Cảm nhận bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng (Sơ đồ tư duy) | Văn mẫu 12
Cảm nhận về bài thơ Tây Tiến các em sẽ được học trong chương trình Ngữ văn 10 Chân trời sáng tạo và Ngữ văn 12 hiện hành. Vì thế 12 bài văn cảm nhận về Tây Tiến dưới đây sẽ là nguồn tư liệu cực kì hữu ích, gồm cả mẫu ngắn gọn và đầy đủ để các bạn tham khảo, lựa chọn theo sức viết của mình.
Preview text:
: Cảm nhận bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
Hướng dẫn làm bài cảm nhận Tây Tiến Phân tích đề
- Yêu cầu đề bài: nêu cảm nhận về nội dung, nghệ thuật của bài thơ Tây Tiến.
- Phạm vi tư liệu, dẫn chứng: các chi tiết, từ ngữ, câu thơ... trong phạm vi bài thơ Tây
Tiến (Quang Dũng)
- Phương pháp lập luận chính: cảm nhận.
Các luận điểm chính cần triển khai
Luận điểm 1: Đường hành quân của đoàn quân Tây Tiến giữa thiên nhiên Tây Bắc
Luận điểm 2: Kỉ niệm đẹp về tình quân dân, vẻ đẹp của thiên nhiên Tây Bắc
Luận điểm 3: Hình tượng người lính Tây Tiến
Luận điểm 4: Lời hẹn ước, gửi gắm tình cảm của tác giả
Dàn ý cảm nhận bài thơ Tây Tiến Dàn ý số 1 A. Mở bài
● Giới thiệu một số nét tiêu biểu về tác giả Quang Dũng và đặc trưng thơ ca của
ông (vừa hồn nhiên vừa tinh tế, mang vẻ đẹp hào hoa, phóng khoáng, đậm chất lãng mạn).
● Nêu một số nét khái quát về bài thơ Tây Tiến: hoàn cảnh ra đời, giá trị nội
dung nổi bật của bài thơ. B. Thân bài
a, Đường hành quân của đoàn quân Tây Tiến giữa thiên nhiên Tây Bắc
: Cảm nhận bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
- Hai câu thơ đầu: nỗi nhớ thốt lên thành lời "Tây Tiến ơi" là tiếng gọi thân thương,
"nhớ chơi vơi"là nỗi nhớ thường trực, bao trùm không gian.
- Bức tranh thiên nhiên Tây Bắc hoang sơ và dữ dội:
● Địa danh Sài Khao, Mường Lát gợi sự hẻo lánh, xa xôi;
● Các từ láy giàu tính tạo hình: "khúc khuỷu", "thăm thẳm", "heo hút", điệp từ
"dốc", nghệ thuật điệp "Dốc lên ... dốc lên" gợi địa hình hiểm trở, quanh co, gập ghềnh.
● Hình ảnh "súng ngửi trời" thể hiện tầm cao của núi non mà người lính phải
vượt qua nhưng cũng có cái hóm hỉnh của người lính trong đó.
● Nhịp thơ bẻ đôi "Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống" gợi tả sự nguy hiểm tột cùng.
● Hình ảnh nhân hóa: "cọp trêu người", "thác gầm thét" gợi sự hoang sơ, man
dại; thời gian: "chiều chiều", "đêm đêm" những người lính phải thường xuyên
đối mặt với điều hiểm nguy chốn rừng thiêng nước độc.
● Sử dụng phần lớn các thanh trắc nhằm nhấn mạnh sự trắc trở, gập ghềnh của địa hình.
- Khung cảnh thiên nhiên cũng có lúc êm dịu, mang đậm hương vị cuộc sống: "nhà ai
Pha Luông ...", "cơm lên khói", "Mai Châu mùa em ...", thanh bằng tạo cảm giác nhẹ nhàng, yên bình.
- Hình ảnh bi hùng về người lính Tây Tiến "dãi dầu không bước nữa", "gục lên súng
mũ bỏ quên đời": có thể hiểu hai câu thơ đơn thuần miêu tả khoảnh khắc nghỉ ngơi
của người lính sau cuộc hành quân dài, cũng có thể hiểu đó là sự nghỉ ngơi vĩnh viễn.
- Nhận xét: Thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ nhưng đầy rẫy những hiểm nguy, đó chính là
những thử thách đối với những người lính Tây Tiến trên chặng đường hành quân.
b. Kỉ niệm đẹp về tình quân dân, vẻ đẹp của thiên nhiên Tây Bắc
- Kỉ niệm đêm liên hoan thắm tình quân dân:
: Cảm nhận bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
● Không khí đêm liên hoan tưng bừng với mà sắc rực rỡ, lộng lẫy: "bừng lên",
"hội đuốc hoa", "khèn lên man điệu"; con người duyên dáng: "xiêm áo", "nàng e ấp".
● Tâm hồn người lính bay bổng, say mê trong không khí ấm áp tình người:
"Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ".
- Khung cảnh sông nước, con người vùng Tây Bắc:
● Đẹp huyền ảo, hoang dại, thiêng liêng: "Chiều sương", "hồn lau nẻo bến bờ"
● Con người lao động bình dị, mộc mạc: "dáng người trên độc mộc", cảnh vật
duyên dáng, đầy sức sống: "trôi dòng nước lũ hoa đong đưa"
- Nhận xét: nhờ bút pháp lãng mạn, Quang Dũng đã vẽ nên bức tranh thiên nhiên thơ
mộng, cuộc sống sinh hoạt đầm ấm và hình ảnh con người duyên dáng của vùng Tây Bắc.
c. Hình tượng người lính Tây Tiến
- Chân dung người lính được miêu tả chân thực: "đoàn binh không mọc tóc", " xanh
màu lá", họ sống và chiến đấu trong điều kiện khắc nghiệt, thiếu thốn, gian khổ nhưng
vẫn mạnh mẽ "dữ oai hùm".
- Họ là những con người có tâm hồn lãng mạn, trái tim yêu thương "Mắt trừng gửi
mộng"/ "Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm", lấy hình bóng người thương nơi quê nhà
làm động lực chiến đấu.
- Vẻ đẹp bi tráng thể hiện qua sự hi sinh anh dũng của họ:
● Sẵn sàng cống hiến tuổi trẻ của mình cho đất nước "rải rác biên cương mồ viễn
xứ", "chẳng tiếc đời xanh", "anh về đất", ra đi thanh thản, nhẹ nhàng.
● Cái chết đã được lí tưởng hóa như hình ảnh những tráng sĩ xưa: "áo bào",
"khúc độc hành"; thiên nhiên cũng đau đớn thay cho nỗi đau họ phải chịu.
- Nhận xét: Dù trong hoàn cảnh khó khăn những người lính Tây Tiến vẫn có những
nét lãng mạn, hào hoa. Họ mang vẻ đẹp kiêu hùng, sẵn sàng hi sinh cho tổ quốc.
: Cảm nhận bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
d. Lời hẹn ước, gửi gắm tình cảm của tác giả
● Câu thơ nhắc nhớ lại ý nguyện, quyết tâm ra đi một thời của đoàn quân Tây
Tiến: "người đi không hẹn ước", còn là sự tiếc thương những đồng đội đã hi
sinh "thăm thẳm một chia phôi".
● Niềm thương, nỗi nhớ, tình cảm gắn bó của tác giả luôn gửi lại nơi đoàn quân
Tây Tiến: và vùng rừng núi Tây Bắc "Ai lên Tây Tiến ... / Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi" C. Kết bài
● Giá trị nghệ thuật: bút pháp lãng mạn, những sáng tạo trong việc sử dụng ngôn ngữ, hình ảnh thơ
● Tổng kết giá trị nội dung: bài thơ đã tái hiện vẻ đẹp vừa hùng vĩ, vừa thơ mộng
của núi rừng Tây Bắc; hình tượng người lính kiên cường, dũng cảm không ngại
hi sinh nhưng cũng lãng mạn, mộng mơ. Dàn ý số 2 1. Mở bài
- Trình bày một số nét tiêu biểu về tác giả Quang Dũng và đặc trưng thơ ca của ông
(vừa hồn nhiên vừa tinh tế, mang vẻ đẹp hào hoa, phóng khoáng, đậm chất lãng mạn).
- Nêu một số nét khái quát về bài thơ Tây Tiến: hoàn cảnh ra đời, giá trị nội dung nổi bật của bài thơ. 2. Thân Bài
a. Một số nét khái quát
- Tây Tiến: là tên một đoàn quân được thành lập năm 1947, có nhiệm vụ kết hợp với
bộ đội Lào để bảo vệ biên giới Việt - Lào, làm hao mòn lực lượng giặc Pháp.
- Xuất thân lính Tây Tiến: phần đông là người Hà Nội, trong đó có nhiều học sinh, sinh viên.
: Cảm nhận bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
- Cảm hứng sáng tác: Quang Dũng viết bài thơ để bày tỏ nỗi nhớ với đoàn quân Tây
Tiến sau khi chuyển sang công tác ở đơn vị khác.
b. Đường hành quân của đoàn quân Tây Tiến giữa thiên nhiên Tây Bắc
- Hai câu thơ đầu: nỗi nhớ thốt lên thành lời "Tây Tiến ơi" là tiếng gọi thân thương,
"nhớ chơi vơi"là nỗi nhớ thường trực, bao trùm không gian.
- Bức tranh thiên nhiên Tây Bắc hoang sơ và dữ dội:
+ Địa danh Sài Khao, Mường Lát gợi sự hẻo lánh, xa xôi;
+ Các từ láy giàu tính tạo hình: "khúc khuỷu", "thăm thẳm", "heo hút", điệp từ "dốc",
nghệ thuật điệp "Dốc lên ... dốc lên" gợi địa hình hiểm trở, quanh co, gập ghềnh.
+ Hình ảnh "súng ngửi trời" thể hiện tầm cao của núi non mà người lính phải vượt qua
nhưng cũng có cái hóm hỉnh của người lính trong đó.
+ Nhịp thơ bẻ đôi "Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống" gợi tả sự nguy hiểm tột cùng.
+ Hình ảnh nhân hóa: "cọp trêu người", "thác gầm thét" gợi sự hoang sơ, man dại; thời
gian: "chiều chiều", "đêm đêm" những người lính phải thường xuyên đối mặt với điều
hiểm nguy chốn rừng thiêng nước độc.
+ Sử dụng phần lớn các thanh trắc nhằm nhấn mạnh sự trắc trở, gập ghềnh của địa hình.
- Khung cảnh thiên nhiên cũng có lúc êm dịu, mang đậm hương vị cuộc sống: "nhà ai
Pha Luông ...", "cơm lên khói", "Mai Châu mùa em ...", thanh bằng tạo cảm giác nhẹ nhàng, yên bình.
- Hình ảnh bi hùng về người lính Tây Tiến "dãi dầu không bước nữa", "gục lên súng
mũ bỏ quên đời": có thể hiểu hai câu thơ đơn thuần miêu tả khoảnh khắc nghỉ ngơi
của người lính sau cuộc hành quân dài, cũng có thể hiểu đó là sự nghỉ ngơi vĩnh viễn.
: Cảm nhận bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
- Nhận xét: Thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ nhưng đầy rẫy những hiểm nguy, đó chính là
những thử thách đối với những người lính Tây Tiến trên chặng đường hành quân.
c. Kỉ niệm đẹp về tình quân dân, vẻ đẹp của thiên nhiên Tây Bắc
- Kỉ niệm đêm liên hoan thắm tình quân dân:
+ Không khí đêm liên hoan tưng bừng với mà sắc rực rỡ, lộng lẫy: "bừng lên", "hội
đuốc hoa", "khèn lên man điệu"; con người duyên dáng: "xiêm áo", "nàng e ấp".
+ Tâm hồn người lính bay bổng, say mê trong không khí ấm áp tình người: "Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ".
- Khung cảnh sông nước, con người vùng Tây Bắc:
+ Đẹp huyền ảo, hoang dại, thiêng liêng: "Chiều sương", "hồn lau nẻo bến bờ"
+ Con người lao động bình dị, mộc mạc: "dáng người trên độc mộc", cảnh vật duyên
dáng, đầy sức sống: "trôi dòng nước lũ hoa đong đưa"
- Nhận xét: nhờ bút pháp lãng mạn, Quang Dũng đã vẽ nên bức tranh thiên nhiên thơ
mộng, cuộc sống sinh hoạt đầm ấm và hình ảnh con người duyên dáng của vùng Tây Bắc.
d. Hình tượng người lính Tây Tiến
- Chân dung người lính được miêu tả chân thực: "đoàn binh không mọc tóc", " xanh
màu lá", họ sống và chiến đấu trong điều kiện khắc nghiệt, thiếu thốn, gian khổ nhưng
vẫn mạnh mẽ "dữ oai hùm".
- Họ là những con người có tâm hồn lãng mạn, trái tim yêu thương "Mắt trừng gửi
mộng"/ "Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm", lấy hình bóng người thương nơi quê nhà
làm động lực chiến đấu.
- Vẻ đẹp bi tráng thể hiện qua sự hi sinh anh dũng của họ:
: Cảm nhận bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
+ Sẵn sàng cống hiến tuổi trẻ của mình cho đất nước "rải rác biên cương mồ viễn xứ",
"chẳng tiếc đời xanh", "anh về đất", ra đi thanh thản, nhẹ nhàng.
+ Cái chết đã được lí tưởng hóa như hình ảnh những tráng sĩ xưa: "áo bào", "khúc độc
hành"; thiên nhiên cũng đau đớn thay cho nỗi đau họ phải chịu.
- Nhận xét: Dù trong hoàn cảnh khó khăn những người lính Tây Tiến vẫn có những
nét lãng mạn, hào hoa. Họ mang vẻ đẹp kiêu hùng, sẵn sàng hi sinh cho tổ quốc.
e. Lời hẹn ước, gửi gắm tình cảm của tác giả
- Câu thơ nhắc nhớ lại ý nguyện, quyết tâm ra đi một thời của đoàn quân Tây Tiến:
"người đi không hẹn ước", còn là sự tiếc thương những đồng đội đã hi sinh "thăm thẳm một chia phôi".
- Niềm thương, nỗi nhớ, tình cảm gắn bó của tác giả luôn gửi lại nơi đoàn quân Tây
Tiến: và vùng rừng núi Tây Bắc "Ai lên Tây Tiến ... / Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi" 3. Kết bài
- Giá trị nghệ thuật: bút pháp lãng mạn, những sáng tạo trong việc sử dụng ngôn ngữ, hình ảnh thơ
- Tổng kết giá trị nội dung: bài thơ đã tái hiện vẻ đẹp vừa hùng vĩ, vừa thơ mộng của
núi rừng Tây Bắc; hình tượng người lính kiên cường, dũng cảm không ngại hi sinh
nhưng cũng lãng mạn, mộng mơ.
Cảm nhận Tây Tiến đạt điểm cao - Mẫu 1
Quang Dũng – một nhà thơ đa tài trong nhiều lĩnh vực như sáng tác thơ, viết văn, vẽ
tranh. Những tác phẩm của ông luôn để lại cho người đọc – người xem một cảm xúc
khó tả, thể hiện tâm hồn của một người lãng mạn, hào hoa và đầy trữ tình. Trong số
những tác phẩm đó, chúng ta không thể không nhắc tới Tây Tiến. Bài Thơ được
Quang Dũng viết bằng dòng hồi ức về nỗi nhớ đồng đội, gợi lại những hình ảnh, kỷ
niệm thân thương đầy tha thiết và sâu lắng.
: Cảm nhận bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
Bài thơ Tây Tiến được sáng tác vào đầu thời kỳ chiến tranh ác liệt của quân và dân ta
năm 1948. Bài thơ được in trong tập Hoa Dọc Chiến Hào, miêu tả vẻ đẹp thiên nhiên
của rừng núi Tây Bắc và ngợi ca những người chiến sĩ với tinh thần anh dũng, bi tráng.
Mở đầu bài thơ, tác giả cho chúng ta thấy được vẻ đẹp thiên nhiên của Tây Tiến với
một tiếng gọi rất thân thương từ hiện tại đến quá khứ:
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi! ..........
Mường Lát hoa về trong đêm hơi.”
Thán từ “ơi” được Quang Dũng khéo léo đặt với thanh bằng gợi sự dịu êm. “Nhớ chơi
vơi” chính là nỗi nhớ chẳng thể nào định hình mà lại luôn bâng khuâng bao trùm lên
cả không gian và thời gian. Hai câu thơ đầu tác giả gợi nhớ lại những hình ảnh thân
thuộc trong trí nhớ về một Tây Tiến. Một hành trình đầy khó khăn, gian khó hiện ra
khi đoàn quân đi vào miền rừng núi hoang sơ, hùng vĩ. Các địa danh nổi tiếng: Sông
Mã, Sài Khao, Mường Lát, Mường Hịch, Pha Luông, Mai Châu càng thể hiện sự rộng
lớn của Tây Bắc. Nhà thơ Quang Dũng sử dụng ngắt nhịp ¾ tạo nên sự phân định rạch
ròi giữa 2 hướng lên và xuống trên con đường hành quân tại Tây Tiến.
“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây, súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”
Thiên nhiên Tây Bắc luôn thật dữ dội và khắc nghiệt đối với mỗi bước chân hành
quân qua đây. Nhà thơ Quang Dũng còn rất tinh tế khi sử dụng từ ghép, từ láy tượng
hình giàu sắc thái biểu đạt, gợi cái sự trắc trở khi phải vượt qua những con dốc cao,
núi thẳng, đèo sâu như thách thức, đe dọa tính mạng con người của núi rừng Tây Bắc.
Chỉ một chút lơ là cũng khiến con người phải trả giá bằng chính mạng sống. Đó chính
là hiện thực của kháng chiến và chiến tranh phi nghĩa đem lại.
: Cảm nhận bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
“Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời!
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”
Trên chặng đường hành quân ấy, đã có những lúc mệt mỏi, bước chân bị chùn lại,
giây phút hiếm hoi để các chiến sĩ được nghỉ ngơi sau bao gian nan, vất vả, nhưng đó
cũng có thể là lúc tạm biệt đồng chí đồng đội để trở về với cát bụi. Tác giả không
dùng từ bỏ mạng mà là “bỏ quên đời” – gợi nên khí phách hiên ngang, oai dũng của
một người chiến sĩ. Nhà thơ đã sử dụng lối nói giảm nói tránh để trong sự mất mát đó
không thấy được nỗi đau thương, bi lụy. Thay vào đó là ánh hào quang của một tâm
hồn lạc quan, yêu đời, một tinh thần kiên cường chiến đấu vì quê hương đất nước.
Xung quanh luôn có những hiểm nguy rình rập, đó là tiếng gầm thét của thác nước,
bước chân của cọp giữ.
Sau những dữ dội của thiên nhiên đại ngàn, hồn thơ Quang Dũng lại tìm về với những
với những dịu dàng, nhớ thương và ấm nồng trong đời sống con người.
“ Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”
Hình ảnh cuộc sống con người bình dị hiện về đầy thân thương với bếp cơm giản dị,
hương khói thơm nồng gợi về một cuộc sống rất đỗi bình yên và hạnh phúc trong tâm hồn những người lính.
