăn này chưa qua
thì khó khăn khác đã đến:
“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời”.
Ta cảm nhận được cái thô ráp, gồ ghề trong câu thơ như chính hình thể gập ghềnh,
cheo leo của dốc núi. Một hiện thực khắc nghiệt của vùng cao Tây Bắc. Bức tranh
hiểm trở dữ dội, hoang vu heo hút được lột tả thành công dưới ngòi bút tài hoa
của Quang Dũng. Đó là con dốc khúc khuỷu, gập ghềnh, hiểm nguy đoàn quân
phải đối mặt, con dốc thăm thẳm không điểm dừng, triền miên kéo dài như cuộc
kháng chiến chống Pháp bấy giờ. cũng xa xôi như ngày đất nước độc lập, song
gian khổ không làm khó được người chiến sĩ, họ vẫn lạc quan, quật cường vững bước.
“Heo hút cồn mây” sao lại lắng lặng, hoang thế! Ấy vậy Quang Dũng vẫn
lột tả nét sự tinh nghich, trữ trung qua cách sử dụng nghệ thuật nhân hóa, ẩn dụ
“súng ngửi trời”. Đó là cách sử dụng từ táo bạo, sôi nổi, lạc quan đậm chất người lính.
Thử hỏi trong cảnh gian nan, mệt mỏi ấy mấy ai còn giữ được phong thái tự tin, yêu
đời như vậy?
Bên cạnh hiểm nguy, người lính với thế oai phong vẫn dũng cảm chinh phục, đ
đến khi đứng trên đỉnh núi cao họ nhìn lại chặng đường gian khổ mình từng trải qua:
“Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”.
Một sự đối lập kín đáo trong câu thơ cũng như trong tâm hồn người chiến sĩ. Trải qua
bao thăng trầm hiểm trở anh vệ quốc quân đã đặt chân lên đỉnh dốc. Điệp từ “ngàn
dốc” mở ra một khoảng không gian đa chiều, vừa gợi lên cái hoang sơ, vừa đặc tả vẻ
đẹp trữ tình nơi núi rừng Tây Bắc. Sau tất cả những dồn dập, và người chiến sĩ lắng lại
một miền đất lãng mạn “nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”. Thanh bằng trong từng từ
trải dài làm cả câu thơ mênh mang lắng đọng tạo nên một bức tranh núi rừng phủ mưa
trắng xóa. Vượt qua mọi gập ghềnh trước mắt, người lính bắt gặp những ngôi nhà
Pha Luông, được chứng kiến cuộc sống con người đang hiện hữu. Lẫn trong màn mưa
rừng bản làng hiện lên trầm mặc, lấp ló. Nếu ờng Lát người lính bị sương giá
làm chonh lẽo thì đây, đối mặt vớin mưa rừng cái giá rét ấy còn tăng lên gấp
bội. Trên con đường hành quân khắc nghiệt, nhiều chiến sĩ đã mãi mãi nằm lại những
mảnh đất xa lạ:
Cảm nhận 14 câu đầu bài thơ Tây Tiến
“Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời”.
Những con người này đẹp lắm, dũng cảm lắm bởi họ đã làm nên lịch sử, góp phần vào
sự trưởng thành của đất nước, họ cũng chính những con người “sinh ra trong thời
đại của anh hùng”. Tất cả thương mến, tự hào dành cho đồng đội dường như đã được
Quang Dũng gửi gắm trọn vẹn trong từ “anh bạn”. Dãi nắng dầm mưa, trải qua khắc
nghiệt của thiên nhiên núi rừng người chiến đã hy sinh. Nhưng không thế mà bài
thơ trở nên bị thảm, tang thương. Người lính ra đi trong một tư thế rất đỗi hào hùng:
“Gục lên súng mũ bỏ quên đời”.
Bút pháp lãng mạn “bỏ quên đời” phần nào làm cho cái chết không còn nặng nề, giảm
nhẹ đau thương và mất mát. Quang Dũng viết về anh như viết về một đất nước dẫu
mưa bom bão đạn cũng không chịu cúi đầu: “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Họ
những chàng trai còn mang trong mình ước hoài bão tuổi trẻ. Vậy giờ đây,
họ hy sinhtưởng chung của dân tộc. Nó lớn lao hơn tất cả mơ mộng thường tình
của chàng trai trẻ. Người lính toạc thanh xuân, toạc cuộc đời mình để ghép vào
bức tranh hòa bình đất nước:
“Ta sẵn sàng xé trái tim ta
Cho Tổ quốc và cho tất cả”
Họ ra đi sôi sục, ngạo nghễ, họ chiến đấu quê hương nên cái chết cũng nhẹ nhàng
như về với đất mẹ. Bao nhiêu sự hi sinh bấy nhiêu sự hào hùng, can đảm ta được
chứng kiến:
“Và anh chết trong khi đang đứng bắn
Máu anh phun theo lửa đạn cầu vồng”.
Họ đã sống, đã chiến đấu xứng đáng với quê hương, đất nước. Họ hiên ngang, đường
hoàng khi ra trận và cũng hào hùng khi ngã xuống cũng bởi:
“Ta hiểu vì sao ta chiến đấu
Ta hiểu vì ai ta hiến máu”.
Họ vì ai mà ngã xuống? Vì giang sơn, vì độc lập, vì tự do của nhân dân Việt Nam anh
nguyện hiến dâng tính mạng thực hiện tưởng cao đẹp ấy. Người chiến nằm lại
nhưng đồng đội anh vẫn tiếp bước. Khó khăn gian khổ vẫn còn:
“Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”.
Cảm nhận 14 câu đầu bài thơ Tây Tiến
Cảnh chiều tà luôn khiến lòng người chứa chan nỗi niềm tâm sự. Giữa núi rừng hoang
cạnh anh những người đồng đội xa quê chất chứa nỗi nhớ quê hương. Khó khăn
vất vả cộng hưởng nỗi nhớ nhà để khiến người ta nhụt chí nhưng với anh lính Tây
Tiến nó không những không ngăn được lý tưởng cách mạng, ngược lại còn là động lực
thôi thúc anh mạnh mẽ hơn, can đảm hơn. Hai câu thơ gieo vào lòng người đọc tất cả
khắc nghiệt và dữ dội về một miền đất âm u, khắc khổ. Địa danh “Mường Hịch” được
sử dụng rất khéo, rất tài tình, nghe nặng nề đáng sợ như bước chân thú dữ khiến
cảnh sắc núi rừng trở nên thật hoang lạnh lẽo. Rừng núi trùng điệp nhưng cũng
khắc nghiệt biết bao!
Tưởng rằng những khó khăn, gian khổ kia sẽ làm mờ đi trong tâm hồn những chàng
trai trẻ Nội nét hào hoa, lãng mạn vốn có. Nhưng không, nét hào hoa, lãng mạn
vẫn chẳng hề mất đi dọc cuộc hành trình:
“Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”.
Hai tiếng “nhớ ôi” thốt ra bằng tất cả nỗi niềm kìm nén. Lắng đọng lại những kỉ niệm
tình người ấm áp, tình quân dân đằm thắm qua những bản làng dọc đường hành quân.
Sau bao nhiêu gian khổ khắc nghiệt núi rừng Tây Bắc, người chiến dừng lại Mai
Châu. Quây quần bên nồi xôi nếp mới với các gái bản làng xinh đẹp khiến bao
nhiêu vất vả, nhọc nhằn bỗng chốc được xua tan, trả lại người lính nét can đảm hùng
tráng vốn có. Phải trải qua quãng đường trường chinh, gian khổ, phải những con
người “chẳng tiếc trời xanh” như Quang Dũng thì mới thể viết nên những vẫn thơ
kiêu hùng đến thế. Ông vẽ nên người lính Tây Tiến trong những năm tháng khói lửa
với một niềm xúc động thiêng liêng nhất. Bao nhiêu năm kháng chiến bấy nhiêu
năm chiến đấu trường gian khổ. Cũng từ đó hiện lên hình tượng người lính Tây
Tiến bất khuất, kiên trung giữa khắc nghiệt núi rừng Tây Bắc.
Hôm nay, đọc lại những vẫn thơ “Tây Tiến” chúng ta không chỉ tự hào về quá khứ
oanh liệt của dân tộc, về người lính chống Pháp bi tráng, can đảm còn phải ý thức
trách nhiệm với non sông đất nước bởi những người lính đã ngã xuống để bảo vệ hai
tiếng “độc lập” vẹn nguyên. Ta nợ anh một lời cảm ơn, một tấm chân tình, ta nợ anh
cả cuộc đời tốt đẹp:
“Kính chào anh, con người đẹp nhất
Lịch sử hôn anh, chàng trai chân đất
Sống hiên ngang, bất khuất trên đời
Như Thạch Sanh của thế kỉ hai mươi”.
Phân tích 14 câu thơ đầu bài Tây Tiến - Mẫu 2
Cảm nhận 14 câu đầu bài thơ Tây Tiến
Ra đời trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, cùng với “Nhớ” của Hồng
Nguyên, “Đồng Chí của Chính Hữu, “Bên kia sông Đuống” của Hoàng Cầm, “Tình
sông núi” của Trần Mai Ninh, “Tây Tiến” của Quang Dũng đã làm nên bộ “Ngũ tư bất
tử’ trong thơ ca thờikháng chiến chống Pháp. “Tây Tiến” là bài thơ của người lính
nói về người lính anh Vệ quốc quân thời chín năm kháng chiến chống Pháp gian
khổ, hào hùng. Những kỉ niệm thời cầm súng chiến đấu, những tình cảm dành cho
mảnh đất miền Tây, cho đồng đội cùng dầm mưa dãi nắng biết bao tháng ngày đã
được Quang Dũng gửi qua nỗi nhớ mênh mang, da diết . Men theo nỗi nhớ đong đầy
ấy, bức tranh thiên nhiên miền Tây Bắc hùng vĩ, dữ dội đã được khắc họa thật đậm nét
qua những câu thơ mở đầu bài thơ:
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
……
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi
Một tác phẩm ra đời đôi khi sự thai nghén, thôi thúc của cả nội tâm ngoại cảnh.
“Tây Tiến” cũng vậy, kết tinh của tình yêu, nỗi nhớ, niềm thương Quang Dũng
gửi về cho binh đoàn Tây Tiến máu thịt, thân yêu của mình . Đoàn quân Tây Tiến
được thành lập vào mùa xuân năm 1947, gồm phần đông những chàng trai trẻ của
đất Hà thành, hào hoa, thanh lịch:
Những chàng trai chưa trắng nợ anh hùng
Hồn mười phương phất cờ đỏ thắm
Nên tâm hồn họ lãng mạn, bay bổng, nhiều mộng cũng lắm mơ. Đây điểm khác
biệt nét làm nên chất lãng mạn trữ tình cho bài thơ cũng như hình tượng người
lính trong thơ Quang Dũng. Họ ra đi chiến đấu mang trong mình tưởng: Chiến
trường đi chẳng tiếc đời xanh, quyết tử cho tổ quốc quyết sinh. Một lí tưởng sáng ngời
chân của thế hệ thanh niên thời đại Hồ Chí Minh. Địa bàn hoạt động của đoàn binh
Tây Tiến một khu vực rộng khắp kéo dài từ Mai Châu Hòa Bình cho đến tận
Thanh Hóa, kéo sang cả Sầm Nứa của Lào. Đó vùng địa hình đồi núi phía Tây Bắc
hiểm trở của tổ quốc. Nơi rừng thiêng, nước độc, nơi thâm sơn cùng cốc với điều kiện
tự nhiên khắc nghiệt. Những người lính Tây Tiến có nhiệm vụ chiến đấu, bảo vệ vùng
biên giới phía Tây Bắc của tổ quốc, kết hợp cùng với bộ đội Pathết Lào đánh tiêu hao
sinh lực địch. Cuộc sống chiến đấu cùng thiếu thốn, khó khăn gian khổ. Điều kiện
thiên nhiên khắc nghiệt. Chính vì thế mà những người lính Tây Tiến hi sinh vì mũi tên
hòn đạn thì ít mà vì ốm đau, bệnh tật thì nhiều. Chỉ sau một năm chiến đấu, binh đoàn
Tây Tiến đã hi sinh gần hết, đơn vị tan rã, đại đội trưởng Quang Dũng được chuyển
sang một đơn vị khác Tây Tiến sát nhập vào Trung đoàn 52. Một lần, ngồi bên
dòng sông Đáy hiền hòa thuộc tỉnh Hà Đông cũ, kỉ niệm, ức về những tháng năm
gắn cùng đồng đội thân yêu, vào sinh ra tử lại ùa về. Tây Tiến được viết lên trong
Cảm nhận 14 câu đầu bài thơ Tây Tiến
nỗi nhớ trào dâng, da diết Quang Dũng gửi đến cho đất người trọn vẹn một tình
yêu.
Tác phẩm văn học có thể coi như đứa con tinh thần của nhà văn, nhà thơ. Chính vì thế
đặt tên cho c phẩm cũng nỗi băn khoăn, trăn trở của mỗi tác giả. những tác
phẩm tên được đặt đi, đặt lại. “Tây Tiến” của Quang Dũng mới ra đời n
“Nhớ Tây Tiến”. Nhưng lẽ sau này Quang Dũng hiểu rằng, thơ “ý tại ngôn
ngoại”, không nói nhớ nỗi nhớ cứ như sóng trào dâng qua từng lời, từng câu, từng
chữ, từng nhịp thơ. Đấy mới cái tài hoa của người nghệ sĩ. Nhan đề đã được tinh
giản chỉ còn “Tây Tiến” nỗi nhớ vẫn chơi vơi, như mạch ngầm nguồn cảm
hứng của cả bài. Bài thơ được in trong tập “Mây đầu ô” xuất bản năm 1948.
Cảm xúc chủ đạo của đoạn thơ đầu tiên chính nỗi nhớ về thiên nhiên miền Tây Tổ
quốc hùng vĩ, dữ dội, hiểm thơ mộng, trữ tình. Qua đó làm hiện lên hình ảnh
người lính trên chặng đường hành quân đầy gian nan, nguy hiểm; tuy vất vả, hi sinh
nhưng vẫn ngang tàng, trẻ trung, lãng mạn.
Hai câu thơ mở đầu gợi nhớ, gợi thương, nhớ miền Tây, nhớ núi rừng, nhớ dòng sông
Mã thương yêu:
Sông Mã xa rồi, Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi
Hành hương về quá khứ, Quang Dũng đã nhắc tới sông như một biểu tượng đầu
tiên của nỗi nhớ. Đây dòng sông chạy dọc theo địa bàn biên giới Việt Nam với
nhiều ghềnh thác dữ dội, một mình băng băng giữa núi rừng hùng vĩ. Sông Mã còn
dòng sông gắn liền với chặng đường hành quân vất vả của trung đoàn , từng chứng
kiến sẻ chia những buồn vui, những mất mát, hi sinh của người lính. Sông
không còn dòng sông tri trên bản đồ địa lí, đã trở thành người bạn, người
thân, nhân chứng lịch sử đi theo bước quân hành của người lính Tây Tiến, ghi dấu
bao nhiêu kỉ niệm. Hai tiếng “xa rồi” gợi nhắc về thời gian, tất cả những kỉ niệm với
đoàn quân Tây Tiến nay đã lùi xa vào dĩ vãng. Nhịp thơ 4/3 với dấu ngắt giữa dòng
như một phút ngừng lặng để nhận ra sự trống trải, mênh mông trong thực tại , để sau
đó, hiện tại mờ đi, nỗi nhớ ùa vào trong tiếng gọi tha thiết hướng về quá khứ. Tây Tiến
ơi! Tiếng gọi tha thiết, khắc khoải. Dường như Tây Tiến không còn là tên của một đơn
vị bộ đội nữa mà thân thiết, gắn bó như anh em máu thịt. Qua đó nói lên tình cảm gắn
sâu nặng của nhà thơ với một thời, một vùng miền đã đi qua. Từ “ơi” thật thân
thương được hiệp vần tinh tế với từ láy chơi vơi” câu sau khiến tiếng gọi như âm
vang, đập vào vách đá, dội lại lòng người, da diết, bâng khuâng,…
Biện pháp điệp ngữ được tác giả vận dụng thật tinh tế để khắc sâu nỗi nhớ day dứt,
miên man, ám ảnh không thể nguôi ngoai: Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi. Nhịp ngắt
Cảm nhận 14 câu đầu bài thơ Tây Tiến
4/3 chia câu thơ thành hai vế : vế đầu xác định đối tượng của nỗi nhớ nhớ v rừng
núi ” – đó là không gian mênh mông của miền Tây với những địa danh như Sài Khao,
Mường Lát, Pha Luông,…Những địa danh vừa gợi lên con đường nh quân vất vả,
gian lao vừa gợi lên sự heo hút, hoang vu của thiên nhiên Tây Bắc. Và vì thế , nỗi nhớ
không chỉ dừng lại rừng núi miền Tây còn hướng về những năm tháng quá khứ
gian lao với những người đồng đội, vế sau của câu thơ miêu tả sắc thái của nỗi nhớ
“nhớ chơi vơi”. Chơi vơi từ láy vần với hai thanh không (thanh ngang) gợi độ
cao phiêu du, bay bổng, gợi cảm giác về một nỗi nhớ vô hình, vô lượng, không thể đo
đếm, một nỗi nhớ mơ hồ, đầy ám ảnh, nỗi nhớ ăm ắp, khôn nguôi.
Hằn sâu trong kí ức của người chiến binh Tây Tiến, thiên nhiên miền Tây với hình thế
sông núi hiểm trở nhưng không kém phần thơ mộng của miền Tây trên đường hành
quân của người lính lại được hiện lên rõ nét và đầy sức gợi:
Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
Ba câu thơ đầu miêu tả sắc nét khung cảnh thiên nhiên hùng vĩ và hiểm trở qua đó làm
hiện lên cuộc hành quân vất vả, gian lao ý chí bất khuất, kiên cường của những
người chiến binh Tây Tiến. Sự phối hợp của năm thanh trắc trong câu thơ “Dốc lên
khúc khuỷu, dốc thăm thẳm đã tạo nên âm hưởng gồ ghề, gập ghềnh cho câu thơ 7
chữ, giúp người đọc phần nào hình dung ra cuộc hành quân gian truân của người lính
Tây Tiến. Điệp từ “dốc” lặp lại ở đầu hai vế câu để thể hiện sự trùng điệp, chồng chất
của những con dốc như muốn thử thách ý chí, nghị lực của người lính. Các từ láy
“khúc khuỷu (diễn tả sự gồ ghề, gập ghềnh), “ thăm thẳm ” ( diễn tả độ cao hun hút,
độ xa vời vời) giàu giá trị tạo hình đã khắc họa sự hiểm trở của dốc núi và qua đó làm
hiện lên sự nhọc nhằn trên con đường hành quân của người lính.
Cái hoang vu, bí hiểm, dữ dội của thiên nhiên còn hiện lên qua hình ảnh “ Heo hút cồn
mây súng ngửi trờ i. Từy “heo hút” vừa gợi độ cao, vừa gợi độ xa, vừa gợi sự vắng
lặng lại được đảo lên đầu câu để nhấn mạnh sự hoang sơ, hoang vắng, thăm thẳm như
vô tận vô cùng. “ Cồn mây” một hình ảnh ẩn dụ cho thấy mây núi miền Tây bộn bề,
chồng chất, tạo thành dốc, thành công, con đường như bị lấp vào trong mây, con
đường hành quân của người lính cùng cheo leo và hiểm trở. Hình ảnh nhân hóa .
Súng ngửi trời ” là một cách nói tếu táo, hóm hỉnh, đầy chất lính, cho thấy tâm hồn trẻ
trung của những người lính phong trần, coi thường gian lao, hiểm trở. Câu thơ không
chỉ gợi lên sự hiểm trở của dốc núi còn cho thấy tâm hồn tươi trẻ, lạc quan của
những người chiến sĩ.
Cảm nhận 14 câu đầu bài thơ Tây Tiến
Nét dữ dội, hiểm trở như muốn thử thách ý chí, nghị lực của người lính lại được
đậm hơn ở câu thơ thứ ba . Điệp từ “ngàn thước” kết hợp với phép tương phản của các
động từ lên xuống trong hai vế câu đã tạo ra cảm giác về một nét gấp đột ngột, dữ
dội cho câu thơ, gợi tả độ cao của dốc, độ sâu của vực: bên này, đường lên núi dựng
đứng, vút cao; bên kia vực đổ xuống heo hút, hiểm trở.
Cảm hứng lãng mạn trong thơ Quang Dũng lại đưa người đọc trở về với cảm giác yên
bình, nhẹ nhàng sau bao trải nghiệm về sự dữ dội của cảnh trí miền Tây. Nhà ai Pha
Luông mưa xa khơi Câu thơ toàn thanh bằng với âm tiết mở đã tạo ra một không
gian mênh mông,n trải, nhạt nhòa trong mưa. Hình ảnh ẩn dụ mưa xa khơi” gợi
cảm nhận về cả thung lũng mờ mịt như loãng tan trong biển mưa. Sau những chặng
đường hành quân vất vả, người lính như dừng lại đâu đó ngắm nhìn núi rừng trong
mưa. Sắc thái phiếm chỉ của đại từ “ai” khiến cho những ngôi nhà trở nên hồ, xa
xăm, huyền ảo . Sắc thái nghi vấn “nhà ai”gợi nỗi bâng khuâng, trăn trở trong lòng
người. giữa mưa rừng buốt lạnh, giữa núi rừng mênh mông, hình ảnh ngôi nhà gợi
cảm giác ấm áp, bình yên đã làm trào dâng nỗi nhớ nhung, xao xuyến trong lòng
người chiến sĩ.
Cảnh núi rừng hoang sơ, hùng tiếp tục được tái hiện qua đó làm nổi bật hình ảnh
người chiến binh Tây Tiến trong sự vất vả, gian lao nhưng đậm chất kiêu hùng.
Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người
Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi
ức về người lính Tây Tiến đã hiện lên thật lãng mạn nhưng cũng thật bi hùng. Từ
láy “dãi dầu” diễn t sự nhọc nhằn, vất vả của các anh khi hành quân qua miền Tây,
khi vượt qua những núi cao, vực sâu, thác ghềnh dữ dội, qua những nắng mưa, sương
gió,….Với cách diễn đạt chủ động “không bước nữa”, “bỏ quên đời”, tác giả đã làm
hiện lên sự kiêu bạc, ngang tàng của những người chiến binh dãi dầu mưa nắng. Cách
viết của nhà thơ mang đến cho ta hai cách hiểu: thể hiểu, trên chặng đường hành
quân gian lao, vất vả, người lính kiệt sức nên ngủ thiếp đi trong chốc lát để rồi lại tiếp
tục chặng đường dài; cũng thể hiểu rằng người lính đã hi sinh một cách nhẹ
nhàng, thanh thản như vừa hoàn thành xong nhiệm vụ với Tổ quốc. Hiện thực khắc
nghiệt của chiến tranh đã được Quang Dũng biểu hiện bằng cách nói thật lãng mạn.
Qua đó, nhà thơ làm hiện không phải khó khăn tinh thần vượt qua mọi khó
khăn, đó chính là vẻ đẹp hào hùng của những người chiến sĩ.
Cảm nhận 14 câu đầu bài thơ Tây Tiến
Sau câu thơ gợi lên hình ảnh người lính, sự hùng vĩ, hiểm trở của núi rừng miền Tây
lại được hiện lên qua những nét vẽ đầy ấn tượng. Biện pháp nhân hóa “thác gầm thét”,
“cọp trêu người” đã làm tăng thêm s dữ dội, hoang sơ, đầy hiểm của núi rừng
miền Tây. Nghệ thuật tương phản, đối lập của cảm hứng lãng mạn đã được Quang
Dũng sử dụng trong phép đối thanh rất tinh tế: nếu như câu thơ trên với các tiếng
“thác”, “thét” mang âm vực câu gợi âm thanh tiếng nước man dại vòm cao thăm
thẳm thì câu dưới những tiếng Hịch, cọp mang thanh trắc âm vực thấp như
phỏng bước chân nặng nề của thú dữ, gợi sự thâm u, bí hiểm, đầy đe dọa của núi rừng.
Chiều chiều, đêm đêm những trạng ngữ chỉ dòng chảy của thời gian lặp lại miên
viễn, vĩnh hằng. Những sức mạnh thiên nhiên khủng khiếp ngự trị núi rừng miền
Tây không phải một chiều, một đêm chiều chiều, đêm đêm ngự trị muôn
đời. Miêu tả những ấn tượng về núi rừng miền Tây lại càng làm nổi bật chân dung
người lính Tây Tiến hào hùng, mạnh mẽ: họ đã hành quân qua những vùng đất hoang
sơ, dữ dội, vắng bóng con người ; họ đã vượt qua những gian truân vất vả bằng khí
phách kiên cường và lòng dũng cảm đáng khâm phục, đáng ngợi ca.
Tuy vậy, con đường hành quân của các chiến sĩ Tây Tiến không chỉ có gian lao, vất vả
mà còn có cả những kỉ niệm ngọt ngào, thắm thiết ân tình:
Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi
Hai câu thơ đã làm hiện lên không gian miền Tây Bắc vô cùng nên thơ với những bản
làng quện trong khói lam chiều ấm áp bên sườn núi , với hương thơm quyến rũ của xôi
nếp nương, với những sơn nữ tình tứ xinh đẹp. Cụm từ cảm thán “Nhớ ôi” đứng
đầu câu đã bộc lộ cảm xúc nhớ nhung, dâng trào mãnh liệt về miền Tây, về những bản
làng Mai Châu, về những chị, những em ,… trong mùa lúa chín. Sau những chặng
đường hành quân giữa mưa rừng buốt lạnh, giữa núi cao, vực sâu, giữa những bước
chân thú dữ rập rình đe dọa, phút dừng chân bên một bản làng miền Tây với bát cơm
thơm ngào ngạt làn khói bếp đã mang đến cho các anh cảm giác thanh bình thật hiếm
hoi, quý giá trong cuộc chiến tranh tàn khốc. Câu thơ “Mai Châu mùa em thơm nếp
xôi” mang đến cho ta nhiều cách hiểu. Có thể hiểu các chiến sĩ dừng chân ở Mai Châu
giữa mùa lúa chín, đón nhận bát xôi ngào ngạt hương nếp đầu mùa từ bàn tay dịu dàng
của các gái Mai Châu. Cũng thể hiểu câu thơ theo một nét nghĩa thật lãng mạn
qua hai chữ “mùa em”. Đây một kết hợp từ rất mới mẻ, người ta thường nói mùa
hoa, mùa quả,… để chỉ thời điểm sung mãn, đầy ắp sắc hương của hoa trái. Cách dùng
từ của Quang Dũng đã tạo ra một nét nghĩa táo bạo thật đa tình khiến cho Mai
Châu không chỉ một địa danh gắn liền với kỉ niệm thơm thảo của xôi nếp đầu mùa
thắm tình quân dân còn gợi tới hình ảnh của những gái Mai Châu duyên dáng,
xinh đẹp, căng tràn sức sống làm xao xuyến lòng người chiến sĩ. Câu thơ nhiều thanh
Cảm nhận 14 câu đầu bài thơ Tây Tiến
bằng gợi tả cảm giác bồng bềnh, xao xuyến, ngất ngây trong tâm hồn của những
chàng trai Hà Thành hào hoa, lãng mạn.
Sự kết hợp hài hoà giữa bút pháp hiện thực lãng mạn; ngôn ngữ giàu tính tạo hình,
giàu nhạc điệu,biện pháp tu từ đặc sắc, đã làm nên thành công cho cả đoạn thơ
tuy chỉ khúc dạo đầu của một bản nhạc về nỗi nhớ, song cũng đã kịp ghi lại những
vẻ đẹp rất riêng của thiên nhiên núi rừng Tây Bắc . Trên nền của bức tranh thiên nhiên
dữ dội ấy, những người lính Tây Tiến hiện lên thật đẹp đẽ, hào hùng. Thiên nhiên
hùng vĩ, dữ dội, con người mạnh mẽ, lãng mạn, hào hoa. Sự gắn của nhà thơ với
thiên nhiên con người nơi ấy biểu hiện của tấm lòng gắn với quê hương, đất
nước. Đồng thời là tấm lòng trĩu nặng yêu thương với những người đồng đội, đồng chí
của mình.
