Cảm nhận hình tượng người lái đò sông Đà trong cảnh vượt thác | Văn mẫu lớp 12
Cảm nhận của anh/chị về hình tượng người lái đò sông Đà trong cảnh vượt thác tổng hợp 17 mẫu cực hay kèm theo gợi ý cách viết chi tiết. Tài liệu được biên soạn nhằm giúp cho các em học sinh có thể tự học để mở rộng, nâng cao kiến thức, rèn luyện kĩ năng viết văn ngày một tiến bộ hơn.
Preview text:
Văn mẫu lớp 12: Cảm nhận hình tượng người lái đò sông Đà trong cảnh vượt thác
Dàn ý hình tượng người lái đò sông Đà trong cảnh vượt thác Dàn ý số 1 I. Mở bài:
Nguyễn Tuân là nhà văn có phong cách độc đáo: tài hoa, uyên bác. Thế mạnh của
Nguyễn Tuân là thể văn tùy bút. Người lái đò Sông Đà được rút ra từ tập tùy bút Sông
Đà (xuất bản lần đầu năm 1960, gồm 15 tuỳ bút và một bài thơ ở dạng phác thảo).
Đây là kết quả của nhiều chuyến đi thực tế vùng Tây Bắc của nhà văn, đặc biệt là
chuyến đi năm 1958. Trong tùy bút Người lái đò sông Đà, chi tiết người lái đò lúc
vượt thác và chi tiết sau khi vượt thác đã thể hiện vẻ đẹp của người lao động bình
thường trong cuộc đời thường … Xây dựng hình tượng người lái đò, Nguyễn Tuân đã
thể hiện những nét độc đáo trong cách nhìn nghệ thuật về con người. II. Thân bài:
1. Vẻ đẹp trí dũng, tài hoa của ông lái đò khi vượt thác:
– Hoàn cảnh xuất hiện: Khắc họa trong tương quan với hình ảnh sông Đà hung bạo,
hùng vĩ. Cuộc giao tranh với ba trùng vi thạch trận:
+ Ở trùng vi thứ nhất, ông lái đò được đặt trong tình huống thử thách đặc biệt: chiến
đấu với thác dữ sông Đà, vượt qua ba trùng vi thạch trận bằng tài nghệ “ tay lái ra
hoa”. Vừa vào trận, sóng nước, đá sông hò la vang dậy, ùa vào bẻ gãy cán chèo võ
khí, đá trái thúc vào bụng, vào hông thuyền. Nước như đô vật túm thắt lưng ông đò rồi
đánh miếng đòn độc, đánh vào chỗ hiểm. Nhưng ông đò cố nén vết thương, hai chân
vẫn kẹp chặt cuống lái, mặt méo bệch đi. Trên con thuyền sáu bơi chèo vẫn nghe rõ
tiếng chỉ huy ngắn gọn và tỉnh táo của người cầm lái. Ông đò thực là một chiến sĩ
dũng cảm, rất bình tĩnh nén mọi đau đớn để chiến thắng kẻ thù.
+ Sang trùng vi thứ hai, không một phút dừng tay nghỉ mắt, ông đò thay đổi chiến
thuật. Rất nham hiểm, xảo quyệt, sông Đà tăng thêm cửa tử, bố trí cửa sinh lệch sang
bên phải để đánh lừa ông lái…Hai câu văn: “Ông lái đã nắm chắc binh pháp của thần
Văn mẫu lớp 12: Cảm nhận hình tượng người lái đò sông Đà trong cảnh vượt thác
sông thần đá. Ông đã thuộc quy luật phục kích của lũ đá nơi ải nước hiểm trở này”
được Nguyễn Tuân sử dụng ngôn ngữ quân sự (binh pháp, phục kích), biện pháp tu từ
nhân hoá (thần sông thần đá), động từ mạnh toàn thanh trắc (nắm, thuộc) nhằm tạo
cảm giác mãnh liệt khi tả chân dung ông đò.Nắm chặt bờm sóng, ông đò ghì cương
bám chắc lấy luồng nước đúng, phóng nhanh vào cửa sinh mà lái miết một đường
chéo. Hành động của ông lão thành thạo, chính xác, dũng mãnh trong từng động tác,
đúng là tay lái ra hoa, điêu luyện của người nghệ sĩ. Bằng trí dũng, nghị lực kiên
cường, người lái đò đã đánh bại “dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế mạnh”.
+ Đến trùng vi thứ ba: dòng thác ác hiểm mở ra ít cửa hơn, nhưng bên phải bên trái
đều là cửa tử. Luồng sống ở ngay giữa bọn đá hậu vệ. Như một lão tướng, dày dạn
kinh nghiệm, dũng cảm, nhanh gọn, dứt khoát, ông đò bình tĩnh tiến vào trận địa, rồi
bất ngờ phóng thẳng, chọc thủng cửa giữa. Con thuyền như một mũi tên lao vút xuyên
nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa lái được, lượn được qua cổng đá cánh mở cánh
khép. Thế là qua luồng chết, thế là hết cửa tử, ra đến cửa sinh,… dòng sông vặn mình
vào một bến cát có hàng lạnh. Ông đò uy nghi rạng rỡ trở về từ cõi chết. Ông đã chiến
thắng thiên nhiên, làm chủ cuộc đời. Cuối cùng thiên nhiên phải khuất phục dưới sự
tài ba và lòng dũng cảm tuyệt vời của con người.
Một mình một thuyền, ông lái giao chiến với sóng thác dữ dội như một viên dũng
tướng luôn bình tĩnh đối đầu với bao nguy hiểm: “ hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên
khỏi sóng trận địa phóng thẳng vào mình…”, gan góc và bản lĩnh trước “ sóng nước
như thể quân liều mạng vào sát nách mà đá trái mà thúc gối vào bụng và hông
thuyền…”, và “ông lái đò cố nén vết thương…hai chân vẫn kẹp chặt lấy cuống lái…”
, mặc dù “ mặt méo bệch đi ” vì những luồng sóng “ đánh đòn âm, đánh đòn tỉa”, “
nhưng trên cái thuyền sáu bơi chèo, vẫn nghe tiếng chỉ huy ngắn gọn tỉnh táo của người cầm lái” …
Đối mặt với thác dữ sông Đà, ông đò có một lòng dũng cảm vô song: “Cưỡi lên thác
sông Đà, phải cưỡi đến cùng như là cưỡi hổ” … Ông lái đò khôn ngoan vượt qua mọi
cạm bẫy của thác ghềnh, đưa con thuyền vượt thác an toàn khi “ những luồng tử đã bỏ
hết lại sau thuyền” , còn lũ đá thì “thất vọng thua cái thuyền”… Cuộc đọ sức giữa con
Văn mẫu lớp 12: Cảm nhận hình tượng người lái đò sông Đà trong cảnh vượt thác
người với thiên nhiên thật ghê gớm, căng thẳng, đầy sáng tạo và con người đã chiến thắng.
Việc đưa con thuyền tìm đúng luồng nước đúng, vượt qua bao cạm bẫy của thạch trận
sông Đà quả thực là một nghệ thuật cao cường từ một tay lái điêu luyện. Vẻ đẹp người
lái đò Sông Đà là vẻ đẹp của người anh hùng lao động trong công cuộc dựng xây cuộc
sống mới của đất nước.
2. Đặc sắc trong nghệ thuật xây dựng hình tượng của Nguyễn Tuân:
+ Người lái đò bình thường, vô danh nơi sóng nước hoang vu, khuất nẻo qua lăng kính
nghệ sĩ của Nguyễn Tuân là một nghệ sĩ tài hoa trong nghệ thuật vượt thác ghềnh.
+ Phát huy cao độ trí tưởng tượng phong phú, vận dụng những kiến thức của nhiều
lĩnh vực để làm nổi bật hình ảnh người lái đò trí dũng, tài hoa…
+ Chủ nghĩa anh hùng cách mạng không chỉ có ở nơi địa đầu, tuyến lửa, mà còn có
mặt ngay trong cuộc sống rất mực bình thường của những con người vô danh hằng
ngày trong cuộc mưu sinh phải đương đầu với một thiên nhiên dữ dội, ghê gớm.
+ Vẻ đẹp người lái đò chính là “ chất vàng mười” mà Nguyễn Tuân đã khám phá được
trong chuyến thực tế Tây Bắc và thể hiện thật độc đáo trong thiên tùy bút. Nhà văn đã
tìm thấy chất tài hoa nghệ sĩ cũng như phẩm chất anh hùng ngay ở những con người
làm những công việc bình thường trong cuộc sống.
+ Phong cách độc đáo ấy gói gọn trong một chữ “ngông”. Ngông là cố ý làm khác đời
,viết khác đời, thậm chí ngược đời một cách tài hoa uyên bác, phô diễn lối sống đẹp, thanh cao.
* Sự thống nhất trong phong cách Nguyễn Tuân trước và sau cách mạng:
+ Quan sát, khám phá và diễn tả thế giới (cảnh vật, con người )nghiêng về phương
diện văn hóa thẩm mĩ; quan sát, khám phá, diễn tả con người ở phương diện tài hoa
nghệ sĩ. Người lái đò sông Đà cũng là một tài hoa nghệ sĩ trong nghệ thuật vượt thác, leo ghềnh.
Văn mẫu lớp 12: Cảm nhận hình tượng người lái đò sông Đà trong cảnh vượt thác
+ Quan niệm cái đẹp là những hiện tượng gây ấn tượng sâu đậm, đạp mạnh vào giác
quan nghệ sĩ. Sử dụng thể văn tùy bút hết sức phóng túng với cái tôi chủ quan của tác giả
* Sự chuyển biến của phong cách Nguyễn Tuân sau cách mạng
+ Không đối lập quá khứ với hiện tại và tương lai; Nhân vật tài hoa, nghệ sĩ có thể là
nhân dân lao động bình thường
+ Tìm cảm giác mạnh ở những hiện tượng trong thiên nhiên phong cảnh đất nước..
+ Thể văn tùy bút pha chất kí với bút pháp hướng ngoại để phản ánh hiện thực; giọng
văn đôn hậu, giọng kênh kiệu khinh bạc không còn.
3. Bình luận, đánh giá:
– Người lái đò trí dũng và tài hoa đã nổi bật trên dòng sông hung bạo và trữ tình, có
khả năng chinh phục thiên nhiên, bắt nó phải phục vụ con người, xây dựng đất nước.
– Đó chính là chất vàng mười của con người Tây Bắc nói riêng và người lao động
Việt Nam nói chung trong thời kì mới.
– Qua hình tượng này, Nguyễn Tuân muốn phát biểu quan niệm: người anh hùng –
nghệ sĩ không phải chỉ có trong chiến đấu, trong nghệ thuật mà còn có cả trong cuộc
mưu sinh thường nhật của người lao động bình thường, vật lộn với thiên nhiên, tìm kiếm miếng cơm manh áo. III. Kết bài:
– Hình ảnh ông lái đò khi vượt thác và sau khi vượt thác nước sông Đà thể hiện tư thế
ung dung, bình tĩnh, tự tại trong cuộc chiến đầy cam go nhưng cũng thật hào hùng, tài hoa.
– Bài học cuộc sống từ nhân vật ông đò: ca ngợi người lao động, học tập vẻ đẹp của
lòng dũng cảm, bản lĩnh kiên cường, đức tính khiêm nhường… Dàn ý số 2
Văn mẫu lớp 12: Cảm nhận hình tượng người lái đò sông Đà trong cảnh vượt thác I. Mở bài
- Giới thiệu tác giả Nguyễn Tuân, tùy bút Người lái đò sông Đà.
- Giới thiệu về hình tượng ông lái đò. II. Thân bài
1. Người lái đò giỏi giang, dũng cảm
- Cuộc chiến giữa con người và thiên nhiên:
● Con người nhỏ bé, đơn độc.
● Con sông Đà hung tợn, khắc nghiệt với gió, nước, đá.
=> Con người giành chiến thắng trước thiên nhiên.
2. Người lái đò con người tài hoa
- Khả năng điều khiển con thuyền điêu luyện, chính xác nhờ sự am hiểu con sông Đà.
- Thuần thục các kỹ năng cần thiết để vượt qua những con sóng, thác ghềnh.
3. Người lái đò khiêm tốn, bình dị
- Sau “trận chiến” họ ăn uống và không nhắc đến những khó khăn, hiểm nguy đã trải qua.
- Vượt qua khó khăn, thử thách từ con sông Đà như một công việc thường ngày của
những con người nơi này. 4. Nghệ thuật
- Ngôn ngữ đa dạng không chỉ miêu tả bằng thị giác mà còn có xúc giác, so sánh…
- Nhịp điệu nhanh, gấp gáp, căng thẳng như một cuộc chiến thật sự.
- Lãng mạn, tài hoa đôi khi cả sự mơ mộng từ chính tác giả.
Văn mẫu lớp 12: Cảm nhận hình tượng người lái đò sông Đà trong cảnh vượt thác III. Kết bài
- Khẳng định vẻ đẹp của ông lái đò trong cảnh vượt thác. Dàn ý số 3
I. Tác giả Nguyễn Tuân, tùy bút Người lái đò sông Đà và hình tượng ông lái đò:
● Nguyễn Tuân là cây bút xuất sắc của văn học Việt Nam hiện đại, có thể coi ông
là một định nghĩa về người nghệ sĩ. Nét nổi bật trong phong cách của ông là ở
chỗ luôn nhìn sự vật ở phương diện văn hóa và thẩm mĩ, nhìn con người ở
phẩm chất nghệ sĩ và tài hoa. Ông thường có cảm hứng mãnh liệt với cái cá
biệt, phi thường, dữ dội và tuyệt mĩ.
● Người lái đò sông Đà là bài tùy bút được in trong tập Sông Đà (1960) của
Nguyễn Tuân. Sông Đà là thành quả nghệ thuật đẹp đẽ mà Nguyễn Tuân đã thu
hoạch được trong chuyến đi gian khổ và hào hứng tới miền Tây Bắc rộng lớn,
xa xôi. Người lái đò sông Đà cho ta diện mạo của một Nguyễn Tuân khao khát
được hòa nhịp với đất nước và cuộc đời này.
● Hình tượng người lái đò sông Đà trong quá trình vượt thác là hình tượng trung tâm của tác phẩm…
II. Vẻ đẹp hình tượng nhân vật người lái đò sông Đà trong quá trình vượt thác:
* Giới thiệu chân dung, lai lịch:
● Tên gọi, lai lịch: được gọi là người lái đò Lai Châu.
● Chân dung: “tay ông lêu nghêu như cái sào, chân ông lúc nào cũng khuỳnh
khuỳnh gò lại như kẹp lấy một cái cuống lái tưởng tượng, giọng ông ào ào như
tiếng nước trước mặt ghềnh sông, nhỡn giới ông vòi vọi như lúc nào cũng
mong một cái bến xa nào đó trong sương mù”, “cái đầu bạc quắc thước… đặt
lên thân hình gọn quánh chất sừng chất mun”.
*Vẻ đẹp của người lái đò sông Đà trong quá trình vượt thác :
Văn mẫu lớp 12: Cảm nhận hình tượng người lái đò sông Đà trong cảnh vượt thác
– Vẻ đẹp trí dũng: Khắc họa trong tương quan với hình ảnh sông Đà hung bạo, hùng
vĩ: Nghệ thuật tương phản đã làm nổi bật một cuộc chiến không cân sức: một bên là
thiên nhiên bạo liệt, hung tàn, sức mạnh vô song với sóng nước, với thạch tinh nham
hiểm; một bên là con người bé nhỏ trên chiếc thuyền con én đơn độc và vũ khí trong
tay chỉ là những chiếc cán chèo.
– Cuộc giao tranh với ba trùng vi thạch trận.
● Cuộc vượt thác lần một: Sông Đà hiện lên như một kẻ thù nham hiểm, xảo
quyệt. Trước sự hung hãn của bầy thạch tinh và sóng nước, ông lái đò kiên
cường bám trụ “hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng trận địa phóng
thẳng vào mình”. Trước đoàn quân liều mạng sóng nước xông vào (…), ông đò
“cố nén vết thương vẫn kẹp chặt lấy cái cuống lái, mặt méo bệch đi” nhưng vẫn
kiên cường vượt qua cuộc hỗn chiến, vẫn cầm lái chỉ huy “ngắn gọn mà tỉnh
táo” để phá tan trùng vi thạch trận thứ nhất.
● Cuộc vượt thác lần hai: Dưới cây bút tài hoa, phóng túng, con sông Đà tiếp tục
được dựng dậy như “kẻ thù số một” của con người với tâm địa còn độc ác và
xảo quyệt hơn. Ông lái đò “không một phút nghỉ tay nghỉ mắt, phải phá luôn
vòng vây thứ hai và đổi luôn chiến thuật”.
⇒ Trước dòng thác hùm beo hồng hộc tế mạnh trên sông đà, ông lái đò cùng chiếc
thuyền cưỡi trên dòng thác như cưỡi trên lưng hổ. Khi bốn năm bọn thủy quân cửa ải
nước xô ra, ông đò không hề nao núng mà tỉnh táo, linh hoạt thay đổi chiến thuật, ứng
phó kịp thời “đứa thì ông tránh mà rảo bơi chèo lên, đứa thì ông đè sấn lên mà chặt
đôi ra để mở đường tiến” để rồi “những luồng tử đã bỏ hết lại sau thuyền”.
+ Cuộc vượt thác lần ba: Bị thua ông đò ở hai lần giao tranh trước, trong trùng vi thứ
ba, dòng thác càng trở nên điên cuồng, dữ dội. Chính giữa ranh giới của sự sống và cái
chết, người đọc càng thấy tài nghệ chèo đò vượt thác của ông lái thật tuyệt vời. Ông
cứ “phóng thẳng thuyền, chọc thủng cửa giữa… vút qua cổng đá”, “vút, vút, cửa
ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng, thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi
nước, vừa xuyên vừa tự động lái được lượn được”… để rồi chiến thắng vinh quang.
Văn mẫu lớp 12: Cảm nhận hình tượng người lái đò sông Đà trong cảnh vượt thác
Câu văn “thế là hết thác” như một tiếng thở phào nhẹ nhõm khi ông lái đã bỏ lại hết
những thác ghềnh ở phía sau lưng.
– Nguyên nhân chiến thắng:
● Thứ nhất, đó là chiến thắng của sự ngoan cường, lòng dũng cảm, ý chí quyết
tâm vượt qua những thử thách khốc liệt của cuộc sống.
● Thứ hai, đây là chiến thắng của tài trí con người, của sự am hiểu đến tường tận tính nết của sông Đà. Dàn ý số 4
1.Giới thiệu chung về tác giả, tác phẩm.
– Nguyễn Tuân là cây đại thụ của nền văn xuôi hiện đại Việt Nam, là một nhà văn có
phong cách nghệ thuật độc đáo: thích viết về cái phi thường, xuất chúng và luôn tìm tòi khám phá cái đẹp.
– Tùy bút Người lái đò sông Đà là tác phẩm tiêu biểu của Nguyễn Tuân sau Cách
mạng tháng tám. Ở tác phẩm này Nguyễn Tuân đi tìm cái đẹp của thiên nhiên và con
người lao động Tây Bắc.
– Người lái đò sông Đà chính là biểu tượng cho vẻ đẹp trí, dũng, tài hoa của người lao
động trên vùng sông nước dữ dội. thơ mộng ấy.
– Vẻ đẹp của hình tượng ông đò được thể hiện qua qua đoạn trích tiêu biểu đó là đoạn
trích miêu tả về cuộc chiến đấu của ông đò với cái thác đá sông Đà.
2. Cảm nhận về vẻ đẹp của ông đò ở nhiều khía cạnh khác nhau.
– Vẻ đẹp trí tuệ, bản lĩnh và tài hoa của ông đò.
● Vẻ đẹp trí tuệ: thể hiện ở trí nhớ tuyệt vời của ông đò. Cuộc sống của ông đò
phải đối diện với những cạm bẫy kinh hoàng của sông Đà, đó là một cuộc đấu
tranh với thiên nhiên để bảo tồn sự sống. Để chinh phục dòng sông hung bạo
ông đò nhớ mặt vị trí từng hòn đá, từng luồng nước…Nguyễn Tuân đã miêu tỉ
Văn mẫu lớp 12: Cảm nhận hình tượng người lái đò sông Đà trong cảnh vượt thác
mỉ các ngọn thác, thời gian ông lái đò làm nghề để bày tỏ nỗi thán phục của
mình về một con người như được sinh ra từ những con sóng, ngọn thác hung dữ ở Sông Đà.
● Bản lĩnh, mưu trí và sự quyết đoán: Nhà văn đã đưa ông đò vào hoàn cảnh đầy
thử thách mà tiêu biểu là cái thác đá để nhân vật bộc lộ phẩm chất của mình.
Sông Đà bày thạch trận trên sông ông đò là một viên tướng dũng cảm tả xung
hữu đột tỉnh táo nhanh nhẹn, quyết đoán chỉ huy và điều khiển con thuyền qua
nhiều vòng, nhiều cửa rất hiệu quả
● Vẻ đẹp tài hoa: Quan niệm về chất tài hoa của nguyễn Tuân được mở rộng, tài
hoa không chỉ ở lĩnh vực nghệ thuật mà có trong cuộc sống lao động bình dị.
Nguyễn Tuân đã dùng công xây dựng ông đò là một người nghệ sĩ có tay lái tài
hoa. Chất tài hoa của ông đò được thể hiện qua sự khéo léo khi điều khiển con
thuyền vượt qua mọi cạm bẫy của sông Đà.
– Nghệ thuật xây dựng nhân vật: tô đậm nét tài hoa nghệ sĩ, tạo tình huống đầy thử
thách để nhân vật bộc lộ phẩm chất, sử dụng ngôn ngữ miêu tả đầy cá tính, giàu chất tạo hình.