“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”
Ánh sáng đuốc hoa thắp sáng của một doanh trại, kéo gần hơn sợi dây gắn kết giữa
những người lính và nhân dân. Giữ không khí căng thẳng của cuộc kháng chiến, hình
ảnh những người lính vẫn yêu đời, lạc quan, vẫn hết mình cùng người dân Tây Bắc trong ngày lễ hội.
: Cảm nhận bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
“Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”
Bức tranh thiên nhiên của Tây Bắc hiện lên với ánh chiều tà, cây lau lơ phơ trước gió
và bóng hình con người cũng trở nên nhỏ bé khi đứng giữa đại ngàn, gợi nên một chút
buồn thương, đơn độc và phảng phất chút đìu hiu.
Sau những ca từ lãng mạn là những âm điệu bi thương, tàn khốc của cuộc chiến tranh đầy phi lý
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc ......
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
Đoàn quân Tây Tiến là những chàng trai trẻ Hà Thành, họ phải đối mặt với muôn vàn
khó khăn thử thách. Đó là thiên nhiên đầy nguy hiểm, bệnh tật hoành hành khiến họ
gầy rộc, xanh xao, tóc không thể mọc. Và khi phải chứng kiến cảnh đồng đội hy sinh,
thi sĩ khắc họa hình ảnh “ áo bào thay chiếu anh về đất”. Không phải mất mát, không
phải gục ngã, người lính ấy trở về với đất mẹ sau bao ngày tháng chiến đấu oai hùng.
Trong câu thơ vẫn ánh lên niềm tin tưởng vào Đảng vào Cách mạng. Hình ảnh sông
Mã gầm thét giống như đang tấu nên khúc trường ngợi ca và chia tay những người
lính. Đó là một tinh thần chiến đấu anh dũng và cao cả của anh bộ đội cụ Hồ.
“Tây Tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi.”
Khép lại bài thơ, Quang Dũng dành những vần thơ chậm rãi, vô cùng ngọt ngào cho
đoàn quân Tây Tiến cùng đồng bào nơi Tây Bắc. Đã bước chân vào chiến trường
chẳng ai hứa hẹn được điều gì, cũng không thể biết trước được tương lai, chỉ để lại đó
: Cảm nhận bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
nỗi nhớ thương sâu nặng dành cho người ở lại. Tây Tiến là thanh xuân, là đồng đội và
là cả lý tưởng của một thời thanh niên noi theo ánh sáng của Đảng.
Bài thơ sử dụng bút pháp lãng mạn để miêu tả vẻ đẹp của thiên nhiên và hiện thực
khốc liệt nơi chiến trường qua đó cho thấy vẻ đẹp tâm hồn, ý chí cao cả của người lính
Tây Tiến. Bài thơ góp phần đưa Quang Dũng trở thành một trong những gương mặt
tiêu biểu của nghệ thuật Việt Nam 1945-1975.
Cảm nhận Tây Tiến học sinh giỏi - Mẫu 2
Thảo nguyên Châu Mộc nhớ không?
Một thời lính trẻ tang bồng chưa xa.
Mỏ Mù, Tây Bắc, lau già…
Kỷ niệm xưa bỗng trắng nhòa sắc ban.
(Nhớ Tây Bắc – Phạm Ngọc San)
Chẳng biết tự bao giờ, Tây Bắc trở thành miền thương nhớ trong trái tim biết bao
người, đặc biệt là với những người lính đã từng vào sinh ra tử cùng xứ hoa ban. Tây
Bắc đã trở thành “nàng thơ” của biết bao thi sĩ, và tất yếu, không thể không nhắc đến
thi phẩm “Tây Tiến” của nhà thơ Quang Dũng. Giữa cái bộn bề của thị trường thơ
hôm nay, lật trang sách cũ, gặp Tây Tiến của Quang Dũng, chợt xôn xao cõi lòng theo
những vần thơ đượm màu kiêu bạc hào hoa: Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi…
Bên cạnh những bài thơ nổi tiếng một thời như Đồng chí của Chính Hữu, Nhớ của
Hồng Nguyên…, Tây Tiến của Quang Dũng là một thi phẩm đặc sắc. Đoàn quân Tây
Tiến là một đơn vị quân đội được thành lập năm 1947, có nhiệm vụ phối hợp với quân
đội Lào chống quân đội của thực dân Pháp. Địa bàn hoạt động của lính Tây Tiến rất
rộng, từ tỉnh Sơn La, Lai Châu, Hòa Bình, miền Tây Thanh Hóa, Sầm Nứa (Lào),
trong những hoàn cảnh rất gian khổ, vô cùng thiếu thốn, bệnh sốt rét hoành hành dữ
dội, nhưng họ sống rất lạc quan và chiến đấu dũng cảm. Chiến đấu được một thời gian
thì đoàn binh Tây Tiến trở về Hòa Bình tại trung đoàn 52, khi ấy Quang Dũng là đại
đội trưởng sau đó ông chuyển sang đơn vị khác. Trong nỗi nhớ đồng chí đồng đội đến
cồn cào và da diết, tại làng Phù Lưu Chanh ông đã viết bài thơ Tây Tiến (1948).
: Cảm nhận bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
Toàn bài thơ là một nỗi nhớ. Tác giả nhớ về cuộc sống gian khổ, nhớ về kỷ niệm
những đêm liên hoan, về cái âm u, hoang dã của rừng núi và in đậm nhất là nỗi nhớ
của người lính Tây Tiến. Nổi bật trong tác phẩm là cảm hứng lãng mạn và bi tráng của
từng câu thơ. Mở đầu tác phẩm là nỗi nhớ miên man trải dài.
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi.
Mở đầu bài thơ là một tiếng gọi làm nao lòng người. Nỗi nhớ thương, nỗi nhớ như nén
chặt, bỗng trào dâng. Sông Mã không chỉ là một địa danh mà nó còn là một “chứng
nhân lịch sử” trong suốt chặng đường hành quân. Tây Tiến cũng không chỉ là tên một
đoàn quân mà nó đã trở thành một người bạn, một người tri kỉ bấy lâu. “Sông Mã xa
rồi Tây Tiến ơi” như chứa đựng cả một bầu trời thương nhớ với bao bâng khuâng hụt
hẫng và nuối tiếc. Âm “ơi” như ngân vang ra từ vách đá của núi rừng Tây Bắc, ngân
vang trải dài đến đâu mang theo tâm tư tình cảm của Quang Dũng lan ngấm thấm tràn
đến đó. Từ “ơi” bắt vần với từ láy “chơi vơi” làm cho âm điệu câu thơ trở nên mênh
mang, chơi vơi. Có lẽ Quang Dũng đã học tập cách diễn đạt nỗi nhớ trong ca dao:
“Ra về nhớ bạn chơi vơi
Nhớ chiếu bạn trải
Nhớ chăng bạn nằm”
Có lẽ nếu diễn tả “nhớ chơi vơi” là nỗi nhớ như những đợt sóng cồn cào, có vẻ không
đúng. Hai chữ “chơi vơi” không để diễn tả sự dồn dập, thắm thiết, diết da. Vốn dĩ nó
diễn tả những thứ như không có điểm tựa, chênh vênh, mênh mang. Và có lẽ nỗi nhớ
ở đây cũng vậy, ấy là thứ cảm xúc như lan tràn, mênh mang, không điểm tựa. Nó như
sự hẫng hụt, lại mang đến sự bồn chồn, xôn xao trong tâm hồn. Nhớ như vậy, có lẽ
mới quay quắt, mới khiến người ta nhói lòng.
Từ Phù Lưu Chanh ông nhớ dòng sông Mã, nhớ núi rừng miền Tây, nhớ đoàn binh
Tây Tiến – một đơn vị bộ đội đã hoạt động tại vùng rừng núi miền Tây Thanh Hóa,
Hòa Bình, Sơn La – biên giới Việt Lào trong những năm đầu kháng chiến. Bao kỉ
niệm đẹp một thời chinh chiến bỗng sống dậy. Những tên bản, tên mường của rừng
: Cảm nhận bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
xưa núi cũ yêu thương hiện về, bỗng trở nên gần gũi thân thiết, làm xao xuyến hồn người chiến sĩ:
“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi.
Mường Lát hoa về trong đêm hơi”.
Sài Khao, Mường Lát là những địa danh, bản làng xa xôi hẻo lánh mà lính Tây Tiến
đã hành quân qua hoặc đã có những phút giây ngơi nghỉ. Sài Khao là mảnh đất lắm
sương nhiều khói, sương che lấp đường đi, sương phủ kín bóng người, sương như tấm
áo choàng bảng lảng trùm lên con sông, ngọn suối, sườn đèo. Ta nghe đâu đây giữa
núi rừng hiểm trở cheo leo có những hơi thở mệt mỏi của những chàng trai đất Hà
thành nhọc nhằn trên từng chặng đường hành quân. Thế mà với trái tim nhạy cảm,
tình yêu tha thiết với mảnh đất và con người Tây Bắc, họ như nghe từng hơi thở nhịp
đập thậm chí là cái khe khẽ trở mình của cỏ cây hoa lá trên đất Mường Lát khi màn đêm buông xuống.
Ngày nối ngày, đêm nối đêm, trải qua bao dãi dầu, “đoàn quân mỏi” giữa cái biển
sương mù của núi rừng miền Tây; “đoàn quân mỏi” tưởng như bị “lấp” đi, bị trĩu
xuống trong mệt mỏi, gian truân, nhưng thật bất ngờ, bỗng xuất hiện “hoa về trong
đêm hơi”. Cái mỏi mệt, cái gian khổ như đã tiêu tan. Sáu thanh bằng liên tiếp diễn tả
cái nhẹ nhàng, cái lâng lâng trong tâm hồn người lính trẻ đi tới đích sau những chặng
đường dài hành quân đầy thử thách: “Mường Lát hoa về trong đêm hơi”.
Có thể nói Quang Dũng như một phóng viên lia ống kính để mở ra trước mắt người
đọc một thước phim về núi rừng hiểm trở mà cheo leo:
“Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm,
Heo hút cồn mây súng ngửi trời.
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”.
Các từ láy: “thăm thẳm”, “khúc khuỷu”, “heo hút” được lựa chọn và sử dụng như
những nét khắc, nét vẽ có giá trị tạo hình đặc sắc, làm hiện lên những dốc, những cồn
mây mà nhà thơ và đồng đội phải vượt qua trong những tháng ngày: “áo vải chân
: Cảm nhận bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
không đi lùng giặc đánh” (Hồng Nguyên). Cả câu thì có 5 chữ mang thanh trắc “Dốc
lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm” nhằm nhấn mạnh cuộc hành quân của đoàn quân Tây
Tiến đi qua địa bàn đèo dốc quanh co, lên cao mãi, vô vùng khó khăn, khốc liệt.
Có câu thơ gồm 2 vế tiểu đối, bản lĩnh kiên cường của người chiến sĩ Tây Tiến được
đo bằng: “Ngàn thước lên cao // Ngàn thước xuống”. Núi tiếp núi, đèo nối đèo, hết lên
cao, lại xuống thấp, đoàn quân đi trong mù sương, trong màn mưa rừng. Dường như
câu thơ có sự chuyển động, càng đẩy ra hai phía là núi cao chất ngất lưng trời, vực sâu
thăm thẳm khôn cùng để lại khoảng trống về một Tây Bắc dữ dội, huyền bí như một
ẩn số đối với con người.
Từ những đỉnh cao “ngàn thước”, các chiến binh dõi tầm mắt nhìn xa. Những bản
mường, những nhà sàn thấp thoáng ẩn hiện. Câu thơ thất ngôn, toàn thanh bằng gợi tả
cảm xúc tươi vui, lâng lâng thanh thản dâng lên trong tâm hồn người lính trẻ rất lạc
quan yêu đời khi dõi nhìn về xa qua màn mưa rừng: “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”.
Cảnh vật bỗng trở nên nửa thực nửa ảo chập chờn như trong cõi mây, chất lãng mạn
như phủ kín cảnh vật, đó là sản phẩm của một họa sĩ ẩn trong tâm hồn một thi sĩ.
“Súng ngửi trời” là một cách cảm nhận rất ngộ nghĩnh mang đậm chất lính. Một chút
tếu táo của người lính giữa chốn đèo cao càng làm cho họ trở nên đẹp đẽ hơn, như
minh chứng cho ý chí, sức mạnh phi thường và khát khao chinh phục. Thật đúng là:
“Đèo cao thì mặc đèo cao
Trèo lên tới đỉnh ta cao hơn đèo”
Tây Bắc được nhà thơ quan sát ở nhiều góc độ: ngước mắt nhìn lên là núi cao lưng
trời, đưa mắt nhìn xuống là vực sâu hun hút, phóng xa tầm mắt trong làn sương ta có
cảm giác những ngôi nhà trên đất Pha Luông đang bồng bềnh trôi giữa chốn xa khơi.
Cảnh vật bỗng trở nên nửa thực nửa ảo chập chờn như trong cõi mây, chất lãng mạn
như phủ kín cảnh vật, đó là sản phẩm của một họa sĩ ẩn trong tâm hồn một thi sĩ.
Sự trắc trở, hiểm nguy của thiên nhiên còn được diễn tả một cách gân guốc:
: Cảm nhận bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người
Cảnh hiểm trở cheo leo nhưng đâu có tĩnh lặng thanh bình… Với những từ “oai linh”,
“gầm thét” thác nước như một sức mạnh thiêng liêng, đầy quyền uy, đầy đe dọa, và
những con hổ đi lang thang hoành hành ngang dọc coi mình là chúa tể của núi rừng
làm cho cảnh rừng núi thêm rùng rợn ghê sợ. “Chiều chiều” rồi “đêm đêm” thiên
nhiên dữ dội “gầm thét” và những hiểm nguy luôn rình rập như thể “trêu người”.
Thiên nhiên hùng vĩ mà kì tráng, qua nét bút của Quang Dũng đã trở nên khắc nghiệt,
khó khăn và đầy những những hiểm ngụy. Và vì chiến tranh, vì rừng thiêng nước độc
cho nên rất nhiều chiến sĩ, rất nhiều đồng đội đã phải bỏ mình nơi đó, bỏ lại tuổi trẻ và những ước mơ dở dang:
Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục bên súng mũ bỏ quên đời
“Bỏ quên đời” chỉ là cách nói nhằm giảm nhẹ sự mất mát, tang thương khi người lính
lìa trần. Nhưng hình ảnh sử dụng rất đắt là hình ảnh “gục lên súng mũ”. Ta chợt nhớ
đến dáng đứng của anh giải phóng quân về sau trong thơ Lê Anh Xuân:
Anh ngã xuống trong khi đang đứng bắn
Máu anh tuôn theo lửa đạn cầu vồng.
Dáng đứng của anh giải phóng quân mãi mãi đi vào lòng người dân trong kháng chiến
chống Mĩ thì dáng ngã xuống gục xuống của anh lính cụ Hồ hẳn sẽ không phai mờ
trong tâm hồn của Quang Dũng, của đoàn quân Tây Tiến và của những người tham
gia kháng chiến. “Gục lên súng mũ” cũng là cách nói nhẹ và cũng là cách nói của
những người thanh niên trí thức lúc bấy giờ. Người lính ra đi nhưng đồng đội anh lại tiếp bước.
Sự trầm lắng của câu thơ như một nốt trầm lặng thành kính, thiêng liêng trong một
bản nhạc hào hùng vừa qua. Ở đó, những người lính thật đáng quý biết bao. Họ đã hi
sinh cả tuổi trẻ – điều tốt đẹp nhất của cuộc đời – để gìn giữ cho hòa bình hôm nay.
Nói về cái chết mà lời thơ không bi lụy. Đó cũng là một nét trong phong cách biểu
: Cảm nhận bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
hiện của nhà thơ Quang Dũng. Những ngày chiến đấu bảo vệ biên giới, để giúp bạn
giữa núi rừng Tây Bắc thật lắm gian nan khó nhọc. Những gian nan khó nhọc còn hằn
sâu trong trí nhớ. Quang Dũng không khoa trương tính cách anh hùng dũng cảm, cũng
không nói đến cảnh bách chiến bách thắng. Nhưng sống và chiến đấu trong một địa
bàn hiểm trở dữ dội, hoang dã đã là anh hùng rồi.
Đang nói đến cái rùng rợn bí hiểm của rừng già, nhà thơ bỗng nhớ lại một kỉ niệm ấm áp tình quân dân:
Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi.
Trong gian khổ thiếu thốn người ta càng nâng niu, càng quý trọng nghĩa tình. Hình
ảnh những nồi cơm lên khói, những mùa màng thơm nếp xôi và đặc biệt là “em” biểu
tượng cho người dân Tây Bắc hiện về trong cảm xúc nhà thơ vừa tự nhiên vừa tinh tế.
Sự xuất hiện của những hình ảnh này khiến cho đoạn kết của khổ thơ có sức bay bổng.
Đoạn thơ ấm lại trong tình quân dân mặn nồng. Hai câu cuối gieo vào tâm hồn độc giả
một cảm xúc ấm nóng. Cái ấm nóng của tình người. Đây chính là chất lãng mạn bay
bổng của đoạn thơ và nó như một nét vẽ tươi sáng của bức tranh.
Đoạn thơ là sự phối kết hợp hài hòa giữa hai bút pháp hiện thực và lãng mạn. Cả đoạn
thơ như một bức tranh thủy mặc cổ điển được phác thảo theo lối tạo hình phương
đông. Quang Dũng là một hoạ sĩ. Ông có tài chấm phá trong việc phác thảo cảnh vật.
Quang Dũng đã xây một đài kỉ niệm trong thơ cho thiên nhiên Tây Bắc và người lính Tây Tiến.
Ở đoạn hai, thiên nhiên và con người Tây Bắc lại được mở ra với một vẻ đẹp mới,
khác với đoạn đầu. Anh hùng trong chiến đấu nhưng người lính Tây Tiến cũng say
mê, lãng mạn trong đêm hội:
“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”
: Cảm nhận bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
Đây là kỉ niệm đẹp về tình dân quân trong đêm liên hoan và cảnh sông nước miền Tây
thơ mộng. Chữ “bừng” là một nét vẽ có thần. “Bừng” là sáng bừng lên, cháy rực lên
từ những ngọn đuốc trong đêm “hội đuốc hoa”. “Hội đuốc hoa” là cảnh thực. Đêm
liên hoan văn nghệ diễn ra dưới những cánh rừng, người đến dự đều cầm trên tay ngọn
đuốc, gió thổi làm những ngọn đuốc lung linh phát ra những tia lửa. Cảnh tượng này
trong đêm quả thật nhìn như hoa đuốc. Cảm nhận của Quang Dũng vừa tinh tế vừa
lãng mạn, câu thơ gợi sức liên tưởng, tưởng tượng cho người đọc. Trên cái nền không
gian ấy “em” xuất hiện.