Mười bốn câu thơ mở đầu cho một nỗi nhớ trải dài, mênh mang, vô tận. Lặn sâu mình
vào trong nỗi nhớ y, người ta thấy yêu một khung cảnh thiên nhiên hùng vĩ, dữ dội
của đất nước, thấy cảm phục, biết ơn một thế hệ anh hùng một thời đã quên thân mình
Tổ quốc thân yêu. Chất lãng mạn hiện thực, chất thơ và chất nhạc vốn đặc
trưng của hồn thơ Quang Dũng đã được thể hiện thật hay, thật giàu sức hút. Có lẽ nhờ
vậy màTây Tiến ” của Quang Dũng chưa bao giờ mất đi vị trí quan trọng trong lòng
bạn đọc nhiều thế hệ.
Cảm nhận Tây Tiến khổ 1 - Mẫu 3
Quang Dũng (1921-1988) là một nghệ đa tài với hồn thơ phóng khoáng, hồn hậu,
lãng mạn tài hoa. "Tây Tiến" bài thơ tiêu biểu cho đời thơ và thể hiện sâu sắc
phong cách thơ Quang Dũng. thể nói, tinh hoa của bài thơ được hội tụ lại trong
khổ thơ đầu tiên. Khổ thơ đã dựng lên bức tranh thiên nhiên hùng , lệ của núi
rừng miền Tây, nơi nhà thơ cũng đoàn quân Tây Tiến đã từng hoạt động, chiến đấu.
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây,súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời !
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người
Cảm nhận 14 câu đầu bài thơ Tây Tiến
Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi.
Bài thơ "Tây Tiến" được sáng tác năm 1948 tại làng Phù Lưu Chanh, khi nhà thơ đã
rời khỏi đơn vị Tây Tiến, chuyển sang hoạt động tại một đơn vị khác. Tây Tiến
một đơn vị bộ đội chống Pháp được thành lập năm 1947, có nhiệm vụ phối hợp với bộ
đội Lào bảo vệ biên giới Việt Lào, tiêu hao sinh lực Pháp tại Thượng Lào và miền Tây
Bắc Việt Nam. Địa bàn hoạt động của đoàn quân Tây Tiến rất rộng lớn trải dài từ Sơn
la, Hòa Bình, miền tây Thanh Hóa đến Sầm Nưa ( Lào) - là những nơi hiểm trở, hoang
vu, rừng thiêng nước độc. Chiến sĩ Tây Tiến phần đông là thanh niên Hà Nội, có nhiều
học sinh, sinh viên, trong đó có Quang Dũng. Họ sống chiến đấu trong hoàn cảnh
gian khổ, thiếu thốn, bệnh sốt rét hoành hành nhưng vẫn lạc quan, anh dũng. Hoạt
động được hơn một năm thì đơn vị Tây Tiến trở về Hòa Bình thành lập Trung đoàn
52.
Bài thơ ra đời từ nỗi nhớ, kỉ niệm, hồi ức của Quang Dũng về đồng đội địa bàn
chiến đấu cũ. c phẩm sau khi ra đời đã được bao thế hệ thanh niên bạn yêu thơ
truyền tay tìm đọc. Đến năm 1986, bài thơ được in trong tập thơ " Mây đầu ô" ( xuất
bản 1986). Ban đầu bài thơ tên là " Nhớ Tây Tiến", sau đó tác giả chuyển lại thành
" Tây Tiến". Nhan đề " Tây Tiến" đảm bảo tính hàm súc của thơ, không cần phải trực
tiếp bộc lộ nỗi nhớ tình cảm ấy vẫn hiện lên sâu sắc, thấm thía. Nhan đề còn làm
nổi rõ hình tượng trung tâm của tác phẩm, đóhình tượng đoàn quân Tây Tiến. Việc
bỏ đi từ "nhớ" đã vĩnh viễn hóa đoàn quân Tây Tiến, khiến cho hình nh người lính
Tây Tiến trở thành bất tử trong thơ ca kháng chiến Việt Nam.
"Tây Tiến" là bài thơ in đậm phong cách tài hoa, lãng mạn, phóng khoáng của hồn thơ
Quang Dũng. Tác phẩm đã bộc lộ nỗi nhớ sâu sắc của nhà thơ với người lính Tây Tiến
mang vẻ đẹp lãng mạn, đậm chất bi tráng. Đoạn thơ thứ nhất đã tái dựng lại sống động
bức tranh thiên nhiên miền Tây với những khung cảnh, những chặng đường hành quân
gian khổ, từ đó hình ảnh những chiến sĩ Tây Tiến cũng lần lượt hiện ra.
Bài thơ mở ra bằng một nỗi nhớ trào dâng:
Sông Mã xa rồi, Tây Tiến ơi !
Nhở về rừng núi, nhớ chơi vơi
Tiếng gọi "Tây Tiến ơi" bật lên bởi một nỗi nhớ sâu sắc, cồn cào không kìm nén nổi.
Đối tượng của nỗi nhớ y rất cụ thể, ràng : "sông Mã", "Tây Tiến", "rừng núi".
Nỗi nhớ ấy phải khắc khoải lắm thì tác giả mới điệp lại hai lần từ " nhớ". " Nhớ chơi
vơi" là nỗi nhớ chập chờn hư thực, vừa tha thiết, thường trực, vừa mênh mang, đầy ám
ảnh, vừa mở ra không gian của tiềm thức, vừa như gợi ra không gian trập trùng của
Cảm nhận 14 câu đầu bài thơ Tây Tiến
núi đèo rộng lớn. Cách hiệp vần "ơi" làm câu thơ như ngân vang, phù hợp với biên độ
của cảm xúc.
Hai câu thơ đầu đã khơi mạch chủ đạo của cả bài thơ nỗi nhớ khôn nguôi. Nỗi nhớ
ấy được cụ thể dần dần trong những vần thơ tiếp sau.
Hai câu thơ tiếp : gợi lại hình ảnh đoàn quân hành quân trong đêm:
"Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi,
Mường Lát hoa về trong đêm hơi"
Hai câu thơ vừa tả thực, vừa sử dụng bút pháp lãng mạn.Những từ chỉ địa danh Sài
Khao, Mường Lát gợi ra địa bàn rộng lớn, đầy lạ lẫm đối với người lính Tây Tiến.
Sương vùng cao dày đặc như trùm lấp bước chân, nuốt chửng cả đoàn binh vốn
đang mỏi mệt, rệu chặng đường dài gian khổ. Quang Dũng đã nhìn thấy và miêu
tả một mảng hiện thực khuất lấp trong thơ ca kháng chiến. Nhưng những người lính
ấy, mệt mỏi tâm hồn vẫn trẻ trung, hào hoa, lạc quan, yêu đời. Hình ảnh " hoa
về trong đêm hơi" hình nh đẹp giàu sức gợi. Đó thể những ánh đuốc sáng
lung linh của đoàn quân đang tiến v bản làng, cũng thể hình ảnh đoàn quân từ
rừng đi ra, trên tay vẫn cầm theo những đóa hoa rừng ngát hương, đó cũng thể
hình ảnh ẩn dụ về đoàn quân Tây Tiến như những bông hoa rừng. Đoàn quân ấy
hành quân trong một " đêm hơi" đầy huyền ảo, hồ, bảng lảng khói sương chốn
rừng suối. Hai câu thơ in đậm dấu ấn tài hoa, lãng mạn của Quang Dũng.
Những bài Cảm nhận về đoạn thơ đầu bài thơ Tây Tiến hay nhất
Bốn câu thơ tiếp theo đặc tả địa hình hiểm trở của miền Tây:
Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời,
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống,
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi.
Nhà thơ sử dụng một loạt các từ láy tượng hình "khúc khuỷu", " thăm thẳm", " heo
hút", kết hợp với cách ngắt nhịp 4/3 như chặt đôi câu thơ, mật độ thanh trắc dày đặc
khiến câu thơ trúc trắc gợi sự vất vả, nhọc nhằn. Những phép tu từ đó mở ra trong tâm
tưởng người đọc ấn tượng về sự gập ghềnh, hiểm trở, ẩn chứa bao bất trắc, nguy hiểm
của núi cao, vực sâu i núi rừng miền Tây. Hình ảnh " súng ngửi trời" một nhân
hóa táo bạo, đặc tả sự chót vót của dốc núi. Người lính Tây Tiến leo lên đỉnh dốc, cảm
tưởng như mũi súng thể chạm mây. Từ đó, ta cũng thấy được nét tinh nghịch khỏe
khoắn, vẫn có thể trêu đùa vô tư sau một chặng đường hành quân vất vả, mệt nhọc của
các anh lính Tây Tiến. Phép đối " ngàn thước lên cao - ngàn thước xuống" càng nhấn
mạnh độ gập ghềnh, hình sông thế núi trập trùng, hiểm trở của thiên nhiên miền Tây.
Cảm nhận 14 câu đầu bài thơ Tây Tiến
Ba câu thơ giàu chất hội họa, dựng lên bức tranh hoang vu, dốc đèo đứt nối, hùng
trên con đường hành quân của chiến Tây Tiến. Câu thơ thứ toàn bộ bảy thanh
bằng " Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi", vần mở "ơi" đặt cuối câu tạo cảm giác nhẹ
nhàng gợi ra những phút giây nghỉ ngơi thư giãn của người lính. Họ đứng trên những
đỉnh núi, thưởng thức chút bình yên, vẻ đẹp lãng mạn của núi rừng, phóng tầm mắt,
thấy mưa rừng giăng mờ nơi bản làng Pha Luông xa xôi. Bốn câu thơ vừa gợi ra sự dữ
dội hoang vu, sự êm đềm của núi rừng, vừa gợi ra những cuộc hành quân vất vả nhọc
mệt nhưng đầy trẻ trung, yêu đời của các chàng trai Tây Tiến.
Người lính Tây Tiến không chỉ đối diện với dốc cao vực sâu còn phải chịu những
mất mát hy sinh:
Anh bạn dãi dầu không bước nữa,
Gục lên súng mũ bỏ quên đời.
Cách nói tránh về cái chết "không bước nữa", "bỏ quên đời" gợi thế ngạo nghễ của
người lính Tây Tiến. Họ chủ động chấp nhận cái chết, coi chỉ đơn giản như một
giấc ngủ thôi. thế hi sinh " gục lên súng mũ" đầy xót xa nhưng cũng thật hào
hùng. Hình ảnh về người lính anh dũng hi sinh ấy sau này ta còn bắt gặp trong "Dáng
đứng Việt Nam" : " Và anh chết trong khi đang đứng bắn- Máu anh phun theo lửa đạn
cầu vồng". Câu thơ đã tiếp tục cảm hứng bi tráng khi xây dựng chân dung người lính
Tây Tiến.
"Chiều chiều oai linh thác gầm thét,
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người".
Các từ láy chỉ biên độ lặp lại thường xuyên của thời gian" chiều chiều", "đêm đêm"
kết hợp với biện pháp nhân hóa " thác gầm thét", " cọp trêu người" đã nhấn mạnh vẻ
hiểm, dữ dội,hoang chứa đầy nguy hiểm, cái chết luôn luôn rình rập đe dọa
người lính của núi rừng miền Tây. Sự nguy hiểm ấy không chỉ trải rộng trong không
gian mà còn kéo dài và lặp lại thường xuyên theo thời gian.
Hai câu thơ cuối đoạn lại đột ngột chuyển cảnh :
Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói,
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi.
Núi cao rừng rậm lùi xa, chỉ còn lại hương vị ấm áp nghĩa tình quân dân lan tỏa từ nồi
cơm của các gái Thái. Từ cảm thán " Nhớ ôi" đứng đầu câu thơ diễn tả nỗi nhớ da
diết, ám ảnh khôn khuây của Quang Dũng cũng như người lính Tây Tiến về đồng bào
miền Tây. Nhà thơ như nhói lòng khi hồi tưởng lại cảnh đoàn quân quây quần quanh
nồi xôi nếp thơm lừng đang bốc khói. Đó những giây phút ấm áp ngắn ngủi nhưng
lại dịu ngọt, tinh tế nên khắc sâu mãi trong tâm trí nhà thơ. Cách kết hợp từ " mùa em"
Cảm nhận 14 câu đầu bài thơ Tây Tiến
rất độc đáo, gợi những liên tưởng đẹp, lãng mạn về những cô gái Thái vừa khỏe khoắn
vừa dịu dàng mà đằm thắm yêu thương. Hai câu thơ kết thúc đoạn một bài thơ Tây
Tiến âm điệu nhẹ nhàng tha thiết gợi cảm giác êm dịu, ấm áp, tạo tâm thế cho
người đọc cảm nhận đoạn thơ tiếp theo.
Trong những đoạn thơ còn lại, nhà thơ Quang Dũng tiếp tục hồi tưởng về cảnh những
đêm liên hoan văn nghệ thắm thiết tình quân dân, những buổi chiều trên sông nước
miền Tây thơ mộng, hư ảo, hồi tưởng về chân dung tập thể những người lính Tây Tiến
anh dũng, hào hoa. Cuối bài thơ, Quang Dũng bộc lộ lời nguyện th i gắn với
miền Tây và đoàn quân Tây Tiến.
Đoạn thơ đầu bài thơ Tây Tiến đã thể hiện tài hoa và tâm hồn lãng mạn phóng khoáng
của nhà thơ Quang Dũng. Đoạn thơ ngôn ngữ giàu chất tạo hình, giàu nhạc điệu,
gây ấn tượng táo bạo, dựng lên bức tranh sinh động, chiều sâu về cảnh hành quân
của đoàn quân Tây Tiến trên cái nền thiên nhiên rừng núi hùng vĩ thơ mộng miền Tây.
Qua đó, ta cảm nhận được sự gắn sâu sắc, nỗi nhớ tha thiết của nhà thơ Quang
Dũng về những ngày tháng chiến đấu trong đoàn quân Tây Tiến - một thời mãi mãi để
nhớ và tự hào.
Cảm nhận 14 câu đầu bài thơ Tây Tiến - Mẫu 4
Tây Tiến là bài thơ tiêu biểu nhất của hồn thơ của Quang Dũng vàmột trong những
bài thơ hay nhất trong số những bài viết về đề tài người lính thời kỳ kháng chiến
chống Pháp. Với sự kết hợp tài tình giữa bút pháp hiện thực cảm hứng ng mạn,
bài thơ đã khắc hoạ chân thực cuộc sống chiến đấu đầy gian khổ, sự hy sinh anh
dũng vẻ đẹp hào hoa, hào hùng của người chiếnTây Tiến. Bức chân dung người
lính Tây Tiến oai hùng, lẫm liệt hiện lên rõ ràng qua 14 câu thơ đầu của bài thơ.
Bài thơ được viết năm 1948, lúc cuộc kháng chiến chống Pháp của quân và dân ta gặp
muôn n khó khăn. Không những phải chiến đấu nơi rừng núi hiểm trở, người lính
Tây Tiến còn phải đối diện với sự thiếu thốn về quân trang, quân dụng, lương thực
thuốc men. Thế nhưng, bằng tất cả sức mạnh của tưởng yêu nước, người lính đã
kiên cường m trụ địa bàn, sống lạc quan tin tưởng, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ
dẫu mất mát, hi sinh. Tất cả được Quang Dũng ghi nhận trong bài thơ vừa hào
hùng vừa hết sức bi tráng.
Sự kết hợp giữa cảm hứng lãng mạn bút pháp hiện thực đã tạo ra chất bi tráng rất
đặc biệt cho 14 câu thơ đầu bài thơ, đem đến những màu sắc âm hưởng mạnh mẽ,
hào hùng cho sự hy sinh, mất mát của người chiến sỹ Tây Tiến. Cảm hứng chủ đạo
của bài thơ nỗi nhớ: nhớ đồng đội thân yêu, nhớ đoàn binh Tây Tiến, nhớ bản
mường núi rừng miền Tây, nhớ kỉ niệm đẹp một thời trận mạc… Bốn câu thơ đầu
mở ra nỗi nhớ mênh mang:
Cảm nhận 14 câu đầu bài thơ Tây Tiến
“Sông mã xa rồi Tây Tiến ơi !
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi”.
Nói về nỗi nhớ ấy, bài thơ đã ghi lại hào khí lãng mạn của tuổi trẻ Việt Nam, của “bao
chiến anh hùng” trong buổi đầu kháng chiến chống Phápcùng gian khổ mà vinh
quang. Hai câu thơ đầu nói lên nỗi nhớ, nhớ miền Tây, nhớ núi rừng, nhớ dòng sông
Mã thương yêu.
Đã “xa rồi”n nỗi nhớ không thể nào nguôi được, nhớ da diết đến quặn lòng, đó
nỗi nhớ “chơi vơi”. Tiếng gọi “Tây Tiến ơi” vang lên tha thiết như tiếng gọi người
thân yêu. Từ cảm “ơi!” bắt vần với từ láy “chơi vơi” tạo nên âm hưởng câu thơ sâu
lắng, bồi hồi, ngân dài, từ lòng người vọng vào thời gian năm tháng, lan rộng lan xa
trong không gian. Hai chữ “xa rồi” như một tiếng thở dài đầy thương nhớ, ứng với
điệp từ “nhớ” trong câu thơ thứ hai thể hiện một tâm tình đẹp của người chiến binh
Tây Tiến đối với dòng sôngnúi rừng miền Tây. Sau tiếng gọi ấy, biết bao hoài
niệm về một thời gian khổ hiện về trong tâm tưởng.
Những câu thơ tiếp theo nói về chặng đường hành quân đầy thử thách gian nan
đoàn binh Tây Tiến từng nếm trải:
“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây, súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”.
Các tên bản, tên mường: Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông, Mường Hịch, Mai
Châu… được nhắc đến không chỉ gợi lên bao thương nhớ vơi đầy mà còn để lại nhiều
ấn tượng về sự xa xôi, heo hút, hoang dã, thâm sơn cùng cốc,… gợi trí
háo hức của những chàng trai “Từ thuở mang gươm đi giữ nướcNghìn năm thương
nhớ đất Thăng Long”. Đoàn binh hành quân trong sương mù giữa núi rừng trùng điệp
Bao núi cao, đèo cao, dốc thẳng dựng thành phía trước các chiến Tây Tiến phải
vượt qua. Dốc lên thì “khúc khuỷu” gập ghềnh, dốc xuống thì “thăm thẳm” như dẫn
đến vực sâu. Các từ láy: “khúc khuỷu”, “thăm thẳm”, “heo hút” đặc tả gian khổ, gian
truân của nẻo đường hành quân chiến đấu: “Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời!”. Đỉnh núi sương cao vút. Mũi súng của người
chiến binh được nhân hóa tạo nên một hình ảnh: “súng ngửi trời” giàu chất thơ, mang
vẻ đẹp cảm hứng lãng mạn, cho ta nhiều thi vị. khẳng định chí khí quyết tâm
của người chiến chiếm lĩnh mọi tầm cao đi tới “Khó khăn nào cũng vượt qua
Kẻ thù nào cũng đánh thắng!”.
Cảm nhận 14 câu đầu bài thơ Tây Tiến
Thiên nhiên núi đèo xuất hiện như để thử thách lòng người: “ngàn thước lên cao, ngàn
thước xuống”. Hết lên lại xuống, xuống thấp lại lên cao, đèo nối đèo, dốc tiếp dốc,
không dứt. Câu thơ được tạo thành hai vế tiểu đối: “Ngàn thước lên cao // ngàn thước
xuống”, hình tượng thơ cân xứng hài hòa, cảnh tượng núi rừng hùng được đặc tả,
thể hiện một ngòi bút đầy chất hào khí của nhà thơ – chiến sĩ.
cảnh đoàn quân đi trong mưa: “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”. Câu thơ được dệt
bằng những thanh bằng liên tiếp, gợi tả, sự êm dịu, tươi mát của tâm hồn những người
lính trẻ, trong gian khổ vẫn lạc quan yêu đời. Trong màn mưa rừng, tầm nhìn của
người chiến binh Tây Tiến vẫn hướng về những bản mường, nhữngi nhà dân hiền
lành và yêu thương, nơicác anh sẽ đến, đem xương máu và lòng dũng cảm để bảo
vệ và giữ gìn.
Gian khổ không chỉ núi cao dốc thẳm, không chỉ là mưa thác ngàn còn
tiếng gầm của cọp beo nơi rừng thiêng nước độc, nơi đại ngàn hoang vu:
“Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”
“Chiều chiều…” rồi “đêm đêm” nhưng âm thanh ấy, “thác gầm thét”, “cọp trêu
người”, luôn khẳng định cái mật, cái uy lực khủng khiếp ngàn đời của chốn rừng
thiêng. Chất hào sảng trong thơ Quang Dũng lấy ngoại cảnh núi rừng miền Tây
hiểm nguy để tô đậm khắc họa chí khí anh hùng của đoàn quân Tây Tiến. Mỗi vần
thơ đã để lại trong tâm trí người đọc một ấn tượng: gian nan tột bậc cũng can
trường tột bậc! Đoàn quân vẫn tiến bước, người nối người, băng lên phía trước. Uy
lực thiên nhiên như bị giảm xuống giá trị con người như được nâng cao hẳn lên
một tầm vóc mới. Quang Dũng cũng nói đến sự hy sinh của đồng đội trên những
chặng đường hành quân vô cùng gian khổ:
“Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời…”
Hiện thực chiến tranh xưa nay vốn như thế! Sự hy sinh của người chiến tất yếu.
Xương máu đổ xuống đểy đài tự do. Vần thơ nói đến cái mất mát, hy sinh nhưng
không chút bi luỵ, thảm thương.
Hai câu cuối đoạn thơ, cảm xúc bồi hồi tha thiết. Như lời nhắn gửi của một khúc tâm
tình. Như tiếng hát của một bài ca hoài niệm, vừa bâng khuâng, vừa tự hào:
Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”
Cảm nhận 14 câu đầu bài thơ Tây Tiến
“Nhớ ôi!” tình cảm dạt o, đó tiếng lòng của các chiến Tây Tiến “đoàn binh
không mọc tóc”. Câu thơ đậm đà tình quân dân. Hương vị bản mường với “cơm lên
khói”, với “mùa em thơm nếp xôi” bao giờ quên? Hai tiếng “mùa em” một sáng
tạo độc đáo về ngôn ngữ thi ca, nó hàm chứa bao tình thương nỗi nhớ, điệu thơ trở nên
uyển chuyển, mềm mại, tình thơ trở nên ấm áp. Cũng nói về hương nếp, hương xôi, về
“mùa em” và tình quân dân, sau này Chế Lan Viên viết trong bài “Tiếng hát con tàu”:
“Anh nắm tay em cuối mùa chiến dịch
Vắt xôi nuôi quân em giấu giữa rừng
Đất Tây Bắc tháng ngày không có lịch
Bữa xôi đầu còn tỏa nhớ mùi hương”
“Nhớ mùi hương”, nhớ “cơm lên khói”, nhớ “thơm nếp xôi” là nhớ hương vị núi rừng
Tây Bắc, nhớ tình nghĩa, nhớ tấm lòng cao cả của đồng bào Tây Bắc thân yêu.
Mười bốn câu thơ trên đây phần đầu bài “Tây Tiến”, một trong những bài thơ hay
nhất viết về người lính trong 9 năm kháng chiến chống Pháp. Bức tranh thiên nhiên
hoành tráng, trên đó nổi bật lên hình ảnh chiến can trường lạc quan, đang dấn
thân vào máu lửa với niềm kiêu hãnh “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh…”. Đoạn
thơ để lại một dấu ấn đẹp đẽ về thơ ca kháng chiến sự thành công, kết hợp hài
hoà giữa khuynh hướng sử thi cảm hứng lãng mạn. Nửa thế hệ đã trôi qua, bài thơ
“Tây Tiến” của Quang Dũng ngày một thêm ý nghĩa.
Cảm nhận khổ 1 Tây Tiến - Mẫu 5
Tây Tiến là bài thơ tiêu biểu nhất của hồn thơ Quang Dũng và một trong những bài
thơ hay nhất trong số những bài viết về đề tài người lính thời kỳ kháng chiến chống
Pháp. Với sự kết hợp tài tình giữa bút pháp hiện thực cảm hứng lãng mạn, bài thơ
đã khắc hoạ chân thực cuộc sống chiến đấu đầy gian khổ, shy sinh anh dũng
vẻ đẹp hào hoa, hào hùng của người chiến sĩ Tây Tiến. Bức chân dung người lính Tây
Tiến oai hùng, lẫm liệt hiện lên rõ ràng qua 14 câu thơ đầu bài thơ.
Bài thơ được viết năm 1948, lúc cuộc kháng chiến chống Pháp của quân và dân ta gặp
muôn n khó khăn. Không những phải chiến đấu nơi rừng núi hiểm trở, người lính
Tây Tiến còn phải đối diện với sự thiếu thốn về quân trang, quân dụng, lương thực
thuốc men. Thế nhưng, bằng tất cả sức mạnh của tưởng yêu nước, người lính đã
kiên cường m trụ địa bàn, sống lạc quan tin tưởng, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ
dẫu mất mát, hi sinh. Tất cả được Quang Dũng ghi nhận trong bài thơ vừa hào
hùng vừa hết sức bi tráng.
Sự kết hợp giữa cảm hứng lãng mạn bút pháp hiện thực đã tạo ra chất bi tráng rất
đặc biệt cho 14 câu thơ đầu bài thơ, đem đến những màu sắc âm hưởng mạnh mẽ,
Cảm nhận 14 câu đầu bài thơ Tây Tiến
hào hùng cho sự hy sinh, mất mát của người chiến sĩ Tây Tiến. Cảm hứng chủ đạo của
bài thơ là nỗi nhớ: nhớ đồng đội thân yêu, nhớ đoàn binh Tây Tiến, nhớ bản mường và
núi rừng miền Tây, nhớ kỉ niệm đẹp một thời trận mạc… Bốn câu thơ đầu mở ra nỗi
nhớ mênh mang:
“Sông mã xa rồi Tây Tiến ơi !
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi”.
Nói về nỗi nhớ ấy, bài thơ đã ghi lại hào khí lãng mạn của tuổi trẻ Việt Nam, của “bao
chiến anh hùng” trong buổi đầu kháng chiến chống Phápcùng gian khổ mà vinh
quang. Hai câu thơ đầu nói lên nỗi nhớ, nhớ miền Tây, nhớ núi rừng, nhớ dòng sông
Mã thương yêu.
Đã “xa rồi”n nỗi nhớ không thể nào nguôi được, nhớ da diết đến quặn lòng, đó
nỗi nhớ “chơi vơi”. Tiếng gọi “Tây Tiến ơi” vang lên tha thiết như tiếng gọi người
thân yêu. Từ cảm “ơi!” bắt vần với từ láy “chơi vơi” tạo nên âm hưởng câu thơ sâu
lắng, bồi hồi, ngân dài, từ lòng người vọng vào thời gian năm tháng, lan rộng lan xa
trong không gian. Hai chữ “xa rồi” như một tiếng thở dài đầy thương nhớ, ứng với
điệp từ “nhớ” trong câu thơ thứ hai thể hiện một tâm tình đẹp của người chiến binh
Tây Tiến đối với dòng sôngnúi rừng miền Tây. Sau tiếng gọi ấy, biết bao hoài
niệm về một thời gian khổ hiện về trong tâm tưởng.
Những câu thơ tiếp theo nói về chặng đường hành quân đầy thử thách gian nan
đoàn binh Tây Tiến từng nếm trải:
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây, súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”.