– Bình luận về suy nghĩ, tình cảm của nhà văn Nguyễn Tuân đối với người lao động Việt Nam
● Qua hình tượng ông đò, Nguyễn Tuân ngợi ca và khẳng định sức mạnh, sự vĩ
đại của con người đồng thời ông cũng đưa ra triết lý sống: giữa cái thế giới độc
dữ và nham hiểm, cái thế giới đầy sức mạnh man dại và lập lờ cạm bẫy, con
người ta vẫn đủ trí tuệ để vươn lên tìm thấy sự sống. Cũng qua cảnh tượng vượt
thác của ông đò, Nguyễn Tuân muốn nói với chúng ta 1 điều giản dị nhưng sâu
sắc: Chủ nghĩa anh hùng đâu chỉ có ở nơi chiến trường mà có ngay trong cuộc
sống hàng ngày mà chúng ta phải vật lộn với miếng cơm manh áo. Tài hoa đâu
chỉ có ở lĩnh vực nghệ thuật mà có ngay trong cuộc sống lao động đời thường.
Phẩm chất anh hùng, và chất nghệ sĩ thể hiện trong việc họ phải đương đầu với thử thách.
Văn mẫu lớp 12: Cảm nhận hình tượng người lái đò sông Đà trong cảnh vượt thác
● Nhà văn thể hiện tình cảm yêu mến, trân trọng, tự hào, ngợi ca sự vĩ đại của
người lao động Tây Bắc và người lao động Việt nam nói chung. Ca ngợi lao
động vinh quang đã đưa con người tới thắng lợi trước sức mạnh hoang dại của thiên nhiên.
3. Kết thúc vấn đề.
Thiên tùy bút “Người lái đò sông Đà” là khúc hùng ca ca ngợi ý chí của con người.
Sức mạnh ý chí và tài hoa chính là những yếu tố làm nên chất vàng mười của người
dân Tây Bắc và cũng là của người lao động nói chung. Qua hình tượng người lái đò
sông Đà và qua thiên tùy bút này ta thấy được những nét độc đáo trong phong cách
nghệ thuật của Nguyễn Tuân.
Hình tượng người lái đò trong cảnh vượt thác - Mẫu 1
Mỗi một vùng đất mà chúng ta đi qua đều để lại trong ta những dấu ấn riêng biệt bởi
nó mang những nét đặc trưng về văn hóa, lịch sử, địa lí của từng vùng. Đến với Tây
Bắc xa xôi cùng làn sương khói mờ ảo Nguyễn Tuân cũng không khỏi bị ấn tượng với
thiên nhiên, cảnh vật nơi đây. Có lẽ vì thế mà hình ảnh dòng sông Đà rẽ theo một lối
riêng với một cá tính riêng biệt đã trở thành ngọn nguồn cho cảm hứng thi ca của nhà
văn. Giữa thiên nhiên hùng vĩ ấy đã khiến cho con người trở nên bé nhỏ hơn bao giờ
hết. Qua cảnh vượt thác trong "Người lái đò sông Đà" của Nguyễn Tuân đã ngợi ca vẻ
đẹp bình dị của con người lao động khi chiến đấu với sự hung bạo, dữ dội của thiên nhiên.
Nguyễn Tuân (1910 - 1988) là người tài hoa, uyên bác, thích khám phá vẻ đẹp của
thiên nhiên và con người ở mọi miền đất nước. Ông là nhà văn có phong cách nghệ
thuật ngông ngạo, khác người, ông luôn tìm kiếm chất vàng của thiên nhiên cùng "thứ
vàng mười đã qua thử lửa" ở tâm hồn người lao động. "Người lái đò sông Đà" được
rút từ tập tùy bút "Sông Đà", là "thứ vàng mười đã qua thử lửa" mà Nguyễn Tuân đã
khám phá ra khi đến với Tây Bắc thơ mộng và hùng vĩ.
Văn mẫu lớp 12: Cảm nhận hình tượng người lái đò sông Đà trong cảnh vượt thác
Cảnh vượt thác trong "Người lái đò sông Đà" được Nguyễn Tuân ví là cảnh "xưa nay
chưa từng có" bởi đây là cuộc chiến dữ dội giữa thiên rộng lớn với con người bé nhỏ.
Nguyễn Tuân đã chú ý tô đậm nét tài hoa nghệ sĩ bởi với ông nét tài hoa nghệ sĩ của
con người không chỉ thể hiện trong việc sáng tạo nghệ thuật mà còn ở nhiều lĩnh vực,
hoạt động khác nữa. Cảnh vượt thác được tái hiện ở ba trùng vi thạch trận với những
thử thách nghiệt ngã khác nhau đã đề cao sự gan dạ, trí, dũng của ông lái đò khi vượt
qua cả ba trùng vi thạch trận an toàn.
Ở trùng vi thạch trận thứ nhất là sự đối mặt giữa thiên nhiên và ông lái đò. Nguyễn
Tuân đã lấy thác đá để diễn tả sự hùng vĩ của sông Đà giống như các nhà văn thường
dùng lửa để tả nước. Đá bờ sông dựng vách thành nhưng lại hẹp đến mức "chết như
một cái yết hầu" khiến cho con nai, con hổ cũng có thể nhảy vọt từ bờ này qua bờ kia
sông. Cách sử dụng từ ngữ sáng tạo của nhà văn giúp cho người đọc có thể hình dung
rõ khung cảnh nơi đây hung hiểm, đáng sợ biết nhường nào. Gần đến con thác "sóng
bọt trắng xóa cả một chân trời" và chúng sẵn sàng nhổm dậy để vồ lấy con thuyền.
Chúng như những sinh thể có khối óc để bày binh bố trận, cản trở sự di chuyển của
con thuyền. Những hòn đá trông nghiêng thì y như là đang hất hàm hỏi cái thuyền
phải xưng tên tuổi trước khi giao chiến. Ông lái đò được đặt vào một tình huống đầy
cam go, "hai tay giữ chặt mái chèo", hiên ngang như một tướng soái phóng thẳng vào
đối phương. Ông lái đò một mình chiến đấu với dòng sông hung bạo như trận đồ bát
quái, nó chỉ trực chờ cơ hội để giết chết ông lái đò.
Cuộc chiến giáp lá cà giữa ông lái đò và dòng sông diễn ra với sóng nước dữ dội, hò la,
"đá trái", "thúc gối" vào bụng, vào hông con thuyền, bám lấy thuyền như đô vật, nó
tung ra những đòn hiểm độc nhất để "bóp chặt lấy bộ hạ người lái đò". Ông lái đà kiên
cường, vượt qua sông, nước, thác đá "cố nén vết thương", "mặt méo bệch đi", "đánh
đòn tỉa, đòn âm vào chỗ hiểm", cố gắng giữ tỉnh táo để vật lộn với sóng thác và vượt
qua thạch trận ở vòng thứ nhất an toàn. Ông đã nén chịu nỗi đau về thể xác do cuộc
vật lộn với sóng thác gây nên để cố giữ tỉnh táo, giữ vững nghị lực trí tuệ để vật lộn
với sóng thác, vượt qua thạch trận ở vòng thứ nhất.
Văn mẫu lớp 12: Cảm nhận hình tượng người lái đò sông Đà trong cảnh vượt thác
Sang đến trùng vi thạch trận thứ hai, khó khăn lại nối tiếp khó khăn đòi hỏi chí can
trường và sự khéo léo của người lái đò thì mới có thể vượt qua được. Ở vòng này tăng
thêm nhiều cửa tử và chỉ có một cửa sinh để đánh lừa con thuyền rơi vào hố đen. Bằng
sự am hiểu về tính nết của dòng sông và quy luật phục kích của đá nước, ông lái đò đã
thay đổi chiến lược ở vòng vây thứ hai. Ông lái đò bình tĩnh vượt qua các cửa tử và
những dòng thác hùm beo. Ông nắm chắc được binh pháp của thần sông, thần đá nên
không một phút nghỉ tay ông đò đã phá luôn trùng vi thạch trận thứ hai, ông "ghì
cương bám chắc lấy luồng nước đúng mà phóng nhanh vào cửa sinh" khiến cho thằng
đá tướng "tiu nghỉu cái mặt xanh lè thất vọng".
Trùng vi thạch trận thứ ba còn đáng sợ hơn cả vì nó ít cửa hơn khi bên phải bên trái
đều là luồng chết. Thiên nhiên ngày càng dữ dằn như tranh đấu với con người để
khẳng định sự sống. Ông lái đò đã chiến thắng bằng những động tác mạnh mẽ, dứt
khoát, ông khôn ngoan vượt qua mọi cạm bẫy của thác ghềnh và đưa con thuyền về
đích an toàn. Ở vòng vây thứ ba, ông "phóng thẳng con thuyền, chọc thủng cửa giữa"
rồi "vút qua cổng đá cánh mở cánh khép" một cách nhanh chóng. Ông lái đò mang
dáng vẻ của người anh hùng nhưng lãng mạn trong cuộc thủy chiến, ông đặt mình vào
thử thách là sự đối mặt thản nhiên rất đỗi đời thường vì chẳng có ai bàn thêm lời nào
về cuộc chiến vừa qua.
Cảnh vượt thác trong "Người lái đò sông Đà" đã ngợi ca kỳ tích của ông lái đò trong
thế đối lập với thiên nhiên. Ông lái đò mang dáng vẻ của người anh hùng thầm lặng
trong cuộc chiến với thiên nhiên dữ dội, qua đó ta thấy được sự tài hoa, uyên bác của
ngòi bút Nguyễn Tuân. Vẻ đẹp của ông lái đò chính là vẻ đẹp của con người trong
thời đại mới vì với Nguyễn Tuân thì "người anh hùng không chỉ có trong chiến đấu
mà còn có ngay trong cuộc sống đời thường". Tác giả đã sử dụng nghệ thuật miêu tả
giàu chất tạo hình cùng hàng loạt các động từ để khẳng định vẻ đẹp của ông lái đò
trước trận chiến gay cấn với dòng sông Đà.
Qua cảnh vượt thác trong "Người lái đò sông Đà", Nguyễn Tuân đã khẳng định được
"thứ vàng mười đã qua thử lửa" của núi rừng Tây Bắc. Sông Đà mang vẻ đẹp hùng vĩ
Văn mẫu lớp 12: Cảm nhận hình tượng người lái đò sông Đà trong cảnh vượt thác
dữ dội nhưng cũng rất đỗi thơ mộng trữ tình đã trở thành nguồn cảm hứng để nhà văn
có thể lột tả cảnh vượt thác của ông lái đò một cách hấp dẫn như vậy.
Hình tượng người lái đò sông đà qua 3 trùng vi thạch trận - Mẫu 2
Người lái đò sông Đà ra đời trong những năm toàn dân ta bước vào công cuộc xây
dựng Xã hội chủ nghĩa đầy sôi động, khẩn trương, khi đó cảm hứng ngợi ca, tôn vinh
cuộc sống mới, con người mới ngập tràn trong các tác phẩm văn học. Không nằm
ngoài xu thế chung đó, Người lái đò sông Đà với hình tượng người lái đò là một trong
những hình ảnh nổi bật. Nguyễn Tuân ca ngợi người lao động bình dị, vô danh nhưng
hàng ngày, hàng giờ đang cống hiến, dựng xây đất nước.
Hình tượng người lái đò sông Đà được đặt trong quan hệ với sông Đà, để qua đó tô
đậm, làm nổi bật hình tượng người lái đò. Bởi vậy sông Đà hung dữ, bạo ngược bao
nhiêu thì khi vượt qua nó, chiến thắng sức mạnh của nó người lái đò càng thể hiện rõ
nét hơn sức mạnh của mình.
Người lái đò quê ở Lai Châu, đã từng xuôi ngược dòng sông Đà hơn một trăm lần
trong đó có tới sáu mươi lần giữ lái chính. Tác giả đã tạo ấn tượng cho người đọc về
ông lái đò với những con số đầy áp lực và thử thách. Mỗi lần vượt sông Đà là một lần
đối diện với cái chết, số lần ông vượt sông Đà thành công đã cho thấy sự tài giỏi, điêu
luyện trong nghề nghiệp của ông lái đò.
Để làm nổi bật vẻ đẹp của người lái đò, Nguyễn Tuân đã giới thiệu chân dung của
nhân vật: “tay ông lêu nghêu như cái sào, chân ông lúc nào cũng khuỳnh khuỳnh gò
lại như kẹp lấy một cái cuống lái tưởng tượng, giọng ông ào ào như tiếng nước trước
mặt ghềnh sông, nhỡn giới ông vòi vọi như lúc nào cũng mong một cái bến xa nào đó
trong sương mù”, “cái đầu bạc quắc thước… đặt lên thân hình gọn quánh chất sừng
chất mun”. Ở diện mạo của ông lái đò chỉ có một điểm duy nhất chứng tỏ tuổi ông đã
cao đó là mái tóc bạc, khi dùng tay che mái tóc này đi, người ta lầm tưởng “mình đang
đứng trước một chàng trai đang ngồi ngoài bến chính bờ sông”.
Văn mẫu lớp 12: Cảm nhận hình tượng người lái đò sông Đà trong cảnh vượt thác
Diện mạo, ngoại hình của ông lái đò gây ấn tượng mạnh với người đọc, bởi nó trái
ngược hoàn toàn với cái tuổi bảy mươi của ông, đó là diện mạo, ngoại hình của một
chàng thanh niên lực lưỡng, dẻo dai, cường tráng. Sức khỏe, thể chất của ông lái đò in
đậm dấu ấn nghề nghiệp, do suốt đời vật lộn với sông nước nên cần phải có một thể
lực phi thường để chiến đấu lại với những con thác dữ.
Phẩm chất nổi bật và có ý nghĩa quyết định đến sự thành công của ông lái đò trong
nghề vượt thác này chính là kinh nghiệm dày dặn. Không cần bất cứ bản đồ nào
nhưng lại có thể nhớ một cách chính xác luồng lạch trên sông. Để ngợi ca bản lĩnh của
ông Nguyễn Tuân đã sử dụng hình ảnh so sánh độc đáo, giàu chất thơ “Sông Đà đối
với ông lái đò ấy, như một trường thiên anh hùng ca mà ông đã thuộc đến cả dấu chấm
than, chấm câu và những đoạn xuống dòng”.
Không chỉ dày dặn kinh nghiệm, ông lái đò còn nâng nghề nghiệp của mình – công cụ
mưu sinh thành một niềm đam mê mãnh liệt trong đời. Bởi đối mặt với thác dữ, tức là
đối mặt với cái chết song ông không hề sợ hãi mà cảm thấy đó là sự thú vị trong nghề
nghiệp của mình. Với ông lái đò thì sông Đà chỉ thực sự đậm đà ở đoạn nhiều ghềnh
thác, nếu phải chèo đò ở những đoạn bằng phẳng thì ông thấy chân mình như dại đi và
buồn ngủ như người mèo đi bộ ở đồng bằng.
Hình tượng ông lái đò đẹp đẽ nhất là trong cuộc thủy chiến với sông Đà. Nguyễn Tuân
đã sáng tạo ra một một cuộc thủy chiến có một không hai trong lịch sử văn học, giữa
một bên là thủy quái sông Đà với sức mạnh ghê gớm, tâm địa xảo trá và một bên là
ông lái đò tuy dẻo dai, cường tráng nhưng đơn độc trong cuộc chiến gay go, quyết liệt
này để có thể giành được chiến thắng, ông lái đò đã bộc lộ tất cả những phẩm chất tốt đẹp của mình.
Ở trùng vi thạch trận thứ nhất, sông Đà đã phô ra sức mạnh thể chất của nó với sự
phối hợp giữa đá, sóng, nước. Chúng vừa đánh trực diện vừa tung đòn đánh tỉa, để
dồn ông lái đò vào thế yếu. Dù cảm hứng lãng mạn là cảm hứng chủ đạo trong tác
phẩm song cái nhìn và cách miêu tả của Nguyễn Tuân về cuộc thủy chiến không hề
hời hợt dễ dàng, ông ghi lại thời điểm mà tưởng như ông lái đò ngã gục trước những
Văn mẫu lớp 12: Cảm nhận hình tượng người lái đò sông Đà trong cảnh vượt thác
đòn đánh chí mạng của sông Đà. Nhưng bằng sức chịu đựng phi thường, thể chất dẻo
dai, cường tráng vẫn cố gắng kẹp chặt cuống lái, trên thuyền vẫn vang lên sự chỉ đạo ngắn gọn, dứt khoát.
Và bằng lòng dũng cảm, sức khỏe phi thường, bình tĩnh ông lái đò đã vượt qua những
trùng vi thạch trận thứ nhất. Ở trùng vi thạch trận thứ hai với sự thay đổi bất ngờ, biến
hóa khôn lường trong việc bố trí các cửa sinh, cửa tử. Nhưng bằng kinh nghiệm dày
dạn, bằng sự linh hoạt ông lái đò đã nhanh chóng đưa thuyền đi vào đúng cửa sinh.
Với đoàn quân sóng nước, cách đánh của ông cũng biến hóa linh hoạt, để phù hợp với
những trùng vi thạch trận khác nhau. Ở trùng vi thạch trận cuối cùng tác giả miêu tả
không nhiều song vẫn làm bật lên được tài nghệ trong việc lái đò của ông lão. Bằng
sức khỏe và sự dẻo dai, sức chịu đựng, đặc biệt là lòng dũng cảm, chủ động, quyết
đoán, ông đã vượt qua tất cả những cái bẫy mà sông Đà đã tung ra. Cuộc chiến không
cân sức giữa một bên là thiên nhiên dữ dội với một bên là ông lão đơn độc chỉ có mái
chèo là vũ khí duy nhất, song chiến thắng đã thuộc về con người.
Nếu như trong cuộc chiến với sông Đà thể hiện vẻ đẹp và sức mạnh ở bề nổi của sông
Đà thì sau cuộc chiến cách ứng xử với chiến công, chiến thắng của ông lão lại cho
thấy những vẻ đẹp ở bề sâu tâm hồn, nhân cách. Chiến thắng được sông Đà với bảy
mươi ba ghềnh thác là một điều không phải ai cũng có thể làm được, thậm chí đây là
một chiến công phi thường. Song với ông lão và tất cả những người lao động nơi đây
đó là một điều hết sức bình thường. Nhưng chính bởi biết giản dị hóa bình thường hóa
những điều phi thường mà tâm hồn, nhân cách của những người lao động nơi đây
càng trở nên trân trọng, đáng quý.
Hình tượng ông lái đò in đậm dấu ấn phong cách Nguyễn Tuân. Bởi ông chính là kiểu
người tài hoa, nghệ sĩ, biết nâng nghề nghiệp của mình lên mức nghệ thuật. Song ở
hình tượng ông lão thể hiện rất rõ sự chuyển biến trong tư tưởng Nguyễn Tuân khi
những con người tài hoa, nghệ sĩ được miêu tả không phải là những con người phi
thường mà là những con người bình dị, thậm chí vô danh. Đây chính là cách Nguyễn
Tuân ngợi ca, tôn vinh những người lao động thầm lặng trong công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa.
Văn mẫu lớp 12: Cảm nhận hình tượng người lái đò sông Đà trong cảnh vượt thác
Hình tượng người lái đò sông đà qua 3 trùng vi thạch trận - Mẫu 3
“Cảnh vượt thác” là cảnh tượng người lái đò vượt qua ba trùng vi thạch trận với bao
tướng dữ quân tợn. Bằng một quan niệm độc đáo về cái đẹp, đi cùng ngòi bút tài hoa,
Nguyễn Tuân đã xây dựng thành công hình tượng người lái đò sông Đà – một hình
tượng nghệ thuật độc đáo hấp dẫn.
Hình tượng Người lái đò mang vẻ đẹp của người lao động, vừa rắn rỏi, vừa rất điêu
luyện với nghề của mình. Ông lái đò được khắc họa đậm nét qua ngoại hình và tính
cách. Mặc dù ông tuổi đã ngoài 70, nhưng thân hình ông vẫn rất rắn chắc như người
con đích thực của vùng sông nước hùng vĩ: ngực ông đầy những củ nâu – thương tích
trên chiến trường Sông Đà mà Nguyễn Tuân ưu ái gọi đó là “huân chương lao động
siêu hạng”, tay ông lêu nghêu như cái sào, chân ông khuỳnh khuỳnh; nhỡn giới ông
cao vời vợi, giọng ông ồ ồ như tiếng thác trước ghềnh. Tất cả là 1 vẻ đẹp của con
người lao động gắn bó lâu năm với vùng sông nước mênh mông.
Không chỉ mang nét đẹp sương gió ở ngoại hình, người lái đò còn nổi bật bởi tính
cách và trí thông minh. Đối với ông, sông Đà như một thiên anh hùng ca và ông thuộc
lòng sông Đà, thuộc tất cả luồng lạch; nắm được binh pháp của thần sông thần đá.
Chính vì vậy trong trận thủy chiến đầy binh hùng tướng mạnh, phần thắng vẫn thuộc
về con người trí dũng và tài hoa ấy.
Chỉ với ba trùng vi thạch trận, người lái đò sông Đà như người nghệ sĩ đang biểu diễn
bằng tất cả sức lực và tài năng. Trận thủy chiến với con sông Đà là cuộc đấu trí giữa
con người và thiên nhiên một cách ngoạn mục.
Ở trùng vi thạch trận đầu tiên, thác đá sông Đà đã chuẩn bị dàn trận địa sẵn, đó là trận
địa với bốn cửa tử, một cửa sinh. Ở đây nước phối hợp với đá reo hò làm thanh viện;
những hòn đá bệ vệ, oai phong lẫm liệt; một hòn ấy trông như đang hất hàm hỏi cái
thuyền phải xưng tên tuổi trước khi giao chiến và thách thức cái thuyền có giỏi thì tiến
gần vào. Bằng các từ ngữ: reo hò, bệ vệ, oai phong lẫm liệt, hất hàm hỏi, thách thức…
người đọc cảm nhận được không khí trận chiến nóng bỏng gay cấn hồi hộp, đầy kịch tính.