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
“Kìa em” là lời chào đón đầy ngạc nhiên, sung sướng đến ngỡ ngàng. Lời chào đón
mang tính phát hiện. Em lạ mà quen, quen mà lạ. Quang Dũng phát hiện ra vẻ đẹp rực
rỡ của cô gái bằng cả niềm yêu, niềm say đến cảm phục. Chính trang phục truyền
thống đậm đà bản sắc văn hóa của các thiếu nữ Tây Bắc càng tôn vinh lên vẻ đẹp của
họ. Em trở thành hạt nhân của bức tranh với vẻ đẹp xứ lạ phương xa. Câu thơ thứ ba
xuất hiện, lập tức khổ thơ như tràn đầy âm nhạc.
Khèn lên man điệu nàng e ấp.
Từ “man điệu” mà Quang Dũng sử dụng ở đây cũng rất tài hoa. Người đọc như được
chứng kiến những vũ khúc hoang sơ của văn hóa Âu Lạc. Vũ khúc ấy hòa với vũ điệu
của Em duyên dáng, e ấp, tình tứ. Chính trong không khí của âm nhạc, vũ điệu ấy đã
chắp cánh cho tâm hồn những người lính Tây Tiến thực sự ngất ngây trước người và cảnh.
Tây Bắc mênh mang, huyền ảo hiện lên trong bốn câu thơ tiếp:
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa.
: Cảm nhận bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
Một không gian bảng lảng khói sương như trong cõi mộng cứ thế hiện ra. Cái thực của
khí trời Tây Bắc, cái mộng của không khí bảng lảng sương khói hiện lên như một
miền cổ tích. Ta nhớ rằng Quang Dũng là một họa sĩ bởi vậy đoạn thơ đậm màu sắc
hội họa. Nét bút phác thảo của Quang Dũng thật là tài hoa. Chỉ một vài nét chấm phá
vậy mà cái hồn của cảnh vật và con người hiện lên thật sinh động đầy sức cuốn hút.
Cách sử dụng từ ngữ “ hồn lao, dáng người, hoa đong đưa” có sự cộng hưởng hô ứng
với nhau, sao lại là “ hồn lao” mà không phải là bờ lao. Bởi bờ lao thì sẽ rất cụ thể mà
ở đây là cảm nhận. Cách đặt câu hỏi thật đặc sắc “ Có thấy hồn lau nẻo bến bờ, Có
nhớ dáng người trên độc mộc”. Hình ảnh khỏe khoắn trẻ trung và đầy sức sống, “ hoa
đong đưa” gợi lên sự đa tình như để làm nũng như là đang hấp dẫn những người trên
đồi độc mộc, vẻ đẹp tinh tế tài hoa trong cách diễn đạt của tác giả. Cảnh vật như
thiêng liêng, tưởng như đang lạc vào thế giới cõi mây. Ai nói rằng Tây Bắc là xứ rừng
thiêng nước độc, xin hãy một lần để cho tâm hồn mình lắng lại để chất thơ Tây Bắc ngấm vào hồn.
Đoạn thơ bộc lộ chất tài hoa, chất lãng mạn của Quang Dũng đến tuyệt vời. Cảm ơn
nhà thơ đã cho ta một chuyến hành trình về với Tây Bắc thơ mộng để khám phá Tây Bắc và yêu Tây Bắc.
Quang Dũng đã dựng bức tượng đài về người lính vô danh trong khổ thơ thứ ba của
bài thơ Tây Tiến. Ta có thể xem khổ thơ thứ ba này là những nét bút cuối cùng hoàn
thiện bức tượng đài về chân dung người lính Tây Tiến hào hùng, hào hoa. Chân dung
người lính hiện lên ở khổ thơ thứ ba có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa vẻ đẹp tâm hồn,
lí tưởng chiến đấu và phẩm chất hi sinh anh dũng. Có thể nói cả bài thơ là một tượng
đài đầy màu sắc bi tráng về một đoàn quân trên một nền cảnh khác thường.
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm.
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”
: Cảm nhận bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
Làn da xanh mái tóc không mọc do bệnh sốt rét rừng. Số người chết vì sốt rét nhiều
hơn chết vì chiến trận, do điều kiện thiếu thốn khó khăn thiếu nước. Chiến tranh đi
liền với nước mắt và đau thương, cũng như bao nhiêu người chiến sĩ khác người lính
Tây Tiến phải chịu bao nhiêu khó khăn Tuy vậy họ vẫn hiên ngang ngang tàn bi
nhưng không lụy, họ luôn ở tư thế chủ động sẵn sàng là “ không mọc tóc” chứ không
phải là rụng tóc. Khẩu khí coi thường gian khổ, họ ốm nhưng không yếu. “Mắt trừng
gửi mộng qua biên giới, đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”. Đây là đặc trưng riêng là
mộng và mơ” của những chàng lính Hà Nội. Ý chí quyết tâm “Mắt trừng” giết giặc lập
công, mơ giấc mơ thắng trận trở về gặp những dáng kiều thơm, nhưng bóng dáng
duyên xinh. Hẳn họ không phải là những người lính khô khan cứng rắn à còn rất lãng mạn.
“Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
Những nấm mồ là có thật, tinh thần tự nguyện xả thân cho Tổ quốc cũng là có thật. Đó
là hào khí của một thời đại “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”.
Chính tinh thần lãng mạn đã là một điểm tựa giúp nhà thơ nói lên một vấn đề mà
nhiều người lúc đó né tránh. Đã là chiến tranh thì phải có mất mát, hi sinh. Vấn đề là
không rơi vào bi quan, là nhìn ra từ sự mất mát tầm vóc cao đẹp của sự hi sinh. Nhà
thơ đã dùng những câu thơ sóng đôi, câu sau cắt nghĩa, lí giải cho câu trước. Những
nấm mồ là có thật, tinh thần tự nguyện xả thân cho Tổ quốc cũng là có thật. Đó là hào
khí của một thời đại “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”.
Cái chết nơi chiến trường thật đơn sơ, giản dị. Anh nằm xuống không có cả màn chiếu
bọc thây. Anh về lại đất mẹ như cái chết của anh đã được dòng sông Mã oai hùng cúi
chào vĩnh biệt bằng những tiếng gầm đau đớn, uất hận. Tiếng gầm của dòng sông Mã
ấy sẽ còn mãi mãi đến muôn đời.
: Cảm nhận bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
“Tây Tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi.”
Bài thơ khép lại bằng bốn câu thơ như lời thề gắn bó với Tây Tiến. Tinh thần thắm
đượm tư tưởng và tình cảm cảm của người lính Tây Tiến, tinh thần sẵn sàng hi sinh
cống hiến. Tình cảm gắn bó máu thịt của tác giả đối với binh đoàn Tây Tiến, đại từ
phiếm chỉ “ai” có thể là Quang Dũng có thể là thành viên của binh đoàn Tây Tiến,
hoặc là bất cứ ai đã từng gắn bó với Tây Tiến với mảnh đất Tây Bắc. Sự chiến đấu vì
lý tưởng cao cả tinh thần Tây Tiến thì bất diệt.
Từ sự kết hợp một cách hài hoà giữa cái nhìn hiện thực với cảm hứng lãng mạn,
Quang Dũng đã dựng lên bức chân dung, một bức tượng đài người lính cách mạng
vừa chân thực vừa có sức khái quát, tiêu biểu cho vẻ đẹp sức mạnh dân tộc ta trong
thời đại mới, thời đại của dân tộc đứng lên làm cuộc kháng chiến vệ quốc thần kỳ
chống thực dân Pháp. Đó là bức tượng đài được kết tinh từ âm hưởng bi tráng của
cuộc kháng chiến ấy. Đó là bức tượng đài được khắc tạc bằng cả tình yêu của Quang
Dũng đối với những người đồng đội, đối với đất nước của mình.
Tây Tiến là một tượng đài thi ca qua nhiều thế hệ. Nhưng trên hết và trước hết Tây
Tiến là lịch sử. Lịch sử của một đoàn quân. Lịch sử của một cuộc chiến tranh. Lịch sử
của một dân tộc. Và lịch sử của một con người, một nhà thơ. Tây Tiến trở thành lịch
sử của tâm hồn, của văn hóa, của tinh thần một giống nòi. Nó đã biến đoàn quân thành bất tử.
Cảm nhận Tây Tiến - Mẫu 3
Bài thơ "Tây Tiến" của Quang Du xây dựng hình tượng những người nông dân, công
dân, học sinh, những người mẹ, người chị ... quyết đi theo tiếng gọi của tự do để tham
gia cuộc kháng chiến chống Pháp.
"Có một bài ca không bao giờ quên..."
: Cảm nhận bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
Cũng có những năm tháng không bao giờ quên, không phai mờ trong ký ức của nhiều
thế hệ đã qua, hôm nay và mai sau. Đó chính là những ngày tháng kháng chiến chống
Pháp, khi toàn dân tộc ta vừa qua nạn đói, vừa giành được độc lập thì thực dân Pháp
trở lại xâm lược. Dấu ấn của nạn đói năm 1945 vẫn còn, rất đậm trong mỗi người dân
Việt Nam. Tự do hay trở về với cuộc đời cũ? Đấy là câu hỏi day dứt bao người.
Trong những năm tháng đáng nhớ ấy, văn học dù chưa dám nói là đã ghi lại trọn vẹn
bộ mặt đất nước, nhưng cũng đã ghi lại được hào khí của một thời với hình ảnh bao
người mà hình ảnh trung tâm là người chiến sĩ cụ Hồ. Bài thơ "Tây Tiến" của Quang
Dũng ra đời trong hoàn cảnh chung đó.
Bài thơ sáng tác tại Phù Lưu Chanh vào năm 1948 khi Quang Dũng đã chuyển đơn vị.
Nhưng những ngày tháng Quang Dũng chiến đấu, sống ở đoàn quân Tây Tiến chưa
lâu, với những kỷ niệm khó quên nên nỗi nhớ Tây Tiến da diết, cồn cào trong lòng tác
giả. Toàn bài thơ là một nỗi nhớ. Tác giả nhớ về cuộc sống gian khổ, nhớ về kỷ niệm
những đêm liên hoan, về cái âm u, hoang dã của rừng núi và in đậm nhất là nỗi nhớ
của người lính Tây Tiến.
Ra đi kháng chiến khi còn là thanh niên, học sinh Hà Nội, Quang Dũng trở thành
người lính. Kỷ niệm làm người lính Tây Tiến đã xa mà lại rất gần, để ghi nhớ lại, tác giả phải bật lên:
"Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!"
Câu thơ kết thúc bằng dấu chấm than cùng âm hưởng của vần ơi, tạo nên sức mạnh
lớn. Hình ảnh đó là tiếng nói của Quang Dũng vang vọng đến đoàn quân Tây Tiến?
Không ! Đó là tiếng lòng của tác giả "xa rồi Tây Tiến ơi!" những tấm lòng thì vẫn tha
thiết lắm ! Âm hưởng câu thơ có sức vọng làm cho tiếng lòng của Quang Dũng như
xoáy vào tâm hồn người đọc rung theo những xúc cảm do câu đầu mang lại để đến với nỗi nhớ Tây Tiến:
"Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi"
: Cảm nhận bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
Nỗi nhớ mới lạ lùng làm sao? "Nhớ chơi vơi" ! Hình như trong ca dao ta cũng từng bắt gặp:
"Ra về nhớ bạn chơi vơi"
Nỗi nhớ "chơi vơi" là nỗi nhớ không định hình khó nắm bắt đã diễn tả bằng lời. Nỗi
nhớ ấy vừa bao la, bát ngát lại vừa có chiều sâu. Nó muốn tràn ra không gian để xoáy
vào lòng người. Một người ngoài cuộc hẳn không thể có nỗi nhớ ấy. Chỉ có Quang
Dũng với nỗi lòng của mình mới có nỗi nhớ ấy mà thôi. Với tấm lòng tha thiết thì hẳn
nỗi "nhớ chơi vơi" là điều hoàn toàn có lí. Cùng vẫn sử dụng vần "ơi", câu thơ có sức
lan tỏa rộng. Vần "ơi" lan ra theo nỗi nhớ "chơi vơi" của tác giả.
Thông thường khi nhớ về một điều gì, người ta thường nhớ đến những kỉ niệm để lại
dấu ấn không quên. Quang Dũng nhớ đầu tiên là nhớ về rừng núi
"Nhớ về rừng núi..."
Rừng núi là nơi xưa kia tác giả cùng đồng đội đã cùng sống, cùng chiến đấu Rừng núi
in đậm bao nỗi khổ, bao niềm vui nỗi buồn của những người chiến sĩ. Hơn ai hết, tác
giả là người trong cuộc, tác giả nhớ về rừng núi, những khó khăn gian khổ mà mình đã từng nếm trải:
"Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi."
Mặc dù cuộc sống gian khổ không phải là điều nhà thơ chú trọng phác hoạ nhưng
trước mắt ta vẫn hiện ra cái khắc nghiệt của rừng núi. Nhà thơ Tố Hữu đã từng có những câu thơ:
: Cảm nhận bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
"Năm mươi sáu ngày đêm khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt Máu trộn bùn non
Gan không núng, chí không mòn!"
Tố Hữu mô tả thắng cảnh sống người lính. Quang Dũng không làm thế, Quang Dũng
chỉ mô tả cái hoang vu, hoang dã của một vùng rừng núi nhưng qua cảnh đó ai cũng
hiểu rằng đời lính là như thế đó. Họ sống giữa thiên nhiên như vậy đó. Với những địa
danh xa lạ "Sài Khao", "Mường Lát", "Pha Luông", rừng núi như càng trở nên xa
ngái, hoang vu hơn. Hơn thế, cần phải nhớ rằng đoàn quân Tây Tiến hầu như toàn là
những chàng trai trẻ Hà Nội theo tiếng gọi kháng chiến ra đi, nhiều người còn là học
sinh nên cảnh núi rừng càng xa lạ, đáng sợ hơn. Quang Dũng là người trong cuộc sống
hiểu tâm lý ấy rất rõ.
Nỗi nhớ rừng núi bắt đầu bằng những cuộc hành quân.
"Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi."
Những cuộc hành quân đi qua và những cuộc hành quân mới lại tiếp nối trong cuộc
đời người lính của Quang Dũng. Nhưng có lẽ cái mỏi mệt của những cuộc hành quân
lần đầu sẽ không bao giờ đi qua cùng năm tháng cũng như rừng sương "Sài Khao
sương lấp đoàn quân mỏi" sẽ in mãi dấu ấn, câu thơ chùng xuống, đều đều gợi lên sự
mỏi mệt, bải hoải làm ta tưởng chừng như đoàn quân Tây Tiến sắp ngã, sắp chìm đi
trong sương. Nhưng không, âm điệu bài thơ lại vút lên bởi một câu vần bằng:
"Mường lát hoa về trong đêm hơi"
Câu thơ ấy đã xoá đi cái mỏi mệt của đoàn quân Tây Tiến, để đoàn quân tiếp bước.
Những khó khăn lại cứ rải trên đường người lính đi qua:
"Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống"
Hình ảnh "khúc khuỷu" làm nên cảm giác hình như con đường đi khó khăn quá ! "Dốc
thăm thẳm" lại làm cho những khó khăn như nhiều hơn, dài ra theo tính chất "thăm
: Cảm nhận bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
thẳm" của con dốc và trên những đường dốc ấy, "súng ngửi trời". Chỉ riêng "heo hút
cồn mây" đã gợi một không khí vắng vẻ, hoang sơ của núi rừng, súng ngửi trời cộng
vào cái vẻ đơn độc của những người lính khi đứng giữa đèo cao.
Những khó khăn gian khổ nhiều là thế nhưng lại nhẹ đi bởi vần bằng tiếp sau:
"Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi."
Cứ như thế, với những câu vần bằng xen vào giữa những câu vần trắc, âm hưởng đoạn
thơ trở nên trùng điệp hơn, âm điệu ấy cứ theo suốt bài thơ, cùng với cách dùng từ cổ
kính của Quang Dũng góp phần tạo nên nét lãng mạn mà hào hùng cho bài thơ.
Cả khổ thơ đầu là những khó khăn của vùng rừng núi thiên nhiên hoang sơ. Đứng
trước bức tranh dữ dội ấy, ai cũng thầm nghĩ: vậy người lính sống thế nào nhỉ?
"Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người."
Quang Dũng tả rất thực những khó khăn của cuộc kháng chiến mà đoàn quân Tây
Tiến đã gặp nhưng không làm bài thơ trở nên bi thảm, lòng người bi quan mà chỉ để
ca ngợi người lính. Tác giả lại tiếp tục đưa ta đến với người lính cũng bằng ngòi bút
rất thực ấy. Trước gian khổ, trên đường hành quân, nhiều người đã nằm lại mảnh đất
xa lạ để không bao giờ tỉnh dậy:
"Anh bạn dãi dầu không bước nữa"
Nhưng anh hùng làm sao, những con người đã ngã xuống ấy! Người lính không chịu
nỗi gian khổ đã hi sinh nhưng cũng tìm được cho mình một tư thế chết của người chiến sĩ:
"Gục lên súng mũ bỏ quên đời"
: Cảm nhận bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
"Bỏ quên đời" chỉ là cách nói nhằm giảm nhẹ sự mất mát, tang thương khi người lính
từ trần. Nhưng hình ảnh sử dụng, rất đắt là hình ảnh "gục lên súng mũ". Ta chợt nhớ
đến dáng đứng của anh giải phóng quân về sau:
"Anh ngã xuống trong khi đang đứng bắn
Máu anh phun theo lửa đạn cầu vồng"
Dáng đứng của anh giải phóng quân đi mãi vào lòng những người dân trong kháng
chiến chống Mĩ thì dáng ngã gục xuống của anh lính cụ Hồ hẳn sẽ không phai mờ
trong tâm hồn của Quang Dũng, của đoàn quân Tây Tiến và của những người tham
gia kháng chiến. "Gục lên súng mũ" cũng là cách nói nhẹ và cũng là cách nói của
những người thanh niên trí thức lúc bấy giờ. Người lính ra đi nhưng đồng đội anh lại tiếp bước.
Những khó khăn lại đến:
"Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người."
Hình như có ai đó đã nói về cách sử dụng từ "Mường Hịch" của Quang Dũng. Địa
danh đọc lên có cảm giác như tiếng chân cọp đi trong đêm. Rừng núi trở nên rờn rợn,
nguyên vẻ hoang sơ của nó. Ở nơi xa xôi con người lần đầu đặt chân, thiên nhiên là
chủ thì khó khăn như tăng thêm bội phần. Nhưng nét lạc quan, vui vẻ của người lính
vẫn chẳng thể mất dọc cuộc hành trình.
"Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi."
Quang Dũng lại nhớ về những kỉ niệm của những đêm liên hoan. Nhịp điệu câu thơ
hình như có cái gì nao nức, rộn rã:
"Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Châu xây hồn thơ
: Cảm nhận bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có nhớ hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa."