Các tên bản, tên mường: Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông, Mường Hịch, Mai
Châu… được nhắc đến không chỉ gợi lên bao thương nhớ vơi đầy mà còn để lại nhiều
ấn tượng về sự xa xôi, heo hút, hoang dã, thâm sơn cùng cốc,… gợi trí
háo hức của những chàng trai “Từ thuở mang gươm đi giữ nướcNghìn năm thương
nhớ đất Thăng Long”. Đoàn binh hành quân trong sương mù giữa núi rừng trùng điệp
Bao núi cao, đèo cao, dốc thẳng dựng thành phía trước các chiến Tây Tiến phải
vượt qua. Dốc lên thì “khúc khuỷu” gập ghềnh, dốc xuống thì “thăm thẳm” như dẫn
đến vực sâu. Các từ láy: “khúc khuỷu”, “thăm thẳm”, “heo hút” đặc tả gian khổ, gian
truân của nẻo đường hành quân chiến đấu: “Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm
Cảm nhận 14 câu đầu bài thơ Tây Tiến
Heo hút cồn mây súng ngửi trời!”. Đỉnh núi sương cao vút. Mũi súng của người
chiến binh được nhân hóa tạo nên một hình ảnh: “súng ngửi trời” giàu chất thơ, mang
vẻ đẹp cảm hứng lãng mạn, cho ta nhiều thi vị. khẳng định chí khí quyết tâm
của người chiến chiếm lĩnh mọi tầm cao đi tới “Khó khăn nào cũng vượt qua
Kẻ thù nào cũng đánh thắng!”.
Thiên nhiên núi đèo xuất hiện như để thử thách lòng người: “ngàn thước lên cao, ngàn
thước xuống”. Hết lên lại xuống, xuống thấp lại lên cao, đèo nối đèo, dốc tiếp dốc,
không dứt. Câu thơ được tạo thành hai vế tiểu đối: “Ngàn thước lên cao // ngàn thước
xuống”, hình tượng thơ cân xứng hài hòa, cảnh tượng núi rừng hùng được đặc tả,
thể hiện một ngòi bút đầy chất hào khí của nhà thơ – chiến sĩ.
cảnh đoàn quân đi trong mưa: “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”. Câu thơ được dệt
bằng những thanh bằng liên tiếp, gợi tả, sự êm dịu, tươi mát trong tâm hồn những
người lính trẻ, trong gian khổ vẫn lạc quan yêu đời. Trong màn mưa rừng, tầm nhìn
của người chiến binh Tây Tiến vẫn hướng về những bản mường, những mái nhà dân
hiền lành và yêu thương, nơi mà các anh sẽ đến, đem xương máu và lòng dũng cảm để
bảo vệ và giữ gìn.
Gian khổ không chỉ núi cao dốc thẳm, không chỉ là mưa thác ngàn còn
tiếng gầm của cọp, beo nơi rừng thiêng nước độc, nơi đại ngàn hoang vu:
“Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”
“Chiều chiều…” rồi “đêm đêm” nhưng âm thanh ấy, “thác gầm thét”, “cọp trêu
người”, luôn khẳng định cái mật, cái uy lực khủng khiếp ngàn đời của chốn rừng
thiêng. Chất hào sảng trong thơ Quang Dũng lấy ngoại cảnh núi rừng miền Tây
hiểm nguy để tô đậm khắc họa chí khí anh hùng của đoàn quân Tây Tiến. Mỗi vần
thơ đã để lại trong tâm trí người đọc một ấn tượng: gian nan tột bậc cũng can
trường tột bậc! Đoàn quân vẫn tiến bước, người nối người, băng lên phía trước. Uy
lực thiên nhiên như bị giảm xuống giá trị con người như được nâng cao hẳn lên
một tầm vóc mới. Quang Dũng cũng nói đến sự hy sinh của đồng đội trên những
chặng đường hành quân vô cùng gian khổ:
“Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời…”
Hiện thực chiến tranh xưa nay vốn như thế! Sự hy sinh của người chiến tất yếu.
Xương máu đổ xuống đểy đài tự do. Vần thơ nói đến cái mất mát, hy sinh nhưng
không chút bi luỵ, thảm thương.
Cảm nhận 14 câu đầu bài thơ Tây Tiến
Hai câu cuối đoạn thơ, cảm xúc bồi hồi tha thiết. Như lời nhắn gửi của một khúc tâm
tình. Như tiếng hát của một bài ca hoài niệm, vừa bâng khuâng, vừa tự hào:
“Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”
“Nhớ ôi!” tình cảm dạt o, đó tiếng lòng của các chiến Tây Tiến “đoàn binh
không mọc tóc”. Câu thơ đậm đà tình quân dân. Hương vị bản mường với “cơm lên
khói”, với “mùa em thơm nếp xôi” bao giờ quên? Hai tiếng “mùa em” một sáng
tạo độc đáo về ngôn ngữ thi ca, nó hàm chứa bao tình thương nỗi nhớ, điệu thơ trở nên
uyển chuyển, mềm mại, tình thơ trở nên ấm áp. Cũng nói về hương nếp, hương xôi, về
“mùa em” và tình quân dân, sau này Chế Lan Viên viết trong bài “Tiếng hát con tàu”:
“Anh nắm tay em cuối mùa chiến dịch
Vắt xôi nuôi quân em giấu giữa rừng
Đất Tây Bắc tháng ngày không có lịch
Bữa xôi đầu còn tỏa nhớ mùi hương”
“Nhớ mùi hương”, nhớ “cơm lên khói”, nhớ “thơm nếp xôi” là nhớ hương vị núi rừng
Tây Bắc, nhớ tình nghĩa, nhớ tấm lòng cao cả của đồng bào Tây Bắc thân yêu.
Qua 14 câu thơ đầu bài thơ Tây Tiến một trong những bài thơ hay nhất viết về
người lính trong 9 năm kháng chiến chống Pháp. Bức tranh thiên nhiên hoành tráng,
trên đó nổi bật lên hình ảnh chiến can trường lạc quan, đang dấn thân vào máu
lửa với niềm kiêu hãnh “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh…”. Đoạn thơ để lại một
dấu ấn đẹp đẽ về thơ ca kháng chiến sự thành công, kết hợp hài hoà giữa
khuynh hướng sử thi cảm hứng lãng mạn. Nửa thế hệ đã trôi qua, bài thơ “Tây
Tiến” của Quang Dũng ngày một thêm ý nghĩa.
Cảm nhận khổ 1 bài thơ Tây Tiến - Mẫu 6
Tây Tiến được xemđứa con đầu lòng tráng kiệntài hoa của Quang Dũng và của
cả nền thơ kháng chiến của văn học Việt Nam, đặc biệt của những năm đầu trong
cuộc kháng chiến chống Pháp gian khổ. Những chàng thư sinh áo trắng, rời bỏ bút
mực xanh lên đường đi chiến đấu vì lòng yêu Tổ quốc, quê hương tha thiết, vì nền hòa
bình của dân tộc, họ đi với trái tim kiêu hùng, anh dũng nhưng vẫn mang những nét
lãng mạn, hào hoa của lớp trẻ tri thức Nội. Điều ấy đã được nhà thơ Quang Dũng
tái hiện một các xuất sắc trong bài thơ Tây Tiến bằng ngòi bút phóng khoáng, hồn hậu
rất mực tài hoa lãng mạng. Với khổ thơ đầu, nhà thơ đã hướng về nội tâm của
người lính chiến, cũng chính bản thân tác giả với những nỗi nhớ tha thiết miền đất
Tây Bắc và vẻ đẹp vượt vượt lên khó khăn gian khổ của người lính Tây Tiến.
Cảm nhận 14 câu đầu bài thơ Tây Tiến
Quang Dũng quê Đan Phượng, Tây (nay Nội), ông một nghệ đa tài,
vừa là nhạc sĩ, vừa là họa sĩ chính vì thế thơ ông rất giàu chất nhạc và chất họa. Quang
Dũng còn một người lính ưu tú, tham gia nhiều chiến trường khác nhau, nên những
vần thơ của ông về người lính rất chân thật sống động, với sức truyền cảm mạnh
mẽ, phong cách thơ ông gói gọn trong mấy từ: Phóng khoáng, hồn hậu, ng mạn
tài hoa. Binh đoàn Tây Tiến được thành lập vào đầu năm 1947, thành phần chủ yếu
những thanh niên thành, nhận nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào để bảo vệ biên
giới Việt- Lào, đánh tiêu hao lực lượng quân đội Pháp. Địa bàn hoạt động trải rộng
suốt từ vùng Sơn La, Hòa Bình, đến Sầm Nứa (Lào), rồi vòng về vùng phía tây Thanh
Hóa, phải hành quân nhiều lần, điều kiện chiến đấu cùng gian khổ. Tây Tiến sáng
tác cuối năm 1948, ở Phù Lưu Chanh, Quang Dũng hồi tưởng lại về những ngày tháng
binh đoàn Tây Tiến. Ban đầu tên Nhớ Tây Tiến, sau đổi thành Tây Tiến, một
nhan đề hàm súc, cô đọng, nhưng vẫn thể hiện rõ ràng cảm xúc chủ đạo của bài thơ là
nỗi nhớ. Cảm hứng bao trùm bài thơ là cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng.
Nỗi nhớ về một Tây Bắc dữ dội, được thể hiện trong 14 câu thơ đầu.
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
........
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”
Hai câu thơ đầu “Sông xa rồi Tây Tiến ơi!/”Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi”, gợi
lên những nỗi nhớ, nỗi thương dâng trào về một thời đã qua, về một vùng đất đã xa.
Lời gọi “Tây Tiến ơi” rất tha thiết khắc khoải, Tây Tiến không chỉ một cái tên
dường như đã trở thành người thân thương ruột thịt. Quang Dũng gọi tên “sông
Mã” ngay từ những dòng thơ đầu, địa danh ấy cũng hiện thân tiêu biểu của vùng
rừng núi Tây Bắc. Trên quãng đường hành quân, dòng sông ấy không chỉ một địa
danh trên bản đồ địa lý mà đã trở thành người bạn, người tri kỷ, là chứng nhân lịch sử
đã chứng kiến biết bao đau thương, gian khó, vui buồn của người lính chiến trong suốt
cuộc trường chinh. Thế nên trong nỗi nhớ của Quang Dũng, trước hết nhớ về binh
đoàn Tây Tiến thân yêu, sau về Tây Bắc với dòng sông vương đầy kỷ niệm.
Không chỉ có như vậy, trong ấn tượng, trong nỗi nhớ của nhà thơ còn có hình ảnh của
rừng núi, đónỗi nhớ “chơi vơi” lạ lùng! Bởi với người lính xuất thân từ phố thị, thì
hình ảnh rừng núi Tây Bắc hết sức lạ lẫm, đã để lại những ấn tượng sâu sắc trong lòng
người lính chiến. Quang Dũng hai lần nhắc chữ “nhớ”, nhằm nhấn mạnh nỗi nhớ đang
khắc khoải trong tâm hồn, đặc biệt “nhớ chơi vơi” lại một cách diễn tả nỗi nhớ rất
riêng của Quang Dũng. Đó cảm giác, trơ trọi, hụt hẫng, chông chênh trong một nỗi
hoài niệm xa xôi, bởi Tây Bắc đã xa lắm rồi, một Tây Bắc đầy sương mù, mây vờn
quanh núi chơi vơi, hoang vắng, nhưng lắm oai hùng.
Nếu như 2u thơ đầu nỗi nhớ bao trùm thì 12 câu thơ tiếp nỗi nhớ ấy đã được
nhà thơ khắc sâu qua nhiều kỷ niệm ấn tượng. Đầu tiên nỗi nhớ về Sài Khao,
Cảm nhận 14 câu đầu bài thơ Tây Tiến
Mường Lát trong, “Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi/Mường Lát hoa về trong đêm
hơi”. Hai địa danh đã gợi nhắc về những địa bàn hoạt động của đoàn quân Tây Tiến,
từ đó kéo ra các không gian rộng lớn khác xuyên suốt cả bài thơ như Pha Luông,
Mường Hịch, Mai Châu,… Dường như nỗi nhớ của nhà thơ dàn trải dài khắp chiều
không gian, mỗi nơi mà nhà thơ từng bước chân đi qua thì tâm hồn nhà thơ đều cảm
thấy yêu thương gắn bó, trích lời Chế Lan Viên “Nơi nao qua lòng lại chẳng yêu
thương”. thể nói mỗi một địa danh biểu trưng cho núi rừng Tây Bắc đều đã trở
thành một kỷ niệm khắc sâu vào trong tâm khảm của nhà thơ không thể phai mờ, đó
cũng là tình cảm thắm thiết sâu nặng, cũng trích lời Chế Lan Viên “Khi ta ở chỉ nơi
đất ở/Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn”.
Hình ảnh “sương lấp đoàn quân mỏi” vốn gợi hình ảnh đoàn quân Tây Tiến trở về
Mường Lát trong màn sương mờ mờ ảo của núi rừng Tây Bắc, gợi lên vẻ đẹp lãng
mạn của thiên nhiên núi rừng, đồng thời vẻ đẹp đông đảo, đoàn kết của người lính
chiến. Cảm giác “mỏi” hiện diện trong gân cốt người lính chiến, dường như vẫn còn
như mới trong tâm hồn Quang Dũng, điều ấy càng chứng tỏ nỗi nhớ sâu sắc của tác
giả, bởi kỷ niệm càng nhỏ bao nhiêu thì nỗi nhớ càng to lớn bấy nhiêu, nhớ kỹ đến
cả cái “mỏi” hành quân xa! “Mường Lát hoa về trong đêm hơi”, hoa ở đây có thể hiểu
ngàn hoa của núi rừng, hiện thân cho vẻ đẹp của thiên nhiên, nhưnglẽ chính xác
hơn, thì hoa ấy ánh sáng của ngọn đuốc bập bùng trong đêm tựa đóa hoa lửa trong
những đêm hành quân mịt mờ trở về Mường Lát. Hình ảnh ngọn đuốc hoa vừa gợi lên
nét lãng mạn, vừa hào hùng của một thời Tây Tiến…
Sau nỗi nhớ về Mường Lát về Sài Khao chính kỷ niệm về những ngày hành quân
chiến đấu đầy gian khổ, về vùng núi rừng Tây Bắc lắm hiểm trở, nguy nan.
“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây, súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”
Điệp từ “dốc” gợi lên cảnh những đỉnh dốc nối tiếp nhau, hết đỉnh dốc này lại tới đỉnh
dốc khác, chẳng biết bao giờ mới hết. Từ láy “khúc khuỷu”, “thăm thẳm” gợi lên sự
hiểm trở, quanh co, lắt léo gập ghềnh, thêm vào đó là sự chênh vênh của núi rừng, bên
vách núi bên vực thẳm, sự hun hút của cung đường. Cả câu thơ gợi mở một
không gian hành quân vừa cao lại vừa sâu rộng và người lính đang phải nỗ lực hết sức
mình để vượt qua những chặng đường đầy nguy khó. Điệp ngữ “Ngàn thước” kết hợp
với nghệ thuật tương phản “lên cao-xuống”, cũng tiếp tục vừa gợi ra độ cao chót vót
của đỉnh dốc, vừa gợi ra độ sâu thăm thẳm của đáy dốc. Lời thơ làm nổi bật được tính
chất hùng vĩ, hiểm trở nổi bật của núi rừng Tây Bắc và nỗ lực vượt lên trên những khó
khăn địa hình hành quân của người lính chiến lúc bấy giờ. Nhưng dẫu thiên nhiên
hùng vĩ, trùng điệp, khúc khuỷu đến mấy thì cũng trở nên nghĩa dưới bước chân
Cảm nhận 14 câu đầu bài thơ Tây Tiến
của binh đoàn Tây Tiến, người lính đã hiện lên với tầm vóc một đối thủ xứng tầm
của thiên nhiên. Từ láy “heo hút” thể hiện sự hoang vắng, lạnh lẽo của núi rừng, nơi
dường như chưa từng bước chân người đến, chính người lính hành quân trên
những ngọn núi cao chót vót, nên những “cồn mây mới như đang quanh quẩn, như
đùa giỡn dưới chân, ngỡ rằng người chiến binh đang bước đi trên mây chứ chẳng phải
núi rừng.
Hình ảnh “súng ngửi trời” là một hình ảnh nhân hóa thú vị và đầy sáng tạo của Quang
Dũng, người lính hành quân qua những đỉnh núi, nơi thể chạm đến mây, thì
những khẩu súng khoác trên vai, mũi súng dường như đang chọc thủng trời xanh kia,
nói “súng ngửi trời” đó cách cảm nhận thật tinh nghịch của người lính trẻ lãng
mạn, hài hước và hồn nhiên. Câu thơ cuối có âm điệu thật khác so với ba câu thơ trên,
lời thơ nhẹ nhàng trầm xuống, tưởng tượng như người lính chiến từ trên đỉnh núi cao
phóng tầm mắt xuống, thấy những cảnh vật mơ hồ không sắc nét, nhưng đó là dấu
hiệu của sự sống, “mưa xa khơi” gợi cảm giác khoan khoái mát lạnh của làn mưa
trắng xóa. Đó là nét đẹp lãng mạn của núi rừng Tây Bắc, đồng thời cũng gợi lên trong
tâm hồn người lính những cảm giác yên bình, về một chốn dừng chân, để tiếp thêm
động lực cho những chặng đường trước mắt.
Sau những ngày hành quân gian khổ, thì hồi ức của Quang Dũng tiến về sự hi sinh của
một người lính Tây Tiến.
“Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời!”
Các gọi “anh bạn” thể hiện tình cảm thân thiết trìu mến, cụm từ “không bước nữa” và
“bỏ quên đời” đều cách nói tránh về cái chết, điều đó giảm đi sự đau thương mất
mát, đồng thời nhấn mạnh sự hy sinh cao cả của người lính chiến. thế hi sinh “gục
lên súng mũ”, thể hiện tinh thần người lính chiến dẫuhy sinh cũng không hề rời đi
trách nhiệm, trang bị gắn với đời lính, đó một thế ngang tàng, gan góc, quả
cảm của người lính. thể nói trong hai dòng thơ trên sự đau đớn xót xa của nhà
thơ với người đồng đội đồng thời cũng tấm lòng cảm phục với sự hy sinh anh hùng
ấy. Lời thơ cũng cho thấy cái nhìn tỉnh táo dũng cảm của Quang Dũng khi viết về
chiến tranh, nhưng không hề giấu đi những nỗi đau mất mát.
Tiếp đến nỗi nhớ về một thời gian khổ lãng mạn, điều ấy được thể hiện ràng
trong 4 dòng thơ sau:
“Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người
Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”
Cảm nhận 14 câu đầu bài thơ Tây Tiến
Cấu trúc thơ tân kỳ độc đáo, dùng động từ mạnh mẽ trong câu “Chiều chiều oai linh
thác gầm thét” thể hiện cái dữ dội, hùng hoang của vùng núi rừng Tây Bắc. Bên
cạnh đó, không chỉ dừng lại sự hoang hùng vĩ, núi rừng nơi đây còn ẩn chứa
những mối hung hiểm khôn lường, Quang Dũng viết “Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu
người”, nơi rừng thiêng nước độc, lại còn sự hiện diện của ác thú. Mãi chìm trong
những ức nhưng nhà thơ bỗng sực tỉnh “Nhớ ôi Tây Tiến cơmn khói/Mai Châu
mùa em thơm nếp xôi”, Tây Tiến đã xa, Tây Bắc cũng đã xa lắm rồi, chỉ còn lại kỷ
niệm. Nỗi nhớ đây được bộc lộ một cách tha thiết, cồn cào, nhớ cả về những bát
cơm, hương khói lửa, nắm xôi ấm tình quân dân, đồng thời cũng gợi lên một thời
kháng chiến vừa vất vả vừa lãng mạn, thi vị nên thơ.
Suốt 14 dòng thơ đầu xoay xung quanh nỗi nhớ khôn nguôi về thiên nhiên núi rừng
Tây Bắc, về vẻ đẹp vượt lên trên khó khăn gian khổ của người lính, sự hy sinh cao cả,
nét lãng mạn trong tâm hồn người lính trẻ giữa những gian khổ chất chồng. Bằng ngòi
bút hào hoa lãng mạn Quang Dũng đã diễn tả một cách chân thực nhất những nỗi
nhớ khắc khoải trong tâm hồn của người lính chiến về một thời kháng chiến đã đi qua
với giọng điệu phóng khoáng, hình ảnh thơ giàu sức gợi, nhịp thơ biến đổi, tất cả đã
tạo nên một âm hưởng riêng, một phong cách riêng của người lính Tây Tiến.
Cảm nhận khổ 1 Tây Tiến - Mẫu 7
Quang Dũng một trong những nhà thơ chiến tiêu biểu của thời kháng chiến
chống Pháp. Ông đặc biệt thành công khi viết về đề tài người lính trí thức tiểu sản
hào hoa, phong nhã. Một trong những bài thơ nổi tiếng viết về người lính bài thơ
Tây Tiến.
Cảm hứng chủ đạo trong suốt bài thơ là cảm hứng về nỗi nhớ. Đó nỗi nhớ khó phai
của đời người lính Tây Tiến được khắc hoạ thành công ở đoạn đầu của bài thơ
"Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi"
Tây Tiến 1 trong những bài thơ hay, tiêu biểu của Quang Dũng. Nhắc đến nhà thơ,
không ai không th không nhớ đến Tây Tiến. Bài thơ được sáng tác cuối năm 1948
khi nhà thơ đóng quân Phù Lưu Chanh - 1 làng ven bờ sông Đáy, nhớ về đơn vị
ông đã viết nên bài thơ. Lúc đầu, ông đặt bài thơ là Nhớ Tây Tiến nhưng về sau đổi lại
thành Tây Tiến nhà thơ cho rằng chỉ với 2 từ Tây Tiến cũng đủ đã gợi lên nỗi nhớ
là cảm hứng chủ đạo chứ không cần đến từ "nhớ"
1 người lính trẻ hào hoa, lãng mạn ra đi theo tiếng gọi của tổ quốc, sống chiến
đấu nơi núi rừng gian khổ nhưng chất thi vẫn trào dâng mãnh liệt trong lòng nhà
thơ. 1 thời gắn sâu đậm với Tây Tiến, với đồng đội, với núi rừng đã làm cho ông
Cảm nhận 14 câu đầu bài thơ Tây Tiến
không khỏi bồi hồi, xúc động khi nỗi nhớ về Tây Tiến dâng trào trong ức của nhà
thơ.
"Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi"
Câu thơ như tiếng gọi chân thành, tha thiết xuất phát từ trái tim tâm hồn người thi
sĩ. Bằng cách sử dụng câu cảm thán mở đầu bài thơ, Quang Dũng đã gọi tên cảm hứng
chủ đạo của bài thơ nỗi nhớ cồn cào, da diết về núi rừng Tây Bắc. bằng thủ pháp
nghệ thuật nhân hoá, câu thơ trở nên đẹp diệu kỳ. "Sông Mã" không đơn thuần 1
con sông mà đã trở thành 1 hình ảnh hiện hữu, 1 chứng nhân lịch sử trong suốt
cuộc đời người lính Tây Tiến với bao nỗi vui buồn, được mất. "Tây Tiến" không chỉ
để gọi tên 1 đơn vị bộ đội đã trở thành 1 người bạn " tri âm tri kỉ" để nhà thơ
giãi bày tâm sự
"Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi"
Câu thơ thứ 2 với điệp từ "nhớ" được lặp lại 2 lần đã diễn tả nỗi nhớ quay quắt, cồn
cào đang ùa vào tâm trí Quang Dũng. tính từ "chơi vơi" kết hợp với từ "nhớ" đã khắc
sâu được tình cảm nhớ nhung da diết của nhà thơ và nỗi nhớ đó như 1 cơn thác lũ tràn
vào tâm trí nhà thơ đã đẩy ông vào trạng thái bồng bềnh, ảo. 2 câu đầu cách
dùng từ chọn lọc, gợi hình gợi cảm đã mở cửa cho nỗi nhớ trào dâng mãnh liệt trong
tâm hồn nhà thơ
"Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời"
Quang Dũng đã liệt hàng loạt các địa danh như: Sài Khao, Mường Lát, Pha
Luông... Đó địa bàn hoạt động của binh đoàn Tây Tiến, những nơi họ đi qua
dừng chân trên bước đường hành quân gian khổ, mệt nhọc. Nói đến Tây Bắc, nói
đến vùng đất địa hình hiểm trở, khí hậu khắc nghiệt. Có những đêm dài hành quân
người lính Tây Tiến vất vả đi trong đêm dày đặc sương giăng, không nhìn mặt
nhau. "Đoàn quân mỏi" nhưng tinh thần không "mỏi". Bởi ý chí quyết tâm ra đi tổ
quốc đã làm cho những trí thức Hà thành yêu nước trở nên kiên cường, bất khuất hơn.
Quang Dũng đã rất tài tình khi đưa hình ảnh "sương" vào đây để khắc hoạ hơn sự khắc
nghiệt của núi rừng Tây Bắc trong những đêm dài lạnh lẽo. Cũng miêu tả về "sương",
Chế Lan Viên cũng đã viết trong "Tiếng hát con tàu":
"Nhớ bản sương giăng, nhớ đèo mây phủ
Nơi nao qua lòng lại chẳng yêu thương
Cảm nhận 14 câu đầu bài thơ Tây Tiến
Khi ta ở chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi đất đã hoá tâm hồn"
lẽ thiên nhiên rất gắn với người lính Tây Bắc nên đã trở thành 1 ức khó
phai trong lòng nhà thơ. Thiên nhiên tuy đẹp nhưng cũng rất hiểm trở. những
lúc người lính Tây Tiến phải vất vả để trèo lên đỉnh chạm đến mây trời. Quang Dũng
đã khéo léo sử dụng từ "thăm thẳm" không dùng từ chót vót" bởi nói "chót vót"
người ta còn thể cảm nhận thấy được bề sâu của nhưng "thăm thẳm" thì khó
ai thể hình dung được sâu thế nào. Bằng những từ láy gợi hình ảnh rất cao
như "khúc khuỷu", "thăm thẳm", "heo hút", nhà thơ đã làm cho người đọc cảm nhận
được cái hoang sơ, dữ dội của núi rừng Tây Bắc. Nhà thơ cũng rất trẻ trung, tinh
nghịch khi đưa hình ảnh nhân hoá, ẩn dụ " súng ngửi trời" để cho ta thấy bên cạnh
thiên nhiên hiểm trở còn hiện lên hình ảnh người lính với tư thế oai phong lẫm liệt nơi
núi rừng hoang vu. Câu thơ sử dụng nhiều thanh trắc đã tạo nên vẻ n guốc, nhọc
nhằn đã nhấn mạnh được cảnh quang thiên nhiên Tây Bắc thật cheo leo, hiểm trở
"Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống"
Điệp từ "ngàn thước" đã mở ra 1 không gian nhìn từ trên xuống cũng như từ dưới lên
thật hùng vĩ, giăng mắc. Bên cạnh cái hiểm trở, hoang sơ ta cũng thấy được vẻ đẹp trữ
tình nơi núi rừng:
"Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi"
những cơn mưa rừng chợt đến đã để lại bao giá rét cho người lính Tây Tiến.
Nhưng dưới ngòi bút của Quang Dũng, trở nên lãng mạn, trữ tình hơn. Nhà thơ đã
thông minh, sáng tạo khi nói đến mưa rừng bằng cụm từ "mưa xa khơi". gợi lên 1
cái đó rất bí, hoang giữa chốn núi rừng. Câu thơ thứ 8 nhiều thanh bằng như
làm dịu đi vẻ dữ dội, hiểm trở của núi rừng mở ra 1 bức tranh thiên nhiên nơi núi
rừng đầy lãng mạn. 8 câu thơ đầu của bài thơ Tây Tiến nỗi nhớ về núi rừng Tây
Bắc, về đồng đội Tây Tiến nhưng qua những chi tiết đặc tả về thiên nhiên núi rừng
Tây Bắc, đã trở thành 1 ức xa xôi trong tâm trí nhà thơ. Đó 1 nỗi nhớ mãnh
liệt của người lính Tây Tiến nói riêng và của những người lính nói chung.