Văn mẫu lớp 12: Cảm nhận hình tượng người lái đò sông Đà trong cảnh vượt thác
Sự khôn ngoan của thác đá sông Đà khiến người đọc phải trầm trồ: chúng không chỉ
đánh trên mặt trận giáp lá cà mà còn đánh bằng cả nghệ thuật tâm lý chiến. Trước đó
chúng đã dùng âm thanh của thác khiêu khích “giọng gằn mà chế nhạo”. Còn giờ đây
chúng lại nhờ “nước thác làm thanh viện cho đá”. Với bản tính hung hãn như một loài
thủy quái, sông Đà cậy thế quân đông tướng mạnh nên đã “ùa vào mà bẻ gãy cán
chèo”, “liều mạng vào sát nách mà đá trái”, “thúc gối vào bụng và hông thuyền”, có
lúc chúng “đội cả thuyền lên”. Một loạt động từ được Nguyễn Tuấn huy động để miêu
tả cách đánh của sông Đà làm người đọc không khỏi rùng mình trước sự hung bạo của
thiên nhiên: ùa vào, bẻ gãy, đá trái, thúc gối, đội,… Bị tấn công bất ngờ nhưng người
lái đò vẫn bình tĩnh, điều này càng làm ta thêm thán phục sự dũng cảm và chuyên
nghiệp của người lái đò. Với chiến thuật phòng ngự để dưỡng sức cho những trùng vi
sắp tới, “ông đò hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng”; lúc này sông Đà lại
chuyển thế bám lấy thuyền và sử dụng đòn vật “túm lấy thắt lưng ông lái đò đòi lật
ngửa mình ra”. Không để cho ông đò có cơ hội xoay xở, sông Đà lại chuyển thể đánh
miếng đòn hiểm độc nhất “cả cái luồng nước vô sở bất chí ấy bóp chặt lấy hạ bộ người
lái đò”. Dính miếng đòn hiểm, mắt ông hoa lên, tưởng như “một cửa bể đom đóm
rừng ùa xuống châm lửa lên đầu sóng”. Đòn đau khiến ông đò “mặt méo bệch đi”. Đó
là cái méo bệch vốn do cái lạnh của nước làm nhăn nheo lại thêm miếng đòn đau làm
ông khách sông Đà mặt như tím tái, ngây dại. Phép điệp động từ “đánh hồi lùng, đánh
đòn tỉa, đánh đòn âm vào chỗ hiểm” gợi lên cơn đau dồn dập, hành hạ người lái đò.
Nhưng ông đò nén đau, giọng ông vẫn bình tĩnh, tỉnh táo, sắc lạnh chỉ huy sáu bơi
chèo còn lại vượt cửa tử vào cửa sinh.
Nếu đoạn văn thứ nhất, Nguyễn Tuân tập trung miêu tả thế trận một chiều từ sông Đà
thì ở đoạn văn tiếp theo nhà văn tập trung miêu tả thế trận của ông khách sông Đà ở sự
thông minh, linh hoạt và tài nghệ vượt thác dũng mãnh, phi thường. Chuyển từ thế
trận phòng ngự, ông lái đò chuyển thế chủ động tấn công. Ở trùng vi thạch trận thứ hai
này, sông Đà tăng cường một “tập đoàn cửa tử” và cửa sinh bố trí lệch qua bờ hữu
ngạn. So với trùng vi một thì trùng vi này khó khăn hơn. Nhưng không vì thế mà ông
đò nao núng. Với kinh nghiệm mười năm chiến trường sông nước, người lái đò đã
“nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá, ông đã thuộc quy luật phục kích của lũ
Văn mẫu lớp 12: Cảm nhận hình tượng người lái đò sông Đà trong cảnh vượt thác
đá”. Ông đò cũng tự triết lý với mình “cưỡi lên thác sông Đà là cưỡi đến cùng như là
cưỡi hổ”, vì thế “không một phút nghỉ tay nghỉ mắt phải phá luôn vòng vây thứ hai và
đổi luôn chiến thuật”. Ở trận này ông đò đánh phủ đầu với kế hoạch đánh nhanh thắng
nhanh. Như một vận động viên đua ngựa, ông đò “nắm chắc được cái bờm sóng đúng
luồng rồi, ông đò ghì cương lái”, ông “phóng nhanh”, “lái miết”… tốc độ di chuyển
mau lẹ. Nhưng sông Đà cũng không phải dạng vừa. Chúng xô ra định níu chiếc thuyền
vào tập đoàn cửa tử. Ông đò đã cảnh giác sẵn nên “đứa thì ông tránh mà rảo bơi chèo”,
“đứa thì đè sấn lên chặt đôi ra để mở đường tiến”. hàng loạt động từ được huy động
như một đội quân ngôn ngữ hùng hậu hò reo theo từng nhịp tiến của ông lái đò: nắm,
ghì, phóng, lái, tránh, rảo, đè, chặt…Chính nhờ sự mưu trí của mình, ông lái đò đã
vượt qua hết các cửa tử. Một trùng vi với bao cửa tử, cửa sinh mà chỉ vài ngón đòn
ông lái đò đã đánh sập vòng vây của lũ đá, đồng thời làm cho bọn đá phải thua cuộc
với bộ mặt “tiu nghỉu, xanh lè thất vọng”.
Ở trùng vi thứ ba, sông Đà còn một cơ hội cuối để thử thách người lái đò. Trùng vi
này ít cửa hơn mà bên trái bên phải đều là luồng chết cả, luồng sống thì lại nằm ngay
giữa bọn đá hậu vệ. Có thể nói trận chiến này sông Đà đã dùng thế “trên đe dưới búa”
làm cho người lái đò phải đối mặt với thế “tiến thoái lưỡng nan” nhưng vào “cái khó
lại ló cái khôn” – ông lái đò đã biến chiếc thuyền sáu bơi chèo thành một mũi tên còn
ông giống như một cung thủ đã “phóng thẳng thuyền chọc thủng cửa giữa. Thuyền vút
qua cửa đá cánh mở, cánh khép, vút vút, cửa ngoài, cửa trong lại cửa trong cùng.
Thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái
được, lượn được. Thế là hết thác”. Một loạt các động từ lại được Nguyễn Tuân huy
động để miêu tả cách đánh của ông đò: Phóng, chọc thủng, xuyên qua, xuyên nhanh,
lái được, lượn được… sự thần tốc trong cách đánh và cách đánh nhanh thắng nhanh đã
giúp người lái đò vượt trùng vi đầy phi thường. Quả là “Đọc Người lái đò sông Đà, ta
có ấn tượng rõ rệt về sự tự do của một tài năng, của một đấng hóa công thực sự trong
nghệ thuật ngôn từ” (Phan Huy Đông). Nghệ thuật lái thuyền đến đây khiến người đọc
hoàn toàn tâm phục, khẩu phục. Đúng là ông lái đò đã đạt đến mức nghệ sĩ trong nghề nghiệp của mình.
Văn mẫu lớp 12: Cảm nhận hình tượng người lái đò sông Đà trong cảnh vượt thác
Trong nghệ thuật vượt thác leo ghềnh, ông lái đò là một con người phi thường, tài hoa.
Một nghệ sĩ có phong thái ung dung, nhàn nhã, khiêm tốn. Ông chính là hình tượng
đẹp đẽ của con người lao động Việt Nam. Nguyễn Tuân đích thực là một nghệ sĩ tài
hoa bậc thầy trong việc ngợi ca những con người lao động trong gian lao nguy hiểm nhưng đầy vinh quang.
Hình tượng người lái đò sông đà qua 3 trùng vi thạch trận - Mẫu 4
Trong thời kì đổi mới, có rất nhiều tác phẩm viết về cuộc sống sinh hoạt, lao động đầy
vui tươi, hứng khởi của những người dân sống trong xã hội chủ nghĩa. "Người lái đò
sông Đà" của Nguyễn Tuân có hình tượng trung tâm là ông lái đò cũng mang nét độc
đáo, đầy bản lĩnh của người lao động tài hoa, phi thường.
Để làm nổi bật những phẩm chất ấy, nhà văn đã chọn miêu tả cảnh vượt thác của ông
lái đò. Chỉ bằng một vài hành động, cử chỉ của nhà đò khi giao chiến với thác đá sông
Đà, người đọc cũng sẽ cảm nhận được tinh thần dũng cảm, tài hoa của người lái đò
trong cuộc chiến không cân sức giữa thiên nhiên và con người.
Ông lái đò đã ngoài 70 nhưng đã gắn bó với sông nước gần như cả cuộc đời. Vậy nên,
ông am hiểu rất rõ về con sông Đà. Mỗi một khúc sông ông đều nhớ mặt, đọc tên
được sự nguy hiểm, dữ dội của nó. Khi dòng sông bày ra ba vòng "trùng vi thạch trận"
để thử thách nhà đò, ông không hề nao núng mà rất bình tĩnh vì ông đã thuộc nằm
lòng "binh pháp của thần sông, thần đá". Đá lòng sông thì muôn đời ở đấy, không thay
đổi chiến thuật. Vậy nên, ông lái đò cũng đã thông thạo "quy luật phục kích của lũ đá
nơi ải nước hiểm trở này". Đối diện với "thạch trận" có rất nhiều cửa tử và cực hiếm
của sinh, mỗi cửa sinh đều nằm ở những nơi khó xác định, dễ nhầm lẫn với cửa tử
nhưng ông lái đò vẫn nhớ được chính xác các cửa sinh, cửa tử trên thác đá. Ông tìm ra
chúng một cách dễ dàng và đi đúng hướng cửa sinh, giúp con đò vượt qua một cửa ải nguy khốn.
Trong trận chiến với thác đá sông Đà có rất nhiều hiểm nguy rình rập lấy người lái đò.
Đây là cuộc chiến không cân sức giữa một bên là thiên nhiên to lớn, hùng vĩ, rợn ngợp
và một bên là chiếc thuyền mỏng manh có ông lái đò đã qua bảy mươi. Thế nhưng,
Văn mẫu lớp 12: Cảm nhận hình tượng người lái đò sông Đà trong cảnh vượt thác
nhà đò vẫn dũng cảm đối mặt với những tình huống nguy cấp, khó khăn nhất. Khi mà
"sóng thác đã đánh đến miếng đòn hiểm độc nhất" khiến ông bị thương, ông vẫn "cố
nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt lấy cuống lái, mặt méo bệch đi", đưa con
thuyền vào đúng cửa sinh. Dù có bị đau thì ông đò vẫn cố hết sức để chiến đấu và
giành lấy chiến thắng trong trận quyết chiến này. Từ đó, người đọc thấy được sự dũng
cảm, gan dạ, kiên cường của người lái đò tưởng như rất bình thường nhưng lại mang
tầm vóc của người anh hùng.
Trong cảnh vượt thác, những ngón nghề điêu luyện của ông lái đò còn khiến người
đọc cảm thán về độ chính xác trong cách vượt qua từng vòng vây. Tác giả đã đặt nhà
đò trong hoàn cảnh bắt buộc phải đối phó với "dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế
mạnh" để có thể cho thuyền đi tiếp. Từ hoàn cảnh đó, đôi tay khéo léo, linh hoạt của
người chèo thuyền mới có dịp được bung hết tài năng. Giữa rất vô vàn cửa tử và số ít
cửa sinh, người lái đò có thể lái đúng vào luồng bước cửa sinh. Ông cưỡi lên thác đá,
"lái miết một đường chéo về phía cửa đá ấy". Từ "lái miết" đã miêu tả một đường lái
chính xác, đẹp, mượt mà, điêu luyện đến đúng nơi mình cần. Dường như lúc này, con
thuyền và nhà đò đã hòa làm một, cùng nhau đối phó với thác đá hung dữ chứ không
phải là hai sự vật tách rời, chứa đựng nhau như trước nữa.
Qua cảnh vượt thác, ta có thể nhận thấy rằng ông lái đò là một người nghệ sĩ tài hoa
trong công việc của mình. Nhà đò đã cực kì am hiểu dòng sông như am hiểu người
bạn tri kỉ của mình. Ông thực hiện những thao tác lái nhanh nhẹn, điêu luyện để vượt
qua thác nước sông Đà một cách đầy tự tin. Không những thế, người lái đò còn có thể
xứng danh là người anh hùng dũng cảm, gan dạ trong trận chiến đầy khốc liệt, không
cân sức với sông Đà hung bạo. Cả chất nghệ sĩ lẫn chất anh hùng đều được ẩn giấu
trong hình hài của một người lao động bình thường đang ngày ngày cống hiến cho Tổ quốc.
Hình tượng người lái đò sông Đà trong cảnh vượt thác chính là một người dân bình
thường, giản dị nhưng lại có những phẩm chất như gan dạ, kiên cường, dũng cảm và
luôn luôn yêu mến, tự hào về công việc của mình. Qua đó, tác giả Nguyễn Tuân muốn
Văn mẫu lớp 12: Cảm nhận hình tượng người lái đò sông Đà trong cảnh vượt thác
ca ngợi những con người lao động chân chính, đóng góp sức mình vào công cuộc xây
dựng và phát triển Tổ quốc.
Hình tượng người lái đò sông đà qua 3 trùng vi thạch trận - Mẫu 5
Sinh thời, Nguyễn Tuân rất ham mê “xê dịch” bởi theo ông, “xê dịch” đã giúp ông
thay đổi thực đơn cho giác quan. Vì vậy, những gì gắn với sông, nước, thuyền, bè
hoặc đường xá, cầu cống thường có cảm hứng mãnh liệt đối với ông. Nét tài hoa của
Nguyễn Tuân là ở chỗ ông coi nghệ thuật đặc biệt có cảm hứng trước những gì thật dữ
dội, phi thường, hoặc thật thơ mộng, tình tứ. Và có lẽ vì thế, đoạn văn miêu tả thác
nước, “thạch trận” mà ông lái đò phải vượt qua trong tùy bút “Người lái đò sông Đà”
hiện lên dưới ngòi bút Nguyễn Tuân như một bằng chứng thuyết phục về phong cách
độc đáo của nhà văn tài hoa này.
Không phải ngẫu nhiên khi miêu tả về “Người lái đò sông Đà” - ông lái đò Lai Châu -
Nguyễn Tuân lại tập trung miêu tả một số chi tiết ngoại hình: “Tay ông lêu nghêu như
cái xào, chân ông lúc nào cũng khuỳnh khuỳnh gò lại kẹp lấy một cái cuống lái tưởng
tượng. Giọng ông ồn ào như tiếng nước trước mặt ghềnh sông, nhỡn giới ông vòi vọi
như lúc nào cũng mong đợi một cái bến xa nào đó trong sương mù”. Cái nghề nghiệp
trên sông nước cũng đã tạo nên ở ông đặc điểm rất riêng từ dáng vẻ đến cái giọng “ăn
sóng nói gió” mạnh mẽ, dữ dội, át cả tiếng thác nước sông Đà cùng với “cái đầu quắc
thước ấy đặt trên một thân hình cao, to và gọn quánh như chất sừng chất mun”. Vẻ
đẹp của người lao động được tôi luyện, thử thách có thể chiến thắng được thiên nhiên
hung bạo là một chi tiết tưởng như rất tự nhiên nhưng thực ra nó thể hiện sự quan sát
tinh tế như những lời ngợi ca bất tuyệt dành cho ông đò: “Ngực, vú, bả vai người lái
đò chống sào vượt thác hay bầm lên một khoanh củ nâu... Cái đồng tiền tụ máu cũng
là hình ảnh quý giá của một thứ huân chương lao động siêu hạng tặng cho người lái đò”.
Chở đò là một nghệ thuật cao cường đòi hỏi sự thông minh, khôn khéo và trí dũng, tài
ba. Ở đây, ông đò hiện lên dưới ngòi bút Nguyễn Tuân là một nghệ sĩ trong nghệ thuật
leo ghềnh, vượt thác, với “tay lái ra hoa”. Để làm nổi bật tài nghệ ấy ở ông đò,
Nguyễn Tuân đã sáng tạo ra một cuộc vượt thác: Ông đò là người cầm lái chỉ huy sáu
Văn mẫu lớp 12: Cảm nhận hình tượng người lái đò sông Đà trong cảnh vượt thác
bơi chèo để chiến thắng được thác nước và đá ngầm mà sông Đà bày thạch trận trên
sông như một trận đò bát quái văng ra hết lớp này đến lớp khác. Ông đò đã bình tĩnh,
thông minh, khôn khéo, cái bản lĩnh của một viên chiến tướng bởi chỉ cần một phút
mất bình tĩnh, lóa mắt, lỡ tay là phải trả giá bằng sinh mạng của cả nhà đò. Tài nghệ
của ông được bộc lộ trong cuộc vượt thác phá ba trùng vi thạch trận mà với vốn hiểu
biết phong phú, vốn từ ngữ chính xác, sắc sảo về quân sự và võ thuật. Nguyễn Tuân
đã thể hiện một cuộc quyết đấu thật sinh động.
Ở vi thạch trận thứ nhất, sông Đà mở ra cửa trận, có bốn cửa tử và một cửa sinh nằm
“lập lờ phía tả ngạn”. Sóng nước có cái hung hăng của kẻ bắt đầu xung trận: “sóng
nước như thể quân liều mạng. mà đá trái, mà thúc gối vào bụng và hông thuyền. Có
lúc chúng đội cả thuyền lên”. Thậm chí nó còn nham hiểm, thủ đoạn “đánh đến miếng
đòn độc hiểm nhất hòng tiêu diệt đối phương ngay tại trận”. Nhưng ông đò cố nén vết
thương, mặt “méo bệch đi”. Chỉ cần một từ ghép “méo bệch” mà Nguyễn Tuân đã thể
hiện được hai tâm trạng của ông đò. Đó là nỗi đau đớn ghê gớm làm biến dạng khuôn
mặt người méo xệch và sóng nước đang tung thẳng vào người làm nhợt nhạt cả sắc
mặt người khiến khuôn mặt trắng bệch ra. Dẫu như thế, ông đò vẫn tỉnh táo chỉ huy
“sáu bơi chèo” để phá tan cái trùng vi thạch trận thứ nhất.
Ở trùng vi thạch trận thứ hai, sông Đà với bản chất ngoan cố và xảo quyệt đã đổi luôn
chiến thuật. Nó “tăng thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền vào và cửa sinh bố trí
lệch qua phía bờ hữu ngạn... Dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế mạnh trên sông
đá”. Cái “hồng hộc” của kẻ say máu đang quyết đấu một phen nhưng nó lại gặp phải
một đối thủ không vừa. Ông đò với bản lĩnh của con người không chịu khuất phục,
của một vị tướng quyết đấu đến cùng đã “cưỡi lên thác sông Đà. nắm chặt lấy được
cái bờm sóng. đè sấn lên mà chặt đôi ra để mở đường tiến”. Trước sự chiến đấu dũng
mãnh, phi thường của ông đò thì “cái thằng đá tướng đứng chiến ở cửa vào đã tiu
nghỉu cái mặt xanh lè thất vọng”. Hình tượng tảng đá lớn, rêu phủ xanh dưới ngòi bút
Nguyễn Tuân lại trở thành một sinh thể có hồn với vẻ mặt xanh lì - mặt cắt không còn
hạt máu - với nỗi sợ hãi khủng khiếp vì không ngờ gặp phải đối thủ đáng gờm như
thế. Và trùng vi thạch trận thứ hai đã được ông đò phá xong.
Văn mẫu lớp 12: Cảm nhận hình tượng người lái đò sông Đà trong cảnh vượt thác
Ở trùng vi thạch trận thứ ba, hình ảnh của một con thú giãy chết lại được thể hiện khi
con sông Đà: bên phải, bên trái đều là luồng chết còn luồng sống lại ở ngay chính giữa
để quyết tiêu diệt đối phương. Thác nước ầm ầm, hơi nước mù mịt nhưng ông đò vẫn
nhận ra được chiến thuật của sông Đà, ông đổi ngay cách đánh, cứ phóng thuyền “vút,
vút.” như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước. thế là hết thác.
Không biết đến bao giờ tôi mới thôi ngạc nhiên và thích thú trước hình ảnh không
hiểu làm sao mà Nguyễn Tuân có thể nghĩ ra về sự “tiu nghỉu cái mặt xanh lè thất
vọng” của thằng đá tướng khi bị cái thuyền đánh trúng cửa sinh, đè sấn lên, chặt đôi
sóng ra để mở đường tiến qua ải nước. Nhưng để lại dấu ấn rõ nét hơn cả trong tôi lại
là những câu văn về dòng sông khi vừa hết thác: “vặn mình vào một cái bến cát có
hang lạnh. Sóng thác xèo xèo tan trong trí nhớ”. Nhà văn đã mượn cho kí ức con
người vẻ đẹp thênh thang của bờ cát bên sông. Và những người lái thuyền trong đêm
ấy đốt lửa trong hang đá, nướng ống cơm lam và chỉ toàn bàn tán về cá anh vũ, cá
dầm xanh. Nhà văn làm cho ta thấy họ còn lớn hơn bậc nữa vì họ hồn nhiên quên đi
cái lớn của mình. Hay nói đúng hơn họ không hề cho là lớn lao, cái mà chúng ta thấy rõ ràng rằng vĩ đại.
Người lái đò của Nguyễn Tuân không có phép màu để so sánh với sức lực của Thủy
Tinh nhưng ông “đã nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá”. Và cái kinh nghiệm
đò giang sông nước, lên thác xuống ghềnh đã khiến ông đò dù trong tay chỉ có cây
chèo vẫn có thể phá thành, vượt ải như một chiến trường bách thắng trong sự nghiệp
đấu tranh chống lại thiên nhiên khắc nghiệt.
Một cảm hứng hào hùng đã khiến ngòi bút của Nguyễn Tuân miêu tả cuộc vượt thác
sông Đà vẫn diễn ra thường nhật thành một trận đánh biến ảo, hấp dẫn, một khúc hát
ca ngợi chiến công của một bậc anh hùng, có quá lớn, có đáng ngạc nhiên chăng, nhất
là ở một nhà văn vốn có tiếng là kêu bạc? Là một nhà văn vốn cầu kì, tỉ mỉ, tường tận
trong quan sát và miêu tả sự vật hiện tượng, con người vậy mà ở đây Nguyễn Tuân
chẳng có một dòng nào nói về tên tuổi, gia cảnh của ông đò. Thủ pháp vô danh hóa đã
giúp nhà văn khẳng định: ở một đất nước lắm sông nhiều suối, lắm thác nhiều ghềnh
thì những người lái đò tài hoa, nghệ sĩ như ông đò trên sông Đà là phổ biến. Ông ca
Văn mẫu lớp 12: Cảm nhận hình tượng người lái đò sông Đà trong cảnh vượt thác
ngợi lao động, ca ngợi c người theo cách riêng của mình làm cho hai tiếng “Con
Người” vang lên kiêu hãnh biết bao!