Cái dữ dội, hoang dã của thiên nhiên trong hai khổ thơ đầu như biến mất đi sau những
kỉ niệm vui của đoàn quân Tây Tiến. Nét nghịch ngợm, vui tươi của những chàng
thanh niên Hà Nội xúng xính trong xiêm áo giả làm con gái, cùng tiếng nhạc và vẻ e
ấp giả vờ. Câu thơ với hai chữ "kìa em" vừa mang vẻ ngạc nhiên vừa mang nụ cười
thoải mái của người chiến sĩ. Những kỉ niệm vui đó hẳn sẽ không quên trong lòng
người cũng như vẫn còn nguyên vẹn trong lòng Quang Dũng vậy. Cùng với sự vui
tươi, người lính Tây Tiến còn sống với bản lĩnh lãng mạn, với tâm hồn giàu chất thơ,
giàu cảm xúc của mình. Một dáng người trên độc mộc vào buổi chiều sương, một
khóm hoa đong đưa trên dòng nước lũ... tất cả đi vào nhẹ nhàng cho cả đoạn thơ.
Quang Dũng xa Tây Tiến nhưng khoảng thời gian ấy chưa lâu nên kỉ niệm Tây Tiến
vẫn như nguyên vẹn. Nỗi nhớ "chơi vơi" trải khắp bài thơ nhưng cô đọng vẫn là ở nỗi
nhớ về người lính Tây Tiến. Có lẽ người lính Tây Tiến, hình ảnh của họ đã ăn sâu tận trong máu thịt tác giả:
"Tây Tiến đoàn quân không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm"
Câu thơ đầu hoàn toàn tả thực về người lính kháng chiến, nổi tiếng bởi tên gọi "Vệ
trọc". Giữa rừng núi hoang sơ, nạn sốt rét là nạn mà người lính thường mắc phải. Sốt
rét đến nỗi trọc cả đầu chỉ còn một vài sợi tóc lưa thưa đến nỗi da xanh xao "màu lá".
Bệnh sốt rét ác nghiệt như Chính Hữu đã từng mô tả:
"Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi."
Sốt rét là bệnh tiêu biểu thường gặp ở người lính khi Quang Dũng nói về điều này, tác
giả còn muốn cho ta biết, người lính Tây Tiến sống như thế đấy! Họ s61ng đ46 chiến
: Cảm nhận bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
đấu với quân thù nhưng lại phải chiến đấu với cả gian khổ, bệnh tật nữa. Giữa bao
nhiêu khó khăn người lính vẫn
"Quân xanh màu lá dữ oai hùm"
Nét dữ tợn của người chiến sĩ Tây Tiến ở đây không làm nhạt đi tí nào hình ảnh người
lính Tây Tiến trong ta. Bệnh tật, yếu đau tưởng chừng làm người chiến sĩ yếu đuối
nhưng ta bất ngờ vì dáng vẻ "dữ oai hùm" của anh lính. "Dữ oai hùm" làm mất đi sự
yếu đuối của "đoàn quân không mọc tóc" và của "quân xanh màu lá", câu thơ trên
giúp cho câu thơ sau tiếp tục:
"Mắt trừng gởi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm"
Đây chính là hai câu thơ tập trung nhất vẽ nên bức tranh người lính Tây Tiến và cũng
là hai câu thơ hay nhất trong cả bài thơ. Người lính Tây Tiến sống với hình ảnh của
quê hương Hà Nội, chiến đấu với tương lai trước mặt. Hai câu thơ vừa mang nét lãng
mạn của người chiến sĩ vừa có nét hào hùng. Mắt người lính "trừng" nhưng không hề
mang nét dữ tợn, đấy chỉ là quyết tâm của họ. Họ quyết tâm chiến đấu cho Tổ Quốc,
đất nước, điều này là điều tâm niệm của mỗi người. Hai câu thơ trên đã có thời bị đưa
ra chỉ trích cùng với bài thơ là buồn rớt, là bi quan, là tiểu tư sản. Đành rằng buồn;
nhưng cái buồn ở đây không làm mất đi quyết tâm của người lính Tây Tiến. Quyết
tâm đánh giặc và lãng mạn phải kết hợp hài hoà mới có thể tạo nên vẻ đẹp tâm hồn
người chiến sĩ một cách sâu sắc. Đây là điểm mà đã có một thời vì hoàn cảnh lịch sử,
vì một lý do nào đó người ta đã quên đi hay cố tình quên đi. Người lính Tây Tiến
chiến đấu cho ai? Mục đích của họ hướng tới là gì nếu không phải quê hương mà cụ
thể là Hà Nội. Người lính mơ về Hà Nội, về người thiếu nữ Hà Nội thì chính những
mộng mơ ấy đã tiếp sức mạnh cho người chiến sĩ sống và chiến đấu. Hai câu thơ
chính vì thế lãng mạn mà rất hào hùng !
Người lính Tây Tiến gặp bao nhiêu gian khổ. Dọc con đường hành quân bao người đã
ngã xuống vì gian khổ, vì khắc nghiệt của rừng núi, vì đau ốm bệnh tật và họ ngã xuống vì chiến đấu.
: Cảm nhận bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
"Rải rác biên cương mồ viễn xứ."
Câu thơ đọc lên nghe sao mà bi thảm quá. Bao người nằm lại nơi xa lạ không người
qua lại, chẳng bao giờ về. Từ "rải rác" làm ta cảm giác người lính Tây Tiến ngã
xuống, ngã xuống nhiều trong cuộc chiến đấu, làm ta cảm giác thấm thía cái lạnh khi
những con người phải từ giã cuộc đời. Từ "viễn xứ" tạo nên sự xa xôi, lạnh lẽo của
rừng núi, gợi sự cô đơn của những người nằm lại. Câu thơ trầm xuống xoáy vào lòng
ta nỗi buồn không thể thốt nên lời, ta tưởng chừng câu thơ sau sẽ không cất nổi mình, nhưng ngược lại:
"Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh"
Câu thơ lại nhẹ nhàng như không hề mang chút bi thảm của những nấm mồ viễn xứ.
Câu thơ trước tạo nên cái "bi", câu thơ sau tạo nên nét "tráng". Cái không khí bi quan
bíên mất, chỉ còn lại nét ngang tàng, chút thanh thản của người lính Tây Tiến. Bảo
"chẳng tiếc đời xanh" là cách nói của người thanh niên tri thức Hà Nội nhưng cũng
mang cả quan niệm về lí tưởng chiến đấu. Đâu phải họ không tiếc cho tuổi trẻ. Không
phải "tuổi trẻ là mùa xuân" đó sao! Nhưng cao hơn cả tuổi trẻ họ còn có tự do, quê
hương. Còn người hậu phương gửi gắm cả nỗi lòng cho họ. Đó là lí do tại sao người
lính Tây Tiến chẳng tiếc đời xanh. Họ nằm xuống nhẹ nhàng:
"Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành"
Cách dùng từ "áo bào" làm câu thơ trở nên cổ kính hơn. Anh ra đi mãi mãi nhưng anh
ra đi là cho lẽ sống của mình sống mãi nên cái chết của anh nhẹ nhàng như "về đất".
Hơn thế, có chăng Quang Dũng có lí khi dùng từ "về đất" ngoài ý giảm nhẹ sự đau
thương ? Quang Dũng Không muốn có bất cứ giọt nước mắt nào rơi trên thi hài người
lính Tây Tiến. Người lính Tây Tiến sống lãng mạn, hào hùng thì chết cũng phải như
vậy. Đấy chính là lí do tác giả có ý sử dụng từ cổ kính và nói theo lối nói của người
lính Tây Tiến. Quang Dũng muốn rằng người lính Tây Tiến chiến đấu là cho quê
hương thì sẽ ra đi của họ là nhẹ nhàng, thanh thản: họ về với đất. Đất như người mẹ
giang tay ôm đứa con yêu vào lòng và người chiến sĩ ngủ trong vòng tay mẹ. Như vậy
: Cảm nhận bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
anh hi sinh ở nơi xa nhưng linh hồn anh vẫn về bên đất mẹ. Câu thơ vì thế mất đi nét
bi thảm vốn có. Anh chiến sĩ chết đi, quê hương ôm anh vào lòng, sông núi hát lên tiễn đưa anh:
"Sông Mã gầm lên khúc độc hành"
Không hề có tiếng khóc giọt nước mắt tang thương. Chỉ có núi sông, đất mẹ chứng
kiến cái chết của anh. Bóng dáng của anh hoà vào núi sông, hòa vào đất mẹ.
Người lính Tây Tiến ra đi nhưng hình ảnh của anh không bao giờ mờ phai trong tâm
trí con người. Hình ảnh người lính và những kỷ niệm đậm mãi trong lòng Quang Dũng và mỗi chúng ta.
"Tây Tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về sầm nứa chẳng về xuôi."
Bài thơ khép lại nhưng âm điệu vẫn mãi vang vọng trong tâm hồn ta. Nhịp điệu trùng
điệp, nét lãng mạn hào hùng của bài thơ để lại dấu ấn trong ta. Có những tác phẩm đã
gặp nhiều mà ta lại quên đi nhưng có những tác phẩm chỉ bắt gặp một lần lại sống
mãi. Ấy là Tây Tiến! Hình ảnh người lính Tây Tiến lung linh ngời sáng với cả hào khí dân tộc!
Cảm nhận bài thơ Tây Tiến - Mẫu 4
Viết về Tây Tiến - Quang Dũng viết bằng dòng hồi ức. Và trong dòng hồi ức ấy nỗi
nhớ đồng đội luôn xao động, gợi về những kỉ niệm, hình ảnh thân thương, tha thiết,
sâu lắng. Ta bắt gặp dòng hoài niệm về đồng đội, về những cầm, nỗi lòng người lính Tây tiến qua đoạn thơ:
... Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc,
Quân xanh màu lá giữ oai hùm.
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới,
: Cảm nhận bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.
Rải rác biên cương mồ viễn xứ,
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh,
Áo bào thay chiếu anh về đất,
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.
Từ bối cảnh rừng núi hoang vu, hiểm trở trong đoạn đầu bài thơ đến đây hiện lên rõ
nét hình ảnh của đoàn chiến binh Tây Tiến:
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc,
Quân xanh màu lá giữ oai hùm.
Thoạt đầu, câu thơ tưởng như chỉ mang một chút ngang tàng, một chút nghịch đầy
chất lính, nhưng càng đọc mới càng thấy hiện thực khắc nghiệt, mới thấy hết những
gian nan, khổ ải của đoàn quân Tây Tiến. Không mọc tóc – đó là hậu quả của những
cơn sốt rét rừng run người làm tiều tuỵ, làm rụng hết cả tóc của các chiến sĩ. Rồi nước
độc, rừng thiêng, bệnh tật hành hạ... tất cả như vắt kiệt sức lực khiến cho quân xanh
màu lá giữ oai hùm. Hai câu thơ cho ta thấy được hình ảnh rất thực của các chiến sĩ
Tây Tiến khi phải đối phó với bệnh tật: ốm đau rụng tóc... Nhưng không phải vì thế
mà họ mất đi vẻ oai phong dữ dội: mắt trừng gửi mộng qua biên giới..."
Đoàn quân mỏi, xanh tựa lá mà vẫn mang oai linh rừng thẳm. Mắt trừng dữ dội là để
gửi mộng vượt biên cương và để "đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm". Những người
chiến sĩ Tây Tiến hầu hết là những chàng trai thị thành khoác áo lính, nên dù ra đi
chiến đấu, dấn thân vào gian khổ, họ vẫn luôn mang và giữ một tâm hồn hào hoa,
thanh lịch, đa tình, một tầm hồn đầy thơ mộng . Mơ dáng kiều thơm là mơ dáng vẻ
kiều diễm, quyến rũ, thanh lịch của những người bạn gái thủ đô ngàn năm văn hiến.
Có người cho rằng Quang Dũng viết câu thơ này là mộng rớt vì nó không phù hợp với
hoàn cảnh kháng chiến. Song thực chất đây là một tình cảm hết sức chân thật của
người chiến sĩ, nó mang mang một ý nghĩa nhân văn chân chính bởi thể hiện ước mơ
đẹp của con người về một cuộc sống hoà bình, hạnh phúc đẩy người lính ra đi chiến đấu.
: Cảm nhận bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
Cả đoạn thơ bốn câu thì ba câu trên toàn nói về cái khác thường, oai dữ. Câu thơ thứ
tư ngược lại đầy vẻ mềm mại, trữ tình, mơ mộng. Đoạn thơ khắc họa những hiện thực
hết sức nghiệt ngã, nhưng lại không chỉ sử dụng phương pháp tả thực, mà thể hiện
bằng bút pháp lãng mạn cho ta thấy hình ảnh của người không xanh xao tiều tụy mà
oai phong dữ dội. Chữ nghĩa và bút pháp của Quang Dũng thật tài hoa. Các chữ không
mọc tóc, dữ oai hùm, mắt trừng khắc hoạ rất sâu tư thế chủ động, vẻ kiêu hùng, ngang
tàng của những chiến binh Tây Tiến. Hoàn cảnh gian khổ, những thử thách, gian nan
của một miền thâm u, hiểm trở không làm cho những người lính Tây Tiến chùn bước,
họ vẫn giữ ý chí, quyết tâm. Bên cái bi của hoàn cảnh vẫn trỗi lên cái tráng của ngoại
hình và tinh thần. Bằng thủ pháp dường như đối lập, Quang Dũng đã vừa khắc họa
được vẻ đẹp hào hùng, kiêu dũng, vừa khắc họa được tâm hồn hào hoa và đa cảm của
người chiến sĩ Tây Tiến. Núi rừng miền Tây hùng vĩ và hoang sơ, đi trong sự hùng vĩ
ấy, sự hoang sơ ấy, những người lính Tây Tiến như được truyền thêm sức mạnh, vững
bước vượt qua những gian khổ, hy sinh:
Rải rác biên cương mồ viễn xứ,
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh...
Những người lính Tây Tiến không tiếc đời ra đi chiến đấu cho quê hương, không tiếc
đời sẵn sàng hi sinh cho Tổ quốc. Họ ra đi mà vẫn nhớ, vẫn mang theo những tình
riêng mơ mộng, khi họ hi sinh thì "áo bào thay chiếu anh về đất". Bằng hai chữ "áo
bào”, nhà thơ đã nâng cao giá trị, đã tái tạo được vẻ đẹp cao quý, một vẻ đẹp như
những người tráng sĩ xưa nơi những người Tây Tiến, vẻ đẹp ấy làm mờ đi thực trạng
thiếu thốn ở chiến trường. Rồi "anh về đất", cái chết nhẹ như không, như về lại những
gì thương yêu, thân thuộc ngày xưa, "anh về đất" là để sống mãi trong lòng quê
hương, đất nước và sông Mã thay lời núi núi sông cất lên lời ai điếu bi hùng: "Sông
Mã gầm lên khúc độc hành".
Nỗi đau thật dữ dội, chỉ một tiếng "gầm thăng trầm uất", nỗi đau như dồn nén, quặn
thắt từ bên trong. Không có nước mắt của đồng đội, chỉ có con sông Mã với nỗi đau
cuộn chảy trong lòng, độc hành... chạy ngược vào tim.
: Cảm nhận bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
Cả đoạn thơ nói đến cái chất thật bi mà cũng thật hùng. Những người lính Tây Tiến đã
được nhà thơ khắc họa với nỗi nhớ thương tha thiết, với vẻ đẹp hoang sơ, dữ dội như vẻ đẹp của núi rừng.
Hình ảnh những người lính, tình cảm đồng đội, đồng chí vốn xuất hiện trong thơ ca
kháng chiến. Ta vẫn thường bắt gặp những người lính chân chất giản dị, gần gũi trong thơ Chính Hữu: Áo anh rách vai,
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng còn cười buốt giá, Chân không giày...
Hay trong bài thơ Hồng Nguyên: Lũ chúng tôi,
Bọn người tứ xứ,
Gặp nhau hồi chưa biết chữ,
Quen nhau từ buổi "một, hai"...
Nhưng với Tây Tiến của Quang Dũng thì khác. Bài thơ đã khắc hoạ không phải là
những người lính xuất thân từ những người nông dân cày sâu cuốc bẫm mà là những
chàng trai, những học sinh, sinh viên thành thị khoác áo lính. Với Tây Tiến, Quang
Dũng đã đưa người đọc ngược lên một miền thăm thẳm, nơi núi rừng, thiên nhiên
mang nét đẹp hoang dại, hiểm trở. Và nổi bật lên trên nền núi rừng miền Tây Bắc ấy
là hình ảnh những người lính Tây Tiến vượt lên trên mọi khổ ải, gian lao, toả sáng ý
chí anh hùng. Với tám câu thơ chan chứa niềm thương nỗi nhớ da diết, Quang Dũng
đã đưa người đọc trở lại một thời Tây Tiến với biết bao đồng đội mến thương của nhà
thơ... Tất cả đã giúp Quang Dũng tái tạo và khắc họa hình ảnh oai hùng về người lính
Tây Tiến. Với bút pháp tài hoa và giàu tình, nhà thơ đã xây dựng hình ảnh những
chiến binh Tây Tiến không chỉ mang vẻ dữ dội, mãnh liệt mà còn mang vẻ đẹp hào
hoa, hào hùng thật bi tráng. Và Tây Tiến không chỉ phổ đúng hồn thơ Quang Dũng mà
còn sáng lên chất thẩm mĩ hiếm thấy.
: Cảm nhận bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
Cảm nhận bài thơ Tây Tiến - Mẫu 5
Những năm tháng khói lửa bom đạn trong chiến tranh gian khổ đã đi qua nhưng
những bài thơ, lời ca ca ngợi cuộc kháng chiến hào hùng của dân tộc vẫn còn vang
mãi tới bây giờ. Thơ ca thời kỳ kháng chiến luôn khắc họa những hình ảnh chân thực
về những con người góp phần làm cho đất nước thống nhất, trong đó có người lính
Việt Nam. Tây Tiến của Quang Dũng là một trong những bài thơ hay trong kho tàng
thơ ca cách mạng. Đọc bài thơ, người đọc cảm nhận được cảnh vật núi rừng Tây Bắc
hùng vĩ mà nên thơ cùng hình ảnh người lính Tây Tiến hào hoa, lãng mạn mà vẫn rất
dũng cảm, oai hùng và bi tráng trước sự hi sinh vì tổ quốc.
Bài thơ là nỗi nhớ da diết của nhà thơ Quang Dũng về đoàn quân Tây Tiến nơi ông
gắn bó một thời gian dài. Miên man theo nỗi nhớ ấy, nhà thơ đã tái hiện lại hình ảnh
núi rừng Tây Bắc rộng lớn, hùng vĩ nhưng cũng rất nên thơ, trữ tình.
"Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi"
Con đường hành quân của chiến sĩ là nơi núi cao đến "ngàn thước", dốc núi sâu "thăm
thẳm", heo hút mà hùng vĩ. Hình ảnh một ngọn núi cao chót vót hiện lên trước mắt
người đọc cùng với mây trời bảng lảng trôi lãng đãng cũng rất nên thơ. Thấp thoáng
bên dưới những dốc núi cao ấy là hình ảnh những ngôi nhà của dân bản đang lấp ló
trong màn "mưa xa khơi". Vùng đất Mai Châu còn hiện lên thật đẹp trong những "mùa
em thơm nếp xôi". Đọc đến đây, người đọc như hình dung ra những cánh đồng lúa
ruộng bậc thang bát ngát, vàng óng báo hiệu một mùa bội thu với hương thơm ngào
ngạt của lúa nếp, của bát xôi dẻo quện.