Tuy trên chặng đường hành quân, các anh gặp n khó khăn, gian nan đến tột bậc
nhưng ta vẫn thấy ở các anh có sự can trường tột bậc. Đoàn quân vẫn tiến bước, người
nối người, băng lên phía trước. Uy lực của thiên nhiên như bị giảm xuống giá trị
con người như được nâng cao hẳn lên một tầm vóc mới. Quang Dũng cũng nói đến sự
hi sinh của đồng đội trên những chặng đường hành quân vô cùng khó khăn:
“Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời!”
Cảm nhận 14 câu đầu bài thơ Tây Tiến
“Tây Tiến” đã từng một thời gian không được đưa vào chương trình giảng dạy bởi
tác phẩm đã đề cập đến đề tài nhạy cảm trongn chương Việt Nam thời chiến tranh,
đó viết về cái chết, viết về sự hi sinh. Chúng ta biết rằng, văn chương muốn thuyết
phục lòng người thì trước hết phải chân thật. viết về chiến tranh nhưng Quang
Dũng không nề hà, tránh sự thật đau thương. vậy “Tây Tiến” được một lần
nữa đưa vào chương trình giảng dạy như một kiệt tác văn chương. Hai tiếng anh
bạn” cấtn như một tiếng nấc nghẹn ngào. Sức nặng của câu thơ đã dồn vào từ láy
“dãi dầu” thể hiện vất vả, khó khăn trên chặng đường hành quân. Đặc biệt thay, tác
giả không viết “bị gục xuống” ông lại viết “không bước nữa”, biến các anh từ
thế bị động sang chủ động, họ chấp nhận cái chết, coi chỉ đơn giản như một giấc
ngủ thôi. “Súng mũ” biểu tượng của người lính, cho thấy rằng ra đi, các
anh vẫn không quên mình vẫn một người lính, gục cũng phải “gục lên” súng
của người lính, thế hi sinh đầy xót xa nhưng cũng thật hào hùng. Hình ảnh về
người lính anh dũng hy sinh ấy sau này ta còn bắt gặp trong “Dáng đứng Việt Nam”:
“Và anh chết trong khi đang đứng bắn
Máu anh phun theo lửa đạn cầu vồng”
Dáng của các anh bộ đội cụ Hồ dù có gục xuống nhưng vẫn không phai mờ trong tâm
của Quang Dũng, của đoàn quân Tây Tiến của cả những người tham gia kháng
chiến. Họ đã hy sinh trên chặng đường hành quân, đã có những người lính nằm xuống,
ràng súng đã nổ, người dân Việt Nam cũng đổ máu, chiến tranh không phải là trò
đùa, người ra đi thì người hi sinh, đó điều rất đỗi bình thường. Người lính ra
đi nhưng đồng đội anh lại tiếp bước. “Bỏ quên đời” cách nói giảm nhẹ sự mất mát,
tang thương. Khi người lính từ trần, cái chết bây giờ trở nên không đáng kể. Cách nói
giảm phần thê lương tăng thêm cái tính chất cao cả, sự hy sinh thầm lặng của
những người lính Tây Tiến. Thông qua lăng kính lãng mạn của tác gi thì shi sinh
ấy hiện về chỉ như giấc ngủ của người lính. Ông thật tài tình khi miêu tả cái chết của
người lính nhẹ tựa lông hồng. Nhưng dù thế nào vẫn không thể diễn tả hết được sự xót
xa, thương tiếc, vì thế tác giả đành ngậm ngùi đặt dấu chấm cảm “!” cuối câu như một
nén nhang tâm tình gửi lại.
Khó khăn chưa dừng lại ở đó, đất Tây Bắc đâu chỉ có đèo cao dốc thẳm hay mưa ngàn
suối còn biết bao thử thách khó khăn hơn. Chặng đường hành quân của các anh
qua núi rừng Tây Bắc đầy hoang dại, ẩn, dường nhưđể thử thách bước chân của
người lính :
“Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”
Quang Dũng đã chọn ra hai mốc thời gian là “chiều chiều”“đêm đêm”, đây là thời
điểm bộc lộ nhất sự nguy hiểm của chốn rừng núi Tây Bắc, và sự nguy hiểm ấy cứ
Cảm nhận 14 câu đầu bài thơ Tây Tiến
tuần hoàn, tuần hoàn, mỗi ngày các anh đều phải đối diện với những khó khăn, hiểm
nguy như thế. Các anh phải thường xuyên hành quân qua những mảnh đất rừng thiêng
nước độc cho nên bị ám ảnh trong tâm hồn tiếng thác nước gầm thét dữ dội. nơi
xa xôi, thiên nhiên làm chủ thì khó khăn như tăng thêm bội phần. “Mường Hịch” với
sức nặng dồn vào từ “Hịch” thể hiện bước chân nặng trịch có bóng cọp vờn người,
cọp ăn thịt người, cọp xác người, cọp giết người. Nhưng nhìn nhận quan bản lĩnh
của người lính thì bóng nổ ấy chỉ đơn thuần trò đùa trẻ con, điều này được thể hiện
qua từ “trêu” để thử thách sự gan dạ, độ bền gan của các anh bộ đội cụ Hồ mà thôi.
Và ở những câu thơ này, tác giả mô tả rất chân thực, dù chúng ta không sống ở thời kỳ
này, chúng ta vẫn chưa từng đặt chân lên núi non miền Tây, chưa nhập ngũ vào đoàn
binh Tây Tiến. Nhưng đọc tác phẩm ta thấu hiểu được gian lao mà người lính trải qua.
Để khép lại khổ một, nhà thơ đã kết thúc bằng hai câu thơ đầy cảm xúc thương nhớ,
nỗi nhớ ấy phả vào bản làng Tây Bắc thân yêu:
“Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”
Lần thứ hai trong bài thơ, tác giả gọi tên đơn vị Tây Tiến, phải chăng ông nhớ quá
những gian khổ, kỉ niệm gắn với các đồng đội của mình trong suốt những năm
tháng kháng chiến cùng nhau nên Quang Dũng mới thốt lên “nhớ ôi Tây Tiến” như
vậy. Sau chặng đường hành quân vất vả, mệt mỏi các chiến dịp dừng chân dựng
trại một bản ng tên rất đỗi thân thương-Mai Châu. đây các thiếu nữ dân tộc
trẻ trung xinh xắn mang cơm nếp thơm lên cho các anh, cùng các anh quay quần ngồi
bên nồi xôi nếp khiến bao nhiêu vất vả, khó khăn đều tan biến. Đây khung cảnh
đậm đà tình quân dân, chiến tranh lùi dần vào trong một góc khuất nào đó nhường chỗ
cho một cảnh sinh hoạt vui tươi. Sau thời gian dài hành quân vất vả giữa núi rừng phải
chịu đói, chịu khát. Nay các anh được đồng bào Mai Châu đón tiếp bằng “cơm lên
khói” cùng mùi hương “thơm nếp xôi” thật ấm lòng. Quang Dũng đã dùng từ “mùa
em”thể hiện sự gần gũi, thân thương gắn như “tình em”, các anh bộ đội cụ
Hồ nhớ những vụ mùa, nhớ cơm nếp thơm nhớ cả những bóng hồng miền sơn
cước.
Bài thơ "Tây Tiến" dưới ngòi bút của lãng mạn, trữ tình của Quang Dũng đã trở thành
1 kiệt tác của mọi thời đại. Cảm hứng chủ đạo xuyên suốt bài thơ đó cảm hứng về
nỗi nhớ. Quang Dũng đã miêu tả nỗi nhớ đó bằng ngòi bút tài tình giàu chất nhạc, chất
họa đậm chất thơ. Bài thơ 1 khúc nhạc của tâm hồn, của cuộc sống. Bởi thế,
Xuân Diện thật chính xác khi cho rằng đọc bài thơ "Tây Tiến" như đang ngậm âm
nhạc trong miệng. Bài thơ hay bởi lẽ được viết nên từ ngòi bút hào hoa, lãng mạn
của 1 người lính Tây Tiến nên 1 cái rất riêng đẹp. Mang chất lính nên
Quang Dũng mới có thể viết nên những vần thơ hay như thế.
Cảm nhận 14 câu đầu bài thơ Tây Tiến
Cảm nhận khổ 1 Tây Tiến - Mẫu 8
Quang Dũng một nghệ đa tài làm thơ, vẽ tranh, viết văn, soạn nhạc nhưng thành
công nhất thơ. Ông nhà thơ nổi tiếng của văn học Việt Nam thời kháng chiến
chống thực dân Pháp với một hồn thơ lãng mạn, tài hoa, thơ giàu chất nhạc, chất họa,
được mệnh danh nhà thơ của "Xứ Đoài mây trắng" với những tác phẩm nổi tiếng
như: " Mây đầu ô", "Thơ văn Quang Dũng"...Trong đó tiêu biểu là bài thơ "Tây Tiến".
Bài thơ không chỉ nỗi nhớ của Quang Dũng về đoàn quân Tây Tiến còn khắc
họa nét cuộc hành quân gian khổ của đoàn quân Tây Tiến khung cảnh thiên
nhiên miền Tây hùng vĩ, hoang sơ, dữ dội qua đoạn thơ:
"Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
.........
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi"
Bài thơ "Tây Tiến" ra đời trong hoàn cảnh đặc biệt. Tây Tiến một đơn vị quân đội
được thành lập đầu năm 1947, nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào, bảo vệ biên giới
Việt -Lào, đồng thời đánh tiêu hao lực lượng địch. Chiến Tây Tiến phần đông
thanh niên, học sinh, trí thức Nội, chiến đấu trong những hoàn cảnh gian khổ
nhưng họ sống rất lạc quan và chiến đấu rất dũng cảm.Quang Dũng là đại đội trưởng ở
đơn vị Tây Tiến, cuối năm 1948 khi rời đơn vị chưa bao lâu, tại Phù Lưu Chanh,
Quang Dũng viết bài thơ Nhớ Tây Tiến. Khi in lại, tác giả đổi tên bài thơ "Tây
Tiến".
Mở đầu bài thơ bằng những dòng thơ chan chứa nỗi nhớ, lời thơ như chợt thốt lên đầy
nhớ nhung và tiếc nuối:
"Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi"
Dòng sông Mã như là điểm gợi để nhà thơ nhớ về đoàn quân Tây Tiến, với lời gọi tha
thiết ngọt ngào. Nhà thơ đã rấti tình khi sử dụng từ láy "chơi vơi" kết hợp với hiệp
vần "ơi" mở ra một không gian vời vợi của nỗi nhớ đồng thời diễn tả tinh tế một cảm
xúc hồ, khó định hình, cứ lâng lâng khó tả trong lòng người ra đi nhưng cảm xúc
rất chân thực của một người đồng đội đã rời xa đơn vị để rồi nỗi nhớ như choán đầy
cả không gian " Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi". Câu thơ có bảy từ thì có hai từ "nhớ".
Điệp từ "nhớ" như đậm cảm xúc toàn bài thơ, không phải ngẫu nhiên nhan đề
ban đầu của bài thơ tác giả đặt " Nhớ Tây Tiến". Để rồi nỗi nhớ ấy cứ trở đi trở lại
trong toàn bài thơ tạo nên giọng thơ hoài niệm sâu lắng, bồi hồi. Nỗi nhớ tha thiết,
niềm thương da diết mà nhà thơ dành cho miền Tây, cho đồng đội của mình, tất cả
trở thành kỉ niệm không thể nào quên.
Cảm nhận 14 câu đầu bài thơ Tây Tiến
Không phải khi đến với "Tây Tiến" người đọc mới cảm nhận được nỗi nhớ mà ngay ở
trong thơ ca Việt Nam khi nói về nỗi nhớ cũng đã từng diễn tả:
"Nhớ ai bổi hổi bồi hồi
Như đứng đống lửa như ngồi đống than"
Vậy nhưng đến với Quang Dũng nỗi nhớ sáng tạo hơn cả với nỗi nhớ "chơi vơi"
trạng thái trơ trọi giữa khoảng không, không thể bấu víu vào đâu, một mình với hoài
niệm cứ lửng lơ, sâu lắng, bâng khuâng, tha thiết vọng vào lòng người đọc không thể
nào quên. Nỗi nhớ bao trùm cả khoảng không gian thời gian ấy Quang Dũng đã
đưa người đọc đến với thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ, dữ dội nhưng cũng thật êm đềm
thơ mộng. Đó những địa danh đoàn quân Tây Tiến đã đi qua, "Sài Khao",
"Mường Lát", "Pha Luông", "Mường Hịch", "Mai Châu". Những địa danh khi đio
thơ Quang Dũng không còn mang màu sắc trung tính, hồn trên bản đồ nữa
gợi lên trong lòng người đọc không khí núi rừng xa xôi, lạ lẫm, hoang sơ và bí ẩn.
Không chỉ vậy những con đường hành cũng đầy những hiểm nguy:
"Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi"
Những con đường hành quân gian nan vất vả, trên đỉnh Sài Khao sương dày "lấp" cả
đoàn quân, Quang Dũng dùng chữ "mỏi" như tái hiện hình ảnh đoàn quân mệt rời
tuy vậy họ vẫn đi trong " sương lấp" thật hùng tráng lệ. Đâu chỉ thế, Mường
Lát đêm về sương tỏa khắp không gian. Tác giả không nói "hoa nở" "hoa về"
không nói sương mà là "đêm hơi" như càng nhấn mạnh vẻ đẹp tâm hồn lãng mạn, hào
hoa của những người lính Hà Thành.
Con đường hành quân ấy còn cùng gập ghềnh, hiểm trở, đầy sự hiểm nguy giữa
một bên là núi cao với một bên là vực sâu thăm thẳm:
"Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống"
Không gian được mở ra ở nhiều chiều: chiều cao đến chiều sâu hút của những dốc núi,
chiều sâu của vực thẳm, bề rộng của những thung lũng trải ra sau màn sương. Các từ
láy giàu sức tạo hình khiến người đọc hình dung những con đường quanh co, dốc rồi
lại dốc, những đỉnh đèo hoang vắng khuất vào mây trời. Cách ngắt nhịp 4/3 của câu
thơ "Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống" tạo thành một đường gấp khúc của dáng
núi. Như vậy ba dòng thơ liên tiếp trong đoạn thơ đã sử dụng nhiều thanh trắc gợi sự
vất vả nhọc nhằn của những người lính Tây Tiến trên con đường hành quân.
Cảm nhận 14 câu đầu bài thơ Tây Tiến
Nếu như ba câu thơ trên gợi lên một cảm giác gập ghềnh hiểm trở thì đến mới câu thơ
tiếp theo như một phút lắng lòng của những người lính Tây Tiến bên những ngôi nhà
nơi xóm núi như cánh buồm thấp thoáng trên mặt biển trong không gian bình yên
êm của mưa giăng đầy thung lũng thành 'xa khơi". Đọc câu thơ người đọc thấy bình
yên đến lạ, phải chăng những phút giây hiếm hoi ấy như tiếp thêm sức mạnh cho
người lính chiến đấu tiếp với kẻ thù cũng như thiên nhiên khắc nghiệt nơi đây:
"Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người"
Quang Dũng nhớ đến âm thanh "gầm thét" của thác dữ, tiếng gầm gào của loài hổ dữ
rình rập như muốn nuốt chửng người lính mỗi khi chiều đến, đêm về. Thời gian buổi
chiều, về đêm lại càng nhấn mạnh thêm cảm giác hoang sơ của chốn "sơn lâm bóng c
cây già". Những từ ngữ hình ảnh nhân hóa, từ láy được nhà thơ sử dụng để đậm
ấn tượng về một vùng núi hoang vu dữ dội nơi thiên nhiên hoang đang ngự trị
chiếm vai trò chúa tể.
Chỉ bằng mấy dòng thơ đầu Quang Dũng đã i hiện đầy đủ bức tranh của núi rừng
miền Tây được vẽ bằng bút pháp vừa hiện thực, vừa lãng mạn, vừa giàu chất họa lại
giàu chất nhạc. Nét vẽ vừa gân guốc, mạnh mẽ, dữ dội nhưng lại cũng rất mềm mại
tạo nên vẻ đẹp hài hòa cho bức tranh thiên nhiên miền Tây hùng vĩ mà đoàn quân Tây
Tiến đi qua. Đoạn thơ không chỉ là nỗi nhớ về thiên nhiên miền Tây mà trung tâm của
nỗi nhớ ấy còn những người lính, những đồng đội được Quang Dũng thể hiện
bằng vẻ đẹp bi tráng trên chặng đường hành quân đầy chông gai, nguy hiểm.
Ấn tượng trong lòng người đọc về người lính Tây Tiến có lẽ bởi vẻ đẹp lạc quan trong
chặng đường hành quân gian khổ qua câu thơ đầy chất lính:
"Heo hút cồn mây súng ngửi trời"
Đó hình ảnh tếu o, lạc quan trong gian khổ với vẻ đẹp hồn nhiên qua cách nói
hóm hỉnh "súng ngửi trời". Nếu viết "súng chạm trời", nhà thơ sẽ chỉ tả được độ cao
của đỉnh dốc mà khi đứng trên đó, mũi súng của người lính Tây Tiến như chạm cả vào
nền trời. Còn đây, Quang Dũng đã gợi được "chất lính" trẻ trung, vẻ tươi mới, sức
sống dạt dào trong tâm hồn của người lính Tây Tiến vốn xuất thân từ những thanh
niên trí thức trẻ Nội. Đồng thời còn mang đến người đọc sự mới lạ, hóm hỉnh đầy
chất lính, mũi súng của người lính được nhân hóa thành hình ảnh "súng ngửi trời" tinh
nghịch, đầy chất thơ, mang cảm hứng lãng mạn đồng thời khẳng định chí khí quyết
tâm của người chiến sĩ chiếm lĩnh mọi tầm cao gợi cho người đọc đến với câu thơ của
Tố Hữu:
Cảm nhận 14 câu đầu bài thơ Tây Tiến
"Rất đẹp hình anh lúc ráng chiều
Bóng dài trên đỉnh dốc cheo leo
Núi không đè nổi vai vươn tới
Lá ngụy trang leo với gió đèo"
trên chặng đường hành quân ấy với i nhìn lãng mạn, tinh nghịch thì người
lính Tây Tiến không thể tránh được sự thật đã có những người đồng đội:
"Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời"
Khi nói về cuộc chiến tranh khốc liệt ấy. Tác giả đã không né tránh hiện thực của
những mất mát đau thương trong cuộc chiến . Trong cuộc hành quân gian khổ đã
những người ngã xuống kiệt sức. mũi súng của kẻ thù. Nhưng Quang Dũng đã
thể hiện cách nói giảm, nói tránh về cái chết vừa xót xa ,vừa ngạo nghễ "không bước
nữa" để rồi "bỏ quên đời" như một sự bình tĩnh, thản nhiên đón nhận cái chết, xem cái
chết nhẹ tựa lông hồng. Nhớ những người đồng đội đã ngã xuống nhưng không gợi
cảm giác bi luỵ. Hơn thế nỗi mất mát, niềm cảm thương được nói bằng giọng thơ
ngang tàng, kiêu hãnh "Gục lên súng bỏ quên đời".Đó là một thế chết trong
chiến đấu, trong sự hiên ngang, bất khuất.
| 1/36

Preview text:

Cảm nhận 14 câu đầu bài thơ Tây Tiến
Dàn ý cảm nhận 14 câu đầu bài thơ Tây Tiến Dàn ý số 1
1. Mở bài: Giới thiệu tác giả Quang Dũng và bài thơ Tây Tiến
- Dẫn dắt vào đoạn 1 của bài thơ: Đoạn đầu của bài Tây Tiến thể hiện một thời kháng
chiến gian khổ, hào hùng của đoàn quân. 2. Thân bài
2.1 Ký ức về núi rừng Tây Bắc và đoàn quân Tây Tiến
- “Sông Mã”, “Tây Tiến” đều như trở thành những người thân thương ruột thịt mà
Quang Dũng dành trọn tình cảm nhớ thương.
- “Nhớ chơi vơi” là nỗi nhớ lạ lùng của những người lính từ phố thị.
=> Núi rừng Tây Bắc đã khắc vào tâm hồn của họ những kỷ niệm không bao giờ
quên, đồng thời cũng là nỗi trống trải, lạc lõng trong lòng tác giả.
2.2 Hình ảnh núi rừng Tây Bắc và con đường hành quân gian khổ của những người lính
- “Sài Khao”, “Mường Lát” là những địa danh gợi nhắc về địa bàn hoạt động của binh
đoàn Tây Tiến, mở rộng sang các không gian khác trong bài thơ.
- Nỗi nhớ ở đây dường như dàn trải khắp vùng không gian rộng lớn, mỗi một nơi bước
chân tác giả đi qua, ông đều dành những tình cảm yêu thương đặc biệt, trở thành kỷ
niệm khắc sâu trong lòng.
- Những kỷ niệm nhỏ như sự “mỏi” sau chặng hành quân, ngọn đuốc hoa bập bùng
trong đêm tối đều chứng minh nỗi nhớ lớn lao của tác giả.
- Gợi sự hiểm trở của núi rừng Tây Bắc, sự vất vả và những nỗ lực kiên cường của
người lính chiến khi hành quân.
- “Súng ngửi trời” là hình ảnh nhân hóa thú vị, thể hiện tâm hồn lãng mạn, hồn nhiên
và hài hước của người lính chiến trong gian khổ.
- “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi” là vẻ đẹp của sự sống, sự thi vị lãng mạn giữa núi
rừng hoang vu, gợi sự bình yên, chốn dừng chân cho người lính.
2.3 Hình ảnh người lính và kỷ niệm tình quân dân
Cảm nhận 14 câu đầu bài thơ Tây Tiến
- Hai câu thơ “Anh bạn… quên đời”:
● Sự hy sinh cao cả của người lính chiến, tư thế hiên ngang, oai hùng sẵn sàng xả thân vì Tổ quốc.
● Niềm xót xa cùng với sự cảm phục tinh thần hy sinh của Quang Dũng dành cho đồng đội.
- Bốn câu kết đoạn: “Chiều chiều… nếp xôi”
● Vẻ oai linh, hùng vĩ của núi rừng Tây Bắc với kết cấu thơ tân kỳ, dùng động từ
mạnh, thêm vào đó là sự nguy hiểm rình rập nơi rừng thiêng nước độc của ác thú.
● Sự bừng tỉnh khỏi kỷ niệm của tác giả, quay về hiện thực với nỗi nhớ tha thiết,
nồng nàn, nhớ tình quân dân ấm nồng với nắm xôi, hương lửa những ngày còn chiến đấu. 3. Kết bài
3.1 Giá trị nội dung
- Đoạn thơ 14 câu tái hiện rõ nét thiên nhiên và con người Tây Bắc, trên nền thiên
nhiên những người lính Tây Tiến hiện lên thật oai hùng, bi tráng.
3.2 Giá trị nghệ thuật
- Nghệ thuật tương phản và cường điệu, cách sử dụng từ láy gợi hình, gợi cảm để khắc
họa một bức tranh giàu màu sắc, đường nét.
- Bút pháp hiện thực kết hợp với cảm hứng lãng mạn; chất họa kết hợp với chất nhạc
=> dựng lại con đường hành quân giữa núi rừng Tây Bắc hiểm trở, khắc nghiệt, hùng vĩ và thơ mộng.
● Nghệ thuật hài thanh: Tác giả sử dụng câu thơ nhiều thanh trắc tạo nên sự trắc trở.
● Thơ mộng, trữ tình: với các từ ngữ độc đáo, ấn tượng: “hoa về” chứ không phải
“hoa nở”; “đêm hơi” chứ không phải “đêm sương”. Dàn ý số 2 I. Mở bài:
● Giới thiệu tác giả Quang Dũng
● Giới thiệu bài thơ Tây Tiến
Cảm nhận 14 câu đầu bài thơ Tây Tiến II. Thân bài:
- Hai dòng thơ đầu: Nỗi nhớ bao trùm, mạch cảm hứng chủ đạo của bài thơ
● “Sông Mã”, “Tây Tiến” đều như trở thành những người thân thương ruột thịt
mà Quang Dũng dành trọn tình cảm nhớ thương.
● “Nhớ chơi vơi” là nỗi nhớ lạ lùng của những người lính từ phố thị.
=> Núi rừng Tây Bắc đã khắc vào tâm hồn của họ những kỷ niệm không bao giờ
quên, đồng thời cũng là nỗi trống trải lạc lõng trong lòng tác giả. - Hai câu thơ tiếp:
● “Sài Khao”, “Mường Lát” là những địa danh gợi nhắc về địa bàn hoạt động của
binh đoàn Tây Tiến, mở rộng sang các không gian khác trong bài thơ.
● Nỗi nhớ ở đây dường như dàn trải khắp vùng không gian rộng lớn, mỗi một nơi
bước chân tác giả đi qua, ông đều dành những tình cảm yêu thương đặc biệt,
trở thành kỷ niệm khắc sâu trong lòng.
● Những kỷ niệm nhỏ như sự “mỏi” sau chặng hành quân, ngọn đuốc hoa bập
bùng trong đêm tối đều chứng minh nỗi nhớ lớn lao của tác giả.
- Bốn câu thơ tiếp “Dốc…xa khơi”:
● Gợi sự hiểm trở của núi rừng Tây Bắc, sự vất vả và những nỗ lực kiên cường
của người lính chiến khi hành quân.
● “Súng ngửi trời” là hình ảnh nhân hóa thú vị, thể hiện tâm hồn lãng mạn, hồn
nhiên và hài hước của người lính chiến trong gian khổ.
● “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi” là vẻ đẹp của sự sống, sự thi vị lãng mạn giữa
núi rừng hoang vu, gợi sự bình yên, chốn dừng chân cho người lính.
- Hai câu thơ “Anh bạn…quên đời”:
● Sự hy sinh cao cả của người lính chiến, tư thế hiên ngang, oai hùng sẵn sàng xả thân vì Tổ quốc.
● Niềm xót xa cùng với sự cảm phục tinh thần hy sinh của Quang Dũng dành cho đồng đội.
- Bốn câu kết đoạn: “Chiều chiều…nếp xôi”
● Vẻ oai linh, hùng vĩ của núi rừng Tây Bắc với kết cấu thơ tân kỳ, dùng động từ
mạnh, thêm vào đó là sự nguy hiểm rình rập nơi rừng thiêng nước độc của ác thú.
Cảm nhận 14 câu đầu bài thơ Tây Tiến
● Sự bừng tỉnh khỏi kỷ niệm của tác giả, quay về hiện thực với nỗi nhớ tha thiết,
nồng nàn, nhớ tình quân dân ấm nồng với nắm xôi, hương lửa những ngày còn chiến đấu. III. Kết bài:
- Khái quát lại giá trị nội dung và nghệ thuật của đoạn thơ.
Cảm nhận Tây Tiến 14 câu thơ đầu - Mẫu 1
“Nước những người chưa bao giờ khuất
Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất
Những buổi ngày xưa vọng nói về”.
Người lính cách mạng vẫn thường hiện lên trong ký ức những người con đất Việt với
niềm tự hào và xúc động mãnh liệt nhất. Ta đã tìm thấy anh giữa đoàn quân trùng
trùng ra trận, ta đã nhận ra anh giữa chiến trường lửa đạn. Có người lính lam lũ, hiền
lành trong thơ Chính Hữu, có người lính sôi nổi, trẻ trung trong thơ Phạm Tiến Duật.
Nhưng chưa ở đâu, người lính lại hài hòa bi tráng như trong Tây Tiến của Quang
Dũng. Cái can đảm, hào hùng của người lính chống Pháp sáng ngời lên giữa âm u,
khắc nghiệt của núi rừng Tây Bắc, đặc biệt là trong khổ thơ đầu.
Quang Dũng sáng tác Tây Tiến vào năm 1948 tại Phù Lưu Chanh khi ông đã chuyển
về đơn vị. Nhớ về một thời oanh liệt đã qua, nhớ đến đồng đội cũ, cảm hứng về Tây
Tiến cháy lên trong lòng tác giả. Đó là cảm hứng của những chàng trai Hà Nội từ giã
quê hương lên đường đi kháng chiến, đó là kí ức của một đất nước những năm đầu
Cách mạng, đất nước với cảnh núi non hùng vĩ nơi biên cương Tây Bắc. Bài thơ ban
đầu được đặt tựa đề “Nhớ Tây Tiến”, về sau chữ “Nhớ” được bỏ đi, có lẽ cũng bởi bao
trùm bài thơ là nỗi nhớ một thời Tây Tiến gian khổ, hào hùng.