Với “Người lái đò sông Đà”, Nguyễn Tuân không chỉ thể hiện tài hoa ở thể loại tùy
bút mà còn thể hiện nét mới trong phong cách nghệ thuật của ông: nhân vật tài hoa,
nghệ sĩ không phải là những con người hiếm hoi, cô độc, lạc lõng giữa cuộc đời mà đó
chính là nhân vật vô danh. Chủ nghĩa anh hùng cách mạng không chỉ có ở nơi chiến
trường mà có ở ngay trong những người dân bình thường hằng ngày phải vật lộn với
thiên nhiên hung dữ để mưu sinh. Chính họ đã viết nên thiên anh hùng ca của cuộc sống.
Hình tượng người lái đò sông đà qua 3 trùng vi thạch trận - Mẫu 6
Tuỳ bút “Người lái đò sông Đà” là một trong những tác phẩm đặc sắc của Nguyễn
Tuân được in trong tập sông Đà (1960). Viết tùy bút này, Nguyễn Tuân tự coi mình là
người đi tìm cái thứ vàng mười của màu sắc núi sông Tây Bắc và nhất là cái thứ vàng
mười mang sẵn trong tâm trí tất cả những con người ngày nay đang nhiệt tình gắn bó
với công cuộc xây dựng cho Tây Bắc thêm sáng sủa, được vui và vững bền. Chất vàng
mười của con người ấy chính là người lái đò sông Đà. Điều đó được khắc hoạ thật ấn
tượng mang cảm giác thật mãnh liệt qua cảnh vượt thác “có một không hai”.
Ông lái đò sinh ra và lớn lên bên bờ sông Đà, ngay ngã ba sông Đà nên con sông là
máu thịt của quê hương đã ngấm vào trái tim, khối óc nên ông lái gắn bó, yêu thương
và thấu hiểu tường tận, cặn kẽ dòng sông.
Khi Nguyễn Tuân có dịp kiến diện với người lái đò thì cũng là lúc người lái đò đã 70
tuổi, cái tuổi của buổi xế chiều. Ông làm nghề lái đò dọc sông Đà mười năm liền và đã
nghỉ đôi chục năm. Ấy thế mà ông có ngoại hình thật đặc biệt «ông có thân hình quắc
thước sánh như chất sừng, chất mun trông trẻ tráng quá ». Những nét ngoại hình ấy vì
đâu mà có, phải chăng mười năm trong nghề, dấu ấn của công việc đã in đậm trên
ngoại hình ông lão: Tay ông lêu nghêu như cái sào. Chân ông lúc nào cũng khuỳnh
khuỳnh, gò lại như kẹp lấy một cuống lái tưởng tượng, giọng ông ào ào như tiếng
nước trước mặt ghềnh sông, nhỡn giới ông vòi vọi như lúc nào cũng mong một cái
Văn mẫu lớp 12: Cảm nhận hình tượng người lái đò sông Đà trong cảnh vượt thác
bến xa nào đó trong sương mù. Bả vai của ông có vết củ nâu tròn, dấu tích tì sào của
nghề lái đò mười năm liền trên sông nước, vượt qua bao ghềnh thác mà Nguyễn Tuân
đã ca ngợi là thứ huân chương siêu hạng.
Ông lái đò đã từng ngược xuôi trên ghềnh thác sông Đà nhiều năm trong cuộc đời nên
ông nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá, và thuộc quy luật phục kích của lũ đá
nơi ải nước, để rồi từ đó mưu trí, dũng cảm vượt qua và chiến thắng thiên nhiên nghiệt
ngã để tồn tại, lao động và sáng tạo. Ông lái đò hiện lên khác nào vị thần Thủy Tinh
trong thần thoại VN, nhưng có điều ông không có phép tiên mà chỉ đơn thuần là con
người lao động bình dị, đời thường tiêu biểu cho phẩm chất của người lao động mới
trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội mới ở miền Bắc.
Chỉ từng trải thôi chưa đủ, đối với con sông Đà, ai chế ngự được nó đòi hỏi phải có
lòng dũng cảm, gan dạ, mưu trí, nhanh nhẹn và cả sự quyết đoán nữa. Nguyễn Tuân
đưa nhân vật của mình vào trong hoàn cảnh khốc liệt mà ở đó, tất cả những phẩm chất
ấy được bộc lộ, nếu không sẽ phải trả giá bằng chính mạng sống của mình. Nhà văn
gọi đây là cuộc chiến đấu gian lao của người lái đò trên chiến trường sông Đà, trên
quãng thuỷ chiến ở mặt trận sông Đà. Đó chính là cuộc vượt thác đầy nguy hiểm chết
người, diễn ra nhiều hồi, nhiều đợt như trận đánh mà đối phương đã hiện ra diện mạo
và tâm địa của kẻ thù số một.
Vẻ đẹp trí dũng, tài hoa của người lái đò được thể hiện rõ nét nhất trong cuộc đối đầu
với đám đá đang bày binh bố trận trên sông. Ngoặt khúc sông lượn, thấy sóng bọt đã
trắng xóa cả một chân trời. Đá ở đây ngàn năm vẫn mai phục hết trong dòng sông,
hình như mỗi lần có chiếc thuyền nào xuất hiện ở quảng ầm ầm mà quạnh hiu này,
mỗi lần có chiếc nào nhô vào đường ngoặt sông là một số hòn bèn nhổm cả dậy để vồ
lấy thuyền. Với những từ ngữ : mai phục, vồ lấy thuyền khiến cho lũ đá nơi ải nước
như những kẻ thù nham hiểm và hung ác. Chúng có thể bất thình lình tấn công con
người bất cứ khi nào và tai họa sẽ ập đến mà không báo trước. Mặt hòn đá nào trông
cũng ngỗ ngược, hòn nào cũng nhăn nhúm méo mó hơn cả cái mặt nước chỗ này.
Nguyễn đã miêu tả lũ đá ở đây mỗi hòn mang một vẻ mặt khác nhau: hòn thì ngỗ
ngược, hòn méo mó, hòn mặt xanh lè, hòn hất hàm như thách thức… mỗi hòn mỗi
Văn mẫu lớp 12: Cảm nhận hình tượng người lái đò sông Đà trong cảnh vượt thác
dáng vẻ, nhưng nhìn những bộ mặt ấy thì không có chút nào thiện cảm bởi vẻ lạnh
lùng, hung ác và giữ tợn.
Người đọc như đang chứng kiến thạch trận đá trên sông Đà như bày ra một trận địa
chiến đấu mà mỗi vị trí và nhiệm vụ được cân nhắc và tính toán kỹ lưỡng. Sông Đà đã
giao việc cho mỗi hòn. Mới thấy rằng đây là nó bày thạch trận trên sông. Đám tảng
hòn chia làm ba hàng chắn ngang trên sông đòi ăn chết cái thuyền, một cái thuyền đơn
độc không còn biết lùi đi đâu để tránh một cuộc giáp lá cà có đá dàn trận địa sẵn. Có
bọn đá tiền vệ, hậu vệ, đá cũng biết mai phục, biết đánh trận. Tất cả gợi lên sự hung
tợn và dữ dội, quyết liệt của con sông Đà hung bạo này. Hàng tiền vệ : Có hai hòn
cánh cửa thoạt nhìn tưởng chúng như sơ hở nhưng thực chất đang đóng vai trò dụ cái
thuyền tiến sâu vào bên trong. Khi con thuyền đã bị dụ vào trong thì nước sóng luồng
mới đánh khuýp quật vu hồi lại. Nhưng con thuyền của ông đò đã dễ dàng vượt qua
nên tuyến thứ ba là các boongke chìm và pháo đài đá nổi là phải đánh tan con thuyền.
Cùng với thạch trận đá là sự tiếp ứng, phối hợp của cả sóng nước biết tung ra bao đòn
đánh hiểm độc : khuýp quật vu hồi, đưa ra những đòn độc : đá trái, thúc gối, đội
thuyền, túm thắt lưng, bóp chặt hạ bộ người lái đò…rồi liên tiếp các đòn trùng điệp :
đánh đòn tỉa, đòn âm, hồi lùng…
Nguyễn Tuân đã sử dụng hàng loạt những động từ mạnh để diễn tả hết sự hung hăng,
dữ tợn và hiểm nguy của con sông Đà. Nhưng càng hung dữ bao nhiêu thì lại càng tôn
lên vẻ đẹp của ông lái đò bấy nhiêu vì con sông coi như một hình ảnh làm nền cho
người lái đò hiện lên anh dũng, kiên cường, đầy hiên ngang, kiêu hãnh, hào hoa tìm sự
sống trên dòng sông chết. Hay chúng ta gọi là nghệ thuật vẽ mây nẩy trăng, lấy bóng mà lộ được hình.
Trong thạch trận ấy, người lái đò hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng trận
địa phóng thẳng vào mình. Mặt nước thì hò la vang dậy như muốn bẻ gãy cán chèo, vũ
khí duy nhất có trên tay ông lái đò. Sóng nước chiến đấu như một kẻ liều mạng, không
do dự mà xông thẳng vào người lái đò tiến sát nách mà đá trái, thúc gối vào bụng và
hông thuyền. Khi sông Đà tung ra miếng đòn hiểm độc nhất là nước bám lấy thuyền
như đô vật túm thắt lưng đặng lật ngửa mình ra giữa trận nước vang trời thanh la não
Văn mẫu lớp 12: Cảm nhận hình tượng người lái đò sông Đà trong cảnh vượt thác
bạt, ông lái đò vẫn không hề nao núng, bình tĩnh, đầy mưu trí như một vị chỉ huy, lái
con thuyền vượt qua ghềnh thác. Ngay cả khi bị thương, người lái đò vẫn cố nén vết
thương, hai chân vẫn kẹp chặt lấy cuống lái, mặt méo bệch như cái luồng sóng đánh
hồi lùng, đánh đòn tỉa, đánh đòn âm vào chỗ hiểm. Đặc biệt trên con thuyền có đến
sáu bơi chèo vẫn nghe thấy tiếng chỉ huy ngắn gọn mà tỉnh táo của người cầm lái.
“Vậy là phá xong cái trùng vi thạch trận thứ nhất”. Trong trận đánh người lái đò đã
hiện lên thật gan dạ, dũng cảm và đầy sức dẻo dai và một trí tuệ của người chỉ huy con thuyền sáng suốt.
Không một phút giây nghỉ tay, nghỉ mắt, người lái đò phải tiếp tục “phá luôn vòng vây
thứ hai”. Ông lái đò đã nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá. Biết ở vòng vây
thứ hai con sông đã bố trí tăng thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền vào, cửa
sinh lại bố trí lệch qua bờ hữu ngạn. Với vòng vây thứ hai không phải chiến đấu với
đá, sóng như cửa thứ nhất mà là đương đầu với dòng thác sông Đà. Bằng nghệ thuật
liên tưởng độc đáo Nguyễn như thấy ông lái đò không phải chèo thuyền vượt thác mà
là cưỡi lên thác nước sông Đà. Hơn nữa bằng nghệ thuật miêu tả đòn bẩy tác giả đã ví
thác sông Đà như một con hổ hung bạo đã vào cuộc chiến sinh tử với người lái đò.
Nên ông lái đã cưỡi lên thác thì phải cưỡi đến cùng như cưỡi hổ. Nhằm đúng con sóng
mà lướt thì cũng như nắm được cái bờm của con hổ để có chỗ bám, chỗ ghì tay. Rồi
ông đò ghì cương lái của con thuyền, chắc đôi bàn tay để bám chắc lấy luồng nước mà
lái miết một đường vào cửa Sinh. Nhưng con sông thật nham hiểm bởi nó không để
chút sơ hở cho con thuyền có lối thoát. Luồng nước chứa cửa sinh cũng là chỗ lũ đá
đang mai phục. Không chỉ có thế, một bọn thủy quân đang chờ sẵn chỗ ải nước chỉ
chờ con thuyền đến là xô ra để níu con thuyền vào cửa tử. Nhưng ông đò đã nhớ mặt
từng đứa một, đứa thì ông tránh để bơi chèo nhanh, đứa thì ông đè sấn lên, chặt đôi ra
để lấy đường tiến. Và cứ như vậy con thuyền đã bỏ qua hết những cửa tử, và chỉ nghe
bên tai tiếng reo hò của sóng nước luồng sinh. Trong trận chiến thứ hai phẩm chất nổi
bật của ông lái đò lại anh hùng, linh hoạt và chủ động đối phó với thác nước sông Đà.
Nếu trong hai trận chiến trên chúng ta có thể đã đủ để ngưỡng mộ người lái đò, nhưng
với Nguyễn, tìm đến con người thì con người ấy phải được miêu tả đến tài hoa tột bậc,
phải trở thành nghệ sĩ. Và Nguyễn đã phải tiếp tục miêu tả người lái đò trong cuộc
Văn mẫu lớp 12: Cảm nhận hình tượng người lái đò sông Đà trong cảnh vượt thác
chiến thứ ba với con sông Đà. Và cũng đến vòng vây thứ ba với nghệ thuật miêu tả
sắc nét vô cùng thì ông lái hiện lên như một tay lái nở hoa, đạt đến mức độ nghệ sĩ
trong nghề lái đò của mình. Đến vòng thứ bà, ít cửa hơn, bên phải bên trái đều là
luồng chết cả, nhưng người lái đã chủ động “tấn công”: Cứ phóng thẳng thuyền, chọc
thủng cửa giữa đó. Thuyền vút qua cổng đá cánh mở khép. Vút, vút, cửa ngoài, cửa
trong, lại cửa trong cùng, thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa
xuyên vừa tự động lái được lượn được. Khung cảnh giao tranh dù rất quyết liệt, một
mất một còn nhưng Nguyễn đã miêu tả như một cuộc chiến của giới thần tiên. Màn
hơi nước mờ trắng hư ảo, con thuyền không bơi trên sóng nước sông Đà mà nó như
đang bay trên dòng sông hư ảo ấy. Con thuyền như mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi
nước. Còn người lái đò như một tiên ông với phép lạ, chỉ vẩy tay chèo mà con thuyền
vút vút xuyên đi như có một mãnh lực siêu hình. Phải chăng đó là tuyệt tài của một
tay lái nở hoa. Thế là kết thúc.
Nổi bật trong trang văn của Nguyễn là nhân vật luôn được nhà văn miêu tả ở phương
diện tài hoa, nghệ sĩ. Nếu trước CMT8 -1945, Nguyễn Tuân chỉ tập trung vào lớp nhà
nho quá vãng thì nay sau CM, tác giả đã tìm thấy và khẳng định cái đẹp ở ngay trong
cuộc sống hàng ngày của người dân lao động. Cuộc đời của người lái đò vô danh,
không tên tuổi, nơi có những ngọn thác hoang vu, khuất nẻo kia là cả một thiên anh
hùng ca, một pho nghệ thuật tuyệt vời. Nếu như thiên nhiên sông Đà trong tác phẩm
của Nguyễn Tuân là “kẻ thù số một” của con người, thì cũng chính thiên nhiên, qua
ngòi bút của nhà văn là nơi đã tôn vinh giá trị con người vào lao động.
Hình tượng người lái đò sông đà qua 3 trùng vi thạch trận - Mẫu 7
Ca ngợi người lao động là một chủ đề rất quen thuộc trong thời kì xây dựng đất nước.
Cũng viết về chủ đề người lao động, hình tượng người lái đò sông Đà trong tùy bút
Người lái đò sông Đà mà Nguyễn Tuân miêu tả lại mang nét độc đáo riêng. Người lái
đò vô danh trong tác phẩm của Nguyễn Tuân cũng đẹp như một người anh hùng trong
hành trình chinh phục thiên nhiên và trở thành một người nghệ sĩ vượt thác.
Để làm nổi bật phẩm chất của người lái đò, Nguyễn Tuân đã đặt ông đò vào trong môi
trường thác đá - nơi mà dòng sông Đà hung bạo nhất để làm nổi bật lên phẩm chất của
Văn mẫu lớp 12: Cảm nhận hình tượng người lái đò sông Đà trong cảnh vượt thác
ông. Một mình ông lái đò chống chọi với muôn vàn tướng đá, lính đá, vượt qua cả một
"thạch trận" khổng lồ giữa dòng sông Đà khắc nghiệt với những "boongke chim, pháo
đài nổi", với những cửa sinh cửa từ và những luồng nước chết. Người lái đò và con
thuyền của mình giữa "dòng thác hùm beo trở nên thật nhỏ bé, mong manh. Hành
trình vượt thác của người lái đò trở thành cuộc hành trình kiếm tìm sự sống từ những
con thác dữ. Vậy nên, ông đò, để vượt thác thành công, không chỉ phải có sự am hiểu
thiên nhiên, lòng dũng cảm mà còn cả bàn tay tài hoa của người nghệ sĩ nữa.
Trước hết, ta cảm nhận được ở ông đò là một người am hiểu thiên nhiên, am hiểu về
đối tượng mà mình chiến đấu mà ở đây chính là dòng thác đá sông Đà. Sau những lần
chiến đấu với đầy thách thức, ông đò đã nắm được quy luật của thác đá. Nếu sông Đà
là một thạch trận khổng lồ thì ông đò lại nắm được "binh pháp của thần sông thần đá".
Ông cũng thuộc lòng những "quy luật phục kích của lũ đá nơi ải nước hiểm trở
này".Thậm chí, người lái đò ấy còn nắm được cả những cửa sinh cửa tử trên dòng thác
hung dữ ấy. Ở vòng đầu, nó "mở ra bốn cửa tử một cửa sinh, cửa sinh nằm lập lờ phía
tả ngạn sông", vòng thứ hai "cửa sinh bố trí lệch qua phía bờ hữu ngạn", vòng ba "cửa
sinh nằm giữa bọn đá hậu vệ bao vây bởi những luồng nước chết". Có thể nhận thấy,
ông đò có một trí nhớ thật siêu phàm được tôi luyện qua những cuộc đấu sinh tử với
dòng thác hung bạo này. Vì vậy, khi đối mặt với lần vượt thác, ông lái đò có thể tự tin
mà đối phó linh hoạt với thiên nhiên. Ông "đổi thay chiến lược" hay "ông tránh mà rảo
bơi chèo lên", ...tất cả được đúc kết từ những lần vượt thác, được ghi nhớ trong trí nhớ của ông.
Thế nhưng, thác đá sông Đà hung bạo là thế, vượt qua nó, không chỉ cần kiến thức mà
hơn cả là phải có lòng can đảm hơn người. Để làm nổi bật lên sự dũng cảm của người
lái đò, Nguyễn Tuân đã đặt ông vào trong tình thế ngặt nghèo nhất, đó là khi "sóng
thác đã đánh đến miếng đòn hiểm độc nhất" và luồng nước dữ đã "bóp chặt hạ bộ của
người lái đò". Con sóng thác đã làm người lái đò phải đau đớn, "mặt méo bệch đi".
Trong tình thế ấy, người lái đò chỉ cần lơ là là có thể sơ sẩy ngay, thế nhưng với kinh
nghiệm của mình, ông đủ hiểu rằng chỉ một phút lơi tay thì sẽ phải trả giá bằng cả tính
mạng của mình. Chính vì thế vượt lên trên nỗi đau, ông đồ "cố nén vết thương", dùng
tinh thần chế ngự nỗi đau thể xác mà "kẹp chặt lấy cuống lái" đưa con thuyền vào
Văn mẫu lớp 12: Cảm nhận hình tượng người lái đò sông Đà trong cảnh vượt thác
đúng cửa sinh. Trong tình huống nguy hiểm nhất cũng là lúc ông đò bộc lộ tất cả sự
dũng cảm của mình, sự bình tĩnh, kiên trung, tỉnh táo và gan góc. Phẩm chất đó đã làm
ông đò trở thành một vị anh hùng trên sông nước.
Và để chiến thắng dòng thác dữ của sông Đà, ông lái đò còn phải có bàn tay khéo léo
tài hoa, nơi phô diễn tất cả cái đẹp của nghệ thuật vượt thác. Nguyễn Tuân đã đặt ông
vào trong tình cảnh đặc biệt, đó là khi phải đối phó "dòng thác hùm beo đang hồng
hộc tế mạnh trên sông đá". Dòng sông hung bạo như loài mãnh thú, muốn cuốn phăng
tất cả và ông lái đò như một người nghệ sĩ thực thụ mà thuần phục con mãnh thú ấy.
Ông "cưỡi lên thác sông Đà", "phải cưỡi đến cùng như là cưỡi hổ". Ông nắm lấy cái
"bờm sóng" rồi "ghì cương lái, lái miết một đường chéo về phía cửa đá ấy". Hai chữ
"lái miết" cho thấy một đường lái căng, chính xác đến tuyệt vời. Đó là điều làm nên
tài hoa trong nghệ thuật vượt thác mà ông đã rèn luyện qua bao lần sinh tử cùng con sông.
Giữa những dòng thác đang gào thét, con thuyền của ông lái đò vẫn lướt đi 'vút! Vút!...
" vượt qua tất cả "trùng vi thạch trận" trên sông với những đường lái chính xác. Nhìn
con thuyền băng băng trên thác đá, người ta có cảm nhận rằng con thuyền ấy dường
như tự "lái được lượn được". Con thuyền đã trở thành một sinh thể sống mà chính ông
lái đò là người truyền cho nó sự sống đó. Nó và ông đò đã trở thành một khối thống
nhất để ông có thể điều khiển nó như một phần thân thể của mình.