Mảnh đất miền Tây còn hiện lên đẹp đẽ hơn trong những đêm giao lưu văn nghệ với
thôn bản trong hình ảnh "Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa". Đuốc hoa tỏa ánh sáng
rực rỡ cho màn đêm núi rừng, màu sắc sặc sỡ của "xiêm áo" các cô gái miền sơn cước
tạo nên bức tranh nhiều màu sắc cỏ cả vẻ đẹp núi rừng và sự sống con người nơi đây.
: Cảm nhận bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
Một bức tranh đêm lửa trại ấm áp, vui vẻ với đủ màu sắc, ánh sáng và âm thanh của
tiếng "khèn" càng làm thơ Tây Bắc nên thơ hơn bao giờ hết.
Qua cái nhìn của nhà thơ, núi rừng Tây Bắc càng nên thơ như một bức tranh đẹp với
nhiều chi tiết nhỏ bé thân thương:
"Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người bên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa"
Châu Mộc mang một vẻ đẹp huyền bí với những chiều sương giăng lối, lau bên những
bến bờ đung đưa trước gió, lấp ló trong màn sương chiều. Đặc biệt, một hình ảnh bé
nhỏ nhưng lại giàu sức gợi, đó là những bông hoa rừng như hoa mơ, hoa mận, hoa
lan...đang "đung đưa" theo "dòng nước lũ". Hình ảnh rất đỗi thân thương ấy cũng góp
phần tạo nên một thiên nhiên nơi núi rừng miền Tây đẹp đẽ, nên thơ, hữu tình.
Cùng hình ảnh đẹp về thiên nhiên nơi núi rừng Tây Bắc và cuộc sống sinh hoạt cộng
đồng của con người nơi đây, bài thơ cũng khắc họa được hình ảnh những người lính
Tây Tiến hào hoa, tâm hồn trẻ trung và cũng rất quả cảm, bi tráng.
Những người lính Tây Tiến xuất thân từ trí thức trẻ, là những người học sinh, sinh
viên gác bút nghiên lên đường chiến đấu vì lý tưởng cao đẹp, độc lập tự do cho dân
tộc Việt Nam. Bởi thế, tâm hồn họ rất tinh tế, trẻ trung là một điều dễ hiểu. Với sự trẻ
trung trong tâm hồn, người lính luôn nhìn cuộc sống một cách lạc quan, đứng trên
đỉnh núi cao như chạm tới mây trời, họ hài hước ví von "súng ngửi trời". Gặp bệnh tật
nơi rừng hoang, sương muối khiến các anh có bị rụng tóc, hay làn da xanh xao vàng
vọt, thì người lính vẫn có cái nhìn lạc quan:
"Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá giữ oai hùm"
Những người lính trong đoàn binh Tây Tiến yêu đời là vậy, họ còn lãng mạn bay bổng
lắm. Phải có một cái nhìn tinh tế và tâm hồn lãng mạn, người lính mới cảm được cái
: Cảm nhận bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
vẻ đẹp của "mùa em thơm nếp xôi", cảm được vẻ đẹp của "chiều sương", của "hồn
lau" cùng những bông hoa nhỏ xinh "đong đưa" trôi trên "dòng nước lũ". Và phải thật
lãng mạn họ mới có những giấc mơ bay bổng "đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm". Mơ
về dáng kiều thơm cũng chính là nỗi nhớ về những người con gái Hà Nội, nhớ về đất
Hà thành nơi các anh gắn bó những ngày tới trường.
Tâm hồn trẻ trung, lãng mạn của người lính còn được khắc họa trong những buổi giao
lưu văn nghệ ấm tình quân dân:
"Doanh trai bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viêng Chăn xây hồn thơ"
Người lính cũng say sưa, vui vẻ hòa mình vào không gian của lễ hội Tây Bắc. Vẻ đẹp
của cảnh sắc và con người lung linh khiến những người lính trở nên ngỡ ngàng thốt
lên "kìa em". Qua cái nhìn của các anh, những bó đuốc sáng rực như những bông hoa
phát sáng lung linh. Từ những tiếng khèn, tiếng nhạc, người lính mơn man xây lên
những "hồn thơ" đẹp đẽ, trong sáng. Hai từ "hồn thơ" lại càng khẳng định vẻ lãng
mạn, chất thi sĩ trong tâm hồn những người lính xuất thân từ trí thức này.
Vẻ đẹp của người lính Tây Tiến trở nên đẹp đẽ hơn, như khúc ca tráng lệ về sự hào
hùng, bi tráng trước sự hi sinh bất tử:
"Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành"
Nơi khói lửa can qua, sau những trận đánh lớn, biết bao người lính hiên ngang đã ngã
xuống. Hình ảnh " biên cương mồ viễn xứ" đều sử dụng các từ hán việt khiến câu thơ
mang một màu sắc cổ kính hơn, bi hùng hơn. Câu thơ gợi lên một bức tranh về những
nấm mồ rải rác nơi biên ải xa xôi sau những trận đánh ác liệt. Nhưng nói lên hiện thực
ấy để nhà thơ khẳng định một điều rằng người lính dù hi sinh vẫn không hề nuối tiếc
: Cảm nhận bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
"chẳng tiếc đời xanh". Nó như một lời thề sắt son của các anh, nguyện "quyết tử cho
tổ quốc quyết sinh". Người chiến sĩ ra đi cũng thật hiên ngang như những vị tướng sĩ
ngày xưa, về với đất mẹ kính yêu. Câu thơ "sông Mã gầm lên khúc độc hành" mang
một vẻ đẹp thật hào hùng, nó giống như một khúc ca vang lên thống thiết tiễn đưa
những người lính. "Sông Mã" cũng như cả đất nước thổn thức "gầm lên" trước sự ra đi
ấy, nó cũng thể hiện sự đau đớn biến thành sức mạnh để những người lính, những
người đồng đội của các anh tiếp tục chiến đấu cho tổ quốc tự do, độc lập. Tới đây,
mạch thơ như trào dâng mãnh liệt, kết thúc với một "khúc độc hành" tạo nên bức
tượng đài bi tráng về người lính Tây Tiến.
Bài thơ Tây Tiến đã rất thành công khi tái hiện thành công vẻ đẹp thiên nhiên, con
người nơi núi rừng Tây Bắc, đồng thời khắc họa vẻ đẹp trẻ trung, lạc quan, tâm hồn
lãng mạn cùng bức tượng đài bi tráng về người lính Tây Tiến. Tây Tiến khép lại trong
âm hưởng hào hùng, bi tráng như một khúc tráng ca về một thời đạn bom đã đi qua
nhưng còn sống mãi trong triệu triệu trái tim người Việt.
Cảm nhận bài thơ Tây Tiến - Mẫu 6
Những vần thơ hào hoa vang lên đi vào lòng người trở thành những lời cảm xúc ngọt
ngào đi cùng năm tháng. Và vẫn còn đó, tây tiến vang lên như một khúc hành ca của
những người lính. Nó là một trong những bài thơ hay đầy cảm xúc, những vần thơ ấy
vang lên vẫn giống như một khúc ca đi cùng năm tháng, Tây Tiến đã trở thành một
hiện tượng trong thơ Quang Dũng, cũng là một trong những bài thơ hay nhất viết về
người lính. Những câu thơ mang một vẻ hào hoa, mang một phong cách hồn
hậu,phóng khoáng. Không những thế qua bài thơ Tây Tiến chúng ta thấy được vẻ đẹp
bi tráng của những người lính Tây Tiến và về một thời hào hùng đã qua đi.
Một thời đạn bom đó đã để lại nỗi ám ảnh cho những người trực tiếp tham gia chiến
đấu. Những câu thơ mở đầu giống như những lời của năm tháng vọng về, từ những
năm tháng chiến đấu gian nan,những con người ấy qua tiếng vọng thời gian trở nên
sống động và chân thực hơn bao giờ hết. Những cơn bệnh những buổi liên hoan
những đêm nằm gác " gửi mộng qua biên giới" và có cả những sự mơ mộng của
những người lính trẻ tuổi và đầy nhiệt thành. Càng đọc chúng ta nhưng càng đọc mới
: Cảm nhận bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
càng thấy hiện thực khắc nghiệt, mới thấy hết những gieo neo, khổ ải của đoàn quân Tây Tiến
Giữa cái gay gắt những hình ảnh của người lính hiện ra vừa hồn nhiên vừa đáng để
chúng ta trân trọng. Vốn xuất thân là những chàng trai đất Hà thành trong thời gian
chiến tranh nên khoác áo lính thay áo của những nam sinh viên tới chiến trường chiến
đấu, dù ra đi chiến đấu, dấn thân vào gian khổ, họ vẫn luôn mang và giữ một tâm hồn
hào hoa, thanh lịch, đa tình, một tầm hồn đầy thơ mộng.
"Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi"
Những khó khăn của những người lính tây tiến lại trở nên đẹp đẽ và nên thơ trong
những vần thơ của Quang Dũng. Đó là những gian nan mà những người lính phải trải
qua, chính những gian nan đó lại càng tô đậm vẻ đẹp bi tráng của họ... những triền dốc
khiến người ta mới nhìn đã thấy ngại, hai từ thăm thẳm trong câu thơ khiến độ hun hút
của những con dốc lại càng trở nên nguy hiểm biết bao nhiêu.chưa dừng lại đó,những
hình ảnh hun hút, đầu súng của những người lính đang đùa giỡn với mây trời
"Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây, súng ngửi trời"
Những gian nan khó khăn ấy mở nguồn cho hình ảnh đẹp vi tráng của những người
lính ấy. Cũng có những lúc sự hồn nhiên của người lính được thể hiện qua những giây
phút mệt mỏi,gục lên ba lô và ngủ,bỏ lại sau đó những khó khăn vất vả, những hiểm
nguy của kháng chiến.Hình ảnh người lính gục lên súng mũ dãi dầu không bước nữa
là một hình ảnh đẹp. Câu thơ nhằm nói giảm đi cái chết, cái hi sinh của những người
chiến sĩ ấy. Đó là một vẻ đẹp bi tráng, cái hi sinh kia là bi nhưng trong cái bi ấy ta lại
thấy một cái tráng lệ vô cùng. Họ có thể hi sinh nhưng trong một tư thế rất nhẹ nhõm,
" bỏ quên đời" những kí ức về những lúc dừng chân mệt mỏi, những kỉ niệm với
: Cảm nhận bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
những buổi chiều và ban đêm với những con thú dữ gầm rú lên, nhớ những đêm mùa nếp xôi ở Mai Châu.
Không chỉ khó khăn trên chiến trường chiến đấu, những câu chuyện về bệnh tật và nơi
khí hậu khắc nghiệt cũng được đưa vào trong thơ của Quang Dũng. Không một chút
giấu giếm, sự thiếu thốn hay những căn bệnh như sốt rét, khiến cả binh đoàn bị rụng
hết tóc, quang Dũng đã khai thác một vẻ đẹp hết sức chân thực của người lính Tây
tiến, dù khó khăn khắc nghiệt nhưng tinh thần chiến đấu chưa bao giờ kết thúc. Hình
ảnh quân xanh màu lá là những hình ảnh gầy gò ốm nhưng không hề yếu mà vẫn dữ
oai hùm. Mắt trừng gợi cho ta liên tưởng đến sự căm thù giặc của những anh hùng tây
tiến. Những ánh mắt hiện lên lửa hy vọng và tinh thần chiến đấu oai hùng, không một
chút phó mặc cho số phận, cũng có thể đó chính là sự thức trắng không ngủ được vì lo
cho biên giới hoặc mở mắt để nhớ những bóng kiều thơm kia..Đó sự hi sinh của
những người chiến sĩ ấy, họ phần lớn là những trí thức Hà Thánh ngày đêm nghĩ đến
quê nhà với những bóng hồng mà không bao giờ mờ nhạt trong lòng họ..
Với việc sử dụng biện pháp đối, nhà thơ Quang Dũng đã vừa khắc họa được vẻ đẹp
hào hùng, kiêu dũng, vừa khắc họa được tâm hồn hào hoa và đa cảm của người chiến
sĩ Tây Tiến. Chúng ta có thể thấy núi rừng miền Tây hùng vĩ và hoang sơ, đi trong sự
hùng vĩ ấy, sự hoang sơ ấy, và những người lính Tây Tiến như được truyền thêm sức
mạnh, vững bước vượt qua những gian khổ, hy sinh:
Rải rác biên cương mồ viễn xứ,
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh...
Những người lính tây tiến không sợ hi sinh bản thân họ, nếu có thể họ không tiếc hi
sinh thân mình để bảo vệ những người thân yêu mình ở hậu phương. Họ ra đi mà vẫn
nhớ, vẫn mang theo những tình riêng mơ mộng, khi họ hi sinh thì "áo bào thay chiếu
anh về đất.. Đất mẹ chính là nơi các anh sinh ra cũng là nơi mà các anh về, đất mẹ che
chở cho các anh mãi mãi yên bình với giấc ngủ ngàn thu của mình. Một lần nữa, hình
ảnh sông Mã hiện ra, gầm lên khúc hành ca, như kính cẩn tiễn đưa linh hồn các anh,
không phải là sự chơi vơi nữa mà là tiếng gầm, nó càng tạo nên chất tráng cho bài thơ.
: Cảm nhận bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
Lấy cảm hứng từ cuộc sống chân thực mà chính bản thân tác giả trải qua,những chàng
trai, những học sinh, sinh viên thành thị khoác áo lính. Thêm một lần nữa Quang
Dũng đã đưa chúng ta về với tây Tiến với những kí ức vừa lãng mạn vừa bi tráng.
Dưới ngòi bút hào hoa của Quang Dũng những hình ảnh về những người lính Tây
Tiến vừa hồn hậu,giản dị lại hết sức khí phách.Qua đây ta cũng thấy được những vẻ
đẹp bi tráng của những chiến binh tây tiến, cảm nhận được như thế chúng ta càng
thêm yêu hơn những con người vì quê hương đất nước.
Cảm nhận bài thơ Tây Tiến - Mẫu 7
Nguyễn Đình Thi từng viết: "Thích một bài thơ là thích một cách nhìn, cách cảm, cách
nghĩ, xét đến cùng là thích một con người". Giữa rừng thơ kháng chiến đầy sắc khoe
hương đang nở rộ, “Tây Tiến” vẫn được người đọc rất ưa thích, đơn giản vì “một cách
nhìn, một cách cảm, một cách nghĩ” ấy mà thôi.
“Tây Tiến” được xem là tác phẩm đỉnh cao của đời thơ Quang Dũng. Bài thơ được
viết năm 1948, tại Phù Lưu Chanh, trong nỗi nhớ nồng nàn với Tây Tiến – đơn vị
chiến đấu cũ – cũng là nỗi nhớ núi rừng rải về miền Tây Tổ quốc có vẻ tuyệt kì mà
Quang Dũng một thời gắn bó. Không khí lãng mạn rất riêng của những ngày đầu
kháng chiến, tư thế dấn thân đầy kiêu hùng, quả cảm của người con Hà Nội hào hoa,
đa tình đã được thể hiện đậm nét ở từng câu thơ chứa đầy chất nhạc, chất họa, vừa
trang trọng, cổ kính, vừa tươi tắn, trẻ trung.
Quang Dũng viết thật hay về nỗi nhớ - nỗi nhớ dấy lên từ những nẻo đường tha
hương, nẻo đường cách mạng và kháng chiến, hướng về “cố quận”, về “Xứ Đoài mây
trắng lắm”. về một “ngọn Ba Vì mờ xa” và cả cái tên thân thương “Tây Tiến” :
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!”
Câu thơ 7 chữ mà có đến 4 chữ là địa danh. Đã có hình ảnh trực tiếp nào đâu, thế mà
nó cứ vang vọng cào không gian, dội sâu vào tâm tưởng. Đó là tiếng gọi của một quá
khứ thăm thẳm không chịu ngủ yên trong tâm can người thi sĩ. Chừng như, kể từ giây
phút ấy, chúng không còn là những địa danh vô cảm, vô can trên bản đồ. Từ thời khắc
ấy, những chữ ấy đã cất giữ cho Quang Dũng cả một quãng đời. Câu thơ xác định rõ
: Cảm nhận bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
hai khoảng không gian khác nhau: không gian thực tại và không gian hồi tưởng.
Nhưng hình như chỉ có độc giả mới nhận ra rành rẽ điều đó, còn với nhà thơ, khi ông
nói “xa rồi” là khi hình ảnh của quá khứ chưa xa đang ấp tới, nhấc bổng ông lên khỏi
mảnh đất hiện thực. Bởi thế, toàn bộ bài thơ như một câu chuyện được bao bọc trong
bầu khí quyển riêng của nỗi nhớ.
Thơ viết về nỗi nhớ từ xa xưa đến nay khó mà kể xiết. Nhưng ít có bài thơ nào mà nỗi
nhớ lại được biểu đạt bằng những chữ lạ và ám đến vậy:
“Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi”
Người đọc “Tây Tiến” làm sao quên được chữ “nhớ chơi vơi”. “Chơi vơi” là trạng
thái của nỗi nhớ hay của cảnh vật được nhớ? Nó là cái chông chênh hụt hẫng của kẻ
đang phải lìa xa nơi mình từng gắn bó hay là cái trập trùng xa ngát của núi rừng miền
Tây? Thật khó tách bạch! Cả hai chủ thể và đối tượng dường như đã trộn lẫn vào nhau
mà đồng hiện trong một chữ “chơi vơi” ấy. Có phải đó là cái trạng thái chập chờn rất
riêng của nỗi nhớ chăng?
Mạch thơ chủ yếu là sự đan dệt của kỉ niệm, của những sực nhớ miên man, của những
vụt hiện bất ngờ mà ở đó các địa danh có khi chỉ thoáng một dòng tên, có khi chỉ là
một điểm nhấn nào đó của kỉ niệm. Còn kỉ niệm bao giờ cũng chan hòa cảnh với
người, cùng song hành và đan dệt cả hai mạch: vừa gian khổ vừa thơ mộng:
“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi”
Bút pháp hiện thực đã miêu tả chân thực hình ảnh đoàn quân dãi dầu mệt mỏi, thấp
thoáng ẩn hiện trong sương. Và đêm sương ấy trở thành “đêm hơi” bồng bềnh qua cái
nhìn lãng mạn của Quang Dũng. Những ngọn đuốc soi đường như những đóa hoa
chập chờn, lung linh, huyền hoặc. Sự khắc nghiệt của thiên nhiên được cảm nhận một
cách thật thú vị bởi hình ảnh lãng mạn, hào hoa.