Quang Dũng đã viết về người lính Tây Tiến bằng những vẫn thơ tươi thắm nhất của
lòng mình. Hình ảnh người lính hiện về trong hồi ức nhà thơ như một biểu tượng xa
vời trong không gian và thời gian. Kỉ niệm về người lính Tây Tiến đã xa mà lại rất
gần, để khi nhìn lại, nỗi nhớ bỗng bật ra thành lời:
“Sông mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi.”
Sông mã trong ký ức Quang Dũng và những người đồng đội là nơi xuất phát kỉ niệm,
khởi đầu của một chặng đường gian khổ, là cái gốc nỗi nhớ trong miền ký ức rất riêng
của cuộc hành quân chiến đấu những người lính năm xưa. Dòng sông Mã ấy như một
nhân chứng lịch sử đứng đó chở che, dõi theo từng bước chân của người lính; “xa rồi
Tây Tiến ơi!” những kí ức vẫn còn rõ rệt lắm! Bao tình cảm được dồn nén vào từ “ơi”
Cảm nhận 14 câu đầu bài thơ Tây Tiến
dâng lên một dấu chấm than để mở ra bao nhiêu dạt dào của cảm xúc nỗi nhớ. Nỗi
nhớ vang vọng lên, khắc sâu tình cảm nhớ thương của người chiến sĩ năm nào. Điệp
từ “nhớ” đi liền với tính từ “chơi vơi” xoáy sâu vào tâm hồn độc giả, ào ạt như một cái
thác lũ trong ký ức Quang Dũng. Nỗi nhớ cuộn trào trong tâm hồn nhà thơ, đưa ông
vào trạng thái hư ảo, triền miên của ký ức, cuốn trôi ông vào núi rừng, hai trận chiến
ngày xưa để rồi khiến ông khắc khoải trong nỗi nhớ chơi vơi. Chơi vơi! Một nỗi nhớ
thật lạ lùng! Xuân Diệu hình như cũng từng chơi vơi trong nỗi nhớ như thế:
“Sương nương theo trăng ngừng lưng trời
Tương tư nâng lòng lên chơi vơi”.
“Nhớ chơi vơi” một nỗi nhớ nhẹ tênh mà nặng vô cùng, lơ lửng, vương vấn trong tâm
hồn, bao la bát ngát lại có chiều sâu. Nếu nỗi nhớ trong thơ Xuân Diệu là tình cảm lứa
đôi thì điểm đến của nỗi nhớ trong thơ Quang Dũng là tình cảm thiêng liêng, dữ dội
dành cho mảnh đất Tây Bắc nhớ thương. Âm hưởng của câu thơ trong cách sử dụng
vần giữa “chơi vơi” và “ơi” tạo lên một hiệu quả ngữ âm trọn vẹn. Nó lan tỏa, ngân
dài từng tiếng vọng vào vách đá để rồi vang lại vào tâm hồn người đọc xúc cảm thiêng
liêng mà Quang Dũng dành trọn cho Tây Tiến. Cũng bằng tình cảm thiêng liêng ấy,
Quang Dũng đưa người đọc đến với những kỉ niệm đã lùi vào quá vãng, đến với âm u
khắc nghiệt của núi rừng, đến với cái can đảm, hào hùng của người chiến sĩ.
Là người từng trải qua những ngày tháng khốc liệt chiến tranh, hơn ai hết, Quang
Dũng hiểu rõ về khó khăn, gian khổ nơi biên cương:
“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi”.
Cái khắc nghiệt đầu tiên mà đoàn quân nếm trải là màn sương dày đặc ở bản làng Sài
Khao. Nó bao phủ, che mờ của đoàn quân, nó thấm vào từng thớ thịt lạnh buốt. Sượng
giá khiến đoàn quân lãnh lẽo, thấm mệt. Những khắc nghiệt của tự nhiên không làm
tinh thần người chiến sĩ nao núng. Tình yêu nước đã khiến những chàng trai Hà thành
thêm quật cường, bất khuất, xua tan mọi giá rét, cực khổ, đẩy lùi tất thảy mệt mỏi gian
lao. Trên chặng đường hành quân xưa của Chế Lan Viên sương giá cũng là một kí ức thấm đượm nỗi nhớ:
Nhớ bản sương giăng, nhớ đèo mây phủ
Nơi nao qua, lòng lại chẳng yêu thương?”
Chế Lan Viên với Quang Dũng đã gặp nhau ở một ý thơ, một nỗi nhớ gọi lên trong ta
cảm tưởng họ đang cùng hành quân trên một chặng đường. Nhưng người lính đó dẫu
có là ai, chiến đấu ở đâu thì họ đều vượt qua khắc nghiệt tự nhiên rồi bừng sáng lên vẻ
đẹp hùng dũng, kiên cường. Quang Dũng là một cây bút lãng mạn, hào hoa, cách sử
Cảm nhận 14 câu đầu bài thơ Tây Tiến
dụng từ ngữ của ông mang nhiều lớp nghĩa. Chi tiết “hoa về trong đêm hơi” tùy theo
cách hiểu của mỗi người lại mang một sắc thái độc đáo. Đó có thể là hình ảnh người
con gái Tây Bắc, cũng có thể là sự mỏi mệt trên đường hành quân khiến người chiến
sĩ hoa mắt. Hoặc, “hoa về” là ánh sáng lấp lánh của ngọn đuốc trong cảnh chập tối mờ
hơi sương. Dù hiểu theo cách nào, hình ảnh thơ Quang Dũng vẫn thật đẹp đẽ, thi vị,
sáng ngời. Câu thơ xóa tan mỏi mệt để đoàn quân tiếp bước. Khó khăn này chưa qua
thì khó khăn khác đã đến:
“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời”.
Ta cảm nhận được cái thô ráp, gồ ghề trong câu thơ như chính hình thể gập ghềnh,
cheo leo của dốc núi. Một hiện thực khắc nghiệt của vùng cao Tây Bắc. Bức tranh
hiểm trở và dữ dội, hoang vu và heo hút được lột tả thành công dưới ngòi bút tài hoa
của Quang Dũng. Đó là con dốc khúc khuỷu, gập ghềnh, hiểm nguy mà đoàn quân
phải đối mặt, con dốc thăm thẳm không có điểm dừng, triền miên kéo dài như cuộc
kháng chiến chống Pháp bấy giờ. Nó cũng xa xôi như ngày đất nước độc lập, song
gian khổ không làm khó được người chiến sĩ, họ vẫn lạc quan, quật cường vững bước.
“Heo hút cồn mây” sao mà lại lắng lặng, hoang sơ thế! Ấy vậy mà Quang Dũng vẫn
lột tả rõ nét sự tinh nghich, trữ trung qua cách sử dụng nghệ thuật nhân hóa, ẩn dụ
“súng ngửi trời”. Đó là cách sử dụng từ táo bạo, sôi nổi, lạc quan đậm chất người lính.
Thử hỏi trong cảnh gian nan, mệt mỏi ấy mấy ai còn giữ được phong thái tự tin, yêu đời như vậy?
Bên cạnh hiểm nguy, người lính với tư thế oai phong vẫn dũng cảm chinh phục, để
đến khi đứng trên đỉnh núi cao họ nhìn lại chặng đường gian khổ mình từng trải qua:
“Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”.
Một sự đối lập kín đáo trong câu thơ cũng như trong tâm hồn người chiến sĩ. Trải qua
bao thăng trầm hiểm trở anh vệ quốc quân đã đặt chân lên đỉnh dốc. Điệp từ “ngàn
dốc” mở ra một khoảng không gian đa chiều, vừa gợi lên cái hoang sơ, vừa đặc tả vẻ
đẹp trữ tình nơi núi rừng Tây Bắc. Sau tất cả những dồn dập, và người chiến sĩ lắng lại
một miền đất lãng mạn “nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”. Thanh bằng trong từng từ
trải dài làm cả câu thơ mênh mang lắng đọng tạo nên một bức tranh núi rừng phủ mưa
trắng xóa. Vượt qua mọi gập ghềnh trước mắt, người lính bắt gặp những ngôi nhà ở
Pha Luông, được chứng kiến cuộc sống con người đang hiện hữu. Lẫn trong màn mưa
rừng bản làng hiện lên trầm mặc, lấp ló. Nếu ở Mường Lát người lính bị sương giá
làm cho lãnh lẽo thì ở đây, đối mặt với cơn mưa rừng cái giá rét ấy còn tăng lên gấp
bội. Trên con đường hành quân khắc nghiệt, nhiều chiến sĩ đã mãi mãi nằm lại những mảnh đất xa lạ:
Cảm nhận 14 câu đầu bài thơ Tây Tiến
“Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời”.
Những con người này đẹp lắm, dũng cảm lắm bởi họ đã làm nên lịch sử, góp phần vào
sự trưởng thành của đất nước, họ cũng chính là những con người “sinh ra trong thời
đại của anh hùng”. Tất cả thương mến, tự hào dành cho đồng đội dường như đã được
Quang Dũng gửi gắm trọn vẹn trong từ “anh bạn”. Dãi nắng dầm mưa, trải qua khắc
nghiệt của thiên nhiên núi rừng người chiến sĩ đã hy sinh. Nhưng không vì thế mà bài
thơ trở nên bị thảm, tang thương. Người lính ra đi trong một tư thế rất đỗi hào hùng:
“Gục lên súng mũ bỏ quên đời”.
Bút pháp lãng mạn “bỏ quên đời” phần nào làm cho cái chết không còn nặng nề, giảm
nhẹ đau thương và mất mát. Quang Dũng viết về anh như viết về một đất nước dẫu có
mưa bom bão đạn cũng không chịu cúi đầu: “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Họ là
những chàng trai còn mang trong mình ước mơ và hoài bão tuổi trẻ. Vậy mà giờ đây,
họ hy sinh vì lý tưởng chung của dân tộc. Nó lớn lao hơn tất cả mơ mộng thường tình
của chàng trai trẻ. Người lính xé toạc thanh xuân, xé toạc cuộc đời mình để ghép vào
bức tranh hòa bình đất nước:
“Ta sẵn sàng xé trái tim ta
Cho Tổ quốc và cho tất cả”
Họ ra đi sôi sục, ngạo nghễ, họ chiến đấu vì quê hương nên cái chết cũng nhẹ nhàng
như về với đất mẹ. Bao nhiêu sự hi sinh là bấy nhiêu sự hào hùng, can đảm ta được chứng kiến:
“Và anh chết trong khi đang đứng bắn
Máu anh phun theo lửa đạn cầu vồng”.
Họ đã sống, đã chiến đấu xứng đáng với quê hương, đất nước. Họ hiên ngang, đường
hoàng khi ra trận và cũng hào hùng khi ngã xuống cũng bởi:
“Ta hiểu vì sao ta chiến đấu
Ta hiểu vì ai ta hiến máu”.
Họ vì ai mà ngã xuống? Vì giang sơn, vì độc lập, vì tự do của nhân dân Việt Nam anh
nguyện hiến dâng tính mạng thực hiện lý tưởng cao đẹp ấy. Người chiến sĩ nằm lại
nhưng đồng đội anh vẫn tiếp bước. Khó khăn gian khổ vẫn còn:
“Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”.
Cảm nhận 14 câu đầu bài thơ Tây Tiến
Cảnh chiều tà luôn khiến lòng người chứa chan nỗi niềm tâm sự. Giữa núi rừng hoang
sơ cạnh anh là những người đồng đội xa quê chất chứa nỗi nhớ quê hương. Khó khăn
vất vả cộng hưởng nỗi nhớ nhà để khiến người ta nhụt chí nhưng với anh lính Tây
Tiến nó không những không ngăn được lý tưởng cách mạng, ngược lại còn là động lực
thôi thúc anh mạnh mẽ hơn, can đảm hơn. Hai câu thơ gieo vào lòng người đọc tất cả
khắc nghiệt và dữ dội về một miền đất âm u, khắc khổ. Địa danh “Mường Hịch” được
sử dụng rất khéo, rất tài tình, nó nghe nặng nề đáng sợ như bước chân thú dữ khiến
cảnh sắc núi rừng trở nên thật hoang sơ lạnh lẽo. Rừng núi trùng điệp nhưng cũng khắc nghiệt biết bao!
Tưởng rằng những khó khăn, gian khổ kia sẽ làm mờ đi trong tâm hồn những chàng
trai trẻ Hà Nội nét hào hoa, lãng mạn vốn có. Nhưng không, nét hào hoa, lãng mạn
vẫn chẳng hề mất đi dọc cuộc hành trình:
“Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”.
Hai tiếng “nhớ ôi” thốt ra bằng tất cả nỗi niềm kìm nén. Lắng đọng lại những kỉ niệm
tình người ấm áp, tình quân dân đằm thắm qua những bản làng dọc đường hành quân.
Sau bao nhiêu gian khổ khắc nghiệt núi rừng Tây Bắc, người chiến sĩ dừng lại Mai
Châu. Quây quần bên nồi xôi nếp mới với các cô gái bản làng xinh đẹp khiến bao
nhiêu vất vả, nhọc nhằn bỗng chốc được xua tan, trả lại người lính nét can đảm hùng
tráng vốn có. Phải trải qua quãng đường trường chinh, gian khổ, phải là những con
người “chẳng tiếc trời xanh” như Quang Dũng thì mới có thể viết nên những vẫn thơ
kiêu hùng đến thế. Ông vẽ nên người lính Tây Tiến trong những năm tháng khói lửa
với một niềm xúc động thiêng liêng nhất. Bao nhiêu năm kháng chiến là bấy nhiêu
năm chiến đấu trường kì gian khổ. Cũng từ đó hiện lên hình tượng người lính Tây
Tiến bất khuất, kiên trung giữa khắc nghiệt núi rừng Tây Bắc.
Hôm nay, đọc lại những vẫn thơ “Tây Tiến” chúng ta không chỉ tự hào về quá khứ
oanh liệt của dân tộc, về người lính chống Pháp bi tráng, can đảm mà còn phải ý thức
trách nhiệm với non sông đất nước bởi những người lính đã ngã xuống để bảo vệ hai
tiếng “độc lập” vẹn nguyên. Ta nợ anh một lời cảm ơn, một tấm chân tình, ta nợ anh
cả cuộc đời tốt đẹp:
“Kính chào anh, con người đẹp nhất
Lịch sử hôn anh, chàng trai chân đất
Sống hiên ngang, bất khuất trên đời
Như Thạch Sanh của thế kỉ hai mươi”.
Phân tích 14 câu thơ đầu bài Tây Tiến - Mẫu 2
Cảm nhận 14 câu đầu bài thơ Tây Tiến
Ra đời trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, cùng với “Nhớ” của Hồng
Nguyên, “Đồng Chí” của Chính Hữu, “Bên kia sông Đuống” của Hoàng Cầm, “Tình
sông núi” của Trần Mai Ninh, “Tây Tiến” của Quang Dũng đã làm nên bộ “Ngũ tư bất
tử’ trong thơ ca thời kì kháng chiến chống Pháp. “Tây Tiến” là bài thơ của người lính
nói về người lính – anh Vệ quốc quân thời chín năm kháng chiến chống Pháp gian
khổ, hào hùng. Những kỉ niệm thời cầm súng chiến đấu, những tình cảm dành cho
mảnh đất miền Tây, cho đồng đội cùng dầm mưa dãi nắng biết bao tháng ngày đã
được Quang Dũng gửi qua nỗi nhớ mênh mang, da diết . Men theo nỗi nhớ đong đầy
ấy, bức tranh thiên nhiên miền Tây Bắc hùng vĩ, dữ dội đã được khắc họa thật đậm nét
qua những câu thơ mở đầu bài thơ:
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi! ……
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi
Một tác phẩm ra đời đôi khi là sự thai nghén, thôi thúc của cả nội tâm và ngoại cảnh.
“Tây Tiến” cũng vậy, là kết tinh của tình yêu, nỗi nhớ, niềm thương mà Quang Dũng
gửi về cho binh đoàn Tây Tiến máu thịt, thân yêu của mình . Đoàn quân Tây Tiến
được thành lập vào mùa xuân năm 1947, gồm phần đông là những chàng trai trẻ của
đất Hà thành, hào hoa, thanh lịch:
Những chàng trai chưa trắng nợ anh hùng
Hồn mười phương phất cờ đỏ thắm
Nên tâm hồn họ lãng mạn, bay bổng, nhiều mộng và cũng lắm mơ. Đây là điểm khác
biệt rõ nét làm nên chất lãng mạn và trữ tình cho bài thơ cũng như hình tượng người
lính trong thơ Quang Dũng. Họ ra đi chiến đấu mang trong mình lí tưởng: Chiến
trường đi chẳng tiếc đời xanh, quyết tử cho tổ quốc quyết sinh.
Một lí tưởng sáng ngời
chân lí của thế hệ thanh niên thời đại Hồ Chí Minh. Địa bàn hoạt động của đoàn binh
Tây Tiến là một khu vực rộng khắp kéo dài từ Mai Châu – Hòa Bình cho đến tận
Thanh Hóa, kéo sang cả Sầm Nứa của Lào. Đó là vùng địa hình đồi núi phía Tây Bắc
hiểm trở của tổ quốc. Nơi rừng thiêng, nước độc, nơi thâm sơn cùng cốc với điều kiện
tự nhiên khắc nghiệt. Những người lính Tây Tiến có nhiệm vụ chiến đấu, bảo vệ vùng
biên giới phía Tây Bắc của tổ quốc, kết hợp cùng với bộ đội Pathết Lào đánh tiêu hao
sinh lực địch. Cuộc sống chiến đấu vô cùng thiếu thốn, khó khăn gian khổ. Điều kiện
thiên nhiên khắc nghiệt. Chính vì thế mà những người lính Tây Tiến hi sinh vì mũi tên
hòn đạn thì ít mà vì ốm đau, bệnh tật thì nhiều. Chỉ sau một năm chiến đấu, binh đoàn
Tây Tiến đã hi sinh gần hết, đơn vị tan rã, đại đội trưởng Quang Dũng được chuyển
sang một đơn vị khác và Tây Tiến sát nhập vào Trung đoàn 52. Một lần, ngồi bên
dòng sông Đáy hiền hòa thuộc tỉnh Hà Đông cũ, kỉ niệm, kí ức về những tháng năm
gắn bó cùng đồng đội thân yêu, vào sinh ra tử lại ùa về. Tây Tiến được viết lên trong
Cảm nhận 14 câu đầu bài thơ Tây Tiến
nỗi nhớ trào dâng, da diết Quang Dũng gửi đến cho đất và người trọn vẹn một tình yêu.
Tác phẩm văn học có thể coi như đứa con tinh thần của nhà văn, nhà thơ. Chính vì thế
đặt tên cho tác phẩm cũng là nỗi băn khoăn, trăn trở của mỗi tác giả. Có những tác
phẩm tên được đặt đi, đặt lại. “Tây Tiến” của Quang Dũng mới ra đời nó có tên là
“Nhớ Tây Tiến”. Nhưng có lẽ sau này Quang Dũng hiểu rằng, thơ là “ý tại ngôn
ngoại”, không nói nhớ mà nỗi nhớ cứ như sóng trào dâng qua từng lời, từng câu, từng
chữ, từng nhịp thơ. Đấy mới là cái tài hoa của người nghệ sĩ. Nhan đề đã được tinh
giản chỉ còn “Tây Tiến” mà nỗi nhớ vẫn chơi vơi, như mạch ngầm và là nguồn cảm
hứng của cả bài. Bài thơ được in trong tập “Mây đầu ô” xuất bản năm 1948.
Cảm xúc chủ đạo của đoạn thơ đầu tiên chính là nỗi nhớ về thiên nhiên miền Tây Tổ
quốc hùng vĩ, dữ dội, bí hiểm mà thơ mộng, trữ tình. Qua đó làm hiện lên hình ảnh
người lính trên chặng đường hành quân đầy gian nan, nguy hiểm; tuy vất vả, hi sinh
nhưng vẫn ngang tàng, trẻ trung, lãng mạn.
Hai câu thơ mở đầu gợi nhớ, gợi thương, nhớ miền Tây, nhớ núi rừng, nhớ dòng sông Mã thương yêu:
Sông Mã xa rồi, Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi
Hành hương về quá khứ, Quang Dũng đã nhắc tới sông Mã như một biểu tượng đầu
tiên của nỗi nhớ. Đây là dòng sông chạy dọc theo địa bàn biên giới Việt Nam với
nhiều ghềnh thác dữ dội, một mình băng băng giữa núi rừng hùng vĩ. Sông Mã còn là
dòng sông gắn liền với chặng đường hành quân vất vả của trung đoàn , từng chứng
kiến và sẻ chia những buồn vui, những mất mát, hi sinh của người lính. Sông Mã
không còn là dòng sông vô tri trên bản đồ địa lí, nó đã trở thành người bạn, người
thân, là nhân chứng lịch sử đi theo bước quân hành của người lính Tây Tiến, ghi dấu
bao nhiêu kỉ niệm. Hai tiếng “xa rồi” gợi nhắc về thời gian, tất cả những kỉ niệm với
đoàn quân Tây Tiến nay đã lùi xa vào dĩ vãng. Nhịp thơ 4/3 với dấu ngắt ở giữa dòng
như một phút ngừng lặng để nhận ra sự trống trải, mênh mông trong thực tại , để sau
đó, hiện tại mờ đi, nỗi nhớ ùa vào trong tiếng gọi tha thiết hướng về quá khứ. Tây Tiến
ơi!
Tiếng gọi tha thiết, khắc khoải. Dường như Tây Tiến không còn là tên của một đơn
vị bộ đội nữa mà thân thiết, gắn bó như anh em máu thịt. Qua đó nói lên tình cảm gắn
bó sâu nặng của nhà thơ với một thời, một vùng miền đã đi qua. Từ “ơi” thật thân
thương được hiệp vần tinh tế với từ láy ” chơi vơi” ở câu sau khiến tiếng gọi như âm
vang, đập vào vách đá, dội lại lòng người, da diết, bâng khuâng,…
Biện pháp điệp ngữ được tác giả vận dụng thật tinh tế để khắc sâu nỗi nhớ day dứt,
miên man, ám ảnh không thể nguôi ngoai: Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi. Nhịp ngắt
Cảm nhận 14 câu đầu bài thơ Tây Tiến
4/3 chia câu thơ thành hai vế : vế đầu xác định đối tượng của nỗi nhớ “ nhớ về rừng
núi
” – đó là không gian mênh mông của miền Tây với những địa danh như Sài Khao,
Mường Lát, Pha Luông,…Những địa danh vừa gợi lên con đường hành quân vất vả,
gian lao vừa gợi lên sự heo hút, hoang vu của thiên nhiên Tây Bắc. Và vì thế , nỗi nhớ
không chỉ dừng lại ở rừng núi miền Tây mà còn hướng về những năm tháng quá khứ
gian lao với những người đồng đội, vế sau của câu thơ miêu tả sắc thái của nỗi nhớ
“nhớ chơi vơi”. ” Chơi vơi ” là từ láy vần với hai thanh không (thanh ngang) gợi độ
cao phiêu du, bay bổng, gợi cảm giác về một nỗi nhớ vô hình, vô lượng, không thể đo
đếm, một nỗi nhớ mơ hồ, đầy ám ảnh, nỗi nhớ ăm ắp, khôn nguôi.
Hằn sâu trong kí ức của người chiến binh Tây Tiến, thiên nhiên miền Tây với hình thế
sông núi hiểm trở nhưng không kém phần thơ mộng của miền Tây trên đường hành
quân của người lính lại được hiện lên rõ nét và đầy sức gợi:
Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
Ba câu thơ đầu miêu tả sắc nét khung cảnh thiên nhiên hùng vĩ và hiểm trở qua đó làm
hiện lên cuộc hành quân vất vả, gian lao và ý chí bất khuất, kiên cường của những
người chiến binh Tây Tiến. Sự phối hợp của năm thanh trắc trong câu thơ “Dốc lên
khúc khuỷu, dốc thăm thẳm ”
đã tạo nên âm hưởng gồ ghề, gập ghềnh cho câu thơ 7
chữ, giúp người đọc phần nào hình dung ra cuộc hành quân gian truân của người lính
Tây Tiến. Điệp từ “dốc” lặp lại ở đầu hai vế câu để thể hiện sự trùng điệp, chồng chất
của những con dốc như muốn thử thách ý chí, nghị lực của người lính. Các từ láy
“khúc khuỷu ” (diễn tả sự gồ ghề, gập ghềnh), “ thăm thẳm ” ( diễn tả độ cao hun hút,
độ xa vời vời) giàu giá trị tạo hình đã khắc họa sự hiểm trở của dốc núi và qua đó làm
hiện lên sự nhọc nhằn trên con đường hành quân của người lính.
Cái hoang vu, bí hiểm, dữ dội của thiên nhiên còn hiện lên qua hình ảnh “ Heo hút cồn
mây súng ngửi trờ
i. Từ láy “heo hút” vừa gợi độ cao, vừa gợi độ xa, vừa gợi sự vắng
lặng lại được đảo lên đầu câu để nhấn mạnh sự hoang sơ, hoang vắng, thăm thẳm như
vô tận vô cùng. “ Cồn mây” là một hình ảnh ẩn dụ cho thấy mây núi miền Tây bộn bề,
chồng chất, tạo thành dốc, thành công, con đường như bị lấp vào trong mây, con
đường hành quân của người lính vô cùng cheo leo và hiểm trở. Hình ảnh nhân hóa . “
Súng ngửi trời ” là một cách nói tếu táo, hóm hỉnh, đầy chất lính, cho thấy tâm hồn trẻ
trung của những người lính phong trần, coi thường gian lao, hiểm trở. Câu thơ không
chỉ gợi lên sự hiểm trở của dốc núi mà còn cho thấy tâm hồn tươi trẻ, lạc quan của những người chiến sĩ.
Cảm nhận 14 câu đầu bài thơ Tây Tiến
Nét dữ dội, hiểm trở như muốn thử thách ý chí, nghị lực của người lính lại được tô
đậm hơn ở câu thơ thứ ba . Điệp từ “ngàn thước” kết hợp với phép tương phản của các
động từ lên – xuống trong hai vế câu đã tạo ra cảm giác về một nét gấp đột ngột, dữ
dội cho câu thơ, gợi tả độ cao của dốc, độ sâu của vực: bên này, đường lên núi dựng
đứng, vút cao; bên kia vực đổ xuống heo hút, hiểm trở.
Cảm hứng lãng mạn trong thơ Quang Dũng lại đưa người đọc trở về với cảm giác yên
bình, nhẹ nhàng sau bao trải nghiệm về sự dữ dội của cảnh trí miền Tây. Nhà ai Pha
Luông mưa xa khơi
– Câu thơ toàn thanh bằng với âm tiết mở đã tạo ra một không
gian mênh mông, dàn trải, nhạt nhòa trong mưa. Hình ảnh ẩn dụ “ mưa xa khơi” gợi
cảm nhận về cả thung lũng mờ mịt như loãng tan trong biển mưa. Sau những chặng
đường hành quân vất vả, người lính như dừng lại ở đâu đó ngắm nhìn núi rừng trong
mưa. Sắc thái phiếm chỉ của đại từ “ai” khiến cho những ngôi nhà trở nên mơ hồ, xa
xăm, huyền ảo . Sắc thái nghi vấn “nhà ai”gợi nỗi bâng khuâng, trăn trở trong lòng
người. giữa mưa rừng buốt lạnh, giữa núi rừng mênh mông, hình ảnh ngôi nhà gợi
cảm giác ấm áp, bình yên đã làm trào dâng nỗi nhớ nhung, xao xuyến trong lòng người chiến sĩ.