Nguyễn Tuân tiếp cận con người trên phương diện thẩm mỹ, thế nên có thể thấy
những người lao động bình dị cũng mang những phẩm chất anh hùng và vẻ tài hoa của
một người nghệ sĩ. Là những người anh hùng, những người nghệ sĩ nhưng họ cũng
vẫn chỉ là những con người nơi đời thường chất phác và bình dị. Người lái đò sau khi
vượt thác trở về với đời thường, "đốt lửa trong hang đá, nướng ống cơm lam", nói
những câu chuyện phiếm về "cá an vũ, cá xanh", ... Trong những câu chuyện phiếm ấy
là gửi gắm bao nhiêu ước mơ, khát vọng về một cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Cuộc
vượt thác với họ cũng chỉ là cuộc sống thường ngày bởi "ngày nào cũng chiến đấu với
sông Đà dữ dội" và "giành lấy sự sống từ tay những cái thác". Những suy nghĩ ấy
Văn mẫu lớp 12: Cảm nhận hình tượng người lái đò sông Đà trong cảnh vượt thác
càng làm tôn lên vẻ đẹp của người lao động bình dị và những cống hiến lặng thầm của họ.
Nguyễn Tuân đã xây dựng hình tượng người lái đò sông Đà bằng cảm hứng lãng mạn
cũng như với tất cả niềm tự hào, trân trọng, tôn vinh. Nghệ thuật đòn bẩy, thủ pháp
tương phản và cường điệu đã giúp Nguyễn Tuân xây dựng hình ảnh ông đò không hề
bé nhỏ trước thiên nhiên mà như một người hùng, một người nghệ sĩ tài hoa. Quan
niệm độc đáo về cái đẹp đã khiến hình ảnh một ông đò thật khó quên trong lòng bạn đọc.
Hình tượng người lái đò sông đà qua 3 trùng vi thạch trận - Mẫu 8
Vũ Ngọc Phan đã từng viết như thế này về phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân:
“Chỉ người ưa suy xét đọc Nguyễn Tuân mới thấy thú vị, vì văn Nguyễn Tuân không
phải là thứ văn để người nông nổi thưởng thức.” Quả thực, ngòi bút tài hoa của người
nghệ sĩ ấy luôn hướng đến những gì là tuyệt mỹ nhất của cuộc đời. Tùy bút “Người lái
đò sông Đà” - những thước phim đẹp đẽ nhất về thiên nhiên hùng vĩ và con người tài
hoa. Đặc biệt, hình tượng người lái đò trong cảnh vượt thác ấy có lẽ chính là bức tranh
tuyệt mỹ nhất, một hình tượng đặc sắc nhất mà Nguyễn Tuân đã tạo nên. Chỉ qua đó
thôi cũng đủ để người đọc thấy được nét tài hoa trong ngòi bút của người nghệ sĩ
“suốt đời đi tìm cái đẹp ấy”.
Trước năm 1945, Nguyễn Tuân thường say mê miêu tả vẻ đẹp tài hoa của những
người nghệ sĩ, những vẻ đẹp mà người ta vẫn gọi là “vang bóng một thời” để bày tỏ sự
ngưỡng mộ và cả những nỗi niềm tiếc nuối. Sau năm 1945, quan niệm thẩm mĩ của
Nguyễn Tuân đã có những thay đổi, ông hướng ngòi bút của mình đến vẻ đẹp tài hoa
của những con người lao động bình thường trong cuộc sống đời thường. Tùy bút
“Người lái đò sông Đà” sáng tác năm 1960, là kết quả của chuyến đi thực tế lên Tây
Bắc để khám phá cảnh sắc thiên nhiên cũng như tìm kiếm “thứ vàng mười” trong cảnh
và con người nơi đây. Qua tùy bút, hình tượng người lái đò hiện lên đầy ấn tượng giữa
cái hung bạo của con sông Đà. Trong đó, ắt hẳn người đọc không thể quên khung cảnh
vượt thác đầy điêu luyện và tài hoa của ông lái đò, một cảnh tượng mà Nguyễn Tuân
gọi là có một không hai, “trước nay chưa từng có”.
Văn mẫu lớp 12: Cảm nhận hình tượng người lái đò sông Đà trong cảnh vượt thác
Ông lái đò hiện lên là một ông lão đã 70 tuổi với ngoại hình thật đặc biệt: Tay ông lêu
nghêu như cái sào, chân ông lúc nào cũng khuỳnh khuỳnh, gò lại như kẹp lấy một
cuống lái tưởng tượng, giọng ông ào ào như tiếng nước trước mặt ghềnh sông, nhỡn
giới ông vòi vọi như lúc nào cũng mong một cái bến xa nào đó trong sương mù.
Nguyễn Tuân chỉ bằng vài nét cũng cũng đủ để để chạm khắc vào tiềm thức của bạn
đọc về một hình ảnh người lái đò gần gũi, một con người sinh ra và lao động trên sông
nước, một con người suốt đời chiến đấu với thác, đá, sóng, nước của sông Đà để tồn
tồn tại và xây dựng quê hương Tây Bắc. Giữa khung cảnh thiên nhiên sông Đà hùng
vĩ, đầy nguy hiểm và hung bạo ấy, Nguyễn Tuân đã tô đậm vẻ đẹp tài hoa trí dũng của
ông lái đò qua cuộc vượt thác đầy nguy hiểm, một trận chiến dữ dội giữa con người và
thiên nhiên. Người lái đò nhỏ bé cùng chiếc thuyền mỏng manh đối chọi với thiên
nhiên sông nước hung bạo, một cuộc chiến không cân sức nhưng con người trí dũng
ngoan cường, tỉnh táo, khôn ngoan, khéo léo đã có thể đưa con thuyền an toàn vượt
qua những trùng vi thạch trận trên dòng sông một cách đầy ngoạn mục.
Ở vòng vây thứ nhất, con sông Đà bày ra thạch trận với bốn cửa tử và một cửa sinh. Ở
đây nước phối hợp với đá reo hò làm thanh viện; những hòn đá bệ vệ, oai phong lẫm
liệt; một hòn ấy trông như đang hất hàm hỏi cái thuyền phải xưng tên tuổi trước khi
giao chiến và thách thức cái thuyền có giỏi thì tiến gần vào. Khi “thạch trận dàn bày
vừa xong thì cũng là lúc con thuyền tới”. Người lái đò không hề run sợ, tiến đề với
trùng vi thạch trận thứ nhất với tâm thế sẵn sàng nhất. Con sông Đà khôn ngoan, nó
không đánh trực diện với người lái đò mà đánh bằng nghệ thuật tâm lý chiến. Trước
đó, nó dùng âm thanh của thác để khiêu khích “giọng gằn mà chế nhạo”, còn giờ đây
nó lại nhờ đến “nước thác làm thanh viện cho đá”. Sông Đà quả thực hiểm ác, nó xông
tới “ùa vào mà bẻ gãy cán chèo”, “liều mạng vào sát nách mà đá trái”, “thúc gối vào
bụng và hông thuyền”, có lúc lại “đội cả thuyền lên”. Sông Đà khôn ngoan và hiểm ác
là thế, nhưng ông lái đò không hề hoảng sợ “ông đò hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất
tung lên khỏi sóng”. Lúc này con sông Đà lại chuyển thế bám lấy thuyền và sử dụng
đòn vật “túm lấy thắt lưng ông lái đò đòi lật ngửa thuyền ra”. Không để cho ông đò có
cơ hội xoay xở, sông Đà lại chuyển thế đánh miếng đòn hiểm độc nhất “cả cái luồng
nước vô sở bất chí ấy bóp chặt lấy hạ bộ người lái đò”. Khi sóng thác đánh miếng đòn
Văn mẫu lớp 12: Cảm nhận hình tượng người lái đò sông Đà trong cảnh vượt thác
độc hiểm nhất, ông đò mặt “méo bệch” đi. Khuôn mặt ấy của ông lái đò hiện ra không
chỉ là gương mặt biến dạng, trắng bệch vì đau đớn mà còn nhợt nhạt vì phải dầm lâu
trong nước lạnh. Sự đau đớn của ông đò còn được gián tiếp miêu tả trong một cảm
nhận của thị giác và xúc giác “mặt sông trong tích tắc lòa sáng như một cửa bể đom
đóm rừng ùa xuống mà châm lửa vào đầu sóng”. Đó là một trận chiến không cân sức,
con sông Đà hùng vĩ và hung bạo vô cùng, người lái đò hiện lên nhỏ bé, với chiếc mái
chèo nhưng với sức mạnh thật lớn lao. Qua cách miêu tả tiếng hô chỉ huy ngắn gọn,
tỉnh táo của người cầm lái, Nguyễn Tuân đã không giấu được lòng ngưỡng mộ và cảm
phục trước bản lĩnh kiên cường, sự dũng mãnh, bình thản của người lái đò.
Tới vòng vây thứ hai của thạch trận, ông đò không chỉ dũng mãnh, kiên cường mà còn
thể hiện sự thông minh của một người lái đò dày dặn kinh nghiệm – người nắm chắc
binh pháp của thần sông thần đá, người đã “thuộc quy luật” của dòng sông, thác đá.
Đến với trùng vi này, con sông Đà tăng thêm nhiều cửa tử hơn, cửa sinh lại bố trí lệch
qua bờ phía hữu ngạn. Ở trận đánh này ông đò đánh phủ đầu với kế hoạch đánh nhanh
thắng nhanh. Ông đò “nắm chắc được cái bờm sóng đúng luồng rồi, ông ghì cương
lái”, ông “phóng nhanh”, “lái miết”, tốc độ nhanh vô cùng. Nhưng sông Đà nào đâu
phải dạng vừa, chúng xô ra, níu chiếc thuyền vào tập đoàn cửa tử. Ông đò đã cảnh
giác sẵn “đứa thì ông tránh mà rảo bơi chèo”, “đứa thì đè sấn lên chặt đôi ra để mở
đường tiến lên”. Nguyễn Tuân quả thực là bậc thầy của ngôn ngữ, ông huy động hàng
loạt các động từ, hò reo theo từng nhịp lái chèo của ông lão lái đò: nắm, ghì, phóng,
lái, rảo, đè,... Ông lái đò như một dũng tướng tài ba điều khiển thuần phục con ngựa
bất kham của sóng thác sông Đà. Chính bằng sự mưu trí và tài năng của mình, ông lão
đã vượt qua hết các cửa tử, làm cho bọn đá thua cuộc phải bày bộ mặt “tiu nghỉu, xanh
lè thất vọng”. Thiên nhiên, thác đá sông Đà hung bạo hiểm độc là thế cũng không thể
chiến thắng được sức mạnh phi thường của ông lái đò - một tay lái ra hoa, trí tuệ, một
tướng lĩnh thực thụ đã chiến thắng cả thần sông, thần đá.
Có lẽ tất cả sự hiểm ác nhất của con sông Đà tập trung hết cả ở trùng vi cuối cùng.
Không những ít cửa hơn mà bên trái bên phải đều là luồng chết cả, luồng sống thì lại
nằm ngay giữa bọn đá hậu vệ. Bốn năm bọn thuỷ quân cửa ải nước bên bờ trái liên xô
ra cảnh níu thuyền lôi vào tập đoàn cửa tử. Con sông ngày càng mưu mẹo vào hiểm
Văn mẫu lớp 12: Cảm nhận hình tượng người lái đò sông Đà trong cảnh vượt thác
ác, muốn dồn con người đến chỗ chết. Sự hiểm ác của thác đá đã được nhà văn miêu
tả trong hình ảnh ẩn dụ tài hoa về cổng đá cánh mở cánh khép – đó là cả một mặt trận
đá trùng điệp trong đó bức tường phòng ngự vững chắc của lũ đá hậu vệ kết hợp với
những mũi tấn công ào ạt, tới tấp không ngừng nghỉ của sóng dữ. Nhiệm vụ của ông
đò là phải phóng thẳng thuyền, chọc thủng một luồng sinh duy nhất ở ngay giữa cửa
bọn đá hậu vệ trấn giữ, trong khoảnh khắc cánh “cổng đá” mở giữa những đợt sóng
thác dữ dội. Có lẽ ngay lúc này đây, tay lái chèo của ông lái đò thực sự là một tay lái
ra hoa. Không bằng quá nhiều từ ngữ, câu văn, hình ảnh con thuyền lao vút qua khe
hẹp được miêu tả trong những câu văn ngắn mà bản thân cách ngắt câu, sự kết hợp
những động từ và danh từ nối tiếp: vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng… đã
thể hiện sự điêu luyện khéo léo và sức mạnh của ông đò. Tốc độ phi thường của con
thuyền dưới bàn tay vừa lái, vừa xuyên, vừa lượn của ông đò không chỉ như một mũi
tên tre mà còn được gợi tả tinh tế qua làn hơi nước mà con thuyền xuyên qua, con
thuyền không còn lướt trên mặt nước mà đã thực sự bay trong làn hơi nước trên mặt
sóng. Tài năng của ông đò khi ấy đã bao hàm cả trí tuệ, sự trải nghiệm, sức mạnh thể
lực, trình độ điêu luyện và bản lĩnh kiên cường – tất cả đều đạt tới mức phi phàm, kì
diệu. Vậy là cuối cùng, bằng tất cả tài hoa, trí lực và sự dũng mãnh của mình, ông lái
đò đã chiến thắng con sông Đà hiểm độc.
Cảnh vượt thác sông Đà có lẽ chính là một trong những kiệt tác nghệ thuật trong cuộc
đời sáng tác của Nguyễn Tuân. Ông lái đò trí dũng, tài hoa đã chiến thắng con sông
Đà hung bạo, hiểm ác một cách ngoạn mục. Khung cảnh vượt thác sông Đà có lẽ đã
quá quen thuộc trong suốt hàng chục năm hành nghề của ông lái đò, nhưng dưới ngòi
bút tài hoa của Nguyễn Tuân nó đã thực sự trở thành biểu tượng đẹp đẽ nhất nơi núi
rừng Tây Bắc. Từng câu, từng chữ đều được Nguyễn Tuân chăm chút từng tí một, đến
nỗi tưởng đầu người đọc đang được trên chính chuyến đò ấy, được tận mắt chứng kiến
từng hành động, từng nước đi tài hoa của ông lái đò.
Viết về con người bình thường trong cuộc sống đời thường nhưng không hề tầm
thường. Nguyễn Tuân luôn tìm đến và khắc họa những vẻ đẹp ấy bằng ngòi bút tài hoa
nghệ sĩ nhất. Khung cảnh vượt thác của ông lái đò - một nhịp sống thường niên trong
suốt cuộc đời ông lái đò, qua ngòi bút của Nguyễn Tuân cớ sao nó lại đẹp đẽ và tuyệt
Văn mẫu lớp 12: Cảm nhận hình tượng người lái đò sông Đà trong cảnh vượt thác
mĩ đến vậy. Người nghệ sĩ tài hoa ấy đã chạm đến tuyệt đích của cái đẹp, đã thực sự
thành công trên con đường đi tìm cái đẹp ấy. Không giống như “Chữ người tử tù”,
trong câu chuyện của “Người lái đò sông Đà” Nguyễn Tuân không đi tìm cái đẹp của
một thời đã qua nữa mà cái đẹp mà ông khám phá ở ngay trước mắt, trong chính cuộc
sống đời thường nhất, đúng như cái nghệ danh mà người đời đặt cho ông - “Một người
nghệ sĩ suốt đời đi săn tìm cái đẹp”.
Nguyễn Tuân đã vẽ lên một khung cảnh cảnh vượt thác đầy gay cấn và khốc liệt. Nếu
coi người lái đò là người nghệ sĩ điều khiển con thuyền đầy điêu luyện thì Nguyễn
Tuân đích thực là người nghệ sĩ chèo lái con thuyền ngôn từ đầy tài hoa. Chỉ qua một
một khung cảnh vượt thác thôi, nhưng Nguyễn Tuân đã điều động cả một đội quân từ
ngữ để diễn tả sự cuồng nộ của sông Đà và cả sự tài hoa của người lái đò. Nguyễn
Tuân đưa người đọc đi từ cảm xúc này sang cảm xúc khác, từ hồi hộp, căng thẳng đến
thở phào nhẹ nhõm. Cứ từ trùng vi thạch trận này đến trùng vi thạch trận khác, người
đọc chưa khỏi thở phào lại phải tiếp tục đến với một cuộc chiến mới gay cấn và khốc
liệt vô cùng. Trong công cuộc đi tìm “chất vàng mười” của con người Tây Bắc nói
riêng và người lao động Việt Nam nói chung trong thời kỳ mới, Nguyễn Tuân đã khai
thác và khám phá một cách tỉ mỉ nhất, bằng con mắt và trái tim yêu thương nhất của
người nghệ sĩ yêu thương và khát khao khám phá cái đẹp ở đời.
Khép lại những trang văn của “Người lái đò sông Đà”, người đọc sẽ mãi không bao
giờ quên về hình ảnh một con sông Đà hiểm độc, hung bạo, về một người lái đò điều
luyện và cả người nghệ sĩ tài hoa Nguyễn Tuân. Từng cảm xúc, từng hình ảnh vượt
thác sông Đà đã trở thành một ấn tượng khó phai khi con người bước chân tới chân
trời đầy màu sắc huyền bí riêng biệt, hấp dẫn và độc đáo. Đó là chân trời của cái đẹp,
của tài hoa và sự uyên bác.
Hình tượng người lái đò sông đà qua 3 trùng vi thạch trận - Mẫu 9
Đánh giá về Nguyễn Tuân, nhà văn Nguyễn Minh Châu thật có lí khi cho rằng:
“Nguyễn Tuân là một định nghĩa về người nghệ sĩ”. Nguyễn Tuân luôn tìm mọi cách
để kiếm tìm và phát hiện cái mới lạ, độc đáo “xưa nay chưa từng có” trong hành trình
sáng tạo. Tuỳ bút “Người lái đò Sông Đà” là kết quả của hành trình bền bỉ và sáng tạo
Văn mẫu lớp 12: Cảm nhận hình tượng người lái đò sông Đà trong cảnh vượt thác
về vẻ đẹp kì diệu của thiên nhiên và con người Tây Bắc. Bằng sự tài hoa, uyên bác,
Nguyễn Tuân đã khắc hoạ một dấu ấn không thể mờ phai về con sông miền Tây Bắc
vừa hung bạo vừa trữ tình và nổi lên trên thác dữ là vẻ đẹp của một chiến binh sông
nước với “tay lái ra hoa” đã vượt bao trùng vi thạch trận như một người nghệ sĩ trên
mặt trận vượt thác leo ghềnh. Điều đó được khắc hoạ thật ấn tượng mang cảm giác
thật mãnh liệt qua cảnh vượt thác “có một không hai”.
“Cảnh vượt thác” là cảnh tượng người lái đò vượt qua ba trùng vi thạch trận với bao
tướng dữ quân tợn. “Xưa nay chưa từng có” cảnh tượng hiếm gặp, trước sau chưa có.
Thực chất của ý kiến là bàn đến tài nghệ vượt thác của ông lái đò và tài năng nghệ
thuật bậc thầy của Nguyễn Tuân.
Bằng ngòi bút tài hoa và quan niệm duy mỹ về cái đẹp - Nguyễn Tuân đã xây dựng
thành công hình tượng người lái đò sông Đà - một hình tượng nghệ thuật độc đáo hấp
dẫn. Ông khách sông Đà tuổi ngoài bảy mươi tuổi nhưng thân hình rắn chắc như một
bức tượng cẩm thạch: ngực ông đầy những củ nâu - thương tích trên chiến trường
Sông Đà mà Nguyễn Tuân gọi đó là “huân chương lao động siêu hạng”, tay ông lêu
nghêu như cái sào, chân ông khuỳnh khuỳnh; nhỡn giới ông cao vời vợi, giọng ông ồ
ồ như tiếng thác trước ghềnh. Miêu tả người lái đò như vậy - Nguyễn Tuân đã phần
nào khắc họa được vẻ đẹp của con người lao động gắn bó với chiến trường sông nước.
Hình tượng người lao động không chỉ khắc họa qua ngoại hình mà còn được khắc họa
qua tính cách và trí thông minh. Ông xem sông Đà như một thiên anh hùng ca và
thuộc lòng sông Đà, thuộc tất cả luồng lạch; nắm được binh pháp của thần sông thần
đá. Chính vì vậy trong trận thủy chiến đầy binh hùng tướng mạnh, phần thắng vẫn
thuộc về con người trí dũng và tài hoa. Trí và dũng của ông khách Sông Đà được
Nguyễn Tuân khắc họa một cách đậm nét với ba trùng vi thạch trận. Trận thủy chiến
này là một cảnh tượng “xưa nay chưa từng có”.
Ở đoạn văn thứ nhất, Nguyễn Tuân dồn hết bút lực vào miêu tả trùng vi thạch trận đầu
tiên. Ở trùng vi thạch trận này - thác đá sông Đà đã chuẩn bị dàn trận địa sẵn, đó là
trận địa với bốn cửa tử, một cửa sinh. Ở đây nước phối hợp với đá reo hò làm thanh
viện; những hòn đá bệ vệ, oai phong lẫm liệt; một hòn ấy trông như đang hất hàm hỏi
Văn mẫu lớp 12: Cảm nhận hình tượng người lái đò sông Đà trong cảnh vượt thác
cái thuyền phải xưng tên tuổi trước khi giao chiến và thách thức cái thuyền có giỏi thì
tiến gần vào. Bằng các từ ngữ: “reo hò, bệ vệ, oai phong lẫm liệt, hất hàm hỏi, thách
thức…”, người đọc cảm nhận được không khí trận chiến nóng bỏng gay cấn hồi hộp,
kịch tính. Đó chính là biệt tài phù thuỷ ngôn ngữ của Nguyễn Tuân.