: Cảm nhận bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
Giống như “Tiến quân ca” và mọi khúc quân hành, trong “Tây Tiến”, ta thấy nổi lên
hình tượng những con đường. Con đường được kết bằng những địa danh Việt – Lào,
đọc lên trầm bổng như ca hát, xa lạ và hiện đại:
“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”
Câu thơ “Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm” có 7 chữ mà tới 5 chữ là thanh trắc
cùng điệp từ “dốc”, các từ láy “khúc khuỷu, thăm thẳm” đã gợi tả hình ảnh con đường
hành quân với những đèo dốc quanh co, gập ghềnh, lên cao mãi. Từ láy “heo hút” gợi
về cảm giác xa xôi, hẻo lánh. Đặc biệt, nhà thơ không phải người sao chép cuộc sống
vào trang thơ mà mỗi chữ đều là sự sôi sục “đãi quặng tìm vàng” (Maiacopxki), để
“lượm lặt” trên luống cày đời sống, ấp ủ và gieo lên thành những đóa hoa thơ tuyệt
đẹp. Những chữ lấp lánh ấy vừa khiến người ta bất ngờ lại vừa gây hứng thú: “cồn
mây”. Không phải áng mây phiêu du hay chòm mây phiêu lãng mà lại là “cồn mây”
mờ mịt nơi cửa ải xa: “mặt đất mây đùn cửa ải xa” (Đỗ Phủ). Hình ảnh nhân hóa
“súng ngửi trời” mới độc đáo và thú vị làm sao. Đến câu thơ tiếp theo lại được ngắt
đột ngột làm đôi, vẽ ra hai chặng đường hành quân. Điệp ngữ “ngàn thước” cùng nghệ
thuật đối lập “lên cao- xuống” đã gợi tả độ sâu của vực đầy dữ dội, hiểm trở. Thì ra
đọc thơ Quang Dũng không chỉ như ngậm nhạc trong miệng mà còn như được thưởng
tranh. “Thi trung hữu họa, thi trung hữu nhạc” là vì thế. Nếu câu thơ trên trắc trở bao
nhiêu thì câu thơ dưới lại mềm mại bất nhiêu, câu thơ trên cheo leo bao nhiêu thì dưới
lại nhẹ nhàng bấy nhiêu, cảnh trên hiểm trở bao nhiêu thì cảnh hiện thời lại êm đềm
bấy nhiêu: “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”. Tâm hồn thảnh thơi được trải ra theo
những âm bằng suốt cả câu thơ rồi.
Gian nan bao giờ cũng được xem là ngọn lửa thử vàng. Chẳng thế mà có câu “Lao xao
sóng vỗ gợn trùng/ Gian nan là nợ anh hùng phải vay”. Gian nan, thử thách chính là
nền để làm nổi bật lên vẻ đẹp và chí khí của con người. Họ đâu có nản chí trước thiên
nan vạn nan, họ đương đầu với những dãi dầu thân xác trong dằng dặc thời gian:
: Cảm nhận bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
“Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời”
Hai câu thơ tựa như bức họa đầy ấn tượng về người lính. Đây có thể là những giây
phút hiếm hoi người lính buông mình vào giấc ngủ; nhưng cũng có thể là một thực tế
đau xót là người lính đã ngã xuống và không thể bước cùng đồng đội. Sự hi sinh là có
đấy bởi Quang Dũng không bao giờ né tránh hiện thực. Nhưng hiện thực trong mắt
ông không bao giờ chỉ giản đơn và tẻ nhạt. Một loạt các từ mang tính chủ động:
“không bước nữa”, “bỏ quên đời”. Biến sự mất mát thành sự chủ động đón nhận, chấp
nhận một cách tự tin và nhẹ tênh, mang cái ngang tàng, kiêu bại của những người lính
trẻ trung, giàu nhiệt huyết.
Khi ấy, tầm vóc của họ được đặt trong thiên nhiên hùng vĩ:
“Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”.
“Thác gầm thét, cọp trêu người” là những hình ảnh nhân hóa làm tăng thêm sự hoang
sơ, dữ dội, bí hiểm của núi rừng Tây Bắc. “Chiều chiều, đêm đêm” là những trạng ngữ
chỉ thời gian lặp lại miên viễn, vĩnh hằng. Sức mạnh của thiên nhiên ngự trị nơi đây
không phải chỉ có một chiều, một đêm mà là “chiều chiều, đêm đêm”. Nhưng đó cũng
là thời gian của những cuộc hành quân Tây Tiến. Vì thế mà hai câu thơ miêu tả cái
thâm u, bí ẩn của rừng núi miền Tây Bắc càng khiến chân dung người chiến sĩ thêm cao lớn, mạnh mẽ.
Cuộc hành quân không chỉ có những gian truân vất vả mà còn có những kỉ niệm ngọt ngào, ân tình:
“Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”
Chữ “Nhớ ôi” nghe mới nôn nao, nghèn nghẹn thế nào! Không phải “ôi nhớ” như lối
cảm thán cũ mòn ; cũng không phải “nhớ ôi là nhớ” thật thà, khẩu ngữ hay “nhớ ôi”
như tiếng gọi hướng ra người mà là “nhớ ôi” như tiếng kêu hướng về mình. Ta nghe
: Cảm nhận bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
rõ trong lời thơ một nỗi nhớ nhung bất chợt cồn lên. Kẻ nhớ không thể cầm lòng đã vỡ
òa thành tiếng kêu than nhưng “buột miệng ra mà dư vang súc tích”. Lê Đạt từng nói:
“Tôi tôn trọng những nhà văn sinh sự với văn chương để tạo ra sự sinh của ngôn ngữ”.
Quang Dũng là một người như thế. Ông đã tạo ra một nét nghĩa táo bạo mà thật đa
tình trong tập hợp từ mới mẻ: “mùa em”. “Mùa em” khiến cho Mai Châu không chỉ là
một địa danh gắn với những kỉ niệm thơm thảo của xôi nếp đầu mùa, của tình quân
dân sâu nặng mà còn gợi nhớ hình ảnh những cô gái duyên dáng miền sơn cước. Rồi
đây, Tây Tiến sẽ mờ dần sau những thăng trầm lịch sử nhưng tiếng kêu kia vẫn sẽ còn
gieo vào lòng người đọc mai sau những bồi hồi một thuở. “Tây Tiến” cứ sống trong
nỗi nhớ và sống bằng nỗi nhớ như thế.
Kết thúc đoạn một, đợt sóng cồn của kí ức bị đánh thức đột ngột hình như đang tan
dần. Đợt sóng mới chưa kịp hình thành, nên lúc này kí ức được kéo dãn ra, nhẹ nhàng
lan tỏa để các hình ảnh tươi tắn hơn, “nét” hơn hiện về:
“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”
Nếu như phần đầu bài thơ chủ yếu nói về cái khắc nghiệt, dữ dội của hoàn cảnh thì
đoạn thơ này lại nhấn mạnh đến chất thơ đậm đà của vùng rừng núi phía Tây Tổ quốc.
Trong gian khó, họ vẫn trẻ trung, vẫn thích thú tổ chức những “hội đuốc hoa”. Trong
hiện thực, đó có thể là lửa đuốc nhưng trong cái nhìn lãng mạn của những chàng trai
trẻ tuổi trẻ lòng thì đó là những gì rực rỡ và tươi sáng, rạng ngời cũng ấm áp, ảo
huyền. Một từ “bừng” thôi đã làm bừng sáng không gian, bừng lên niềm vui và còn
làm bừng thức một miền kỉ niệm khi chiến sĩ hôm nay bỗng nhớ về. “Xiêm áo” vốn là
từ Hán Việt như những gì lộng lẫy, rực rỡ bước từ thơ cổ ra đi với từ “kìa em” lại như
gần gũi như từ trang đời mà bước vào. “Kìa em” mang theo tâm trạng ngỡ ngàng mà
cũn có thể là cái nhìn mê đắm, hom hình trẻ trung của người linh. “Kìa em” như còn
sống động, tươi rói như mới đây thôi! Một cụm từ “xây hồn thơ” đã xác lập vị trí của
những chàng trai ấy: không chỉ là chiến sĩ quả cảm mà còn là thi sĩ đa tình. “Hồn thơ”
: Cảm nhận bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
hay là nàng thơ, là vẻ đẹp của sơn nữ miền sơn cước yêu kiểu? Hay đó là tiếng “khèn
lên man điệu nàng e ấp”, đêm hoa đăng lộng lẫy”? Chẳng thể phân định được. Chỉ biết
tình cảm cứ theo kí ức mà ùa về, nồng nàn, đắm say.
Những câu thơ tiếp theo là hình ảnh thiên nhiên miền sơn cước tuyệt đẹp:
“Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có thấy dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”
Một từ “chiều sương” thôi mà gợi được cả thời gian và không gian. Cổ thi mỗi khi
nhắc đến chiều, đến sương là một nỗi buồn thiên cổ, là nỗi hoài cổ ngàn năm gợi về:
“Dặm liễu sương sa khách bước dồn. (Bà Huyện Thanh Quan). Nhưng câu thơ của
Quang Dũng lại cho ta một cảm giác rất nhẹ nhàng, bình yên. Một từ “ấy” vô danh
nhưng lại hữu ý. Từ “ấy” vô danh vì nó gợi nhắc đến một thời gian nào đó, đôi khi cả
chủ thể cũng không thể xác định được: là “Buổi ấy lòng ta nghe ý bạn” (Xuân Diệu),
là “Từ ấy”, “Mười lăm năm ấy” trong hồi ức của Tố Hữu. Nhưng đó cùng là ngày
không thể lẫn vào đâu trong muôn vàn buổi chiều vô danh khác trong đời: buổi chiều
mang tên kỉ niệm, mang theo nỗi nhớ. Nhà thơ chỉ mất một ít rõ ràng nhưng nhận lại
bao la những ý nghĩa. Không phải là “cây lau”, “ngọn lau” hay “phận lau” như TS
Chu Văn Sơn dùng trong bài tùy bút: “Phận hoa bên lề” mà là “hồn lau”. Cái “hồn”
xưa mà Bà Huyện Thanh Quan đã viết: “hồn thu thảo” làm cho câu thơ không chủ
đích tả mà gợi, không chủ ý vẽ mà khơi. Không thấy được hình dáng của ngọn lau
nhưng có thể cảm nhận được linh hồn riêng của đại ngàn Tây Bắc. Cảnh theo lời thơ
mà tan ra. Một chút rõ ràng mất đi mà thêm rất nhiều thơ mộng. Câu thơ cuối làm hiện
ra bóng dáng duyên dáng, uyển chuyển của người con gái Thái giữa cảnh thiên nhiên
mộng mơ, yên bình. Hình ảnh “hoa” không chỉ gợi về hình ảnh xứ sở Tây Bắc ngàn
hoa mà còn là hình ảnh của cái đẹp. “Hoa đong đưa” là đang làm duyên với gió, với
nước khi đã nở trọn đời hoa để buông mình? Hay đó là hình ảnh ẩn dụ của cái đẹp,
của người con gái đang tình tứ mà kín đáo làm duyên. Câu thơ có cái duyên của cảnh,
duyên dáng của người và phải chăng còn là đôi mắt tình tứ của người ngắm cảnh nữa?
: Cảm nhận bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
Và rồi chân dung người lính Tây Tiến đã được trực tiếp hiện lên qua những nét chạm
khắc rạch ròi, gân guốc:
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”
Hai câu thơ đầu của Quang Dũng vang lên với cách nói khẩu khí quen thuộc. Sự thật
hiện lên một cách thẳng băng như nó vốn có bằng “ngôn ngữ lính” nên hóa bất ngờ,
và vì bất ngờ nên vẻ trần trụi của hiện thực được cảm nhận khác đi. Câu thơ không gợi
ý nghĩ bi đát, mặc dù ai cũng hiểu sự “không mọc tóc” và làn da “xanh màu lá” chính
là hậu quả của sốt rét. Bởi câu thơ của Quang Dũng mỗi khi vừa chạm tới địa hạt của
hiện thực lại được nâng lên bằng đôi cánh lãng mạn. Cụm từ “không mọc tóc” làm
cho câu thơ rắn rỏi, gân guốc; câu thơ ngang tàng; con người hiện lên với tâm thế chủ
động, tư thế hiên ngang ngạo nghễ. Biện pháp ẩn dụ kết hợp phóng đại “dữ oai hùm”
khiến chủ thể hiện lên uy nghi, đường bệ như chúa sơn lâm, khiến ốm mà không yếu –
dáng vóc của những tráng sĩ chinh phu. Hai câu thơ trên gân guốc bao nhiêu thì hai
câu thơ dưới lại nhẹ nhàng bấy nhiêu! Nếu ở trên tác giả thay “mắt trừng” bằng “bâng
khuâng” thì câu thơ dưới sẽ giảm hẳn nét mềm mại và chi tiết được nêu lên mất đi tính
tinh lọc và quý hiếm của nó. Câu thơ có cái “mộng” của người anh hùng mang theo
lửa rực căm thù và khát khao lập công nhưng vẫn giữ cho mình chút “mơ” của giai
nhân. Tác giả không dùng từ “nhớ” : nỗi nhớ của người lính nông dân về “giếng nước
gốc đa” (“Đồng chí”), về “người vợ trẻ mòn chân bên cối gạo canh khuya” (“Nhớ”)
hay cái nhớ của Nguyễn Đình Thi “Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu”, … Vì “nhớ”
thiên về tâm trạng – cụ thể còn “mơ” là dấu tích của tâm hồn – mơ hồ . “Dáng kiều
thơm” ấy chính là vầng sáng lung linh trong kí ức, “tố cáo” nét đa tình và đời sống
tình cảm dạt dào của người lính, vốn thường bị che phủ trong kháng chiến.
“Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
: Cảm nhận bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
Câu thơ là một trong những bức tượng đài bi tráng nhất của người lính Việt Nam. Nơi
viễn xứ, những con người ấy chỉ còn là áo vải mong manh. Cái bi, cái mất mát trong
chiến tranh là chẳng thể nào chối bỏ. Nhưng bi mà không hề lụy. Câu thơ sử dụng hệ
thống những từ Hán Việt: “biên cương” “viễn xứ”, “chiến trường”, “áo bào”, “độc
hành” làm cho không khí trở nên trang giọng, lời thơ trầm lắng, giọng thơ trầm hùng,
bi tráng. Lại một cách nói chủ động: “chẳng tiếc đời xanh” khẳng định khí thế ngang
tàng của những bậc nam nhi coi cái chết nhẹ tựa hồng mao. Hình ảnh “áo bào” gợi về
bóng dáng những Kinh Kha bên bờ sông Dịch: “Tráng sĩ nhất khứ hề bất phục hoàn”
cùng biện pháp nói giảm nói tránh càng làm cho người lính hiện lên cao đẹp. Cái chết
đối với họ, đơn giản chỉ là sự trở về khi mình đã sống và chiến đấu hết mình trong một
tâm thế ung dung, nhẹ nhàng. Trước đây, khi nhắc đến những câu thơ này của Quang
Dũng, người ta thường thấy ở đó những biểu hiện tiêu cực của “mộng rớt”, “buồn rớt”
hay “yêng hùng tư sản”. Cái khẩu khí của nhà thơ, của những anh bộ đội Tây Tiến ấy,
thực ra, vô cùng đáng trọng. Nó là biểu hiện quyết tâm của những con người yêu
giống nòi, sẵn sàng đổ máu hi sinh vì những lẽ sống lớn lao. Họ không phải nạn nhân,
những con tốt đen vô danh vô nghĩa trên bàn cờ trận mạc mà là những “chủ thể đầy ý
thức của lịch sử”, biết sống đẹp từng giây phút, biết ước mơ, hi vọng và khi cần thì
sẵn sàng hiến dâng. Những câu thơ của Quang Dũng thực sự ngang tầm vóc với các
chiến sĩ đã bỏ mình vì nghĩa lớn. Sự ra đi của họ lại được cất lên thành khúc “độc
hành” của sông Mã đầy uy nghiêm và trang trọng. Tầm vóc con người đã sánh ngang tầm vũ trụ.
Phần “vĩ thanh” của “hành” “Tây Tiến” gồm bốn câu muốn tiếp tục cuộc hành trình
của kí ức vượt lên theo dấu chân đoàn quân lừng tiếng:
“Tây Tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi”
: Cảm nhận bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
Hai câu trên nhắc lại lời hẹn ước của đoàn quân Tây Tiến thuở lên đường: “Chí lớn
chưa về bàn tay không”. Hai câu sau vừa là lời tự nhắc nhở vừa là sự duyệt lại của kí
ức để đi đến khẳng định: không thể quên những chặng đường đã qua, người dù có đi
nơi đâu vẫn gửi hồn về Sầm Nứa. Bởi vì chặng đường đã qua là kỉ niệm, là đồng đội,
là sự hiến dâng, là cuộc đời riêng có dịp phát sáng trong cuộc đời chung của dân tộc, cách mạng.
“Tây Tiến” tràn đầy nỗi nhớ, hay nói đúng hơn chính là nỗi nhớ. Đó cũng có thể coi là
lời nguyện ước của một thế hệ thanh niên sẵn sàng hiến dâng cả tuổi xanh của mình
cho đất nước thân yêu. Hiệu quả càng được nâng lên khi nhà thơ con thể “Cổ phong
trường thiên” (một thể loại hành) để những tình cảm, cảm xúc không bị bó buộc mà có
thể trải dài theo đầu ngọn bút, trong những con chữ. Hình ảnh thơ giản dị, quen thuộc
nhưng khi được ứng hiện vào nhau trong sự sắp xếp của Quang Dũng lại đem đến hiệu
quả không ngờ. Nếu nói “thi trung hữu họa”, “thi trung hữu nhạc” thì “Tây Tiến” là
một dẫn chứng tiêu biểu. Với sự tài hoa trong cách sử dụng và sáng tạo từ ngữ, Quang
Dũng khiến người đọc như “ngậm nhạc trong miệng”, như thưởng tranh trong chữ.
Bút pháp hiện thực đi liền với lãng mạn đã làm nên vẻ đẹp hào hùng, bi tráng cho
những câu thơ. Đó chính là phong vị rất riêng của thơ Quang Dũng: vừa dung dị, vừa
bay bổng, không đẽo gọt cầu kì mà mới lạ đến đáng ngạc nhiên!
Thích “Tây Tiến”, đơn giản chỉ là thích cách nhìn ấy, cách cảm ấy và thích con người
ấy. Đó chính là lí do bài thơ có thể vượt ngoài quy luật băng hoại của thời gian mà tồn
tại với độc giả đến hôm nay và mãi mãi về sau.
Cảm nhận bài thơ Tây Tiến - Mẫu 8
Nhận xét về áng thơ của Quang Dũng, có ý kiến cho rằng: “Tây Tiến là đứa con tráng
kiện và hào hoa của đời thơ Quang Dũng.” Thật vậy, bài thơ đã ghi lại dấu son trên
hành trình nghiệp cầm bút của thi sĩ, đồng thời khắc sâu vào lòng bạn đọc những ấn
tượng đặc biệt về một thời hào hùng của dân tộc.
Quang Dũng vốn là một chiến sĩ của binh đoàn hành quân đến vùng cực tây của Tổ
quốc, thấu hiểu sâu sắc cái gian khổ mà hào hùng của cuộc kháng chiến bảo vệ đất
: Cảm nhận bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
nước. Trong giây phút chia xa giữa đồng bào và chiến sĩ tại làng Phù Lưu Chanh, áng
thơ Tây Tiến đã ra đời, thấm đượm cái tình, cái bịn rịn của lòng người. Bao khó khăn
gian khổ cùng phút giây ấm nồng tình đồng đội đều hiện về đậm nét trong tâm trí nhà
thơ, gợi những xúc cảm sâu sắc.