Cảnh núi rừng hoang sơ, hùng vĩ tiếp tục được tái hiện qua đó làm nổi bật hình ảnh
người chiến binh Tây Tiến trong sự vất vả, gian lao nhưng đậm chất kiêu hùng.
Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người
Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi
Kí ức về người lính Tây Tiến đã hiện lên thật lãng mạn nhưng cũng thật bi hùng. Từ
láy “dãi dầu” diễn tả sự nhọc nhằn, vất vả của các anh khi hành quân qua miền Tây,
khi vượt qua những núi cao, vực sâu, thác ghềnh dữ dội, qua những nắng mưa, sương
gió,….Với cách diễn đạt chủ động “không bước nữa”, “bỏ quên đời”, tác giả đã làm
hiện lên sự kiêu bạc, ngang tàng của những người chiến binh dãi dầu mưa nắng. Cách
viết của nhà thơ mang đến cho ta hai cách hiểu: Có thể hiểu, trên chặng đường hành
quân gian lao, vất vả, người lính kiệt sức nên ngủ thiếp đi trong chốc lát để rồi lại tiếp
tục chặng đường dài; và cũng có thể hiểu rằng người lính đã hi sinh một cách nhẹ
nhàng, thanh thản như vừa hoàn thành xong nhiệm vụ với Tổ quốc. Hiện thực khắc
nghiệt của chiến tranh đã được Quang Dũng biểu hiện bằng cách nói thật lãng mạn.
Qua đó, nhà thơ làm hiện không phải khó khăn mà là tinh thần vượt qua mọi khó
khăn, đó chính là vẻ đẹp hào hùng của những người chiến sĩ.
Cảm nhận 14 câu đầu bài thơ Tây Tiến
Sau câu thơ gợi lên hình ảnh người lính, sự hùng vĩ, hiểm trở của núi rừng miền Tây
lại được hiện lên qua những nét vẽ đầy ấn tượng. Biện pháp nhân hóa “thác gầm thét”,
“cọp trêu người” đã làm tăng thêm sự dữ dội, hoang sơ, đầy bí hiểm của núi rừng
miền Tây. Nghệ thuật tương phản, đối lập của cảm hứng lãng mạn đã được Quang
Dũng sử dụng trong phép đối thanh rất tinh tế: nếu như câu thơ trên với các tiếng
“thác”, “thét” mang âm vực câu gợi âm thanh tiếng nước man dại ở vòm cao thăm
thẳm thì câu dưới là những tiếng Hịch, cọp mang thanh trắc ở âm vực thấp như mô
phỏng bước chân nặng nề của thú dữ, gợi sự thâm u, bí hiểm, đầy đe dọa của núi rừng.
Chiều chiều, đêm đêm là những trạng ngữ chỉ dòng chảy của thời gian lặp lại miên
viễn, vĩnh hằng. Những sức mạnh thiên nhiên khủng khiếp ngự trị ở núi rừng miền
Tây không phải là một chiều, một đêm mà là chiều chiều, đêm đêm – ngự trị muôn
đời. Miêu tả những ấn tượng về núi rừng miền Tây lại càng làm nổi bật chân dung
người lính Tây Tiến hào hùng, mạnh mẽ: họ đã hành quân qua những vùng đất hoang
sơ, dữ dội, vắng bóng con người ; họ đã vượt qua những gian truân vất vả bằng khí
phách kiên cường và lòng dũng cảm đáng khâm phục, đáng ngợi ca.
Tuy vậy, con đường hành quân của các chiến sĩ Tây Tiến không chỉ có gian lao, vất vả
mà còn có cả những kỉ niệm ngọt ngào, thắm thiết ân tình:
Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi
Hai câu thơ đã làm hiện lên không gian miền Tây Bắc vô cùng nên thơ với những bản
làng quện trong khói lam chiều ấm áp bên sườn núi , với hương thơm quyến rũ của xôi
nếp nương, với những sơn nữ tình tứ và xinh đẹp. Cụm từ cảm thán “Nhớ ôi” đứng ở
đầu câu đã bộc lộ cảm xúc nhớ nhung, dâng trào mãnh liệt về miền Tây, về những bản
làng Mai Châu, về những chị, những em ,… trong mùa lúa chín. Sau những chặng
đường hành quân giữa mưa rừng buốt lạnh, giữa núi cao, vực sâu, giữa những bước
chân thú dữ rập rình đe dọa, phút dừng chân bên một bản làng miền Tây với bát cơm
thơm ngào ngạt làn khói bếp đã mang đến cho các anh cảm giác thanh bình thật hiếm
hoi, quý giá trong cuộc chiến tranh tàn khốc. Câu thơ “Mai Châu mùa em thơm nếp
xôi” mang đến cho ta nhiều cách hiểu. Có thể hiểu các chiến sĩ dừng chân ở Mai Châu
giữa mùa lúa chín, đón nhận bát xôi ngào ngạt hương nếp đầu mùa từ bàn tay dịu dàng
của các cô gái Mai Châu. Cũng có thể hiểu câu thơ theo một nét nghĩa thật lãng mạn
qua hai chữ “mùa em”. Đây là một kết hợp từ rất mới mẻ, người ta thường nói mùa
hoa, mùa quả,… để chỉ thời điểm sung mãn, đầy ắp sắc hương của hoa trái. Cách dùng
từ của Quang Dũng đã tạo ra một nét nghĩa táo bạo và thật đa tình khiến cho Mai
Châu không chỉ là một địa danh gắn liền với kỉ niệm thơm thảo của xôi nếp đầu mùa
thắm tình quân dân mà còn gợi tới hình ảnh của những cô gái Mai Châu duyên dáng,
xinh đẹp, căng tràn sức sống làm xao xuyến lòng người chiến sĩ. Câu thơ nhiều thanh
Cảm nhận 14 câu đầu bài thơ Tây Tiến
bằng gợi tả cảm giác bồng bềnh, xao xuyến, ngất ngây trong tâm hồn của những
chàng trai Hà Thành hào hoa, lãng mạn.
Sự kết hợp hài hoà giữa bút pháp hiện thực và lãng mạn; ngôn ngữ giàu tính tạo hình,
giàu nhạc điệu,biện pháp tu từ đặc sắc, … đã làm nên thành công cho cả đoạn thơ –
tuy chỉ là khúc dạo đầu của một bản nhạc về nỗi nhớ, song cũng đã kịp ghi lại những
vẻ đẹp rất riêng của thiên nhiên núi rừng Tây Bắc . Trên nền của bức tranh thiên nhiên
dữ dội ấy, những người lính Tây Tiến hiện lên thật đẹp đẽ, hào hùng. Thiên nhiên
hùng vĩ, dữ dội, con người mạnh mẽ, lãng mạn, hào hoa. Sự gắn bó của nhà thơ với
thiên nhiên và con người nơi ấy là biểu hiện của tấm lòng gắn bó với quê hương, đất
nước. Đồng thời là tấm lòng trĩu nặng yêu thương với những người đồng đội, đồng chí của mình.
Mười bốn câu thơ mở đầu cho một nỗi nhớ trải dài, mênh mang, vô tận. Lặn sâu mình
vào trong nỗi nhớ ấy, người ta thấy yêu một khung cảnh thiên nhiên hùng vĩ, dữ dội
của đất nước, thấy cảm phục, biết ơn một thế hệ anh hùng một thời đã quên thân mình
vì Tổ quốc thân yêu. Chất lãng mạn và hiện thực, chất thơ và chất nhạc vốn là đặc
trưng của hồn thơ Quang Dũng đã được thể hiện thật hay, thật giàu sức hút. Có lẽ nhờ
vậy mà “ Tây Tiến ” của Quang Dũng chưa bao giờ mất đi vị trí quan trọng trong lòng
bạn đọc nhiều thế hệ.
Cảm nhận Tây Tiến khổ 1 - Mẫu 3
Quang Dũng (1921-1988) là một nghệ sĩ đa tài với hồn thơ phóng khoáng, hồn hậu,
lãng mạn và tài hoa. "Tây Tiến" là bài thơ tiêu biểu cho đời thơ và thể hiện sâu sắc
phong cách thơ Quang Dũng. Có thể nói, tinh hoa của bài thơ được hội tụ lại trong
khổ thơ đầu tiên. Khổ thơ đã dựng lên bức tranh thiên nhiên hùng vĩ, mĩ lệ của núi
rừng miền Tây, nơi nhà thơ cũng đoàn quân Tây Tiến đã từng hoạt động, chiến đấu.
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây,súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời !
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người
Cảm nhận 14 câu đầu bài thơ Tây Tiến
Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi.
Bài thơ "Tây Tiến" được sáng tác năm 1948 tại làng Phù Lưu Chanh, khi nhà thơ đã
rời khỏi đơn vị cũ Tây Tiến, chuyển sang hoạt động tại một đơn vị khác. Tây Tiến là
một đơn vị bộ đội chống Pháp được thành lập năm 1947, có nhiệm vụ phối hợp với bộ
đội Lào bảo vệ biên giới Việt Lào, tiêu hao sinh lực Pháp tại Thượng Lào và miền Tây
Bắc Việt Nam. Địa bàn hoạt động của đoàn quân Tây Tiến rất rộng lớn trải dài từ Sơn
la, Hòa Bình, miền tây Thanh Hóa đến Sầm Nưa ( Lào) - là những nơi hiểm trở, hoang
vu, rừng thiêng nước độc. Chiến sĩ Tây Tiến phần đông là thanh niên Hà Nội, có nhiều
học sinh, sinh viên, trong đó có Quang Dũng. Họ sống và chiến đấu trong hoàn cảnh
gian khổ, thiếu thốn, bệnh sốt rét hoành hành nhưng vẫn lạc quan, anh dũng. Hoạt
động được hơn một năm thì đơn vị Tây Tiến trở về Hòa Bình thành lập Trung đoàn 52.
Bài thơ ra đời từ nỗi nhớ, kỉ niệm, hồi ức của Quang Dũng về đồng đội và địa bàn
chiến đấu cũ. Tác phẩm sau khi ra đời đã được bao thế hệ thanh niên và bạn yêu thơ
truyền tay tìm đọc. Đến năm 1986, bài thơ được in trong tập thơ " Mây đầu ô" ( xuất
bản 1986). Ban đầu bài thơ có tên là " Nhớ Tây Tiến", sau đó tác giả chuyển lại thành
" Tây Tiến". Nhan đề " Tây Tiến" đảm bảo tính hàm súc của thơ, không cần phải trực
tiếp bộc lộ nỗi nhớ mà tình cảm ấy vẫn hiện lên sâu sắc, thấm thía. Nhan đề còn làm
nổi rõ hình tượng trung tâm của tác phẩm, đó là hình tượng đoàn quân Tây Tiến. Việc
bỏ đi từ "nhớ" đã vĩnh viễn hóa đoàn quân Tây Tiến, khiến cho hình ảnh người lính
Tây Tiến trở thành bất tử trong thơ ca kháng chiến Việt Nam.
"Tây Tiến" là bài thơ in đậm phong cách tài hoa, lãng mạn, phóng khoáng của hồn thơ
Quang Dũng. Tác phẩm đã bộc lộ nỗi nhớ sâu sắc của nhà thơ với người lính Tây Tiến
mang vẻ đẹp lãng mạn, đậm chất bi tráng. Đoạn thơ thứ nhất đã tái dựng lại sống động
bức tranh thiên nhiên miền Tây với những khung cảnh, những chặng đường hành quân
gian khổ, từ đó hình ảnh những chiến sĩ Tây Tiến cũng lần lượt hiện ra.
Bài thơ mở ra bằng một nỗi nhớ trào dâng:
Sông Mã xa rồi, Tây Tiến ơi !
Nhở về rừng núi, nhớ chơi vơi
Tiếng gọi "Tây Tiến ơi" bật lên bởi một nỗi nhớ sâu sắc, cồn cào không kìm nén nổi.
Đối tượng của nỗi nhớ ấy rất cụ thể, rõ ràng là : "sông Mã", "Tây Tiến", "rừng núi".
Nỗi nhớ ấy phải khắc khoải lắm thì tác giả mới điệp lại hai lần từ " nhớ". " Nhớ chơi
vơi" là nỗi nhớ chập chờn hư thực, vừa tha thiết, thường trực, vừa mênh mang, đầy ám
ảnh, vừa mở ra không gian của tiềm thức, vừa như gợi ra không gian trập trùng của
Cảm nhận 14 câu đầu bài thơ Tây Tiến
núi đèo rộng lớn. Cách hiệp vần "ơi" làm câu thơ như ngân vang, phù hợp với biên độ của cảm xúc.
Hai câu thơ đầu đã khơi mạch chủ đạo của cả bài thơ là nỗi nhớ khôn nguôi. Nỗi nhớ
ấy được cụ thể dần dần trong những vần thơ tiếp sau.
Hai câu thơ tiếp : gợi lại hình ảnh đoàn quân hành quân trong đêm:
"Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi,
Mường Lát hoa về trong đêm hơi"
Hai câu thơ vừa tả thực, vừa sử dụng bút pháp lãng mạn.Những từ chỉ địa danh Sài
Khao, Mường Lát gợi ra địa bàn rộng lớn, đầy lạ lẫm đối với người lính Tây Tiến.
Sương mù vùng cao dày đặc như trùm lấp bước chân, nuốt chửng cả đoàn binh vốn
đang mỏi mệt, rệu rã vì chặng đường dài gian khổ. Quang Dũng đã nhìn thấy và miêu
tả một mảng hiện thực khuất lấp trong thơ ca kháng chiến. Nhưng những người lính
ấy, dù mệt mỏi mà tâm hồn vẫn trẻ trung, hào hoa, lạc quan, yêu đời. Hình ảnh " hoa
về trong đêm hơi" là hình ảnh đẹp giàu sức gợi. Đó có thể là những ánh đuốc sáng
lung linh của đoàn quân đang tiến về bản làng, cũng có thể là hình ảnh đoàn quân từ
rừng đi ra, trên tay vẫn cầm theo những đóa hoa rừng ngát hương, mà đó cũng có thể
là hình ảnh ẩn dụ về đoàn quân Tây Tiến như những bông hoa rừng. Đoàn quân ấy
hành quân trong một " đêm hơi" đầy huyền ảo, mơ hồ, bảng lảng khói sương chốn
rừng suối. Hai câu thơ in đậm dấu ấn tài hoa, lãng mạn của Quang Dũng.
Những bài Cảm nhận về đoạn thơ đầu bài thơ Tây Tiến hay nhất
Bốn câu thơ tiếp theo đặc tả địa hình hiểm trở của miền Tây:
Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời,
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống,
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi.
Nhà thơ sử dụng một loạt các từ láy tượng hình "khúc khuỷu", " thăm thẳm", " heo
hút", kết hợp với cách ngắt nhịp 4/3 như chặt đôi câu thơ, mật độ thanh trắc dày đặc
khiến câu thơ trúc trắc gợi sự vất vả, nhọc nhằn. Những phép tu từ đó mở ra trong tâm
tưởng người đọc ấn tượng về sự gập ghềnh, hiểm trở, ẩn chứa bao bất trắc, nguy hiểm
của núi cao, vực sâu nơi núi rừng miền Tây. Hình ảnh " súng ngửi trời" là một nhân
hóa táo bạo, đặc tả sự chót vót của dốc núi. Người lính Tây Tiến leo lên đỉnh dốc, cảm
tưởng như mũi súng có thể chạm mây. Từ đó, ta cũng thấy được nét tinh nghịch khỏe
khoắn, vẫn có thể trêu đùa vô tư sau một chặng đường hành quân vất vả, mệt nhọc của
các anh lính Tây Tiến. Phép đối " ngàn thước lên cao - ngàn thước xuống" càng nhấn
mạnh độ gập ghềnh, hình sông thế núi trập trùng, hiểm trở của thiên nhiên miền Tây.
Cảm nhận 14 câu đầu bài thơ Tây Tiến
Ba câu thơ giàu chất hội họa, dựng lên bức tranh hoang vu, dốc đèo đứt nối, hùng vĩ
trên con đường hành quân của chiến sĩ Tây Tiến. Câu thơ thứ tư toàn bộ là bảy thanh
bằng " Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi", vần mở "ơi" đặt cuối câu tạo cảm giác nhẹ
nhàng gợi ra những phút giây nghỉ ngơi thư giãn của người lính. Họ đứng trên những
đỉnh núi, thưởng thức chút bình yên, vẻ đẹp lãng mạn của núi rừng, phóng tầm mắt,
thấy mưa rừng giăng mờ nơi bản làng Pha Luông xa xôi. Bốn câu thơ vừa gợi ra sự dữ
dội hoang vu, sự êm đềm của núi rừng, vừa gợi ra những cuộc hành quân vất vả nhọc
mệt nhưng đầy trẻ trung, yêu đời của các chàng trai Tây Tiến.
Người lính Tây Tiến không chỉ đối diện với dốc cao vực sâu mà còn phải chịu những mất mát hy sinh:
Anh bạn dãi dầu không bước nữa,
Gục lên súng mũ bỏ quên đời.
Cách nói tránh về cái chết "không bước nữa", "bỏ quên đời" gợi tư thế ngạo nghễ của
người lính Tây Tiến. Họ chủ động chấp nhận cái chết, coi nó chỉ đơn giản như một
giấc ngủ mà thôi. Tư thế hi sinh " gục lên súng mũ" đầy xót xa nhưng cũng thật hào
hùng. Hình ảnh về người lính anh dũng hi sinh ấy sau này ta còn bắt gặp trong "Dáng
đứng Việt Nam" : " Và anh chết trong khi đang đứng bắn- Máu anh phun theo lửa đạn
cầu vồng". Câu thơ đã tiếp tục cảm hứng bi tráng khi xây dựng chân dung người lính Tây Tiến.
"Chiều chiều oai linh thác gầm thét,
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người".
Các từ láy chỉ biên độ lặp lại thường xuyên của thời gian" chiều chiều", "đêm đêm"
kết hợp với biện pháp nhân hóa " thác gầm thét", " cọp trêu người" đã nhấn mạnh vẻ
bí hiểm, dữ dội,hoang dã chứa đầy nguy hiểm, cái chết luôn luôn rình rập đe dọa
người lính của núi rừng miền Tây. Sự nguy hiểm ấy không chỉ trải rộng trong không
gian mà còn kéo dài và lặp lại thường xuyên theo thời gian.
Hai câu thơ cuối đoạn lại đột ngột chuyển cảnh :
Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói,
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi.
Núi cao rừng rậm lùi xa, chỉ còn lại hương vị ấm áp nghĩa tình quân dân lan tỏa từ nồi
cơm của các cô gái Thái. Từ cảm thán " Nhớ ôi" đứng đầu câu thơ diễn tả nỗi nhớ da
diết, ám ảnh khôn khuây của Quang Dũng cũng như người lính Tây Tiến về đồng bào
miền Tây. Nhà thơ như nhói lòng khi hồi tưởng lại cảnh đoàn quân quây quần quanh
nồi xôi nếp thơm lừng đang bốc khói. Đó là những giây phút ấm áp ngắn ngủi nhưng
lại dịu ngọt, tinh tế nên khắc sâu mãi trong tâm trí nhà thơ. Cách kết hợp từ " mùa em"
Cảm nhận 14 câu đầu bài thơ Tây Tiến
rất độc đáo, gợi những liên tưởng đẹp, lãng mạn về những cô gái Thái vừa khỏe khoắn
vừa dịu dàng mà đằm thắm yêu thương. Hai câu thơ kết thúc đoạn một bài thơ Tây
Tiến có âm điệu nhẹ nhàng tha thiết gợi cảm giác êm dịu, ấm áp, tạo tâm thế cho
người đọc cảm nhận đoạn thơ tiếp theo.
Trong những đoạn thơ còn lại, nhà thơ Quang Dũng tiếp tục hồi tưởng về cảnh những
đêm liên hoan văn nghệ thắm thiết tình quân dân, những buổi chiều trên sông nước
miền Tây thơ mộng, hư ảo, hồi tưởng về chân dung tập thể những người lính Tây Tiến
anh dũng, hào hoa. Cuối bài thơ, Quang Dũng bộc lộ lời nguyện thề mãi gắn bó với
miền Tây và đoàn quân Tây Tiến.
Đoạn thơ đầu bài thơ Tây Tiến đã thể hiện tài hoa và tâm hồn lãng mạn phóng khoáng
của nhà thơ Quang Dũng. Đoạn thơ có ngôn ngữ giàu chất tạo hình, giàu nhạc điệu,
gây ấn tượng táo bạo, dựng lên bức tranh sinh động, có chiều sâu về cảnh hành quân
của đoàn quân Tây Tiến trên cái nền thiên nhiên rừng núi hùng vĩ thơ mộng miền Tây.
Qua đó, ta cảm nhận được sự gắn bó sâu sắc, nỗi nhớ tha thiết của nhà thơ Quang
Dũng về những ngày tháng chiến đấu trong đoàn quân Tây Tiến - một thời mãi mãi để nhớ và tự hào.
Cảm nhận 14 câu đầu bài thơ Tây Tiến - Mẫu 4
Tây Tiến là bài thơ tiêu biểu nhất của hồn thơ của Quang Dũng và là một trong những
bài thơ hay nhất trong số những bài viết về đề tài người lính thời kỳ kháng chiến
chống Pháp. Với sự kết hợp tài tình giữa bút pháp hiện thực và cảm hứng lãng mạn,
bài thơ đã khắc hoạ chân thực cuộc sống và chiến đấu đầy gian khổ, sự hy sinh anh
dũng và vẻ đẹp hào hoa, hào hùng của người chiến sĩ Tây Tiến. Bức chân dung người
lính Tây Tiến oai hùng, lẫm liệt hiện lên rõ ràng qua 14 câu thơ đầu của bài thơ.
Bài thơ được viết năm 1948, lúc cuộc kháng chiến chống Pháp của quân và dân ta gặp
muôn vàn khó khăn. Không những phải chiến đấu nơi rừng núi hiểm trở, người lính
Tây Tiến còn phải đối diện với sự thiếu thốn về quân trang, quân dụng, lương thực và
thuốc men. Thế nhưng, bằng tất cả sức mạnh của lý tưởng yêu nước, người lính đã
kiên cường bám trụ địa bàn, sống lạc quan tin tưởng, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ
dẫu có mất mát, hi sinh. Tất cả được Quang Dũng ghi nhận trong bài thơ vừa hào
hùng vừa hết sức bi tráng.
Sự kết hợp giữa cảm hứng lãng mạn và bút pháp hiện thực đã tạo ra chất bi tráng rất
đặc biệt cho 14 câu thơ đầu bài thơ, đem đến những màu sắc và âm hưởng mạnh mẽ,
hào hùng cho sự hy sinh, mất mát của người chiến sỹ Tây Tiến. Cảm hứng chủ đạo
của bài thơ là nỗi nhớ: nhớ đồng đội thân yêu, nhớ đoàn binh Tây Tiến, nhớ bản
mường và núi rừng miền Tây, nhớ kỉ niệm đẹp một thời trận mạc… Bốn câu thơ đầu
mở ra nỗi nhớ mênh mang:
Cảm nhận 14 câu đầu bài thơ Tây Tiến
“Sông mã xa rồi Tây Tiến ơi !
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi”.
Nói về nỗi nhớ ấy, bài thơ đã ghi lại hào khí lãng mạn của tuổi trẻ Việt Nam, của “bao
chiến sĩ anh hùng” trong buổi đầu kháng chiến chống Pháp vô cùng gian khổ mà vinh
quang. Hai câu thơ đầu nói lên nỗi nhớ, nhớ miền Tây, nhớ núi rừng, nhớ dòng sông Mã thương yêu.
Đã “xa rồi” nên nỗi nhớ không thể nào nguôi được, nhớ da diết đến quặn lòng, đó là
nỗi nhớ “chơi vơi”. Tiếng gọi “Tây Tiến ơi” vang lên tha thiết như tiếng gọi người
thân yêu. Từ cảm “ơi!” bắt vần với từ láy “chơi vơi” tạo nên âm hưởng câu thơ sâu
lắng, bồi hồi, ngân dài, từ lòng người vọng vào thời gian năm tháng, lan rộng lan xa
trong không gian. Hai chữ “xa rồi” như một tiếng thở dài đầy thương nhớ, hô ứng với
điệp từ “nhớ” trong câu thơ thứ hai thể hiện một tâm tình đẹp của người chiến binh
Tây Tiến đối với dòng sông Mã và núi rừng miền Tây. Sau tiếng gọi ấy, biết bao hoài
niệm về một thời gian khổ hiện về trong tâm tưởng.
Những câu thơ tiếp theo nói về chặng đường hành quân đầy thử thách gian nan mà
đoàn binh Tây Tiến từng nếm trải:
“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây, súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”.
Các tên bản, tên mường: Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông, Mường Hịch, Mai
Châu… được nhắc đến không chỉ gợi lên bao thương nhớ vơi đầy mà còn để lại nhiều
ấn tượng về sự xa xôi, heo hút, hoang dã, thâm sơn cùng cốc,… Nó gợi trí tò mò và
háo hức của những chàng trai “Từ thuở mang gươm đi giữ nước – Nghìn năm thương
nhớ đất Thăng Long”. Đoàn binh hành quân trong sương mù giữa núi rừng trùng điệp
Bao núi cao, đèo cao, dốc thẳng dựng thành phía trước mà các chiến sĩ Tây Tiến phải
vượt qua. Dốc lên thì “khúc khuỷu” gập ghềnh, dốc xuống thì “thăm thẳm” như dẫn
đến vực sâu. Các từ láy: “khúc khuỷu”, “thăm thẳm”, “heo hút” đặc tả gian khổ, gian
truân của nẻo đường hành quân chiến đấu: “Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm –
Heo hút cồn mây súng ngửi trời!”. Đỉnh núi mù sương cao vút. Mũi súng của người
chiến binh được nhân hóa tạo nên một hình ảnh: “súng ngửi trời” giàu chất thơ, mang
vẻ đẹp cảm hứng lãng mạn, cho ta nhiều thi vị. Nó khẳng định chí khí và quyết tâm
của người chiến sĩ chiếm lĩnh mọi tầm cao mà đi tới “Khó khăn nào cũng vượt qua –
Kẻ thù nào cũng đánh thắng!”.
Cảm nhận 14 câu đầu bài thơ Tây Tiến
Thiên nhiên núi đèo xuất hiện như để thử thách lòng người: “ngàn thước lên cao, ngàn
thước xuống”. Hết lên lại xuống, xuống thấp lại lên cao, đèo nối đèo, dốc tiếp dốc,
không dứt. Câu thơ được tạo thành hai vế tiểu đối: “Ngàn thước lên cao // ngàn thước
xuống”, hình tượng thơ cân xứng hài hòa, cảnh tượng núi rừng hùng vĩ được đặc tả,
thể hiện một ngòi bút đầy chất hào khí của nhà thơ – chiến sĩ.
Có cảnh đoàn quân đi trong mưa: “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”. Câu thơ được dệt
bằng những thanh bằng liên tiếp, gợi tả, sự êm dịu, tươi mát của tâm hồn những người
lính trẻ, trong gian khổ vẫn lạc quan yêu đời. Trong màn mưa rừng, tầm nhìn của
người chiến binh Tây Tiến vẫn hướng về những bản mường, những mái nhà dân hiền
lành và yêu thương, nơi mà các anh sẽ đến, đem xương máu và lòng dũng cảm để bảo vệ và giữ gìn.