Thác đá sông Đà rất khôn ngoan. Chúng không chỉ đánh trên mặt trận giáp lá cà mà
còn đánh bằng cả nghệ thuật tâm lý chiến. Trước đó chúng đã dùng âm thanh của thác
khiêu khích “giọng gằn mà chế nhạo”. Còn giờ đây chúng lại nhờ “nước thác làm
thanh viện cho đá”. Với bản tính hung hãn như một loài thủy quái, sông Đà đã đánh
phủ đầu người lái đò với những đòn thế vô cùng hiểm hóc. Sông Đà cậy thế quân
đông tướng mạnh nên đã “ùa vào mà bẻ gãy cán chèo”, “liều mạng vào sát nách mà đá
trái”, “thúc gối vào bụng và hông thuyền”, có lúc chúng “đội cả thuyền lên”. Một loạt
động từ được Nguyễn Tuân huy động để miêu tả cách đánh của sông Đà làm người
đọc không khỏi rùng mình trước sự hung bạo của thiên nhiên: “ùa vào, bẻ gãy, đá trái, thúc gối, độ…”
Bị tấn công bất ngờ nhưng người lái đò vẫn bình tĩnh. Với chiến thuật phòng ngự để
dưỡng sức cho những trùng vi sắp tới, “ông đò hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên
khỏi sóng”; lúc này sông Đà lại chuyển thế bám lấy thuyền và sử dụng đòn vật “túm
lấy thắt lưng ông lái đò đòi lật ngửa mình ra”. Không để cho ông đò có cơ hội xoay
xở, sông Đà lại chuyển thể đánh miếng đòn hiểm độc nhất “cả cái luồng nước vô sở
bất chí ấy bóp chặt lấy hạ bộ người lái đò”. Dính miếng đòn hiểm, mắt ông hoa lên,
tưởng như “một cửa bể đom đóm rừng ùa xuống châm lửa lên đầu sóng”. Đòn đau
khiến ông đò “mặt méo bệch đi”. Đó là cái méo bệch vốn do cái lạnh của nước làm
nhăn nheo lại thêm miếng đòn đau làm ông khách sông Đà mặt như tím tái, ngây dại.
Phép điệp động từ “đánh hồi lùng, đánh đòn tỉa, đánh đòn âm vào chỗ hiểm” gợi lên
cơn đau dồn dập, hành hạ người lái đò. Nhưng ông đò nén đau, giọng ông vẫn bình
tĩnh, tỉnh táo, sắc lạnh chỉ huy sáu bơi chèo còn lại vượt cửa tử vào cửa sinh.
Nếu đoạn văn thứ nhất, Nguyễn Tuân tập trung miêu tả thế trận một chiều từ sông Đà
thì ở đoạn văn tiếp theo nhà văn tập trung miêu tả thế trận của ông khách sông Đà ở sự
thông minh, linh hoạt và tài nghệ vượt thác dũng mãnh, phi thường. Chuyển từ thế
Văn mẫu lớp 12: Cảm nhận hình tượng người lái đò sông Đà trong cảnh vượt thác
trận phòng ngự, ông lái đò chuyển thế chủ động tấn công. Ở trùng vi thạch trận thứ hai
này, sông Đà tăng cường một “tập đoàn cửa tử” và cửa sinh bố trí lệch qua bờ hữu ngạn.
So với trùng vi một thì trùng vi này khó khăn hơn. Nhưng không vì thế mà ông đò nao
núng. Với kinh nghiệm mười năm chiến trường sông nước, người lái đò đã “nắm chắc
binh pháp của thần sông thần đá, ông đã thuộc quy luật phục kích của lũ đá”. Ông đò
cũng tự triết lý với mình “cưỡi lên thác sông Đà là cưỡi đến cùng như là cưỡi hổ”, vì
thế “không một phút nghỉ tay nghỉ mắt phải phá luôn vòng vây thứ hai và đổi luôn
chiến thuật”. Ở trận này ông đò đánh phủ đầu với kế hoạch đánh nhanh thắng nhanh.
Như một vận động viên đua ngựa, ông đò “nắm chắc được cái bờm sóng đúng luồng
rồi, ông đò ghì cương lái”, ông “phóng nhanh”, “lái miết”… tốc độ di chuyển mau lẹ.
Nhưng sông Đà cũng không phải dạng vừa. Chúng xô ra định níu chiếc thuyền vào tập
đoàn cửa tử. Ông đò đã cảnh giác sẵn nên “đứa thì ông tránh mà rảo bơi chèo”, “đứa
thì đè sấn lên chặt đôi ra để mở đường tiến”. Hàng loạt động từ được huy động như
một đội quân ngôn ngữ hùng hậu hò reo theo từng nhịp tiến của ông đò: “nắm, ghì,
phóng, lái, tránh, rảo, đè, chặt…”. Chính nhờ sự mưu trí và tài năng ấy ông đò vượt
qua hết các cửa tử. Một trùng vi với bao cửa tử, cửa sinh mà chỉ vài ngón đòn ông lái
đò đã đánh sập vòng vây của lũ đá, đồng thời làm cho bọn đá phải thua cuộc với bộ
mặt “tiu nghỉu, xanh lè thất vọng”. Qua đó để thấy người khách sông Đà quả thật là trí dũng song toàn.
Ở trùng vi thứ ba, sông Đà còn một cơ hội cuối để thử thách người lái đò. Trùng vi
này ít cửa hơn mà bên trái bên phải đều là luồng chết cả, luồng sống thì lại nằm ngay
giữa bọn đá hậu vệ. Có thể nói trận chiến này sông Đà đã dùng thế “trên đe dưới búa”
làm cho người lái đò phải đối mặt với thế “tiến thoái lưỡng nan” nhưng vào “cái khó
lại ló cái khôn” - ông lái đò đã biến chiếc thuyền sáu bơi chèo thành một mũi tên còn
ông giống như một cung thủ đã “phóng thẳng thuyền chọc thủng cửa giữa. Thuyền vút
qua cửa đá cánh mở, cánh khép, vút vút, cửa ngoài, cửa trong lại cửa trong cùng:
“Thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái
được, lượn được. Thế là hết thác”. Một loạt các động từ lại được Nguyễn Tuân huy
Văn mẫu lớp 12: Cảm nhận hình tượng người lái đò sông Đà trong cảnh vượt thác
động để miêu tả cách đánh của ông đò: “phóng, chọc thủng, xuyên qua, xuyên nhanh,
lái được, lượn được…” cho thấy sự thần tốc trong cách đánh và cách đánh nhanh
thắng nhanh đã giúp người lái đò vượt trùng vi đầy phi thường. Quả là “Đọc Người lái
đò sông Đà, ta có ấn tượng rõ rệt về sự tự do của một tài năng, của một đấng hóa công
thực sự trong nghệ thuật ngôn từ” (Phan Huy Đông). Nghệ thuật lái thuyền đến đây
khiến người đọc hoàn toàn tâm phục, khẩu phục. Đúng là ông lái đò đã đạt đến mức
nghệ sĩ trong nghề nghiệp của mình. Đoạn trích vì thế đã xây dựng được một “cảnh
tượng xưa nay chưa từng có”.
Ông lái đò là người lao động nhưng lại mang cốt cách của một tâm hồn nghệ sĩ. Trong
nghệ thuật vượt thác leo ghềnh ông là một con người phi thường, tài hoa. Một nghệ sĩ
có phong thái ung dung, nhàn nhã, khiêm tốn. Ông chính là hình tượng con người lao
động là biểu tượng cho trí dũng song toàn trong hành trình đi tìm cái đẹp của nhà văn.
Nguyễn Tuân đích thực là một nghệ sĩ tài hoa bậc thầy trong việc ngợi ca những con
người lao động trong gian lao nguy hiểm nhưng đầy vinh quang, điển hình là hình
tượng ông lái đò trong tùy bút “Người lái đò sông Đà” với nhiều nét đẹp và cả chất
nghệ sĩ trong nghề. Cuộc vượt thác của người khách sông Đà quả thật là phi thường,
xứng đáng là một trong những “cảnh tượng xưa nay chưa từng có”.
Hình tượng người lái đò sông đà qua 3 trùng vi thạch trận - Mẫu 10
Người lái đò hiện lên trước hết là một người lao động từng trải, có nhiều kinh nghiệm
đò giang, có lòng dũng cảm, gan dạ, mưu trí, nhanh nhẹn và cả sự quyết đoán nữa.
Nguyễn Tuân đưa nhân vật của mình vào ngày hoàn cảnh khốc liệt mà ở đó, tất cả
những phẩm chất ấy được bộc lộ, nếu không phải trả giá bằng chính mạng sống của mình - cảnh vượt thác.
Nhà văn gọi đây là cuộc chiến đấu gian lao của người lái đò trên chiến trường sông
Đà, trên một quãng thuỷ chiến ở mặt trận sông Đà. Đó chính là cuộc vượt thác đầy
nguy hiểm chết người, diễn ra nhiều hồi, nhiều đợt như một trận đánh mà đối phương
đã hiện ra diện mạo và tâm địa của kẻ thù số một:
Văn mẫu lớp 12: Cảm nhận hình tượng người lái đò sông Đà trong cảnh vượt thác
"Đá ở đây ngàn năm vẫn mai phục hết trong dòng sông, hình như mỗi lần có chiếc
thuyền nào xuất hiện ở quãng ầm ầm mà quạnh hiu này, mỗi lần có chiếc nào nhô vào
đường ngoặt sông là một số hòn bèn nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền. Mặt hòn đá nào
trông cũng ngỗ ngược, hòn nào cũng nhăn nhúm méo mó hơn cả cái mặt nước chỗ này
sông Đà đã giao việc cho mỗi hòn. Mới thấy rằng đây là nó bày thạch trận trên sông.
Đám tảng hòn chia làm ba hàng chặn ngang trên sông đòi ăn chết cái thuyền, một cái
thuyền đơn độc không còn biết lùi đi đâu để tránh một cuộc giáp lá cà có đá dàn trận địa sẵn..."
Trong thạch trận ấy, người lái đò hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng trận
địa phóng thẳng vào mình. Khi sông Đà tung ra miếng đòn hiểm độc nhất là nước bám
lấy thuyền như đô vật túm thắt lưng đặng lật ngửa mình ra giữa trận nước vang trời
thanh la não bạt, ông lão vẫn không hề nao núng, bình tĩnh, đầy mưu trí như một vị
chỉ huy, lái con thuyền vượt qua ghềnh thác. Ngay cả khi bị thương, người lái đò vẫn
cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt lấy cuống lái, mặt méo bệch như cái luồng
sóng đánh hồi lùng, đánh đòn tỉa, đánh đòn âm vào chỗ hiểm. "Phá xong cái trùng vi
thạch trận thứ nhất", người lái đò "phá luôn vòng vây thứ hai". Ông lái đò đã nắm
chắc binh pháp của thần sông thần đá. Đến vòng thứ ba, ít cửa hơn, bên phải bên trái
đều là luồng chết cả, nhưng người lái đã chủ động "tấn công": “Cứ phóng thẳng
thuyền, chọc thủng cửa giữa đó. Thuyền vút qua cổng đá cánh mở khép. Vút, vút, cửa
ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng, thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi
nước, vừa xuyên vừa tự động lái được lượn được”. Trong cuộc chiến không cân sức
ấy, người lái đò chỉ có một cán chèo, một con thuyền không có đường lùi còn dòng
sông dường như mang sức mạnh siêu nhiên của loài thuỷ quái. Tuy nhiên, kết cục cuối
cùng, người lái đò vẫn chiến thắng, khiến cho bọn đá tướng tiu nghỉu bộ mặt xanh lè
vì phải chịu thua một con thuyền nhỏ bé.
Người lái đò trong tác phẩm là một người lao động vô danh, làm lụng âm thầm, giản
dị, nhờ lao động mà chinh phục được dòng sông dữ, trở nên lớn lao, kì vĩ, trở thành
đại diện của con người. Người lao động nhờ ý chí kiên cường, bền bỉ, quyết tâm mà
chiến thắng sức mạnh thần thánh của thiên nhiên. Đó chính là yếu tố làm nên chất
vàng mười của nhân dân Tây Bắc.
Văn mẫu lớp 12: Cảm nhận hình tượng người lái đò sông Đà trong cảnh vượt thác
Nổi bật nhất, độc đáo nhất ở người lái đò sông Đà là phong thái của một nghệ sĩ tài
hoa. Khái niệm tài hoa, nghệ sĩ trong sáng tác của Nguyễn Tuân có nghĩa rộng, không
cứ là những người làm thơ, viết văn mà cả những người làm nghề chẳng mấy liên
quan tới nghệ thuật cũng được coi là nghệ sĩ, nếu việc làm của họ đạt đến trình độ tinh
vi và siêu phàm. Trong “Người lái đò sông Đà”, Nguyễn Tuân đã xây dựng một hình
tượng người lái đò nghệ sĩ mà nhà văn trân trọng gọi là tay lái ra hoa. Nghệ thuật ở
đây là nắm chắc các quy luật tất yếu của sông Đà và vì làm chủ được nó nên có tự do.
Quy luật ở trên con sông Đà là thứ quy luật khắc nghiệt. Một chút thiếu bình tĩnh,
thiếu chính xác, hay lỡ tay, quá đà đều phải trả giá bằng mạng sống. Mà ngay ở những
khúc sông không có thác lại dễ dại tay dại chân mà buồn ngủ. Chung quy lại, nơi nào
cũng hiểm nguy. Ông lão lái đò vừa thuộc dòng sông, thuộc quy luật của lũ đá nơi ải
nước hiểm trở này, vừa nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá. Vì thế, vào trận
mạc, ông thật khôn khéo, bình tĩnh như vị chỉ huy cầm quân tài ba. Mọi giác quan của
ông lão đều hoạt động trong sự phối hợp nhịp nhàng, chính xác. Xong trận, lúc nào
cũng ung dung, thanh thản như chưa từng vượt thác: “Sóng thác xèo xèo tan ra trong
trí nhớ. Sông nước lại thanh bình. Đêm ấy nhà đò đốt lửa trong hang đá, nướng ống
cơm lam và toàn bàn về cá anh vũ, cá dầm xanh, về những cái hầm cá hang ca mùa
khô nổ những tiếng to như mìn bộc phá rồi túa ra đầy tràn ruộng. Cũng chả thấy ai bàn
thêm một lời nào về cuộc chiến thắng vừa qua nơi ải nước đủ tướng dữ quân tợn vừa
rồi”. Như những nghệ sĩ chân chính, sau khi vắt kiệt sức mình để thai nghén nên tác
phẩm không mấy ai tự tán dương về công sức của mình. Nhà văn Nguyễn Tuân đưa ra
một lời nhận xét: “Cuộc sống của họ là ngày nào cũng chiến đấu với sông Đà dữ dội,
ngày nào cũng giành lấy sự sống từ tay những cái thác, nên nó cũng không có gì là hồi
hộp, đáng nhớ. Họ nghĩ thế, lúc ngừng chèo”.
Phải chăng người lái đò anh hùng có lẽ dễ thấy, nhưng nhìn người lái đò tài hoa, chỉ
có Nguyễn Tuân. Với cảnh vượt thác, ông lái đò hiện lên mang đầy đủ những vẻ đẹp trên.
Hình tượng người lái đò sông đà qua 3 trùng vi thạch trận - Mẫu 11
Văn mẫu lớp 12: Cảm nhận hình tượng người lái đò sông Đà trong cảnh vượt thác
Một tác phẩm văn học lớn, có giá trị sống mãi trong lòng người đọc thì tác phẩm đó
phải xây dựng được những nhân vật điển hình trong hoàn cảnh điển hình, hội tụ đầy
đủ tài năng và tâm huyết của người nghệ sĩ. Nhân vật ông lái đò trong tùy bút "Người
lái đò sông Đà" của Nguyễn Tuân là một nhân vật như thế.
Dưới ngòi bút thần kỳ của Nguyễn Tuân, bức tranh thiên nhiên sông Đà hiện lên vô
cùng hung bạo, trữ tình có vị trí quan trọng làm nên một tấm phông rất phù hợp để
hình tượng người lao động ở trên núi rừng Tây Bắc nổi lên với hai phẩm chất, đó là
chất anh hùng và chất nghệ sĩ mà tiêu biểu là ông lái đò rất gan dạ, dũng cảm gần hai
mươi năm chiến đấu với thác đá trong nước sông Đà để tồn tại. Tay lái của ông được
miêu tả là "tay lái ra hoa". Ông lái đò hiện lên trong những trang văn của Nguyễn
Tuân đầy ấn tượng với những nét về ngoại hình đúng là một con người của sông nước:
Ông gần bảy mươi tuổi nhưng rất chắc khỏe "thân hình gọn quánh như chất sừng, chất
mùn", "tiếng nói ào ào như sông nước". "hai tay dài lêu nghêu như cái sào lái đò", "hai
chân khuỳnh khuỳnh như đang kẹp chặt cái cuống lái trong tưởng tượng"... Chỉ vài nét
phác họa tài hoa mà nhà văn như chạm khắc hình tượng ông lái đò như là một anh
hùng trên sông nước, vĩnh viễn đọng lại vào trái tim bạn đọc để dự báo về nhân vật cả
cuộc đời gắn với nghề lái đò và mức độ tay nghề đã đạt đến mức nghệ sĩ.
Có lẽ bao tình cảm đam mê, yêu quý sông Đà của Nguyễn Tuân được gửi gắm vào
nhân vật ông lái đò, nên nhà văn đã để nhân vật của mình gắn bó với sông Đà đến
mức máu thịt, hiểu và yêu dòng sông đến mức thuộc lòng từng tên thác tên ghềnh hơn
một nghìn tên dù dễ hay khó đều hội tụ lắng đọng thành một dòng chảy trong trái tim
của ông lái đò hay chính là trái tim của Nguyễn Tuân. Ông thuộc dòng sông như thuộc
một "bản trường ca, thuộc đến từng dấu chấm dấu phẩy, dấu chấm than và từng đoạn
xuống dòng". "Ông lái đò đã nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá, ông đã thuộc
quy luật phục kích của lũ đá nơi ải nước". Chính vì thế mà ông lái đò đã khuất phục,
chế ngự được sự hung bạo của dòng sông Đà. Ông không phải thần thánh mà chỉ là
một người lao động bình thường bằng xương bằng thịt nhưng với trí dũng song toàn
nên ông vẫn chiến thắng thiên nhiên nghiệt ngã để tồn tại lao động sáng tạo trong
công cuộc xây dựng bảo vệ Tổ quốc.
Văn mẫu lớp 12: Cảm nhận hình tượng người lái đò sông Đà trong cảnh vượt thác
Tính cách của ông lái đò được cụ thể qua những cuộc giao tranh dữ dội với nước,
sóng, gió và đá qua ba thạch trận. Trước hết là trùng vi thạch trận thứ nhất, người đọc
đặc biệt ấn tượng với những câu văn tả đá được nhân hóa như một đội quân: "đá tảng,
đá hòn", "đá tiền vệ" đã bày ra thạch trận với năm cửa, có bốn cửa tử và một cửa sinh.
Bên cạnh đó, nhà văn sử dụng một loạt động từ trùng điệp để tô đậm sức mạnh của
đội quân đá: "mai phục", "nhổm cả dậy", "đứng ngồi nằm tùy theo sở thích", "ăn
chết", 'canh cửa", "hất hàm'... Cộng hưởng với những động từ là những tính từ làm nổi
bật tính hung bạo: "ngỗ ngược", "nhăn nhúm", "méo mó"... Tất cả làm nổi bật thế và
lực của đá sông vừa đông vừa mạnh hung tợn, ghê sợ tạo thành thế không cân sức với
ông lái đò chỉ có một mình đơn phương độc mã để gieo vào lòng người đọc bao phấp
phỏng, hồi hộp. Bên cạnh đá là nước, "phối hợp với đá, nước thác reo hò làm thanh
viện cho đá", tạo nên âm thanh dữ dội tăng thêm không khí chiến đấu ác liệt. Sóng
nước biết tung ra các đòn đánh nguy hiểm như đánh giáp lá cà, đánh khuýp quật vô
hồi, đá trái, thúc gối… Có thể nói Nguyễn Tuân đã rộng mở sự uyên bác tài hoa của
mình để kho ngôn từ phong phú sinh động đầy ắp trong mọi lĩnh vực của sự sống,
tuôn chảy không ngừng cả các ngôn ngữ quân sự thể thao, quân sự cũng được huy
động với tần số đậm đặc để cực tả đá nước sông Đà. Đây chính là nghệ thuật vẽ mây
đẩy trăng để gián tiếp ca ngợi chí dũng song toàn của ông lái đò. Ở chặng này, nhà
văn ca ngợi ông lái đò có sức chịu đựng phi thường "ông đò cố nén vết thương, hai
chân vẫn kẹp chặt cuống lái"... chỉ huy ngắn gọn kín đáo và ông đã chiến thắng "phá
song trùng vi thạch trận thứ nhất".
Ở trùng vi thạch trận thứ hai, đá nước sóng tăng thêm nhiều cửa tử "dòng thác hùm
beo đang hồng hộc tế mạnh", "bốn năm thủy quân không ngớt khiêu khích"... Những
động từ mạnh vẫn tiếp tục tuôn chảy không ngớt trên những trang văn cộng hưởng với
phép tu từ so sánh nhân hóa rất độc đáo giúp nhà văn biến sóng nước thành hùm
thiêng, sông nước tăng thêm sức mạnh đến đỉnh điểm của Đà giang để tiếp tục tôn lên
tư thế hào hùng của ông lái đò.
Ông lái đò "không chút nghỉ tay, nghỉ mắt phá luôn vòng vây thứ hai và đổi luôn
chiến thuật", "ông đò nắm chắc binh pháp của thần sông, thần đá, ông đã thuộc hết
quy luật phục kích của lũ đá" nên ông chủ động tự tin nhanh nhẹn làm chủ tình thế
Văn mẫu lớp 12: Cảm nhận hình tượng người lái đò sông Đà trong cảnh vượt thác
"cưỡi lên thác sông Đà như cưỡi hổ, nắm chặt bờm sóng, ghì cương lái, phóng nhanh,
chặt đôi thác để mở đường tiến". Những động từ mạnh liên tiếp lại như đưa người đọc
vào cuộc chiến của sóng nước tạo ra trạng thái say như say sóng, để từ đó tôn vinh lên
những nét đẹp của ông lái đò đó là mưu trí, dũng cảm, kiên cường.