Quang Dũng mở đầu bằng những câu thơ chất chứa nỗi lòng nhớ thương, lưu luyến:
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi”
Hình ảnh sông Mã hiện ra vừa thơ mộng, trữ tình nhưng cũng vừa ẩn chứa nét hoang
sơ, dữ dội. Không phải văn hóa, không phải con người, cái hiện về đầu tiên trong tâm
trí thi sĩ là hình ảnh dòng sông Tây Bắc như là biểu tượng thay lời cho mọi niềm
thương nỗi nhớ. Xuất phát từ nỗi nhớ ấy, tiếng gọi : “Tây Tiến ơi” không thể kìm nén
mà bật lên thành tiếng. Phép điệp âm “ơi” ở cuối mỗi câu thơ như ngân vang, kéo dài
thêm dư âm của nỗi nhớ, trải khắp cả chiều rộng không gian và độ dài thời gian.
Nhưng càng nhớ càng thương thì càng khắc sâu nỗi đau nhói hiện thực nay song Mã
và Tây Bắc đã “xa rồi”. Đó là hiện thực không thể thay đổi, rằng những chiến binh
Tây Tiến sẽ rời mảnh đất thân quen này để trở về với thành thị, xây dựng cuộc sống
mới. Tiếp nối dòng hồi ức ấy là hình ảnh của hành trình hành quân đầy gian truân, thử
thách của binh đoàn Tây Tiến. Sài Khao, Mường Lát, Mường Hịch đều là những địa
danh xa lạ, mới mẻ đối với nhwunxg chành trai Hà thành. Nhưng không vì gian khổ,
không vì lạ lẫm mà chùn bước, họ vẫn quyết tâm lên đường đi theo tiếng gọi của Tổ
Quốc. Con đường hành quân hiện lên với đầy thử thách, hiểm nguy. Đó là hành trình
phải xuyên qua sương mù giăng kín lối, là trèo đèo lội suối qua những địa hình hiểm trở.
“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây, súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”
: Cảm nhận bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
Thiên nhiên tây Bắc luôn thật dữ dội, khắc nghiệt đối với mỗi bước chân hành quân
qua đây. Đặc biệt, Quang Dũng còn rất tinh tế khi sử dụng một loạt từ láy tượng hình
giàu sắc thái biểu đạt: “thăm thẳm, hun hút, khúc khuỷu” gợi cái trắc trở của con
đường hành quân. Đó là dốc cao, núi thẳng, đèo sâu, như lời thách thức, đe dọa tính
mạng con người. Chủ cần chút lơ là cũng khiến con người phải trả giá bằng cả mạng
sống. Đó là hiện thực kháng chiến và cũng là hiện thực chiến tranh phi nghĩa đem lại.
“Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời!
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”
Trên chặng hành trình ấy, có lúc những bước chân chùn lại, mệt mỏi mà gục xuống.
Đó có thể là phút giây nghỉ ngơi hiếm hoi của người chiến sĩ sau bao khó khan, vất vả,
nhưng cũng có thể là giây phút chia xa cõi đời. Không phải bỏ mạng mà họ “bỏ quên
đời”- một khí phách thật ngang tang, oai dũng của con người bước ra từ khói lửa chiến
tranh. Quang Dũng vô cùng tinh tế khi sử dụng lối nói giảm nói tránh để trong mất
mát, họ không thấy cái bi lụy, đau thương. Ở câu thơ chỉ tồn tại ánh hào quang của
tinh thần chiến đấu kiên cường cùng tâm hồn lạc quan, yêu đời, hết mình vì đất nước,
vì dân tộc. Xung quanh nơi dừng chân của binh đoàn Tây Tiến luôn ẩn chưa
snhuwngx nguy hiểm rình rập. Đó là bước chân của cọp dữ- chứa tể rừng xanh, là
tiếng gầm thét phẫn nộ của thác nước. Thiên nhiên đại ngàn là người bạn sát cánh trên
mỗi chặng hành trình, nhưng đồng thời cũng là kẻ thù nguy hiểm đối với chiến binh Tây Tiến.
Sau những dữ dội của đại ngàn, hồn thơ Quang Dũng tìm về với những nhớ thương,
với những dịu dàng, ấm nồng trong đời sống con người.
“Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”
Không còn là tiếng gọi “ nhớ ơi’ tha thiết ngân vang bên trên nữa, nỗi nhớ giờ đây đã
day dứt, cuộn sâu vào nỗi lòng người lính. Hình ảnh cuộc sống con người bình dị hiện
: Cảm nhận bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
về đầy thân thương, ấm nồng tâm hồn người lính trẻ. Bếp cơm giản dị, hương khói
thơm nồng gợi về một cuộc sống bình yên, hạnh phúc.
“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”
Ánh sáng đêm hội đuốc hoa thắp sáng tâm hồn người lính, kéo gần hơn sợi dây gắn
kết những cuộc đời xa lạ thành đồng chí, đồng bào, thành chỗ dựa vững chắc trên
chặng đường lịch sử dân tộc. “Em” phải chăng là những cô gái đồng bào Tây Bắc
đang xúng xính váy hoa, nhảy điệu nhảy truyền thống làm say đắm lòng người. Giữa
không khí căng thẳng của cuộc kháng chiến, những người lính vẫn chìm đắm trong
tâm hồn lạc quan, yêu đời, tận hưởng không khí vui say của lễ hội cùng đồng bào Tây Bắc.
“Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”
Tâm hồn lãng mạn của người lính Tây Tiến đắm chìm trong khung cảnh nên thơ, trữ
tình nơi đây. Bức tranh thiên nhiên hiện lên trong ánh chiều tà heo hắt buồn với dòng
sông, cây lau lơ phơ trước gió cùng bóng hình con người bé nhỏ. Đứng giữa đại ngàn,
con người trở nên nhỏ bé, đơn côi trên chiếc thuyền độc mộc, lặng lẽ trôi, gợi chút
buồn thương. Cảnh sông nước thường gợi cho con người cảm giác mênh mang đến
đơn độc, phảng phất chút đìu hiu. Là cảnh buồn hay lòng người vốn vấn vương nỗi
sầu. “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ” (Nguyễn Du).
Sau những phút giây lãng mạn, âm điệu bài thơ liền dậy lại không khí bi thương, tàn
khốc của chiến tranh phi nghĩa. Đó là:
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
: Cảm nhận bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu, anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
Bước chân ra chiến trường, những chàng trai hà thành phải đối mặt với vô vàn khó
khăn thử thách không chỉ bởi thiên nhiên, mà còn là trong đời sống sinh hoạt. Bệnh tật
hoành hành khiến binh lính xanh xao, gầy rộc, tóc không thể mọc. Quang Dũng đã
thấu hiểu và đưa vào vần thơ hiện thực tàn khốc của cuộc kháng chiến trường kì, gợi
ta nhắc nhớ về căn bệnh sốt rét rừng trong áng thơ “đồng chí” của Chính Hữu:
Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Rét run người vầng trán ướt mồ hôi”
Cái tang thương được đẩy lên cao độ khi thi sĩ khắc họa hình ảnh “ áo bào thay chiếu
anh về đất”. Không phải mất mát, không phải gục ngã, người lính ấy trở về với đất mẹ
sau bao ngày tháng chiến đấu oai hùng. Đây chỉ là lúc nghỉ ngơi trở về với nơi đã sinh
ra và lớn lên. Câu thơ vẫn ánh lên niềm lạc quan, niềm tin tưởng vào tương lai của
Đảng, của Cách mạng. Hình ảnh sông Mã một lần nữa hiện lên trong cái hung bạo, dữ
dằn của mình. Dòng sông gầm thét hay đang tấu nên khúc trường ca ngợi ca, chia tay
với những người lính trẻ. Họ đã dành cả thanh xuân để gìn giữ hòa bình, độc lập cho
đất nước: “ Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”. Đó là tinh thần chiến đấu anh dũng,
cao cả, tinh thần tuyệt vời của anh bộ đội cụ Hồ.
“Tây Tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi.”
Khép lại bài thơ, Quang Dũng dành những vần thơ ngọt ngào, chậm rãi dành cho binh
đoàn Tây Tiến và những đồng bào vùng cực Tây Tổ quốc. Bước chân vào chiến
: Cảm nhận bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
trường không ai biết trước tương lai, không lời hẹn gặp lại, để lại sau lưng là nỗi nhớ
thương sâu nặng dành cho người ở lại và người ra đi. Tây Tiến là thanh xuân, là đồng
đội và là cả lý tưởng của một thời thanh niên noi theo ánh sáng của Đảng.
Bằng vốn trải nghiệm, thấu hiểu thực tế cùng ngòi bút hiện thực lãng mạn xuất sắc,
Quang Dũng đã tái hiện trước mắt bạn đọc không khí hào hùng, mãnh liệt của thời kì
chống Mỹ cứu nước. Bài thơ góp phần đưa Quang Dũng trở thành một trong những
gương mặt tiêu biểu của nghệ thuật Việt Nam 1945-1975.
Cảm nhận bài thơ Tây Tiến - Mẫu 9
Quang Dũng là một nhà thơ đa tài trong nhiều lĩnh vực như sáng tác thơ, vẽ tranh, viết
văn. Những tác phẩm của ông thể hiện tâm hồn của con người hào hoa, lãng mạn, đầy
trữ tình. Tây Tiến là tác phẩm tiêu biểu thể hiện cho phong cách sáng tác thơ ca của
ông với hình ảnh người lính hào hoa nhưng không kém phần lãng mạn.
Tây Tiến được sáng tác vào thời kì đấu tranh ác liệt của dân ta năm 1948 và được in
trong tập Hoa dọc chiến hào. Bài thơ miêu tả vẻ đẹp thiên nhiên Tây Tiến và ngợi ca
người chiến sĩ với tinh thần anh dũng, bi tráng.
Mở đầu bài thơ là vẻ đẹp của thiên nhiên Tây Tiến với một tiếng gọi từ hiện tại về đến
quá khứ rất thân thương:
"Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi,
Mường Lát hoa về trong đêm hơi."
Thán từ ơi được ngân dài tha thiết với thanh bằng gợi sự dịu êm. Nhớ chơi vơi chính
là nỗi nhớ không thể định hình mà lại bâng khuâng bao trùm cả không gian, thời gian.
Hai câu đầu của bài thơ tác giả nhớ lại về những gì thân thuộc trong trí nhớ về Tây
Tiến. Một hành trình gian khó, nhọc nhằn, khó khăn hiện ra. Vùng núi Tây Bắc với
nhiều địa danh nổi tiếng: Sông Mã, Sài Khao, Mường Lát, Mường Hịch, Pha Luông,
Mai Châu gợi lên những miền rừng núi hùng vĩ đầy hoang sơ. Nhà thơ ngắt nhịp 3/4
: Cảm nhận bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
tạo nên sự phân định rạch ròi hai hướng lên xuống trên con đường hành quân Tây
Tiến. Những từ ghép, từ láy giàu được sử dụng để đặc tả sự gian nan.
"Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm,
Heo hút cồn mây, súng ngửi trời."
Khi chinh phục được tưởng chừng như con người đang bồng bềnh đứng giữa biển
mây. Độ cao bầu trời chỉ còn trong tầm mũi súng. Độ rộng rãi thoáng đạt của không
gian ùa tới. Ý thơ của Quang Dũng không chỉ tả cảnh mà còn tả ý chí tâm hồn của
người lính. Người lính Tây Tiến không bị chìm đi trước thiên nhiên khắc nghiệt mà lại
như trỗi dậy đầy thử thách.
"Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống,
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi."
Chinh phục được đỉnh núi rồi ta lại phát hiện về độ cao “heo hút cồn mây súng ngửi
trời”. Cồn mây cho thấy mây núi chồng chất dựng lên thành cồn thành dốc, dốc núi
cao đến mức con đường lẫn vào mây khiến con đường hành quân của càng cheo leo,
phức tạp. Ngửi trời là cách nói vui đùa của người lính qua đó nhà thơ cho thấy tâm
hồn trẻ trung không sợ khó khăn, vất vả của người lính.Giữa mạch thơ với cái dữ dội
của thiên nhiên là một ánh nhìn bay bổng: Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi, đây là một
phép liên tưởng thú vị. Giữa núi rừng trùng điệp, ngôi nhà ấm áp hiện lên làm xao
xuyến lòng người xa quê.
Giữa phong cảnh thiên nhiên hùng vĩ ấy là sự hy sinh anh dũng của người lính Tây Tiến:
"Anh bạn dãi dầu không bước nữa,
Gục lên súng mũ bỏ quên đời!
Chiều chiều oai linh thác gầm thét,
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người."
Núi rừng Tây Tiến đầy thử thách khiến chúng ta nghe thấy rõ ràng hơi thở nặng nhọc
của người lính trên mỗi chặng hành quân. Họ là những gương mặt dãi dầu sương gió
: Cảm nhận bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
rồi cuối cùng “gục lên súng mà bỏ quên đời”. Từ láy “dãi dầu” diễn tả tất cả sự vất vả
của các anh lính trên chặng đường chiến đấu. Người lính không thể tiếp tục bước đi
cùng đồng đội. Bên cạnh đó Quang Dũng còn tả về sự ngang tàng, anh dũng của
những người chiến sĩ không sợ quân thù.
"Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói,
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi."
Kết thúc hành trình gian khổ là hình ảnh cuộc sống thanh bình, êm đềm.
Làn khói lam và mùi hương nếp xôi quyến rũ gợi về một cuộc sống yên bình đáng mơ
ước. Mai Châu bỗng trở nên thân thuộc biết bao nhờ câu thơ và cách diễn đạt nỗi nhớ
không thể của Quang Dũng: nhớ ôi Tây Tiến...
Tây Tiến thơ mộng, trữ tình dưới ngòi bút Quang Dũng:
"Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa,
Kìa em xiêm áo tự bao giờ.
Khèn lên man điệu nàng e ấp,
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ."
Buổi liên hoan văn nghệ thật vui vẻ với ánh sáng rực rỡ của đêm hội đuốc hoa và
bừng lên tỏa sáng trong cái nhìn ngạc nhiên của người chiến sĩ. Man điệu bí ẩn, say
đắm, ngọt ngào làm mê hoặc lòng người. Vẻ đẹp của cô gái mềm mại, e ấp bên cạnh
tiếng khèn rộn ràng. Người lính Tây Tiến chiêm ngưỡng say đắm vẻ đẹp của đêm văn
nghệ với tâm hồn trẻ trung, vui vẻ.
"Người đi Châu Mộc chiều sương ấy,
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ?
Có nhớ dáng người trên độc mộc,
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa?"
Nhà thơ đang hướng cảm xúc của mình về miền tây sông nước. Dòng người mềm mại,
duyên dáng băng băng trên độc mộc thể hiện sự lãng mạn trong hồn thơ Quang Dũng
và vẽ được cái hư ảo của hoài niệm, sự tinh tế của tình cảm.
: Cảm nhận bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
"Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc,
Quân xanh màu lá dữ oai hùm."
Đoàn binh Tây Tiến xuất hiện với tư thế oai phong "dữ oai hùm”. Tuy nhiên sự thật là
người lính đang phải hứng chịu những trận sốt rét khủng khiếp trong hoàn cảnh thiếu
thốn thuốc men, vật chất. Đoàn quân ấy đang phải đối mặt với bao khó khăn, gian nguy, thiếu thốn.
"Mắt trừng gửi mộng qua biên giới,
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm."
Giữa khung cảnh khắc nghiệt, người lính vẫn giữ tâm hồn lãng mạn đã mơ về hình
ảnh yêu kiều của người con gái Hà Nội. Giấc mơ về Hà Nội yên bình vô cùng bay
bổng lãng mạn và cũng là động lực tinh thần cho đoàn quân Tây Tiến.
Khát vọng chiến thắng, sự hy sinh anh dũng của người lính Tây Tiến được thể hiện qua câu thơ:
"Rải rác biên cương mồ viễn xứ,
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh.
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành."
Khát vọng của họ là được ra đi và xả thân. Đó cũng là lý tưởng cao cả nhất trong cuộc
hành trình gian khổ của người chiến sĩ. “Áo bào thay chiếu anh về đất” chỉ sự hy sinh
cao cả của người lính. Con sông Mã gắn với tiếng gầm thể hiện cái chết oai hùng mang tầm sử thi.
"Tây Tiến người đi không hẹn ước,
Đường lên thăm thẳm một chia phôi.
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy,
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi."
: Cảm nhận bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
Bài thơ kết thúc đầy xúc cảm. Đường lên Tây Tiến, đường đến với chiến thắng quả
thật rất gian nan, thăm thẳm, xa cách và chẳng có một lời hứa hẹn chắc chắn nào.
Nhưng với tinh thần, ý chí chiến đấu của người lính chắc chắn sẽ đập tan quân thù.
Bài thơ sử dụng bút pháp lãng mạn để miêu tả vẻ đẹp của thiên nhiên và hiện thực
khốc liệt nơi chiến trường qua đó cho thấy vẻ đẹp tâm hồn, ý chí cao cả của người lính Tây Tiến.
Tây Tiến sẽ mãi là bài thơ lưu trữ những ký ức đẹp đẽ của dân tộc, của một thời chiến
đấu để đạt được cuộc sống ấm no, hạnh phúc như ngày hôm nay.
Cảm nhận về bài thơ Tây Tiến - Mẫu 10
Quang dũng là một nghệ sĩ tài ba, đặc biệt là trong thơ ca. Thơ ông thể hiện rất tinh tế
một tâm hồn nhạy cảm, giàu chất lãng mạn, khả năng cảm nhận vẻ đẹp của thiên
nhiên và tình người ấm nóng. “ Tây Tiến” là một trong những thi phẩm của Quang
Dũng sáng tác cuối năm 1948, khi chia tay với đơn vị cũ của mình là đoàn quân Tây
Tiến. Ông thật tài tình khi thể hiện một cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng bất
diệt của nhà thơ về những người chiến sĩ Tây Tiến một thời gian khổ, hào hùng.
Bài thơ mở đầu bằng hai câu thơ gợi nhớ:
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
Đây như một tiếng gọi đầy thương nhớ, tác giả gọi tên sông Mã đầu tiên trong nỗi nhớ
của mình. Nhớ về những đêm hành quân ở rừng núi miền Tây hùng vĩ. Con đường
hành quân đầy nguy hiểm và gian nan. Dốc lên dốc xuống thăm thẳm, ở trên núi cao
vắng vẻ, hoang sơ. Trước sự hành quân vất vả, nhiều người Tây Tiến đã bỏ mạng tại
nơi xa xôi, nhưng khi chết người chiến sĩ vẫn cầm cây súng sẵn sàng chiến đấu. Trong
Rừng sâu phải đối mặt với những con thú dữ. Nhưng những người lính Tây Tiến
không lùi bước, vẫn nagng tàn và coi thường thử thách.