Gian khổ không chỉ là núi cao dốc thẳm, không chỉ là mưa lũ thác ngàn mà còn có
tiếng gầm của cọp beo nơi rừng thiêng nước độc, nơi đại ngàn hoang vu:
“Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”
“Chiều chiều…” rồi “đêm đêm” nhưng âm thanh ấy, “thác gầm thét”, “cọp trêu
người”, luôn khẳng định cái bí mật, cái uy lực khủng khiếp ngàn đời của chốn rừng
thiêng. Chất hào sảng trong thơ Quang Dũng là lấy ngoại cảnh núi rừng miền Tây
hiểm nguy để tô đậm và khắc họa chí khí anh hùng của đoàn quân Tây Tiến. Mỗi vần
thơ đã để lại trong tâm trí người đọc một ấn tượng: gian nan tột bậc mà cũng can
trường tột bậc! Đoàn quân vẫn tiến bước, người nối người, băng lên phía trước. Uy
lực thiên nhiên như bị giảm xuống và giá trị con người như được nâng cao hẳn lên
một tầm vóc mới. Quang Dũng cũng nói đến sự hy sinh của đồng đội trên những
chặng đường hành quân vô cùng gian khổ:
“Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời…”
Hiện thực chiến tranh xưa nay vốn như thế! Sự hy sinh của người chiến sĩ là tất yếu.
Xương máu đổ xuống để xây đài tự do. Vần thơ nói đến cái mất mát, hy sinh nhưng
không chút bi luỵ, thảm thương.
Hai câu cuối đoạn thơ, cảm xúc bồi hồi tha thiết. Như lời nhắn gửi của một khúc tâm
tình. Như tiếng hát của một bài ca hoài niệm, vừa bâng khuâng, vừa tự hào:
Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”
Cảm nhận 14 câu đầu bài thơ Tây Tiến
“Nhớ ôi!” tình cảm dạt dào, đó là tiếng lòng của các chiến sĩ Tây Tiến “đoàn binh
không mọc tóc”. Câu thơ đậm đà tình quân dân. Hương vị bản mường với “cơm lên
khói”, với “mùa em thơm nếp xôi” có bao giờ quên? Hai tiếng “mùa em” là một sáng
tạo độc đáo về ngôn ngữ thi ca, nó hàm chứa bao tình thương nỗi nhớ, điệu thơ trở nên
uyển chuyển, mềm mại, tình thơ trở nên ấm áp. Cũng nói về hương nếp, hương xôi, về
“mùa em” và tình quân dân, sau này Chế Lan Viên viết trong bài “Tiếng hát con tàu”:
“Anh nắm tay em cuối mùa chiến dịch
Vắt xôi nuôi quân em giấu giữa rừng
Đất Tây Bắc tháng ngày không có lịch
Bữa xôi đầu còn tỏa nhớ mùi hương”
“Nhớ mùi hương”, nhớ “cơm lên khói”, nhớ “thơm nếp xôi” là nhớ hương vị núi rừng
Tây Bắc, nhớ tình nghĩa, nhớ tấm lòng cao cả của đồng bào Tây Bắc thân yêu.
Mười bốn câu thơ trên đây là phần đầu bài “Tây Tiến”, một trong những bài thơ hay
nhất viết về người lính trong 9 năm kháng chiến chống Pháp. Bức tranh thiên nhiên
hoành tráng, trên đó nổi bật lên hình ảnh chiến sĩ can trường và lạc quan, đang dấn
thân vào máu lửa với niềm kiêu hãnh “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh…”. Đoạn
thơ để lại một dấu ấn đẹp đẽ về thơ ca kháng chiến mà sự thành công, là kết hợp hài
hoà giữa khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn. Nửa thế hệ đã trôi qua, bài thơ
“Tây Tiến” của Quang Dũng ngày một thêm ý nghĩa.
Cảm nhận khổ 1 Tây Tiến - Mẫu 5
Tây Tiến là bài thơ tiêu biểu nhất của hồn thơ Quang Dũng và là một trong những bài
thơ hay nhất trong số những bài viết về đề tài người lính thời kỳ kháng chiến chống
Pháp. Với sự kết hợp tài tình giữa bút pháp hiện thực và cảm hứng lãng mạn, bài thơ
đã khắc hoạ chân thực cuộc sống và chiến đấu đầy gian khổ, sự hy sinh anh dũng và
vẻ đẹp hào hoa, hào hùng của người chiến sĩ Tây Tiến. Bức chân dung người lính Tây
Tiến oai hùng, lẫm liệt hiện lên rõ ràng qua 14 câu thơ đầu bài thơ.
Bài thơ được viết năm 1948, lúc cuộc kháng chiến chống Pháp của quân và dân ta gặp
muôn vàn khó khăn. Không những phải chiến đấu nơi rừng núi hiểm trở, người lính
Tây Tiến còn phải đối diện với sự thiếu thốn về quân trang, quân dụng, lương thực và
thuốc men. Thế nhưng, bằng tất cả sức mạnh của lý tưởng yêu nước, người lính đã
kiên cường bám trụ địa bàn, sống lạc quan tin tưởng, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ
dẫu có mất mát, hi sinh. Tất cả được Quang Dũng ghi nhận trong bài thơ vừa hào
hùng vừa hết sức bi tráng.
Sự kết hợp giữa cảm hứng lãng mạn và bút pháp hiện thực đã tạo ra chất bi tráng rất
đặc biệt cho 14 câu thơ đầu bài thơ, đem đến những màu sắc và âm hưởng mạnh mẽ,
Cảm nhận 14 câu đầu bài thơ Tây Tiến
hào hùng cho sự hy sinh, mất mát của người chiến sĩ Tây Tiến. Cảm hứng chủ đạo của
bài thơ là nỗi nhớ: nhớ đồng đội thân yêu, nhớ đoàn binh Tây Tiến, nhớ bản mường và
núi rừng miền Tây, nhớ kỉ niệm đẹp một thời trận mạc… Bốn câu thơ đầu mở ra nỗi nhớ mênh mang:
“Sông mã xa rồi Tây Tiến ơi !
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi”.
Nói về nỗi nhớ ấy, bài thơ đã ghi lại hào khí lãng mạn của tuổi trẻ Việt Nam, của “bao
chiến sĩ anh hùng” trong buổi đầu kháng chiến chống Pháp vô cùng gian khổ mà vinh
quang. Hai câu thơ đầu nói lên nỗi nhớ, nhớ miền Tây, nhớ núi rừng, nhớ dòng sông Mã thương yêu.
Đã “xa rồi” nên nỗi nhớ không thể nào nguôi được, nhớ da diết đến quặn lòng, đó là
nỗi nhớ “chơi vơi”. Tiếng gọi “Tây Tiến ơi” vang lên tha thiết như tiếng gọi người
thân yêu. Từ cảm “ơi!” bắt vần với từ láy “chơi vơi” tạo nên âm hưởng câu thơ sâu
lắng, bồi hồi, ngân dài, từ lòng người vọng vào thời gian năm tháng, lan rộng lan xa
trong không gian. Hai chữ “xa rồi” như một tiếng thở dài đầy thương nhớ, hô ứng với
điệp từ “nhớ” trong câu thơ thứ hai thể hiện một tâm tình đẹp của người chiến binh
Tây Tiến đối với dòng sông Mã và núi rừng miền Tây. Sau tiếng gọi ấy, biết bao hoài
niệm về một thời gian khổ hiện về trong tâm tưởng.
Những câu thơ tiếp theo nói về chặng đường hành quân đầy thử thách gian nan mà
đoàn binh Tây Tiến từng nếm trải:
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây, súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”.
Các tên bản, tên mường: Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông, Mường Hịch, Mai
Châu… được nhắc đến không chỉ gợi lên bao thương nhớ vơi đầy mà còn để lại nhiều
ấn tượng về sự xa xôi, heo hút, hoang dã, thâm sơn cùng cốc,… Nó gợi trí tò mò và
háo hức của những chàng trai “Từ thuở mang gươm đi giữ nước – Nghìn năm thương
nhớ đất Thăng Long”. Đoàn binh hành quân trong sương mù giữa núi rừng trùng điệp
Bao núi cao, đèo cao, dốc thẳng dựng thành phía trước mà các chiến sĩ Tây Tiến phải
vượt qua. Dốc lên thì “khúc khuỷu” gập ghềnh, dốc xuống thì “thăm thẳm” như dẫn
đến vực sâu. Các từ láy: “khúc khuỷu”, “thăm thẳm”, “heo hút” đặc tả gian khổ, gian
truân của nẻo đường hành quân chiến đấu: “Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm –
Cảm nhận 14 câu đầu bài thơ Tây Tiến
Heo hút cồn mây súng ngửi trời!”. Đỉnh núi mù sương cao vút. Mũi súng của người
chiến binh được nhân hóa tạo nên một hình ảnh: “súng ngửi trời” giàu chất thơ, mang
vẻ đẹp cảm hứng lãng mạn, cho ta nhiều thi vị. Nó khẳng định chí khí và quyết tâm
của người chiến sĩ chiếm lĩnh mọi tầm cao mà đi tới “Khó khăn nào cũng vượt qua –
Kẻ thù nào cũng đánh thắng!”.
Thiên nhiên núi đèo xuất hiện như để thử thách lòng người: “ngàn thước lên cao, ngàn
thước xuống”. Hết lên lại xuống, xuống thấp lại lên cao, đèo nối đèo, dốc tiếp dốc,
không dứt. Câu thơ được tạo thành hai vế tiểu đối: “Ngàn thước lên cao // ngàn thước
xuống”, hình tượng thơ cân xứng hài hòa, cảnh tượng núi rừng hùng vĩ được đặc tả,
thể hiện một ngòi bút đầy chất hào khí của nhà thơ – chiến sĩ.
Có cảnh đoàn quân đi trong mưa: “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”. Câu thơ được dệt
bằng những thanh bằng liên tiếp, gợi tả, sự êm dịu, tươi mát trong tâm hồn những
người lính trẻ, trong gian khổ vẫn lạc quan yêu đời. Trong màn mưa rừng, tầm nhìn
của người chiến binh Tây Tiến vẫn hướng về những bản mường, những mái nhà dân
hiền lành và yêu thương, nơi mà các anh sẽ đến, đem xương máu và lòng dũng cảm để bảo vệ và giữ gìn.
Gian khổ không chỉ là núi cao dốc thẳm, không chỉ là mưa lũ thác ngàn mà còn có
tiếng gầm của cọp, beo nơi rừng thiêng nước độc, nơi đại ngàn hoang vu:
“Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”
“Chiều chiều…” rồi “đêm đêm” nhưng âm thanh ấy, “thác gầm thét”, “cọp trêu
người”, luôn khẳng định cái bí mật, cái uy lực khủng khiếp ngàn đời của chốn rừng
thiêng. Chất hào sảng trong thơ Quang Dũng là lấy ngoại cảnh núi rừng miền Tây
hiểm nguy để tô đậm và khắc họa chí khí anh hùng của đoàn quân Tây Tiến. Mỗi vần
thơ đã để lại trong tâm trí người đọc một ấn tượng: gian nan tột bậc mà cũng can
trường tột bậc! Đoàn quân vẫn tiến bước, người nối người, băng lên phía trước. Uy
lực thiên nhiên như bị giảm xuống và giá trị con người như được nâng cao hẳn lên
một tầm vóc mới. Quang Dũng cũng nói đến sự hy sinh của đồng đội trên những
chặng đường hành quân vô cùng gian khổ:
“Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời…”
Hiện thực chiến tranh xưa nay vốn như thế! Sự hy sinh của người chiến sĩ là tất yếu.
Xương máu đổ xuống để xây đài tự do. Vần thơ nói đến cái mất mát, hy sinh nhưng
không chút bi luỵ, thảm thương.
Cảm nhận 14 câu đầu bài thơ Tây Tiến
Hai câu cuối đoạn thơ, cảm xúc bồi hồi tha thiết. Như lời nhắn gửi của một khúc tâm
tình. Như tiếng hát của một bài ca hoài niệm, vừa bâng khuâng, vừa tự hào:
“Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”
“Nhớ ôi!” tình cảm dạt dào, đó là tiếng lòng của các chiến sĩ Tây Tiến “đoàn binh
không mọc tóc”. Câu thơ đậm đà tình quân dân. Hương vị bản mường với “cơm lên
khói”, với “mùa em thơm nếp xôi” có bao giờ quên? Hai tiếng “mùa em” là một sáng
tạo độc đáo về ngôn ngữ thi ca, nó hàm chứa bao tình thương nỗi nhớ, điệu thơ trở nên
uyển chuyển, mềm mại, tình thơ trở nên ấm áp. Cũng nói về hương nếp, hương xôi, về
“mùa em” và tình quân dân, sau này Chế Lan Viên viết trong bài “Tiếng hát con tàu”:
“Anh nắm tay em cuối mùa chiến dịch
Vắt xôi nuôi quân em giấu giữa rừng
Đất Tây Bắc tháng ngày không có lịch
Bữa xôi đầu còn tỏa nhớ mùi hương”
“Nhớ mùi hương”, nhớ “cơm lên khói”, nhớ “thơm nếp xôi” là nhớ hương vị núi rừng
Tây Bắc, nhớ tình nghĩa, nhớ tấm lòng cao cả của đồng bào Tây Bắc thân yêu.
Qua 14 câu thơ đầu bài thơ Tây Tiến là một trong những bài thơ hay nhất viết về
người lính trong 9 năm kháng chiến chống Pháp. Bức tranh thiên nhiên hoành tráng,
trên đó nổi bật lên hình ảnh chiến sĩ can trường và lạc quan, đang dấn thân vào máu
lửa với niềm kiêu hãnh “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh…”. Đoạn thơ để lại một
dấu ấn đẹp đẽ về thơ ca kháng chiến mà sự thành công, là kết hợp hài hoà giữa
khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn. Nửa thế hệ đã trôi qua, bài thơ “Tây
Tiến” của Quang Dũng ngày một thêm ý nghĩa.
Cảm nhận khổ 1 bài thơ Tây Tiến - Mẫu 6
Tây Tiến được xem là đứa con đầu lòng tráng kiện và tài hoa của Quang Dũng và của
cả nền thơ kháng chiến của văn học Việt Nam, đặc biệt là của những năm đầu trong
cuộc kháng chiến chống Pháp gian khổ. Những chàng thư sinh áo trắng, rời bỏ bút
mực xanh lên đường đi chiến đấu vì lòng yêu Tổ quốc, quê hương tha thiết, vì nền hòa
bình của dân tộc, họ đi với trái tim kiêu hùng, anh dũng nhưng vẫn mang những nét
lãng mạn, hào hoa của lớp trẻ tri thức Hà Nội. Điều ấy đã được nhà thơ Quang Dũng
tái hiện một các xuất sắc trong bài thơ Tây Tiến bằng ngòi bút phóng khoáng, hồn hậu
và rất mực tài hoa lãng mạng. Với khổ thơ đầu, nhà thơ đã hướng về nội tâm của
người lính chiến, cũng chính là bản thân tác giả với những nỗi nhớ tha thiết miền đất
Tây Bắc và vẻ đẹp vượt vượt lên khó khăn gian khổ của người lính Tây Tiến.
Cảm nhận 14 câu đầu bài thơ Tây Tiến
Quang Dũng quê ở Đan Phượng, Hà Tây (nay là Hà Nội), ông là một nghệ sĩ đa tài,
vừa là nhạc sĩ, vừa là họa sĩ chính vì thế thơ ông rất giàu chất nhạc và chất họa. Quang
Dũng còn là một người lính ưu tú, tham gia nhiều chiến trường khác nhau, nên những
vần thơ của ông về người lính rất chân thật và sống động, với sức truyền cảm mạnh
mẽ, phong cách thơ ông gói gọn trong mấy từ: Phóng khoáng, hồn hậu, lãng mạn và
tài hoa. Binh đoàn Tây Tiến được thành lập vào đầu năm 1947, thành phần chủ yếu là
những thanh niên Hà thành, nhận nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào để bảo vệ biên
giới Việt- Lào, đánh tiêu hao lực lượng quân đội Pháp. Địa bàn hoạt động trải rộng
suốt từ vùng Sơn La, Hòa Bình, đến Sầm Nứa (Lào), rồi vòng về vùng phía tây Thanh
Hóa, phải hành quân nhiều lần, điều kiện chiến đấu vô cùng gian khổ. Tây Tiến sáng
tác cuối năm 1948, ở Phù Lưu Chanh, Quang Dũng hồi tưởng lại về những ngày tháng
ở binh đoàn Tây Tiến. Ban đầu có tên là Nhớ Tây Tiến, sau đổi thành Tây Tiến, một
nhan đề hàm súc, cô đọng, nhưng vẫn thể hiện rõ ràng cảm xúc chủ đạo của bài thơ là
nỗi nhớ. Cảm hứng bao trùm bài thơ là cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng.
Nỗi nhớ về một Tây Bắc dữ dội, được thể hiện trong 14 câu thơ đầu.
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi! ........
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”
Hai câu thơ đầu “Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!/”Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi”, gợi
lên những nỗi nhớ, nỗi thương dâng trào về một thời đã qua, về một vùng đất đã xa.
Lời gọi “Tây Tiến ơi” rất tha thiết khắc khoải, Tây Tiến không chỉ là một cái tên mà
dường như nó đã trở thành người thân thương ruột thịt. Quang Dũng gọi tên “sông
Mã” ngay từ những dòng thơ đầu, địa danh ấy cũng là hiện thân tiêu biểu của vùng
rừng núi Tây Bắc. Trên quãng đường hành quân, dòng sông ấy không chỉ là một địa
danh trên bản đồ địa lý mà đã trở thành người bạn, người tri kỷ, là chứng nhân lịch sử
đã chứng kiến biết bao đau thương, gian khó, vui buồn của người lính chiến trong suốt
cuộc trường chinh. Thế nên trong nỗi nhớ của Quang Dũng, trước hết là nhớ về binh
đoàn Tây Tiến thân yêu, sau là về Tây Bắc với dòng sông Mã vương đầy kỷ niệm.
Không chỉ có như vậy, trong ấn tượng, trong nỗi nhớ của nhà thơ còn có hình ảnh của
rừng núi, đó là nỗi nhớ “chơi vơi” lạ lùng! Bởi với người lính xuất thân từ phố thị, thì
hình ảnh rừng núi Tây Bắc hết sức lạ lẫm, đã để lại những ấn tượng sâu sắc trong lòng
người lính chiến. Quang Dũng hai lần nhắc chữ “nhớ”, nhằm nhấn mạnh nỗi nhớ đang
khắc khoải trong tâm hồn, đặc biệt “nhớ chơi vơi” lại là một cách diễn tả nỗi nhớ rất
riêng của Quang Dũng. Đó là cảm giác, trơ trọi, hụt hẫng, chông chênh trong một nỗi
hoài niệm xa xôi, bởi Tây Bắc đã xa lắm rồi, một Tây Bắc đầy sương mù, mây vờn
quanh núi chơi vơi, hoang vắng, nhưng lắm oai hùng.
Nếu như 2 câu thơ đầu là nỗi nhớ bao trùm thì ở 12 câu thơ tiếp nỗi nhớ ấy đã được
nhà thơ khắc sâu qua nhiều kỷ niệm ấn tượng. Đầu tiên là nỗi nhớ về Sài Khao,
Cảm nhận 14 câu đầu bài thơ Tây Tiến
Mường Lát trong, “Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi/Mường Lát hoa về trong đêm
hơi”. Hai địa danh đã gợi nhắc về những địa bàn hoạt động của đoàn quân Tây Tiến,
từ đó kéo ra các không gian rộng lớn khác xuyên suốt cả bài thơ như Pha Luông,
Mường Hịch, Mai Châu,… Dường như nỗi nhớ của nhà thơ dàn trải dài khắp chiều
không gian, mỗi nơi mà nhà thơ từng bước chân đi qua thì tâm hồn nhà thơ đều cảm
thấy yêu thương gắn bó, trích lời Chế Lan Viên “Nơi nao qua lòng lại chẳng yêu
thương”. Có thể nói mỗi một địa danh biểu trưng cho núi rừng Tây Bắc đều đã trở
thành một kỷ niệm khắc sâu vào trong tâm khảm của nhà thơ không thể phai mờ, đó
cũng là tình cảm thắm thiết sâu nặng, cũng trích lời Chế Lan Viên “Khi ta ở chỉ là nơi
đất ở/Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn”.
Hình ảnh “sương lấp đoàn quân mỏi” vốn gợi hình ảnh đoàn quân Tây Tiến trở về
Mường Lát trong màn sương mờ mờ ảo của núi rừng Tây Bắc, gợi lên vẻ đẹp lãng
mạn của thiên nhiên núi rừng, đồng thời là vẻ đẹp đông đảo, đoàn kết của người lính
chiến. Cảm giác “mỏi” hiện diện trong gân cốt người lính chiến, dường như vẫn còn
như mới trong tâm hồn Quang Dũng, điều ấy càng chứng tỏ nỗi nhớ sâu sắc của tác
giả, bởi kỷ niệm càng nhỏ bao nhiêu thì nỗi nhớ là càng to lớn bấy nhiêu, nhớ kỹ đến
cả cái “mỏi” hành quân xa! “Mường Lát hoa về trong đêm hơi”, hoa ở đây có thể hiểu
là ngàn hoa của núi rừng, hiện thân cho vẻ đẹp của thiên nhiên, nhưng có lẽ chính xác
hơn, thì hoa ấy là ánh sáng của ngọn đuốc bập bùng trong đêm tựa đóa hoa lửa trong
những đêm hành quân mịt mờ trở về Mường Lát. Hình ảnh ngọn đuốc hoa vừa gợi lên
nét lãng mạn, vừa hào hùng của một thời Tây Tiến…
Sau nỗi nhớ về Mường Lát về Sài Khao chính là kỷ niệm về những ngày hành quân
chiến đấu đầy gian khổ, về vùng núi rừng Tây Bắc lắm hiểm trở, nguy nan.
“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây, súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”
Điệp từ “dốc” gợi lên cảnh những đỉnh dốc nối tiếp nhau, hết đỉnh dốc này lại tới đỉnh
dốc khác, chẳng biết bao giờ mới hết. Từ láy “khúc khuỷu”, “thăm thẳm” gợi lên sự
hiểm trở, quanh co, lắt léo gập ghềnh, thêm vào đó là sự chênh vênh của núi rừng, bên
là vách núi bên là vực thẳm, sự hun hút của cung đường. Cả câu thơ gợi mở một
không gian hành quân vừa cao lại vừa sâu rộng và người lính đang phải nỗ lực hết sức
mình để vượt qua những chặng đường đầy nguy khó. Điệp ngữ “Ngàn thước” kết hợp
với nghệ thuật tương phản “lên cao-xuống”, cũng tiếp tục vừa gợi ra độ cao chót vót
của đỉnh dốc, vừa gợi ra độ sâu thăm thẳm của đáy dốc. Lời thơ làm nổi bật được tính
chất hùng vĩ, hiểm trở nổi bật của núi rừng Tây Bắc và nỗ lực vượt lên trên những khó
khăn địa hình hành quân của người lính chiến lúc bấy giờ. Nhưng dẫu thiên nhiên có
hùng vĩ, trùng điệp, khúc khuỷu đến mấy thì cũng trở nên vô nghĩa dưới bước chân
Cảm nhận 14 câu đầu bài thơ Tây Tiến
của binh đoàn Tây Tiến, người lính đã hiện lên với tầm vóc là một đối thủ xứng tầm
của thiên nhiên. Từ láy “heo hút” thể hiện sự hoang vắng, lạnh lẽo của núi rừng, nơi
dường như chưa từng có bước chân người đến, chính vì người lính hành quân trên
những ngọn núi cao chót vót, nên những “cồn mây” mới như đang quanh quẩn, như
đùa giỡn dưới chân, ngỡ rằng người chiến binh đang bước đi trên mây chứ chẳng phải núi rừng.
Hình ảnh “súng ngửi trời” là một hình ảnh nhân hóa thú vị và đầy sáng tạo của Quang
Dũng, vì người lính hành quân qua những đỉnh núi, nơi có thể chạm đến mây, thì
những khẩu súng khoác trên vai, mũi súng dường như đang chọc thủng trời xanh kia,
nói là “súng ngửi trời” đó là cách cảm nhận thật tinh nghịch của người lính trẻ lãng
mạn, hài hước và hồn nhiên. Câu thơ cuối có âm điệu thật khác so với ba câu thơ trên,
lời thơ nhẹ nhàng trầm xuống, tưởng tượng như người lính chiến từ trên đỉnh núi cao
mà phóng tầm mắt xuống, thấy những cảnh vật mơ hồ không sắc nét, nhưng đó là dấu
hiệu của sự sống, “mưa xa khơi” gợi cảm giác khoan khoái mát lạnh của làn mưa
trắng xóa. Đó là nét đẹp lãng mạn của núi rừng Tây Bắc, đồng thời cũng gợi lên trong
tâm hồn người lính những cảm giác yên bình, về một chốn dừng chân, để tiếp thêm
động lực cho những chặng đường trước mắt.
Sau những ngày hành quân gian khổ, thì hồi ức của Quang Dũng tiến về sự hi sinh của
một người lính Tây Tiến.
“Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời!”
Các gọi “anh bạn” thể hiện tình cảm thân thiết trìu mến, cụm từ “không bước nữa” và
“bỏ quên đời” đều là cách nói tránh về cái chết, điều đó là giảm đi sự đau thương mất
mát, đồng thời nhấn mạnh sự hy sinh cao cả của người lính chiến. Tư thế hi sinh “gục
lên súng mũ”, thể hiện tinh thần người lính chiến dẫu có hy sinh cũng không hề rời đi
trách nhiệm, trang bị gắn bó với đời lính, đó là một tư thế ngang tàng, gan góc, quả
cảm của người lính. Có thể nói trong hai dòng thơ trên có sự đau đớn xót xa của nhà
thơ với người đồng đội đồng thời cũng là tấm lòng cảm phục với sự hy sinh anh hùng
ấy. Lời thơ cũng cho thấy cái nhìn tỉnh táo và dũng cảm của Quang Dũng khi viết về
chiến tranh, nhưng không hề giấu đi những nỗi đau mất mát.
Tiếp đến là nỗi nhớ về một thời gian khổ và lãng mạn, điều ấy được thể hiện rõ ràng trong 4 dòng thơ sau:
“Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người
Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”
Cảm nhận 14 câu đầu bài thơ Tây Tiến
Cấu trúc thơ tân kỳ độc đáo, dùng động từ mạnh mẽ trong câu “Chiều chiều oai linh
thác gầm thét” thể hiện cái dữ dội, hùng vĩ hoang sơ của vùng núi rừng Tây Bắc. Bên
cạnh đó, không chỉ dừng lại ở sự hoang sơ hùng vĩ, mà núi rừng nơi đây còn ẩn chứa
những mối hung hiểm khôn lường, Quang Dũng viết “Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu
người”, nơi rừng thiêng nước độc, lại còn có sự hiện diện của ác thú. Mãi chìm trong
những ký ức nhưng nhà thơ bỗng sực tỉnh “Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói/Mai Châu
mùa em thơm nếp xôi”, Tây Tiến đã xa, Tây Bắc cũng đã xa lắm rồi, chỉ còn lại kỷ
niệm. Nỗi nhớ ở đây được bộc lộ một cách tha thiết, cồn cào, nhớ cả về những bát
cơm, hương khói lửa, nắm xôi ấm tình quân dân, đồng thời cũng gợi lên một thời
kháng chiến vừa vất vả vừa lãng mạn, thi vị nên thơ.
Suốt 14 dòng thơ đầu xoay xung quanh nỗi nhớ khôn nguôi về thiên nhiên núi rừng
Tây Bắc, về vẻ đẹp vượt lên trên khó khăn gian khổ của người lính, sự hy sinh cao cả,
nét lãng mạn trong tâm hồn người lính trẻ giữa những gian khổ chất chồng. Bằng ngòi
bút hào hoa và lãng mạn Quang Dũng đã diễn tả một cách chân thực nhất những nỗi
nhớ khắc khoải trong tâm hồn của người lính chiến về một thời kháng chiến đã đi qua
với giọng điệu phóng khoáng, hình ảnh thơ giàu sức gợi, nhịp thơ biến đổi, tất cả đã
tạo nên một âm hưởng riêng, một phong cách riêng của người lính Tây Tiến.
Cảm nhận khổ 1 Tây Tiến - Mẫu 7
Quang Dũng là một trong những nhà thơ chiến sĩ tiêu biểu của thời kì kháng chiến
chống Pháp. Ông đặc biệt thành công khi viết về đề tài người lính trí thức tiểu tư sản
hào hoa, phong nhã. Một trong những bài thơ nổi tiếng viết về người lính là bài thơ Tây Tiến.