Nếu ở cuộc giao tranh thứ nhất và thứ hai Nguyễn Tuân cực tả vẻ đẹp trí dũng song
toàn và phẩm chất anh hùng của ông lái đò thì ở chặng thứ ba này Nguyễn Tuân muốn
cho người đọc thấy tay lái ra hoa của ông lái đò. Nguyễn Tuân miêu tả "bên phải, bên
trái đều là luồng chết" khiến ông lái đò phải vận dụng tài năng nghề nghiệp của mình,
nâng thuyền của mình lên mặt nước như nghệ sĩ lái mô tô bay trong không trung để
"xuyên qua mặt nước"... những động từ mạnh "vút" hay "xuyên" lặp đi lặp lại nhấn
mạnh tốc độ lái thuyền nhanh mạnh, cộng với nhiều phép so sánh liên tiếp khiến
người đọc vừa cảm nhận được độ nhanh mạnh vừa cảm nhận được độ khéo léo của
con thuyền trong hướng đi luồn lách tránh đội quân đá đông đúc. Nghệ thuật lái
thuyền đến đây khiến người đọc hoàn toàn tâm phục, khẩu phục. Đúng là ông lái đò
đã đạt đến mức nghệ sĩ trong nghề nghiệp của mình.
Nguyễn Tuân đích thực là một nghệ sĩ tài hoa bậc thầy trong việc ngợi ca những con
người lao động trong gian lao nguy hiểm nhưng đầy vinh quang, điển hình là hình
tượng ông lái đò trong tùy bút "Người lái đò sông Đà" với nhiều nét đẹp và cả chất nghệ sĩ trong nghề.
Hình tượng người lái đò sông đà qua 3 trùng vi thạch trận - Mẫu 12
Tố Hữu đã từng viết:
"Chín năm làm một Điện Biên
Nên vành hoa đỏ, nên thiên sử vàng"
Sau cuộc chiến thắng Điện Biên lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu với hiệp định
Giơ-ne-vơ được ký kết, miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội. Theo lời kêu gọi của
Đảng, miền Bắc dấy lên phong trào tình nguyện, đến những vùng xa xôi của Tổ quốc
để khôi phục kinh tế, để hàn gắn vết thương chiến tranh. Họ trở lại nhiều hơn cả
Văn mẫu lớp 12: Cảm nhận hình tượng người lái đò sông Đà trong cảnh vượt thác
những nơi xưa vốn là chiến trường. Tây Bắc được xem là một miền đất hứa. Hàng loạt
con người mới của xã hội chủ nghĩa nô nức đến miền Tây của Tổ quốc. Họ ra đi đầy
ắp tiếng hát, đầy sông đầy cầu. Sự thật cuộc sống bước vào văn chương như một quy
luật tất yếu bởi nhà văn là thư kí trung thành của thời đại. Nếu Nguyễn Khải có tập
truyện "Mùa lạc", Nguyễn Huy Tưởng có tác phẩm "Bốn năm sau", Chế Lan Viên có
"Tiếng hát con tàu" thì Nguyễn Tuân có tập tùy bút "Sông Đà" gồm mười lăm bài kí
sáng tác năm 1958 - 1960 khi nhà văn đi thực tế trên mảnh đất Tây Bắc. Linh hồn của
tập tùy bút là bài kí "Người lái đò sông Đà". Thành công của Nguyễn Tuân trong tác
phẩm này là xây dựng được hình tượng Người lái đò sông Đà tiêu biểu cho vẻ đẹp của
con người mới xã hội chủ nghĩa. Điều đó được thể hiện qua cảnh vượt thác của ông lái đò.
Thác đá sông Đà được Nguyễn Tuân miêu tả: “Hùng vĩ của Sông Đà không phải chỉ
có thác đá. Mà nó còn là những cảnh đá bờ sông, dựng vách thành, mặt sông chỗ ấy
chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời”. Quả vậy, trong vòng thứ nhất, con sông Đà bố trí
chiến trận với “bốn cửa tử, một cửa sinh”. Nhà văn còn miêu tả: “Mặt hòn đá nào
trông cũng “ngỗ ngược, hòn nào cũng nhăn nhúm méo mó”. Đối chọi với thác đá là
“thạch trận dàn bày vừa xong thì cũng là lúc con thuyền vụt tới”. Câu văn đã cho thấy
được một tâm thế sẵn sàng đương đầu với chiến trận của ông lái đò. Nhưng thác đá
sông Đà rất khôn ngoan, nó không đánh trên mặt trận giáp lá cà mà còn đánh bằng cả
nghệ thuật tâm lý chiến. Trước đó chúng đã dùng âm thanh của thác khiêu khích
“giọng gằn mà chế nhạo”. Còn giờ đây chúng lại nhờ “nước thác làm thanh viện cho
đá”. Với bản tính hung hãn như một loài thủy quái, sông Đà đã đánh phủ đầu người lái
đò với những đòn thế vô cùng hiểm hóc: “Dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế mạnh
trên sông đá”. Sông Đà cậy thế quân đông tướng mạnh nên đã “ùa vào mà bẻ gãy cán
chèo”, “liều mạng vào sát nách mà đá trái”, “thúc gối vào bụng và hông thuyền”, có
lúc chúng “đội cả thuyền lên”. Bị tấn công nhưng ông lái đò không hề nao núng hay
hoảng sợ. Ông đã đề ra chiến thuật phòng ngự để giữ sức cho vòng đấu tiếp theo.
Chính vì vậy “ông đò hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng”; lúc này sông Đà
lại chuyển thế bám lấy thuyền và sử dụng đòn vật “túm lấy thắt lưng ông lái đò đòi lật
ngửa mình ra”. Không để cho ông đò có cơ hội xoay xở, sông Đà lại chuyển thể đánh
Văn mẫu lớp 12: Cảm nhận hình tượng người lái đò sông Đà trong cảnh vượt thác
miếng đòn hiểm độc nhất “cả cái luồng nước vô sở bất chí ấy bóp chặt lấy hạ bộ người
lái đò”. Dính phải miếng đòn hiểm, mắt ông hoa lên, còn “mặt méo bệch đi”. Nhưng
ông lái đò vẫn nén đau, giọng ông vẫn bình tĩnh, tỉnh táo, sắc lạnh chỉ huy sáu bơi
chèo còn lại vượt cửa tử vào cửa sinh.
Ở vòng vây thứ hai, sông Đà tăng thêm nhiều cửa tử hơn, “bố trí cửa sinh lệch về phía
hữu ngạn” nhằm lừa con thuyền rơi vào cửa tử. Nguyễn Tuân còn phải bình luận về
chiến trận lúc bấy giờ: “Cưỡi lên thác Sông Đà, phải cưỡi đến cùng như là cưỡi hổ”.
Đối diện với thế trận mới, ông lái đò không tỏ ra nao núng. Người lái đò với kinh
nghiệm hơn mười năm vượt thác tràn đầy tự tin. “Ông lái đã nắm chắc binh pháp của
thần sông thần đá. Ông đã thuộc quy luật phục kích của lũ đá nơi ải nước hiểm trở
này”. Như một vị huấn luyện viên giàu kinh nghiệm, ở trận này ông lái đò quyết định
đánh phủ đầu với kế hoạch đánh nhanh thắng nhanh. Ông “nắm chắc được cái bờm
sóng đúng luồng rồi, ông đò ghì cương lái”, ông “phóng nhanh”, “lái miết”… tốc độ
di chuyển mau lẹ. Nhưng đúng là một đối thủ đáng gờm, con sông Đà đáp trả chẳng
hề thua kém. “Bốn năm bọn thuỷ quân cửa ải nước bên bờ trái liền xô ra cảnh níu
thuyền lôi vào tập đoàn cửa tử”. Vẫn còn nhớ mặt kẻ thù quen thuộc, ông lái đò “tránh
mà rảo bơi chèo lên, đứa thì ông đè sấn lên mà chặt đôi ra để mở đường tiến”. Cuối
cùng, những cửa tử đã bị bỏ lại hết phía sau, chỉ nghe thấy tiếng thác đá không ngừng khiêu khích.
Đến vòng trận cuối cùng, con sông Đà tung ra đòn quyết định. Ở vòng này ít cửa hơn
nhưng bên trái bên phải đều là luồng chết cả, luồng sống thì lại nằm ngay giữa bọn đá
hậu vệ. Có thể nói trận chiến này sông Đà đã dùng thế “trên đe dưới búa” làm cho
người lái đò phải đối mặt với thế “tiến thoái lưỡng nan”. Dù vậy, vị thuyền trưởng ấy
vẫn vững vàng chỉ huy sáu bơi “phóng thẳng thuyền chọc thủng cửa giữa”, chọc thủng
hàng phòng ngự của quân địch. Lúc này đây con thuyền “như một mũi tên tre xuyên
nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái được, lượn được. Thế là hết thác”. Kết
thúc trận thủy chiến với phần thắng nghiêng về ông lái đò. Khi đọc đến người đọc như
được thở phào nhẹ nhõm vì chiến thắng của người lái đò sông Đà.
Văn mẫu lớp 12: Cảm nhận hình tượng người lái đò sông Đà trong cảnh vượt thác
Để có thể khắc họa một cách sinh động cảnh vượt thác của Nguyễn Tuân đã sử dụng
tài năng của một bậc thầy ngôn từ với việc kết hợp những từ ngữ chuyên môn thuộc
nhiều lĩnh vực khác nhau: văn chương, thể thao, quân sự, võ thuật… Cùng với đó là
việc sử dụng nhiều động từ mạnh để miêu tả sự hung bạo của con sông cũng như tài năng của ông lái đò.
Có thể khẳng định rằng bài kí "Người lái đò sông Đà" đã bộc lộ toàn bộ sở trường,
phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân. Người ta yêu Nguyễn Tuân vì Nguyễn Tuân
rất có tài. Người ta trọng Nguyễn Tuân vì ông là một người nghệ sĩ của cái đẹp, người
nghệ sĩ của hai chữ "thiên lương" trong sáng. Nguyễn Tuân thực sự là một tài năng
lớn, là một nhân cách lớn mà như Nguyễn Minh Châu đã nói: "Nguyễn Tuân là một
định nghĩa về người nghệ sĩ".
Hình tượng người lái đò sông đà qua 3 trùng vi thạch trận - Mẫu 13
Nguyễn Tuân nổi tiếng trong đời và trên văn đàn trước hết như một con người của chủ
nghĩa “xê dịch” và ưa viết về những chuyện “xê dịch”. Những cái gì gây nên cảm giác
mạnh là nguồn sống của văn ông. Ông đến với sông Đà như đến với một người bạn
tương đắc. Sự dữ dội, mãnh liệt và thơ mộng tuyệt vời của nó thu hút ông hết sức
mạnh mẽ. Không phải ngẫu nhiên mà ông dốc toàn bộ tài hoa ngôn ngữ của mình ra
để tái hiện nó và làm truyền lan đến người đọc niềm thán phục, ngưỡng mộ sâu sắc
đối với sông Đà và người lái đò sông Đà (cũng là cảnh và người Việt Nam rất đỗi đáng yêu, đáng quý).
“Người lái đò Sông Đà” là tác phẩm xuất sắc nhất được trích trong tập tùy bút “Sông
Đà (1960). Nó để lại dấu ấn sâu sắc về một con sông vùng Tây Bắc hung bạo, trữ tình,
nhưng trước hết, điều ám ảnh nhất vẫn là hình tượng người lái đò “một tay lái ra hoa”,
một chiến binh đẹp như truyền thuyết hiên ngang trên thác dữ.
Đi vào thế giới đời thường để tìm đề tài, nhưng Nguyễn Tuân thường hướng ngòi bút
của mình chạm đến những cái dị biệt độc đáo. Cái mà ông đã cảm nhận và viết thành
văn là những cái rất đỗi bình thường nhưng đồng thời lại rực rỡ và sáng chói cực đỉnh,
một sự phi thường giữa cuộc sống tường như không thể có những sự kiện, những địa
Văn mẫu lớp 12: Cảm nhận hình tượng người lái đò sông Đà trong cảnh vượt thác
danh, nhũng nhân vật... như vậy. Có thể dễ dàng nhận thấy điều này trong thế giới
nhân vật mà Nguyễn Tuân đã sáng tạo. Đó là một cụ Kép, lông mày bạc, tóc bạc, râu
bạc, thấp thoáng giữa vườn lan “nguyện đem cái quãng đời xế chiều của một nhà nho
để phụng sự hoa thơm cỏ quý” (Hương Cuội). Một cụ ông, triết nhân ngồi tính bước
đi của thời gian, và “nhận thấy có một mùi thơm và một vị triết lý” trong hương thơm
của một chén trà (Chén trà sương). Rồi khi đọc “Chữ người tử tù” với người hùng
Huấn Cao, viết thư pháp trong ánh đuốc bừng sáng trong ngục tối, mang “những cái
hoài bão tung hoành của một đời con người”... giữa đêm giao thời của sự sống và chết.
Trung thành với quan niệm sáng tạo, với mô típ riêng của mình như vậy, Nguyễn
Tuân trong một chuyến đi thực tế tại vùng sông Đà Tây Bắc, nhãn quan ông đã bắt
gặp được mẫu hình và hồn văn ông đã tìm được tiếng rung khi diện kiến một người lái
đò người Thái (Tây Bắc) và cuộc mưu sinh của ông. Và từ đây, bút văn của Nguyễn
Tuân đã xây dựng được hình tượng người lái đò sông Đà ẩn chứa tính cách vừa dữ dội
của một chiến binh chinh phục thiên nhiên hung dữ, vừa là con người cực kì tài hoa mang cốt cách nghệ sĩ.
Dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân, người lái đò hùng dũng, oai phong như chạm khắc
trên nền hình ảnh sông Đà réo sóng hung dữ bạo liệt. Dường như nhà văn không bỏ
sót một chi tiết nào cần miêu tả về nhân vật chính của mình. Mỗi chi tiết đều gợi được
sự liên tưởng về cái phi thường hiện ra sừng sững thuyết phục. Bước vào “cái tuổi bảy
mươi”, “đầu tóc bạc trắng”, “thân hình ông lái đò vẫn đẹp như một pho tượng tạc bằng
đá cẩm thạch”. Nước da ánh lên chất sừng chất mun. Cánh tay rắn chắc trẻ tráng “Tay
ông lêu nghêu như cái sào, chân ông lúc nào cũng khuỳnh khuỳnh như kẹp lấy một
cuống lái tưởng tượng”. Cặp mắt tinh anh, nhãn lực nhìn xa vời vợi. Ngoại hình của
người lái đò còn được miêu tả gắn với những dấu tích trên thân thể và mỗi dấu tích là
một thành tích, một sự kiện lịch sử của cuộc đời ông lão đã thầm lặng lập lên. Trên
ngực của ông nổi lên một số “củ nâu” thương tích trên “chiến trường Sông Đà” một
thứ “huân chương lao động siêu hạng”. Khó có thể trộn lẫn nhân vật được miêu tả này
với những người bảy mươi tuổi khác, làm nghề nghiệp khác. Một ngoại hình gắn với
sức lực phi thường với cuộc sống chèo đò vượt thác đã thấm vào trong máu thịt và thể
Văn mẫu lớp 12: Cảm nhận hình tượng người lái đò sông Đà trong cảnh vượt thác
hiện ra trong từng động tác ngay khi cuộc sống đang diễn ra bình thường, ông lái đò là
hình ảnh một người lao động mà sông nước đã in dấu vào trong từng chi tiết ngoại
hình. Điều quan trọng là thông qua cách miêu tả này nhà văn đã ngầm gửi một thông
điệp tới người đọc là nhân vật của ông mang sự khác thường ở chỗ nó không chỉ ở
ngoại hình mà còn ở ý chí, nghị lực hướng tới, mà ở đây tuổi tác không làm mất đi sức
sống mạnh mẽ và lòng yêu mến gắn bó với công việc.
Sau hơn mười năm chèo đò và chỉ huy một con thuyền có sáu mái chèo đã ngược xuôi
sông Đà trăm chuyến, chở da trâu, xương hổ. chè, cánh kiến về xuôi, ông nắm vững
từng con thác, cái ghềnh. Chính quãng thời gian thử thách, đối mặt với thiên nhiên và
sinh tử ấy đã tạo thành tri thức và tính cách trong ông lão: trí nhớ ông được rèn luyện
cao độ bằng cách lấy mắt mà nhớ tỉ mỉ như đóng đanh vào lòng tất cả những luồng
nước của tất cả những con thác hiểm trở. sông Đà, đối với ông lái đò ấy, như một
trường thiên anh hùng ca mà ông đã thuộc đến của những cái chấm than chấm câu và
những đoạn xuống dòng. Nhờ có tri thức ấy mà ông lão đã chiến thắng sự hung dữ của
sông Đà và trong âm vang “chiến trận” ấy người lái đò lại trở thành vị tướng đối mặt
với hung dữ và chiến thắng nó bằng những mẹo mực rất “nhà binh”; ông lái đã nắm
chắc được binh pháp của thần sông, thần đá. Ông đã thuộc quy luật phục kích của lũ
đá. Sự rèn luyện lao khổ và vượt gian nan đã biến người lái đò thành con người có kĩ
năng kĩ xảo lao động tuyệt hảo tới mức tác giả ngợi ca như nghệ sĩ điêu luyện với “tay
lái ra hoa” đã từng vượt qua bao trùng vây thạch trận, giao phong sinh từ với “lũ đá
nơi ải nước”. Và những dòng văn của Nguyễn Tuân đã khắc họa thật sinh động hình
ảnh của một con người gắn bó với lao động, yêu nghề sông nước, từng trải và giàu kinh nghiệm.
Cái hay của những tình tiết miêu tả là tái hiện được ông lão lái đò và dòng sông dữ thô
ráp thành tràn đầy chất nghệ sĩ trong trường thiên anh hùng ca chiến trận sông nước
thiên nhiên. Rõ ràng, yếu tố hiện thực đã được nghệ sĩ hóa tràn đầy chất thơ kiêu
dũng. Và chính vì vậy tạo ra sức hút cho người đọc và sự khác biệt của Nguyễn Tuân.
Cuộc sống của người lái đò sông Đà là một cuộc chiến đấu giành giật sự sống từ tay tử
thần rình rập nơi những con thác luôn ẩn tàng nồi hiểm nguy, vẻ đẹp dữ dội này trong
Văn mẫu lớp 12: Cảm nhận hình tượng người lái đò sông Đà trong cảnh vượt thác
phẩm chất người lái đò. được nhà văn tập trung bút lực miêu tả qua những tình tiết
vượt thác. Thông qua những tình tiết này, Nguyễn Tuân đã dựng lên hình ảnh tài hoa
nghệ sĩ chan hòa xuyên thấm vào với vẻ đẹp kiêu hùng của hình ảnh chiến sĩ. Vẻ đẹp
tài hoa nghệ sĩ của ông lái đò gắn sự tài ba dũng mãnh của một vị thuyền trưởng dày
dạn kinh nghiệm thủy chiến. Và đồng thời song hành với bản lĩnh chiến đấu, tinh thần
dũng cảm phi thường. Xuôi theo dòng văn, người đọc cảm nhận rất rõ nét hình ảnh
người lái đò lúc nào cũng ngạo nghễ vươn lên trên cái nền thiên nhiên hung dữ ghê
rợn. Thiên nhiên ác hiểm cố nhấn chìm số phận của con người, dập vùi họ đây họ đến
chỗ chết, nhưng con người luôn quật cường và chiến thắng không chỉ bằng cơ bắp mà
bằng cả trí tuệ bằng tình yêu công việc, nhờ đó hình ảnh được khắc họa trở lên tỏa sáng, sừng sững.
Ở trùng vây thứ nhất, bọn đá sông mở ra năm cửa trận hình đánh lừa con thuyền, có
bốn cửa tử và một cửa sinh, cửa sinh lại nằm lập lờ ở phía tả ngạn. Ông lái đò xung
trận với khí thế nghênh chiến quyết thắng: “Thạch trận dàn bày vừa xong thì cái
thuyền vụt tới”. Cảnh hỗn chiến ác liệt diễn ra. Những hòn đá “bệ vệ oai phong lẫm
liệt” được nước thác “reo hò làm thanh viện” chúng liều mạng xông vào mà “đá trái”
mà “thúc gối vào bụng và hông thuyền... Có lúc chúng đội cả thuyền lên”. Lúc này
ông lái đò ở tư thế bị động, đối mặt với thiên nhiên. Tuy bị động nhưng cũng rất hiên
ngang như một tướng soái. Nguy hiểm là vậy nhưng ông lái đò vẫn bình tĩnh “hai tay
giữ mái chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng”. Ngay cả lúc bị con thủy quái này đánh miếng
đòn hiểm nhất “bóp chặt lấy hạ bộ người lái đò”. Đối phương tung ra liên tiếp những
binh chủng nước, mặt sóng sôi sùng sục như có lừa châm vào đầu sóng. Ông đò cố
nén vết thương “hai chân vần kẹp lấy cuống lái” dù mặt méo bệch đi vì đau đớn
nhưng tiếng chỉ huy của ông vẫn sắc lạnh, tỉnh táo, đưa con thuyền thoát khỏi nguy
hiểm và tiến nhanh vào vòng vây thứ hai. Ở vòng vây thứ nhất, một con thuyền rất
mong manh trước một đổi phương đông đảo, ranh ma. Tuy bị động nhưng ông đò đã
chiến thắng bằng sự bình tĩnh, khôn ngoan và mưu trí.
Không một phút nghỉ tay nghỉ mắt, ông lái đã phải phá luôn vòng vây thứ hai và đổi
luôn chiến thuật. Bọn đá sông mở ra thêm nhiều cứa trận vô cùng hiểm trở, bổ trí
nhiều cửa tử hơn và chỉ có một cửa sinh nhưng nằm lập lờ phía hữu ngạn: “Dòng thác
Văn mẫu lớp 12: Cảm nhận hình tượng người lái đò sông Đà trong cảnh vượt thác
hùm beo đang hồng hộc tế mạnh trên sông đá”. Trên sông đá sông Đà đã thay đổi
chiến thuật, không phải là tư thế của đô vật nữa mà là tư thế của hùm beo vồ mồi, một
tư thế hiểm độc của thú dữ. Ông lái đò bắt đầu cuộc tấn công bằng cách “nắm chặt
được cái bờm sóng đúng luồng rồi” ông cho con thuyền “phóng nhanh vào cửa sinh
mà lái miết một đường chéo về phía cửa đá ấy”. Ông đò đã chuyển từ tư thế bị động
sang chủ động. Nếu dòng thác là hùm beo thì ông lái đò đã có được tư thế của “Võ
Tòng đả hổ, cưỡi lên thác sông Đà phải cưỡi đến cùng như là cưỡi hổ”. Đây là một tư
thế đứng trên đầu kẻ thù. vẫn chưa chịu thua, “bọn thủy quân cửa ải nước bên bờ trái
liền xô ra định lôi con thuyền vào tập đoàn cửa tử”, ông đò nhớ mặt bọn này nên đứa
thì “ông tránh mà rảo bơi chèo lên”, đứa thì bị ông “đè sấn lên mà chặt đôi ra để mở
đường tiến”. Cuối cùng ông thắng còn bọn đá tướng thất bại thảm hại đưa cái mặt “tiu
nghỉu, xanh lè thất vọng”. Một dãy dài những động từ, tính từ được Nguyễn Tuân sử
dụng để tả tư thế chiến thắng của ông đò: “rảo bơi chèo”, “đè sấn lên”, “chặt đôi ra”...