: Cảm nhận bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
Ông lại nhớ lại những đêm liên hoan, mùi cơm nếp xôi của người vùng cao, những
bữa cơm nóng ấm áp tình người, tình đồng đội, những sinh hoạt đời thường đều hóa
thành những kỉ niệm thân thương. Những đêm hội vui tươi quây quần bên tiếng nhạc,
đồng đội cùng nhau hò hét, sống thoải mái vui tươi.
Viết về Tây Tiến là tác giả đang viết lại chính dòng hồi ức của mình, nỗi nhớ thương
tha thiết, và xao động nơi con tim về đồng đội:
… Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc, ........
Áo bào thay chiếu anh về đất,
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”.
Đi qua những vùng núi đầy hiểm trở, ta gặp được hình ảnh những người lính. Câu thơ
mở đầu cho ta thấy được chút ngang tàng, một chút nghịch đầy chất lính, nhưng sự
thật nó rất là khắc nghiệt. Tại sao những người lính Tây Tiến lại không mọc tóc, vì là
phải trải qua những căn bệnh sốt rét, đến chết đi sống lại, tóc không còn mọc nổi nữa.
Rồi lại những khi ăn hầm ở lỗ, đâu có nước sạch, tóc cũng rụng hết. Phải tiếp xúc với
nhiều hóa chất độc hại, tóc cũng không thể mọc được nữa. Nhìn làn da xanh xao vì
thiếu ăn, vì ốm, họ trở thành những quân xanh oai hùm nhưng không khiến ta cảm
thấy sợ hãi, mà ta cảm giác thương xót. Nhưng không phải vì thế mà họ mất đi vẻ oai
phong, họ vẫn một lòng oai hùm, rồi mắt trừng gửi mộng qua biên giới, gửi những
tiếng lòng đến những người vùng thành thị, đến người con gái họ thương, đến cha mẹ
và bạn bè. Tuy mang trong mình những gian khổ nơi chiến trường, những khó khăn
nhưng những người chiến sĩ rất yêu đời, mang một mong ước về cuộc sống đầy những
niềm vui, hạnh phúc và bình yên bên người mình yêu.
Những người Tây tiến ra đi một lòng, không tiếc tuổi trẻ của mình, vì họ có một ý
tưởng chiến đấu tìm lại hòa bình. Họ luôn hướng tới những người dân hiền lành đang
chờ đợi họ, luôn hướng đến tình yêu đẹp, cuộc sống ấm no, tự do.
Nhiều người hi sinh, không một mảnh chiếu chôn thân, tấm áo mỏng manh thay thế
cho tấm chiếu, họ được chôn cất sơ sài, nhưng sâu trong lòng những người ở lại, họ
: Cảm nhận bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
vẫn mãi sống. Cách dùng “ áo bào” làm câu thơ trở nên cổ kính hơn. Anh đã ra đi mãi
mãi, nhưng anh ra đi cho lẽ sống của mình, cái chết vô cùng nhẹ nhàng “ về đất”. đất
như một người mẹ, nhẹ nhàng ôm anh vào lòng, dù anh có chết ở một nơi xa thì người
mẹ đất vẫn ôm chặt anh. Anh chiến sĩ chết đi, quê hương ôm anh vào lòng, sông núi
hát lên tiễn đưa anh. Chỉ có sông và đất chứng kiến cái chết của anh. Bóng dáng anh
hòa vào núi sông, hòa vào đất mẹ.
Bài thơ khép lại nhưng âm điệu vẫn mãi vang vọng trong tâm hồn ta. Bài thơ rất hay
và ý nghĩa, cho ta hiểu thêm rất nhiều được những sự vất vả, những gian khổ, khó
khăn như thế nào các anh mới dành cuộc sống độc lập như bây giờ. Lớp trẻ ngày nay
nên học tập thế hệ đi trước để bảo vệ tổ quốc.
Cảm nhận bài Tây Tiến - Mẫu 11
Quang Dũng được biết đến là một nghệ sĩ tài ba, thơ của ông luôn thể hiện một tâm
hồn nhạy cảm, tinh tế và khả năng cảm nhận vẻ đẹp thiên nhiên cùng tình người ấm
nóng. Bài thơ Tây Tiến là một trong những tác phẩm được Quang Dũng sáng tác vào
năm 1948 khi chia tay đoàn quân Tây Tiến – đơn vị cũ của ông. Qua từng câu thơ,
ông đã khéo léo miêu tả cảnh sắc thiên nhiên hùng vĩ của Tây Bắc, đồng thời thể hiện
cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng bất diệt của những người lính cụ Hồ một thời
đầy gian khổ và hào hùng.
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi”
Hai câu thơ mở đầu của bài thơ như một tiếng gọi đầy thương nhớ, trong nỗi nhớ đầu
tiên tác giả gọi tên Sông Mã, sau đó là những đêm hành quân ở rừng núi Tây Bắc. Con
đường hành quân luôn ẩn chứa nhiều gian nan, nguy hiểm với: Dốc lên dốc xuống
thăm thẳm, những ngọn núi cao hoang sơ, vắng vẻ. Cuộc hành quân vất vả, khó khăn
đã khiến nhiều người lính ra đi nơi xa xôi. Thế nhưng họ vẫn vẫn chắc cây súng và
sẵn sàng chiến đấu. Mặc dù trong rừng núi cao hiểm trở, phải đối mặt với cả thú giữ
nhưng những người lính Tây Tiến chưa bao giờ lung lay ý chí, vẫn tiến bước về phía
trước, hiên ngang với đất trời.
: Cảm nhận bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
Sau đó, ông lại nhớ về những đêm liên hoan cùng đồng bào vùng cao, mùi cơm nếp
xôi, bữa cơm ấm áp tình người, tình đồng đợi, từng chi tiết tưởng chừng như rất đỗi
quen thuộc nhưng lại hóa thành kỷ niệm vô cùng thân thương. Những đêm hội vui
tươi, quân và dân cùng quây quần bên tiếng nhạc, cùng nhau ca hát, quên đi những khó khăn, mệt mỏi.
Khi qua những giây phút vui vẻ cùng đồng bào, tác giả lại hồi ức những nhớ thương
tha thiết về những người đồng đội:
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc,
Quân xanh màu lá giữ oai hùm.
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới,
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Rải rác biên cương mồ viễn xứ,
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh,
Áo bào thay chiếu anh về đất,
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
Băng qua những vùng núi cao đầy hiểm trở, chúng ta bắt gặp hình ảnh những người
lính cụ Hồ. Câu thơ Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc” có một chút ngang tàng,
nghịch lý nhưng sự thật quá khắc nghiệt. Những người lính phải trả qua những căn
bệnh nguy hiểm tưởng như chết đi sống lại, rồi ăn hầm ở lỗ không có nước sạch, tiếp
xúc với nhiều chất độc hại… tới nỗi tóc không thể mọc nổi nữa. Làn da ai cũng xanh
xao vì ốm đau, thiếu đồ ăn nước uống , một đoàn quân xanh oai hùng nhưng lại gợi
cho người đọc một cảm giác thương xót. Ấy vậy mà họ không hề mất đi vẻ oai phong,
mắt luôn ngời sáng gửi mộng qua biên giới, gửi tiếng lòng đến những người thành thị,
đến người con gái họ thương, đến cha mẹ và cả bạn bè. Dù gian khổ nơi chiến trường
với rất nhiều khó khăn nguy hiểm nhưng đoàn quân Tây Tiến vẫn luôn yêu đời, mong
ước về một cuộc sống bình yên, vui vẻ và hạnh phúc bên những người mình yêu thương.
Đã có những người lính ngã xuống mà chỉ có tấm áo mỏng thay thế cho tấm chiếu
chôn thân. Dù họ chỉ được chôn cất sơ sài nhưng sâu trong lòng những người ở lại họ
vẫn sống mãi. Tác giả Quang Dũng đã khéo léo sử dụng danh từ “áo bào” giúp câu
thơ trở nên cổ kính và trang trọng hơn.
: Cảm nhận bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
Các anh đã ra đi mãi mãi, nhưng sự ra đi đó là vì lẽ sống của mình, một cái chết nhẹ
nhàng về với về đất mẹ, dù anh có chết ở một nơi xa thì người mẹ đất vẫn ôm chặt
anh. Anh chiến sĩ chết đi, quê hương ôm anh vào lòng, sông núi hát lên tiễn đưa anh,
bóng dáng anh hòa vào núi sông, hòa vào mảnh đất Việt Nam thiêng liêng.
Bài thơ Tây Tiến khép lại với âm điệu vang vọng mãi trong tâm hồn người đọc. Bài
thơ rất hay và ý nghĩ, cho ta hiểu thêm về những khó khăn, gian khổ và sự vất vả của
những người lính đã sẵn sàng hy sinh để đất nước có được hòa bình như bây giờ. Lớp
trẻ ngày nay hãy luôn cố gắng học tập và rèn luyện để xây dựng đất nước ngày càng giàu đẹp hơn.
Cảm nhận của em về bài thơ Tây Tiến - Mẫu 12
Quang Dũng là một trong những nhà thơ nổi tiếng trong thời kì kháng chiến. Ông có
rất nhiều bài thơ miêu tả cuộc sống của những người lính và Tây Tiến là một bài thơ
tiêu biểu nhất. Tây Tiến là bài thơ nói về người lính thời 9 năm kháng chiến chống
Pháp. Bài thơ được Quang Dũng viết vào năm 1948, khi cuộc kháng chiến thần thánh
của dân tộc bước sang năm thứ ba, chặng đường kháng chiến còn đầy thử thách gian
lao. Tây Tiến nói lên nỗi nhớ và niềm tự hào của Quang Dũng về những người đồng
đội đã một thời gắn bó.
Mở đầu bài thơ là một tiếng gọi làm nao lòng người. Nỗi nhớ thương, nỗi nhớ như nén chặt, bỗng trào dâng:
"Sông Mã xa rồi, Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi".
Từ "ơi" bắt vần với từ láy "chơi vơi" làm cho âm điệu câu thơ trở nên tha thiết sâu
lắng, bồi hồi. Hai chữ "nhớ" như hai nút nhấn gợi tả nỗi nhớ "chơi vơi" cháy bỏng
khôn nguôi. Bao kỉ niệm đẹp một thời chinh chiến ngày xưa dạt dào xúc cảm trở lại
làm xao xuyến hồn người chiến sĩ:
"Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi,
Mường Lát hoa về trong đêm hơi".
: Cảm nhận bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
Sài Khao, Mường Lát là những địa danh vời vợi nghìn trùng từng in dấu chân đoàn
chiến binh Tây Tiến. Trong “sương lấp”, trong "đêm hơi" mịt mù, lạnh lẽo, đoàn dũng
sĩ đã phải vượt qua những nẻo đường hành quân vô cùng gian khổ nhưng thật bất ngờ,
bỗng xuất hiện "hoa về trong đêm hơi". Cái mỏi mệt, cái gian khổ như đã tiêu tan. Sáu
thanh bằng liên tiếp diễn tả cái nhẹ nhàng, cái lâng lâng trong tâm hồn người lính trẻ
đi tới đích sau những chặng đường dài hành quân đầy thử thách: "Mường Lát hoa về
trong đêm hơi". Cuộc chiến đấu diễn ra ác liệt giữa núi rừng miền Tây. Những đèo
dốc "khúc khuỷu", "thăm thẳm" những "cồn mây heo hút" thử thách chí can trường
như chặn bước tiến của đoàn quân:
"Dốc lên khúc khủyu, dốc thăm thẳm,
Heo hút cồn mây súng ngửi trời.
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi".
"Súng ngửi trời" là một hình ảnh nhân hóa phản ánh cái ngộ nghĩnh, hồn nhiên trẻ
trung và yêu đời của người lính trẻ. Từ những đỉnh cao "ngàn thước", các chiến binh dõi tầm mắt nhìn xa.
"Anh bạn dãi dầu không bước nữa,
Gục lên súng mũ bỏ quên đời!".
Trong gian khổ "dãi dầu", trong những ngày dài hành quân và chiến đấu, có bao đồng
đội thân yêu đã "bỏ quên đời", bỏ quên đồng chí bạn bè, nằm lại vĩnh viễn nơi chân
đèo, góc núi. Bốn chữ "gục lên súng mũ" thể hiện một sự hi sinh vô cùng bi tráng: ngã
xuống, gục xuống trên đường hành quân giữa trận đánh khi súng còn cầm trên tay, mũ
còn đội trên đầu. Mặc dù Quang Dũng đã thay thế từ "chết", từ "hi sinh" bằng cụm từ
"không bước nữa", "gục lên"…, "bỏ quên đời", nhưng vẫn trào lên bao nỗi xót xa, thương tiếc.
Cảnh tượng chiến trường đâu chỉ có đèo cao, cồn mây, dốc thẳm mà còn có biết bao
thử thách của rừng thiêng tự ngàn đời mang cái vẻ hoang sơ và bí mật, hùng vĩ và oai
: Cảm nhận bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
nghiêm. Chiều nối chiều, đêm tiếp đêm, chiến khu vang động tiếng "gầm thét" của
thác, của "cọp trêu người".
"Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người".
Vượt lên gian khổ, hi sinh, hành trang người lính đầy ắp những kỉ niệm đẹp của tình
quân dân. Quên sao được hương vị đậm đà của "mùa em thơm nếp xôi". Trong cái
hương vị đậm đà của bát cơm tỏa khói, của hương nếp xôi còn quyện theo bao tình
sâu nghĩa nặng của bà con dân bản Mai Châu, của "mùa em". Hai tiếng "nhớ ôi" gợi
lên nhiều bâng khuâng, vương vấn, thấm thía và ngọt ngào:
"Nhớ ơi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi".
Phần thứ hai bài "Tây Tiến" nói về tình quân dân thắm thiết:
"Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa,
Kìa em xiêm áo tự bao giờ,
Khèn lên man điệu nàng e ấp,
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ".
Chữ "bừng" là một nét vẽ có thần. "Bừng" là sáng bừng lên, cháy rực lên từ những
ngọn đuốc trong đêm "hội đuốc hoa". Tình quân dân đã sưởi ấm và tiếp thêm sức
mạnh cho những người chiến sĩ
Nhớ Tây Tiến là nhớ đến những chiều sương cao nguyên, nhớ đến những con thuyền
độc mộc, nhớ đến "hồn lau nẻo bến bờ". Nhớ nhiều, nhớ mãi "dáng người trên độc
mộc", nhớ không bao giờ quên hình ảnh nên thơ "Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa".
Những vần thơ mang hương sắc núi rừng xa lạ, tươi đẹp và thơ mộng. Chất nhạc, chất
thơ, chất họa toát lên từ vần thơ, cho thấy tính thẩm mĩ độc đáo của ngòi bút thơ
Quang Dũng, đồng thời khắc họa vẻ đẹp tâm hồn các chiến sĩ Tây Tiến trong gian khổ và thử thách.
: Cảm nhận bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
"Người đi Châu Mộc chiều sương ấy,
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ,
Có nhớ dáng người trên độc mộc,
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa".
Quang Dũng đã rất thành công khi dựng lên một tượng đài hùng vĩ, bi tráng về đoàn binh Tây Tiến:
"Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc,
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm".
Đoạn thơ ghi lại một cách chân thật, hào hùng cái khốc liệt dữ dội của chiến tranh.
Hình tượng thơ được đặt trong thế tương phản đối lập để khẳng định chí khí hiên
ngang, anh hùng, những tâm hồn với bao mộng mơ tuyệt đẹp. "Đoàn binh không mọc
tóc", "quân xanh màu lá", có vẻ tiều tụy, ốm đau vì bệnh sốt rét rừng, nhưng tư thế vô
cùng oai phong lẫm liệt: "dữ oai hùm". Đoàn binh Tây Tiến phần lớn là những thanh
niên thành thị giàu nhiệt huyết và ý chí trả thì cho nước cho dân”
"Mắt trừng gửi mộng qua biên giới,
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm".
"Mắt trừng" gợi tả tư thế chiến đấu lẫm liệt đồng thời trong hành trang và trong tâm
hồn những người lính trẻ còn mang theo bao giấc mơ tuyệt vời. Nhớ về phố cũ trường
xưa, mơ về một tà áo đẹp, một "dáng kiều thơm", nơi Hà Nội thân yêu. Qua đó thể
hiện chất tài tử, hào hoa của người lính Tây Tiến.
"Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh.
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành".
: Cảm nhận bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
Cái giá của họ phải trả là quá lớn. Tuy nhiên trong thâm tâm họ cũng phần nào xác
định trước tư tưởng, bởi vậy, họ khẳng khái, hiên ngang, coi cái chết nhẹ tựa lông
hồng. Hình ảnh "áo bào thay chiếu" rất bình dị, hai chữ "về đất" rất sáng tạo. Tiếng
thác sông Mã "gầm lên" vang vọng giữa núi rừng như dội lên trầm hùng trong lòng
đồng đội. Nó như tiếng kèn trong bài "Chiêu hồn liệt sĩ", như loạt đại bác nổ xé trời
giữa núi rừng chiến khu, mang sắc thái của một lời thề cao cả, thiêng liêng.câu thơ
"rải rác biên cương mồ viễn xứ" đã làm cho nỗi đau mất mát hi sinh càng thêm mênh
mang, càng được nâng lên tầm lẫm liệt, bi tráng. Cao cả hơn nữa là lí tưởng chiến đấu
vì độc lập, tự do của Tổ quốc. Khổ cuối bài thơ, âm điệu trở nên tha thiết sâu lắng, bồi
hồi. Vẫn là tiếng lòng rung lên theo hoài niệm. Biết bao thương nhớ khôn nguôi:
"Tây Tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi".
Bài thơ đã khép lại mà âm điệu của nó vẫn bồi hồi vang vọng trong tâm hồn ta. Trong
trận chiến sinh tử ấy, ai còn sống, ai mãi mãi ra đi. Tuy nhiên có một điều chắc chắn
rằng quê hương vẫn đời đời ôm ấp hình bóng các anh, những người con dũng cảm của Tổ quốc
Bài thơ thật đẹp, thật thấm thía cảnh sắc và tình người vô cùng. Bút pháp tài hoa của
Quang Dũng đã vẽ nên một câu chuyện về những chiến sĩ Tây tiến thật hào hùng,
mạnh mẽ, điều đó đáng quý, đáng trân trọng vô cùng.
Document Outline
- Hướng dẫn làm bài cảm nhận Tây Tiến
- Dàn ý cảm nhận bài thơ Tây Tiến
- Cảm nhận Tây Tiến học sinh giỏi - Mẫu 2
- Cảm nhận Tây Tiến - Mẫu 3
- Cảm nhận bài thơ Tây Tiến - Mẫu 4
- Cảm nhận bài thơ Tây Tiến - Mẫu 5
- Cảm nhận bài thơ Tây Tiến - Mẫu 6
- Cảm nhận bài thơ Tây Tiến - Mẫu 7
- Cảm nhận bài thơ Tây Tiến - Mẫu 8
- Cảm nhận bài thơ Tây Tiến - Mẫu 9
- Cảm nhận về bài thơ Tây Tiến - Mẫu 10
- Cảm nhận bài Tây Tiến - Mẫu 11
- Cảm nhận của em về bài thơ Tây Tiến - Mẫu 12