Cảm hứng chủ đạo trong suốt bài thơ là cảm hứng về nỗi nhớ. Đó là nỗi nhớ khó phai
của đời người lính Tây Tiến được khắc hoạ thành công ở đoạn đầu của bài thơ
"Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi"
Tây Tiến là 1 trong những bài thơ hay, tiêu biểu của Quang Dũng. Nhắc đến nhà thơ,
không ai không thể không nhớ đến Tây Tiến. Bài thơ được sáng tác cuối năm 1948
khi nhà thơ đóng quân ở Phù Lưu Chanh - 1 làng ven bờ sông Đáy, nhớ về đơn vị cũ
ông đã viết nên bài thơ. Lúc đầu, ông đặt bài thơ là Nhớ Tây Tiến nhưng về sau đổi lại
thành Tây Tiến vì nhà thơ cho rằng chỉ với 2 từ Tây Tiến cũng đủ đã gợi lên nỗi nhớ
là cảm hứng chủ đạo chứ không cần đến từ "nhớ"
Là 1 người lính trẻ hào hoa, lãng mạn ra đi theo tiếng gọi của tổ quốc, sống và chiến
đấu nơi núi rừng gian khổ nhưng chất thi sĩ vẫn trào dâng mãnh liệt trong lòng nhà
thơ. 1 thời gắn bó sâu đậm với Tây Tiến, với đồng đội, với núi rừng đã làm cho ông
Cảm nhận 14 câu đầu bài thơ Tây Tiến
không khỏi bồi hồi, xúc động khi nỗi nhớ về Tây Tiến dâng trào trong kí ức của nhà thơ.
"Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi"
Câu thơ như tiếng gọi chân thành, tha thiết xuất phát từ trái tim và tâm hồn người thi
sĩ. Bằng cách sử dụng câu cảm thán mở đầu bài thơ, Quang Dũng đã gọi tên cảm hứng
chủ đạo của bài thơ là nỗi nhớ cồn cào, da diết về núi rừng Tây Bắc. bằng thủ pháp
nghệ thuật nhân hoá, câu thơ trở nên đẹp diệu kỳ. "Sông Mã" không đơn thuần là 1
con sông mà nó đã trở thành 1 hình ảnh hiện hữu, 1 chứng nhân lịch sử trong suốt
cuộc đời người lính Tây Tiến với bao nỗi vui buồn, được mất. "Tây Tiến" không chỉ
để gọi tên 1 đơn vị bộ đội mà nó đã trở thành 1 người bạn " tri âm tri kỉ" để nhà thơ giãi bày tâm sự
"Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi"
Câu thơ thứ 2 với điệp từ "nhớ" được lặp lại 2 lần đã diễn tả nỗi nhớ quay quắt, cồn
cào đang ùa vào tâm trí Quang Dũng. tính từ "chơi vơi" kết hợp với từ "nhớ" đã khắc
sâu được tình cảm nhớ nhung da diết của nhà thơ và nỗi nhớ đó như 1 cơn thác lũ tràn
vào tâm trí nhà thơ đã đẩy ông vào trạng thái bồng bềnh, hư ảo. 2 câu đầu và cách
dùng từ chọn lọc, gợi hình gợi cảm đã mở cửa cho nỗi nhớ trào dâng mãnh liệt trong tâm hồn nhà thơ
"Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời"
Quang Dũng đã liệt kê hàng loạt các địa danh như: Sài Khao, Mường Lát, Pha
Luông... Đó là địa bàn hoạt động của binh đoàn Tây Tiến, những nơi họ đi qua và
dừng chân trên bước đường hành quân gian khổ, mệt nhọc. Nói đến Tây Bắc, là nói
đến vùng đất có địa hình hiểm trở, khí hậu khắc nghiệt. Có những đêm dài hành quân
người lính Tây Tiến vất vả đi trong đêm dày đặc sương giăng, không nhìn rõ mặt
nhau. "Đoàn quân mỏi" nhưng tinh thần không "mỏi". Bởi ý chí quyết tâm ra đi vì tổ
quốc đã làm cho những trí thức Hà thành yêu nước trở nên kiên cường, bất khuất hơn.
Quang Dũng đã rất tài tình khi đưa hình ảnh "sương" vào đây để khắc hoạ hơn sự khắc
nghiệt của núi rừng Tây Bắc trong những đêm dài lạnh lẽo. Cũng miêu tả về "sương",
Chế Lan Viên cũng đã viết trong "Tiếng hát con tàu":
"Nhớ bản sương giăng, nhớ đèo mây phủ
Nơi nao qua lòng lại chẳng yêu thương
Cảm nhận 14 câu đầu bài thơ Tây Tiến
Khi ta ở chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi đất đã hoá tâm hồn"
Có lẽ thiên nhiên rất gắn bó với người lính Tây Bắc nên nó đã trở thành 1 kí ức khó
phai trong lòng nhà thơ. Thiên nhiên tuy có đẹp nhưng cũng rất hiểm trở. Có những
lúc người lính Tây Tiến phải vất vả để trèo lên đỉnh chạm đến mây trời. Quang Dũng
đã khéo léo sử dụng từ "thăm thẳm" mà không dùng từ chót vót" bởi nói "chót vót"
người ta còn có thể cảm nhận và thấy được bề sâu của nó nhưng "thăm thẳm" thì khó
có ai có thể hình dung được nó sâu thế nào. Bằng những từ láy gợi hình ảnh rất cao
như "khúc khuỷu", "thăm thẳm", "heo hút", nhà thơ đã làm cho người đọc cảm nhận
được cái hoang sơ, dữ dội của núi rừng Tây Bắc. Nhà thơ cũng rất trẻ trung, tinh
nghịch khi đưa hình ảnh nhân hoá, ẩn dụ " súng ngửi trời" để cho ta thấy bên cạnh
thiên nhiên hiểm trở còn hiện lên hình ảnh người lính với tư thế oai phong lẫm liệt nơi
núi rừng hoang vu. Câu thơ sử dụng nhiều thanh trắc đã tạo nên vẻ gân guốc, nhọc
nhằn đã nhấn mạnh được cảnh quang thiên nhiên Tây Bắc thật cheo leo, hiểm trở
"Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống"
Điệp từ "ngàn thước" đã mở ra 1 không gian nhìn từ trên xuống cũng như từ dưới lên
thật hùng vĩ, giăng mắc. Bên cạnh cái hiểm trở, hoang sơ ta cũng thấy được vẻ đẹp trữ tình nơi núi rừng:
"Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi"
Có những cơn mưa rừng chợt đến đã để lại bao giá rét cho người lính Tây Tiến.
Nhưng dưới ngòi bút của Quang Dũng, nó trở nên lãng mạn, trữ tình hơn. Nhà thơ đã
thông minh, sáng tạo khi nói đến mưa rừng bằng cụm từ "mưa xa khơi". Nó gợi lên 1
cái gì đó rất kì bí, hoang sơ giữa chốn núi rừng. Câu thơ thứ 8 nhiều thanh bằng như
làm dịu đi vẻ dữ dội, hiểm trở của núi rừng và mở ra 1 bức tranh thiên nhiên nơi núi
rừng đầy lãng mạn. 8 câu thơ đầu của bài thơ Tây Tiến là nỗi nhớ về núi rừng Tây
Bắc, về đồng đội Tây Tiến nhưng qua những chi tiết đặc tả về thiên nhiên núi rừng
Tây Bắc, nó đã trở thành 1 kí ức xa xôi trong tâm trí nhà thơ. Đó là 1 nỗi nhớ mãnh
liệt của người lính Tây Tiến nói riêng và của những người lính nói chung.
Tuy trên chặng đường hành quân, các anh gặp vô vàn khó khăn, gian nan đến tột bậc
nhưng ta vẫn thấy ở các anh có sự can trường tột bậc. Đoàn quân vẫn tiến bước, người
nối người, băng lên phía trước. Uy lực của thiên nhiên như bị giảm xuống và giá trị
con người như được nâng cao hẳn lên một tầm vóc mới. Quang Dũng cũng nói đến sự
hi sinh của đồng đội trên những chặng đường hành quân vô cùng khó khăn:
“Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời!”
Cảm nhận 14 câu đầu bài thơ Tây Tiến
“Tây Tiến” đã từng có một thời gian không được đưa vào chương trình giảng dạy bởi
tác phẩm đã đề cập đến đề tài nhạy cảm trong văn chương Việt Nam thời chiến tranh,
đó là viết về cái chết, viết về sự hi sinh. Chúng ta biết rằng, văn chương muốn thuyết
phục lòng người thì trước hết phải chân thật. Dù là viết về chiến tranh nhưng Quang
Dũng không nề hà, né tránh sự thật đau thương. Vì vậy mà “Tây Tiến” được một lần
nữa đưa vào chương trình giảng dạy như một kiệt tác văn chương. Hai tiếng “ anh
bạn” cất lên như một tiếng nấc nghẹn ngào. Sức nặng của câu thơ đã dồn vào từ láy
“dãi dầu” thể hiện vất vả, khó khăn trên chặng đường hành quân. Đặc biệt thay, tác
giả không viết “bị gục xuống” mà ông lại viết là “không bước nữa”, biến các anh từ
thế bị động sang chủ động, họ chấp nhận cái chết, coi nó chỉ đơn giản như một giấc
ngủ mà thôi. “Súng mũ” là biểu tượng của người lính, cho thấy rằng dù có ra đi, các
anh vẫn không quên mình vẫn là một người lính, dù có gục cũng phải “gục lên” súng
mũ của người lính, tư thế hi sinh đầy xót xa nhưng cũng thật hào hùng. Hình ảnh về
người lính anh dũng hy sinh ấy sau này ta còn bắt gặp trong “Dáng đứng Việt Nam”:
“Và anh chết trong khi đang đứng bắn
Máu anh phun theo lửa đạn cầu vồng”
Dáng của các anh bộ đội cụ Hồ dù có gục xuống nhưng vẫn không phai mờ trong tâm
của Quang Dũng, của đoàn quân Tây Tiến và của cả những người tham gia kháng
chiến. Họ đã hy sinh trên chặng đường hành quân, đã có những người lính nằm xuống,
rõ ràng súng đã nổ, người dân Việt Nam cũng đổ máu, chiến tranh không phải là trò
đùa, có người ra đi thì có người hi sinh, đó là điều rất đỗi bình thường. Người lính ra
đi nhưng đồng đội anh lại tiếp bước. “Bỏ quên đời” là cách nói giảm nhẹ sự mất mát,
tang thương. Khi người lính từ trần, cái chết bây giờ trở nên không đáng kể. Cách nói
giảm phần thê lương mà tăng thêm cái tính chất cao cả, sự hy sinh thầm lặng của
những người lính Tây Tiến. Thông qua lăng kính lãng mạn của tác giả thì sự hi sinh
ấy hiện về chỉ như giấc ngủ của người lính. Ông thật tài tình khi miêu tả cái chết của
người lính nhẹ tựa lông hồng. Nhưng dù thế nào vẫn không thể diễn tả hết được sự xót
xa, thương tiếc, vì thế tác giả đành ngậm ngùi đặt dấu chấm cảm “!” cuối câu như một
nén nhang tâm tình gửi lại.
Khó khăn chưa dừng lại ở đó, đất Tây Bắc đâu chỉ có đèo cao dốc thẳm hay mưa ngàn
suối lũ mà còn biết bao thử thách khó khăn hơn. Chặng đường hành quân của các anh
qua núi rừng Tây Bắc đầy hoang dại, bí ẩn, dường như là để thử thách bước chân của người lính :
“Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”
Quang Dũng đã chọn ra hai mốc thời gian là “chiều chiều” và “đêm đêm”, đây là thời
điểm bộc lộ rõ nhất sự nguy hiểm của chốn rừng núi Tây Bắc, và sự nguy hiểm ấy cứ
Cảm nhận 14 câu đầu bài thơ Tây Tiến
tuần hoàn, tuần hoàn, mỗi ngày các anh đều phải đối diện với những khó khăn, hiểm
nguy như thế. Các anh phải thường xuyên hành quân qua những mảnh đất rừng thiêng
nước độc cho nên bị ám ảnh trong tâm hồn là tiếng thác nước gầm thét dữ dội. Ở nơi
xa xôi, thiên nhiên làm chủ thì khó khăn như tăng thêm bội phần. “Mường Hịch” với
sức nặng dồn vào từ “Hịch” thể hiện bước chân nặng trịch có bóng cọp vờn người,
cọp ăn thịt người, cọp xé xác người, cọp giết người. Nhưng nhìn nhận quan bản lĩnh
của người lính thì bóng nổ ấy chỉ đơn thuần là trò đùa trẻ con, điều này được thể hiện
qua từ “trêu” để thử thách sự gan dạ, độ bền gan của các anh bộ đội cụ Hồ mà thôi.
Và ở những câu thơ này, tác giả mô tả rất chân thực, dù chúng ta không sống ở thời kỳ
này, chúng ta vẫn chưa từng đặt chân lên núi non miền Tây, chưa nhập ngũ vào đoàn
binh Tây Tiến. Nhưng đọc tác phẩm ta thấu hiểu được gian lao mà người lính trải qua.
Để khép lại khổ một, nhà thơ đã kết thúc bằng hai câu thơ đầy cảm xúc thương nhớ,
nỗi nhớ ấy phả vào bản làng Tây Bắc thân yêu:
“Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”
Lần thứ hai trong bài thơ, tác giả gọi tên đơn vị Tây Tiến, phải chăng ông nhớ quá
những gian khổ, kỉ niệm gắn bó với các đồng đội của mình trong suốt những năm
tháng kháng chiến cùng nhau nên Quang Dũng mới thốt lên “nhớ ôi Tây Tiến” như
vậy. Sau chặng đường hành quân vất vả, mệt mỏi các chiến sĩ có dịp dừng chân dựng
trại ở một bản làng có tên rất đỗi thân thương-Mai Châu. Ở đây các thiếu nữ dân tộc
trẻ trung xinh xắn mang cơm nếp thơm lên cho các anh, cùng các anh quay quần ngồi
bên nồi xôi nếp khiến bao nhiêu vất vả, khó khăn đều tan biến. Đây là khung cảnh
đậm đà tình quân dân, chiến tranh lùi dần vào trong một góc khuất nào đó nhường chỗ
cho một cảnh sinh hoạt vui tươi. Sau thời gian dài hành quân vất vả giữa núi rừng phải
chịu đói, chịu khát. Nay các anh được đồng bào Mai Châu đón tiếp bằng “cơm lên
khói” cùng mùi hương “thơm nếp xôi” thật là ấm lòng. Quang Dũng đã dùng từ “mùa
em”thể hiện sự gần gũi, thân thương và nó gắn bó như “tình em”, các anh bộ đội cụ
Hồ nhớ những vụ mùa, nhớ cơm nếp thơm và nhớ cả những bóng hồng miền sơn cước.
Bài thơ "Tây Tiến" dưới ngòi bút của lãng mạn, trữ tình của Quang Dũng đã trở thành
1 kiệt tác của mọi thời đại. Cảm hứng chủ đạo xuyên suốt bài thơ đó là cảm hứng về
nỗi nhớ. Quang Dũng đã miêu tả nỗi nhớ đó bằng ngòi bút tài tình giàu chất nhạc, chất
họa và đậm chất thơ. Bài thơ là 1 khúc nhạc của tâm hồn, của cuộc sống. Bởi thế,
Xuân Diện thật chính xác khi cho rằng đọc bài thơ "Tây Tiến" như đang ngậm âm
nhạc trong miệng. Bài thơ hay bởi lẽ nó được viết nên từ ngòi bút hào hoa, lãng mạn
và của 1 người lính Tây Tiến nên nó có 1 cái rất riêng và đẹp. Mang chất lính nên
Quang Dũng mới có thể viết nên những vần thơ hay như thế.
Cảm nhận 14 câu đầu bài thơ Tây Tiến
Cảm nhận khổ 1 Tây Tiến - Mẫu 8
Quang Dũng là một nghệ sĩ đa tài làm thơ, vẽ tranh, viết văn, soạn nhạc nhưng thành
công nhất là thơ. Ông là nhà thơ nổi tiếng của văn học Việt Nam thời kì kháng chiến
chống thực dân Pháp với một hồn thơ lãng mạn, tài hoa, thơ giàu chất nhạc, chất họa,
được mệnh danh là nhà thơ của "Xứ Đoài mây trắng" với những tác phẩm nổi tiếng
như: " Mây đầu ô", "Thơ văn Quang Dũng"...Trong đó tiêu biểu là bài thơ "Tây Tiến".
Bài thơ không chỉ là nỗi nhớ của Quang Dũng về đoàn quân Tây Tiến mà còn khắc
họa rõ nét cuộc hành quân gian khổ của đoàn quân Tây Tiến và khung cảnh thiên
nhiên miền Tây hùng vĩ, hoang sơ, dữ dội qua đoạn thơ:
"Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi .........
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi"
Bài thơ "Tây Tiến" ra đời trong hoàn cảnh đặc biệt. Tây Tiến là một đơn vị quân đội
được thành lập đầu năm 1947, có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào, bảo vệ biên giới
Việt -Lào, đồng thời đánh tiêu hao lực lượng địch. Chiến sĩ Tây Tiến phần đông là
thanh niên, học sinh, trí thức Hà Nội, chiến đấu trong những hoàn cảnh gian khổ
nhưng họ sống rất lạc quan và chiến đấu rất dũng cảm.Quang Dũng là đại đội trưởng ở
đơn vị Tây Tiến, cuối năm 1948 khi rời đơn vị cũ chưa bao lâu, tại Phù Lưu Chanh,
Quang Dũng viết bài thơ Nhớ Tây Tiến. Khi in lại, tác giả đổi tên bài thơ là "Tây Tiến".
Mở đầu bài thơ bằng những dòng thơ chan chứa nỗi nhớ, lời thơ như chợt thốt lên đầy nhớ nhung và tiếc nuối:
"Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi"
Dòng sông Mã như là điểm gợi để nhà thơ nhớ về đoàn quân Tây Tiến, với lời gọi tha
thiết ngọt ngào. Nhà thơ đã rất tài tình khi sử dụng từ láy "chơi vơi" kết hợp với hiệp
vần "ơi" mở ra một không gian vời vợi của nỗi nhớ đồng thời diễn tả tinh tế một cảm
xúc mơ hồ, khó định hình, cứ lâng lâng khó tả trong lòng người ra đi nhưng cảm xúc
rất chân thực của một người đồng đội đã rời xa đơn vị để rồi nỗi nhớ như choán đầy
cả không gian " Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi". Câu thơ có bảy từ thì có hai từ "nhớ".
Điệp từ "nhớ" như tô đậm cảm xúc toàn bài thơ, không phải ngẫu nhiên mà nhan đề
ban đầu của bài thơ tác giả đặt là " Nhớ Tây Tiến". Để rồi nỗi nhớ ấy cứ trở đi trở lại
trong toàn bài thơ tạo nên giọng thơ hoài niệm sâu lắng, bồi hồi. Nỗi nhớ tha thiết,
niềm thương da diết mà nhà thơ dành cho miền Tây, cho đồng đội cũ của mình, tất cả
trở thành kỉ niệm không thể nào quên.
Cảm nhận 14 câu đầu bài thơ Tây Tiến
Không phải khi đến với "Tây Tiến" người đọc mới cảm nhận được nỗi nhớ mà ngay ở
trong thơ ca Việt Nam khi nói về nỗi nhớ cũng đã từng diễn tả:
"Nhớ ai bổi hổi bồi hồi
Như đứng đống lửa như ngồi đống than"
Vậy nhưng đến với Quang Dũng nỗi nhớ sáng tạo hơn cả với nỗi nhớ "chơi vơi" là
trạng thái trơ trọi giữa khoảng không, không thể bấu víu vào đâu, một mình với hoài
niệm cứ lửng lơ, sâu lắng, bâng khuâng, tha thiết vọng vào lòng người đọc không thể
nào quên. Nỗi nhớ bao trùm cả khoảng không gian và thời gian ấy Quang Dũng đã
đưa người đọc đến với thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ, dữ dội nhưng cũng thật êm đềm
thơ mộng. Đó là những địa danh mà đoàn quân Tây Tiến đã đi qua, "Sài Khao",
"Mường Lát", "Pha Luông", "Mường Hịch", "Mai Châu". Những địa danh khi đi vào
thơ Quang Dũng nó không còn mang màu sắc trung tính, vô hồn trên bản đồ nữa mà
gợi lên trong lòng người đọc không khí núi rừng xa xôi, lạ lẫm, hoang sơ và bí ẩn.
Không chỉ vậy những con đường hành cũng đầy những hiểm nguy:
"Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi"
Những con đường hành quân gian nan vất vả, trên đỉnh Sài Khao sương dày "lấp" cả
đoàn quân, Quang Dũng dùng chữ "mỏi" như tái hiện hình ảnh đoàn quân mệt rã rời
tuy vậy họ vẫn đi trong " sương lấp" thật hùng vĩ và tráng lệ. Đâu chỉ có thế, Mường
Lát đêm về sương tỏa khắp không gian. Tác giả không nói "hoa nở" mà "hoa về"
không nói sương mà là "đêm hơi" như càng nhấn mạnh vẻ đẹp tâm hồn lãng mạn, hào
hoa của những người lính Hà Thành.
Con đường hành quân ấy còn vô cùng gập ghềnh, hiểm trở, đầy sự hiểm nguy giữa
một bên là núi cao với một bên là vực sâu thăm thẳm:
"Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống"
Không gian được mở ra ở nhiều chiều: chiều cao đến chiều sâu hút của những dốc núi,
chiều sâu của vực thẳm, bề rộng của những thung lũng trải ra sau màn sương. Các từ
láy giàu sức tạo hình khiến người đọc hình dung những con đường quanh co, dốc rồi
lại dốc, những đỉnh đèo hoang vắng khuất vào mây trời. Cách ngắt nhịp 4/3 của câu
thơ "Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống" tạo thành một đường gấp khúc của dáng
núi. Như vậy ba dòng thơ liên tiếp trong đoạn thơ đã sử dụng nhiều thanh trắc gợi sự
vất vả nhọc nhằn của những người lính Tây Tiến trên con đường hành quân.
Cảm nhận 14 câu đầu bài thơ Tây Tiến
Nếu như ba câu thơ trên gợi lên một cảm giác gập ghềnh hiểm trở thì đến mới câu thơ
tiếp theo như một phút lắng lòng của những người lính Tây Tiến bên những ngôi nhà
nơi xóm núi như cánh buồm thấp thoáng trên mặt biển trong không gian bình yên và
êm ả của mưa giăng đầy thung lũng thành 'xa khơi". Đọc câu thơ người đọc thấy bình
yên đến kì lạ, phải chăng những phút giây hiếm hoi ấy như tiếp thêm sức mạnh cho
người lính chiến đấu tiếp với kẻ thù cũng như thiên nhiên khắc nghiệt nơi đây:
"Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người"
Quang Dũng nhớ đến âm thanh "gầm thét" của thác dữ, tiếng gầm gào của loài hổ dữ
rình rập như muốn nuốt chửng người lính mỗi khi chiều đến, đêm về. Thời gian buổi
chiều, về đêm lại càng nhấn mạnh thêm cảm giác hoang sơ của chốn "sơn lâm bóng cả
cây già". Những từ ngữ và hình ảnh nhân hóa, từ láy được nhà thơ sử dụng để tô đậm
ấn tượng về một vùng núi hoang vu dữ dội nơi thiên nhiên hoang dã đang ngự trị và chiếm vai trò chúa tể.
Chỉ bằng mấy dòng thơ đầu Quang Dũng đã tái hiện đầy đủ bức tranh của núi rừng
miền Tây được vẽ bằng bút pháp vừa hiện thực, vừa lãng mạn, vừa giàu chất họa lại
giàu chất nhạc. Nét vẽ vừa gân guốc, mạnh mẽ, dữ dội nhưng lại cũng rất mềm mại
tạo nên vẻ đẹp hài hòa cho bức tranh thiên nhiên miền Tây hùng vĩ mà đoàn quân Tây
Tiến đi qua. Đoạn thơ không chỉ là nỗi nhớ về thiên nhiên miền Tây mà trung tâm của
nỗi nhớ ấy còn là những người lính, những đồng đội cũ được Quang Dũng thể hiện
bằng vẻ đẹp bi tráng trên chặng đường hành quân đầy chông gai, nguy hiểm.
Ấn tượng trong lòng người đọc về người lính Tây Tiến có lẽ bởi vẻ đẹp lạc quan trong
chặng đường hành quân gian khổ qua câu thơ đầy chất lính:
"Heo hút cồn mây súng ngửi trời"
Đó là hình ảnh tếu táo, lạc quan trong gian khổ với vẻ đẹp hồn nhiên qua cách nói
hóm hỉnh "súng ngửi trời". Nếu viết "súng chạm trời", nhà thơ sẽ chỉ tả được độ cao
của đỉnh dốc mà khi đứng trên đó, mũi súng của người lính Tây Tiến như chạm cả vào
nền trời. Còn ở đây, Quang Dũng đã gợi được "chất lính" trẻ trung, vẻ tươi mới, sức
sống dạt dào trong tâm hồn của người lính Tây Tiến vốn xuất thân từ những thanh
niên trí thức trẻ Hà Nội. Đồng thời còn mang đến người đọc sự mới lạ, hóm hỉnh đầy
chất lính, mũi súng của người lính được nhân hóa thành hình ảnh "súng ngửi trời" tinh
nghịch, đầy chất thơ, mang cảm hứng lãng mạn đồng thời khẳng định chí khí quyết
tâm của người chiến sĩ chiếm lĩnh mọi tầm cao gợi cho người đọc đến với câu thơ của Tố Hữu:
Cảm nhận 14 câu đầu bài thơ Tây Tiến
"Rất đẹp hình anh lúc ráng chiều
Bóng dài trên đỉnh dốc cheo leo
Núi không đè nổi vai vươn tới
Lá ngụy trang leo với gió đèo"
Và trên chặng đường hành quân ấy dù với cái nhìn lãng mạn, tinh nghịch thì người
lính Tây Tiến không thể tránh được sự thật đã có những người đồng đội:
"Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời"
Khi nói về cuộc chiến tranh khốc liệt ấy. Tác giả đã không né tránh hiện thực của
những mất mát đau thương trong cuộc chiến . Trong cuộc hành quân gian khổ đã có
những người ngã xuống vì kiệt sức. vì mũi súng của kẻ thù. Nhưng Quang Dũng đã
thể hiện cách nói giảm, nói tránh về cái chết vừa xót xa ,vừa ngạo nghễ "không bước
nữa" để rồi "bỏ quên đời" như một sự bình tĩnh, thản nhiên đón nhận cái chết, xem cái
chết nhẹ tựa lông hồng. Nhớ những người đồng đội đã ngã xuống nhưng không gợi
cảm giác bi luỵ. Hơn thế nỗi mất mát, niềm cảm thương được nói bằng giọng thơ
ngang tàng, kiêu hãnh "Gục lên súng mũ bỏ quên đời".Đó là một tư thế chết trong
chiến đấu, trong sự hiên ngang, bất khuất.
Document Outline

  • Dàn ý cảm nhận 14 câu đầu bài thơ Tây Tiến
    • Dàn ý số 1
    • Dàn ý số 2
  • Cảm nhận Tây Tiến 14 câu thơ đầu - Mẫu 1
  • Phân tích 14 câu thơ đầu bài Tây Tiến - Mẫu 2
  • Cảm nhận Tây Tiến khổ 1 - Mẫu 3
  • Cảm nhận 14 câu đầu bài thơ Tây Tiến - Mẫu 4
  • Cảm nhận khổ 1 Tây Tiến - Mẫu 5
  • Cảm nhận khổ 1 bài thơ Tây Tiến - Mẫu 6
  • Cảm nhận khổ 1 Tây Tiến - Mẫu 7
  • Cảm nhận khổ 1 Tây Tiến - Mẫu 8