Những từ ngữ ấy đã thể hiện được phẩm chất chiến sĩ của người lái đò trên chiến
trường sông Đà. Ở vòng vây thứ hai, ông đò đã chiến thắng bằng sự mưu trí. dũng
cảm, sự am hiểu tường tận về con sông.
Trùng vây thứ ba là một không gian của trận địa để nhằm tiêu diệt đối phương: bên
phải bên trái đều là “luồng chết cả”, cái luồng sống nằm ở giữa ngay con thác. Bên
cạnh đó là cách thức bố phòng tấn công như trong chiến trận: “bọn đá hậu vệ” canh
cửa hòng “bắt chết” cái thuyền. Trên cái phông nền chiến trận cẩn mật và đầy thách
thức ấy, ông lái đò hiện lên như vị tướng cầm quân với chiến thuật tài ba. ông mưu trí
phóng thăng con thuyền, chọc thủng cửa giữa đỏ. Thuyền vút qua công đá cánh mở’
cánh khép. Vút, vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cừa trong cùng. Chiếc thuyền như một
mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái được, lượn được.
Dường như tác giả tập trung cao độ bút lực vào đoạn văn này. Những ẩn dụ, so sánh,
nhân hóa được tác giả sử dụng sáng tạo gợi lên cảm giác mãnh liệt đầy ấn tượng. Lối
ngắt nhịp gãy vụn ra đã diễn tả tình thế gay go, quyết liệt và khẩn trương. Để tả tốc độ
thuyền lao đi, tác giả không dùng từ “vươn” mà dùng từ "vút”, lặp lại nhiều lần, kết
hợp với hình ảnh so sánh: “thuyền như một mũi tên tre” để diễn tả tốc độ cực lớn của
chiếc thuyền. Từ “tự động”, đã biểu đạt khá chính xác sức phản ứng linh hoạt, nhạy
Văn mẫu lớp 12: Cảm nhận hình tượng người lái đò sông Đà trong cảnh vượt thác
bén, điêu luyện của ông đò. Nguyễn Tuân đã tung ra một đội quân ngôn ngữ thật hùng
hậu, đa dạng, biến ảo thần kỳ với liên tục những phép tu từ vô cùng sinh động: so sánh
ngầm, nhân hóa, cường điệu... Câu chữ tuôn chảy ào ạt, điệp điệp trùng trùng tạo ra
một bức tranh chiến trận hoành tráng về không gian, ấn tượng về hình ảnh hiểm nguy,
gay cấn về tình huống... Kết hợp với phong cách sử dụng nhiều loại hình nghệ thuật,
trong đoạn viết này Nguyễn Tuân đã cho ta thấy cách viết của ông như kịch bản phim
và qua bàn tay đạo diễn, nó tạo ra sự sống động hồi hộp âu lo, thán phục... với biết bao
cảm xúc nảy nở trong lòng người đọc. Ở vòng vây này, ông đò đã chiến thắng không
chỉ bằng sự mưu trí, dũng cảm mà hơn thế bằng tay lái điêu luyện thành thục “tay lái
ra hoa”. Con thuyền lướt nhanh trên đầu sóng, sóng của Sông Đà và sóng của ngôn
ngữ Nguyễn Tuân. Cảnh vượt thác là bài ca chiến trận hào hùng, hình ảnh bừng sáng:
ông lái đò oai phong lẫm liệt như một vị danh tướng, trí dũng song toàn, quyết liệt và
quyết đoán, uyển chuyển linh hoạt như một nghệ sĩ xử lý tình huống với trái tim khát
khao chinh phục... đã lập thành hào quang chiến thắng.
Đối với người lái đò, hiểm nguy trên dòng sông cũng chính là một phần trong cuộc
sống thường nhật của ông, được ông chấp nhận như một tất yếu; tác giả đã làm cho
hình ảnh người lái đò lấp lánh hơn, giàu chất nghệ sĩ hơn từ công việc đối mặt với
hiểm nguy đã trở thành bình thường. Khi vượt qua gian nguy, sóng nước lại tan xèo
xèo trong trí nhớ sông nước lại thanh bình. Đêm ấy nhà đò đốt lửa trong hang đá,
nướng ống cơm lam, và toàn bàn về cá anh vũ cá dầm xanh... Cũng chẳng thấy ai bàn
thêm một lời nào về cuộc chiến thẳng vừa qua. Giọng văn thanh thoát, nhẹ nhàng ta
lại thấm thía thêm vẻ đẹp của người lái đò Sông Đà. Họ anh hùng biết bao trong lao
động nhưng cũng thật khiêm nhường, bình dị biết bao trong cuộc sống đời thường.
Chất trữ tình bên lửa cháy và có cả những câu chuyện đời thường ở quá khứ ở phía
trước nhưng tuyệt nhiên không có hồi ức về hiểm nguy mà tất cả đều lãng mạn ngọt
ngào. Điều ấy như một thứ khí chất, một tính cách cấu thành con người ông lái đò. Nó
khác biệt với người bình thường mỗi khi đối mặt nguy hiểm vẫn phải toan tính âu lo;
và khi vượt qua rồi vẫn cảm thấy bất an vẫn hồi hộp mỗi khi nhớ về. Cái phi thường
trở thành cái bình thường, chất chiến sĩ hòa quyện với phong thái tài tử nghệ sĩ. Từ đó
mà tôn cao thêm tầm vóc của người lao động. Và tụ lại trong con người ông lái đò một
Văn mẫu lớp 12: Cảm nhận hình tượng người lái đò sông Đà trong cảnh vượt thác
phẩm chất kép: phong thái nghệ sĩ và tính cách người anh hùng sông nước. Con người
mà trái tim nghệ sĩ đập thầm lặng nhưng mạnh mẽ trong cơ thể thép, ý chí thép.
Văn chương phản ánh cuộc sống bằng hình tượng. Đặc điểm cơ bản của hình tượng
văn chương là sự thống nhất giữa tính cá biệt, cụ thể và khái quát. Và vì điển hình là
khái niệm xác định chất lượng hình tượng, cho nên một hình tượng văn chương có
tính khái quát cao và tính cụ thể đến mức độc đáo thỉ hình tượng trong đó trở thành
điển hình. Soi chiếu vào thực tiễn qua Người lái đò Sông Đà người đọc có thể đánh
giá Nguyễn Tuân đã xây dựng thành công một hình tượng điển hình.
Người lái đò trước hết đã thể hiện cái “cá biệt” rất rõ nét, đó là một con người cụ thể
làm nghề lái đò chuyên vượt thác sông Đà ở Lai Châu. Hành động của nhân vật trong
không gian, thời gian xác định với những hành động suy nghĩ rất riêng không trộn lẫn.
Tuy nhiên, bối cảnh viết truyện vào năm 1958, xu thế văn học hiện thực xã hội chủ
nghĩa giai đoạn này đang tập trung vào chủ đề xây dựng cuộc sống mới và con người
mới. Ngòi bút văn chương của Nguyễn Tuân đã rất tinh tế khi xây dựng được một
điển hình về con người mới âm thầm tồn tại lao động chống lại thiên nhiên hung dữ
mưu sinh và tô đẹp cuộc sống. Chính vậy, hình ảnh ông lái đò đã mang tính phổ quát
(đặc điểm thứ hai của hình tượng), để trở thành hình tượng điển hình. Người lái đò
Sông Đà của Nguyễn Tuân là con người vô danh, nhưng ông thực sự đáng tôn vinh, vì
có những phẩm chất của con người lao động chân chính. Và vẻ đẹp của con người lao
động, con người vô danh được coi là khám phá của Nguyễn Tuân khi viết về cuộc
sống mới, con người mới. Qua hình tượng nhân vật trong tác phẩm có thể hình dung
trên các miền đất thiên nhiên hung dữ có hàng nghìn hàng vạn những con người quả
cảm và nghệ sĩ như người lái đò dòng sông cuối trời Tây Bắc họ có mặt sống và chiến
đấu trên khắp mọi vùng đất Tổ quốc Việt Nam.
Sáng tạo hình tượng người lái đò, Nguyễn Tuân đã thể hiện thái độ yêu mến, tự hào và
cảm phục trước những con người lao động bình dị nhưng tiềm ẩn “chất vàng mười”
quý giá của Tổ quốc và vùng Tây Bắc. Cũng bằng hình tượng nhân vật người lái đò,
Nguyễn Tuân đã mang đến thông điệp: chủ nghĩa anh hùng đâu phải tìm kiếm đâu xa,
nó có ngay trong cuộc sống đời thường ở những vùng khuất lấp.
Văn mẫu lớp 12: Cảm nhận hình tượng người lái đò sông Đà trong cảnh vượt thác
Hình tượng người lái đò sông đà qua 3 trùng vi thạch trận - Mẫu 14
“Nguyễn Tuân là người suốt đời đi tìm cái thật và cái đẹp” ( Nguyễn Đình Thi). Quả
thật, khi đọc tác phẩm “Người lái đò sông Đà”, người đọc sẽ cảm nhận được điều đó
qua hình ảnh ông lái đò - một người lao động bình thường nơi vùng cao Tây Bắc
nhưng lại được Nguyễn Tuân xây dựng trở thành một người nghệ sĩ trong nghề nghiệp
của mình. Đặc biệt nhất là hình ảnh ông lái đò trong cảnh vượt thác - một cảnh tượng có một không hai.
Đầu tiên, hình ảnh ông lái đò được nhà văn xây dựng về ngoại hình. Ông lái đò năm
nay, tuổi ngoài bảy mươi nhưng thân hình rắn chắc như một bức tượng cẩm thạch:
ngực ông đầy những củ nâu - thương tích của những lần vượt thác mà Nguyễn Tuân
gọi đó là “huân chương lao động siêu hạng”. “Tay ông lêu nghêu như cái sào, chân
ông khuỳnh khuỳnh; nhỡn giới ông cao vời vợi, giọng ông ồ ồ như tiếng thác trước
ghềnh”. Ngoại hình của một ông lái đò hiện lên như một một bậc tráng sĩ thuở xưa.
Nhưng đặc biệt nhất là những đoạn văn miêu tả cảnh vượt thác của ông lái đò. Không
khí chiến trận đã xuất hiện ngay từ câu văn mở đầu: “Tiếng nước thác nghe như là oán
trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo. Thế
rồi nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng
tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy
bùng bùng…”. Ở vòng thứ nhất, con sông Đà bố trí thạch trận với “bốn cửa tử, một
cửa sinh”. Mặt hòn đá nào trông cũng “ngỗ ngược, hòn nào cũng nhăn nhúm méo
mó”. Dòng sông Đà hung bạo đang bày binh bố trận, sẵn sàng tiêu diệt người lái đò.
Nhưng khi “thạch trận dàn bày vừa xong thì cũng là lúc con thuyền vụt tới”. Câu văn
đã cho thấy được một tâm thế chủ động, sẵn sàng đương đầu với chiến trận của ông lái
đò. Ông lái đò đối mặt với trận thủy chiến nhưng không hề sợ hãi, mà tràn đầy sự tự
tin của một người có kinh nghiệm. Nhưng thác đá sông Đà rất khôn ngoan, nó không
đánh trên mặt trận giáp lá cà mà còn đánh bằng cả nghệ thuật tâm lý chiến. Trước đó
chúng đã dùng âm thanh của thác khiêu khích “giọng gằn mà chế nhạo”. Còn giờ đây
chúng lại nhờ “nước thác làm thanh viện cho đá”. Với bản tính hung hãn như một loài
thủy quái, sông Đà đã đánh phủ đầu người lái đò với những đòn thế vô cùng hiểm hóc.
Văn mẫu lớp 12: Cảm nhận hình tượng người lái đò sông Đà trong cảnh vượt thác
Sông Đà cậy thế quân đông tướng mạnh nên đã “ùa vào mà bẻ gãy cán chèo”, “liều
mạng vào sát nách mà đá trái”, “thúc gối vào bụng và hông thuyền”, có lúc chúng “đội
cả thuyền lên”. Bị tấn công nhưng ông lái đò không hề nao núng hay hoảng sợ. Ông
đã đề ra chiến thuật phòng ngự để giữ sức cho vòng đấu tiếp theo. Chính vì vậy “ông
đò hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng”; lúc này sông Đà lại chuyển thế
bám lấy thuyền và sử dụng đòn vật “túm lấy thắt lưng ông lái đò đòi lật ngửa mình
ra”. Không để cho ông đò có cơ hội xoay xở, sông Đà lại chuyển thể đánh miếng đòn
hiểm độc nhất “cả cái luồng nước vô sở bất chí ấy bóp chặt lấy hạ bộ người lái đò”.
Dính phải miếng đòn hiểm, mắt ông hoa lên, còn “mặt méo bệch đi”. Nhưng ông lái
đò vẫn nén đau, giọng ông vẫn bình tĩnh, tỉnh táo, sắc lạnh chỉ huy sáu bơi chèo còn
lại vượt cửa tử vào cửa sinh. Đó chính là bản lĩnh của người lãnh đạo giàu kinh nghiệm nhất.
Trong vòng đấu thứ hai, sông Đà tăng thêm nhiều cửa tử hơn, “bố trí cửa sinh lệch về
phía hữu ngạn” nhằm lừa con thuyền rơi vào cửa tử. Nguyễn Tuân còn phải bình luận
về chiến trận lúc bấy giờ: “Cưỡi lên thác Sông Đà, phải cưỡi đến cùng như là cưỡi
hổ”. Nhưng với kinh nghiệm nhiều năm vượt thác, ông lái đò đã không mắc bẫy. “Ông
lái đã nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá. Ông đã thuộc quy luật phục kích của
lũ đá nơi ải nước hiểm trở này”. Như một vị huấn luyện viên giàu kinh nghiệm, ở trận
này ông lái đò quyết định đánh phủ đầu với kế hoạch đánh nhanh thắng nhanh. Ông
“nắm chắc được cái bờm sóng đúng luồng rồi, ông đò ghì cương lái”, ông “phóng
nhanh”, “lái miết”… tốc độ di chuyển mau lẹ. Nhưng đúng là một đối thủ đáng gờm,
con sông Đà đáp trả chẳng hề thua kém. “Bốn năm bọn thuỷ quân cửa ải nước bên bờ
trái liền xô ra cảnh níu thuyền lôi vào tập đoàn cửa tử”. Vẫn còn nhớ mặt kẻ thù quen
thuộc, ông lái đò “tránh mà rảo bơi chèo lên, đứa thì ông đè sấn lên mà chặt đôi ra để
mở đường tiến”. Những động tác mạnh mẽ, quyết liệt cùng chiến thuật đúng đắn đã
giúp ông chiến thắng. Cuối cùng, những cửa tử đã bị bỏ lại hết phía sau, chỉ nghe thấy
tiếng thác đá không ngừng khiêu khích.
Cao trào nhất là ở vòng cuối cùng, lúc này con Sông Đà với tinh thần không còn gì để
mất đã quyết định tung ra mọi món đòn hiểm nhất của mình. Ở vòng này ít cửa hơn
nhưng bên trái bên phải đều là luồng chết cả, luồng sống thì lại nằm ngay giữa bọn đá
Văn mẫu lớp 12: Cảm nhận hình tượng người lái đò sông Đà trong cảnh vượt thác
hậu vệ. Có thể nói trận chiến này sông Đà đã dùng thế “trên đe dưới búa” làm cho
người lái đò phải đối mặt với thế “tiến thoái lưỡng nan” nhưng vào “cái khó lại ló cái
khôn” - ông lái đò đã biến chiếc thuyền sáu bơi chèo thành một mũi tên còn ông giống
như một cung thủ đã “phóng thẳng thuyền chọc thủng cửa giữa. Thuyền vút qua cửa
đá cánh mở, cánh khép, vút vút, cửa ngoài, cửa trong lại cửa trong cùng. “Thuyền như
một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái được, lượn
được. Thế là hết thác”. Một loạt các động từ lại được Nguyễn Tuân huy động để miêu
tả cách đánh của ông đò: “Phóng, chọc thủng, xuyên qua, xuyên nhanh, lái được, lượn
được…” đã thể hiện sự thần tốc trong cách đánh và cách đánh nhanh thắng nhanh đã
giúp người lái đò vượt trùng vi đầy phi thường. Vậy là cuối cùng, ông lái đò đã chiến
thắng trước con sông đà hung dữ.
Như vậy, với cảnh vượt thác này, ông lái đò hiện lên với bản lĩnh của một con người
tài hoa. Ông lái đò chính là một nghệ sĩ trong chính nghề nghiệp của mình.
Hình tượng người lái đò sông đà qua 3 trùng vi thạch trận - Mẫu 15
Nguyễn Tuân là người đam mê chủ nghĩa xê dịch. Trong hành trình tìm đến mảnh đất
vùng cao Tây Bắc, ông đã cho ra đời tập tùy bút “sông Đà”. Nổi bật trong đó là tác
phẩm “Người lái đò sông Đà”. Khi đọc tác phẩm này, người đọc sẽ cảm thấy ấn tượng
với hình tượng người lái đò sông Đà được miêu tả trong cảnh vượt thác.
Ông lái đò là một người lao động bình thường. Năm nay, tuổi ngoài bảy mươi nhưng
thân hình rắn chắc như một bức tượng cẩm thạch: ngực ông đầy những củ nâu -
thương tích của những lần vượt thác mà Nguyễn Tuân gọi đó là “huân chương lao
động siêu hạng”. “Tay ông lêu nghêu như cái sào, chân ông khuỳnh khuỳnh; nhỡn
giới ông cao vời vợi, giọng ông ồ ồ như tiếng thác trước ghềnh”.
Ở đoạn văn thứ nhất, Nguyễn Tuân dồn hết bút lực vào miêu tả trùng vi thạch trận đầu
tiên. Ở trùng vi thạch trận này - thác đá sông Đà đã chuẩn bị dàn trận địa sẵn, đó là
“trận địa với bốn cửa tử, một cửa sinh”. Ở đây nước phối hợp với đá reo hò làm thanh
viện; những hòn đá bệ vệ, oai phong lẫm liệt; một hòn ấy trông như đang hất hàm hỏi
cái thuyền phải xưng tên tuổi trước khi giao chiến và thách thức cái thuyền có giỏi thì
tiến gần vào. Bằng các từ ngữ: reo hò, bệ vệ, oai phong lẫm liệt, hất hàm hỏi, thách
Văn mẫu lớp 12: Cảm nhận hình tượng người lái đò sông Đà trong cảnh vượt thác
thức… người đọc cảm nhận được không khí trận chiến nóng bỏng gay cấn hồi hộp,
kịch tính. Đó chính là tài năng của bậc thầy phù thuỷ ngôn ngữ như Nguyễn Tuân.
Thác đá sông Đà rất khôn ngoan. Chúng không chỉ đánh trên mặt trận giáp lá cà mà
còn đánh bằng cả nghệ thuật tâm lý chiến. Trước đó chúng đã dùng âm thanh của thác
khiêu khích “giọng gằn mà chế nhạo”. Còn giờ đây chúng lại nhờ “nước thác làm
thanh viện cho đá”. Với bản tính hung hãn như một loài thủy quái, sông Đà đã đánh
phủ đầu người lái đò với những đòn thế vô cùng hiểm hóc. Sông Đà cậy thế quân
đông tướng mạnh nên đã “ùa vào mà bẻ gãy cán chèo”, “liều mạng vào sát nách mà đá
trái”, “thúc gối vào bụng và hông thuyền”, có lúc chúng “đội cả thuyền lên”. Một loạt
động từ được Nguyễn Tuấn huy động để miêu tả cách đánh của sông Đà làm người
đọc không khỏi rùng mình trước sự hung bạo của thiên nhiên: ùa vào, bẻ gãy, đá trái, thúc gối, đội,…
Bị tấn công bất ngờ nhưng người lái đò vẫn bình tĩnh. Với chiến thuật phòng ngự để
dưỡng sức cho những trùng vi sắp tới, “ông đò hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên
khỏi sóng”; lúc này sông Đà lại chuyển thế bám lấy thuyền và sử dụng đòn vật “túm
lấy thắt lưng ông lái đò đòi lật ngửa mình ra”. Không để cho ông đò có cơ hội xoay
xở, sông Đà lại chuyển thể đánh miếng đòn hiểm độc nhất “cả cái luồng nước vô sở
bất chí ấy bóp chặt lấy hạ bộ người lái đò”. Dính miếng đòn hiểm, mắt ông hoa lên,
tưởng như “một cửa bể đom đóm rừng ùa xuống châm lửa lên đầu sóng”. Đòn đau
khiến ông đò “mặt méo bệch đi”. Đó là cái méo bệch vốn do cái lạnh của nước làm
nhăn nheo lại thêm miếng đòn đau làm ông khách sông Đà mặt như tím tái, ngây dại.
Phép điệp động từ “đánh hồi lùng, đánh đòn tỉa, đánh đòn âm vào chỗ hiểm” gợi lên
cơn đau dồn dập, hành hạ người lái đò. Nhưng ông đò nén đau, giọng ông vẫn bình
tĩnh, tỉnh táo, sắc lạnh chỉ huy sáu bơi chèo còn lại vượt cửa tử vào cửa sinh.
Nếu đoạn văn thứ nhất, Nguyễn Tuân tập trung miêu tả thế trận một chiều từ sông Đà
thì ở đoạn văn tiếp theo nhà văn tập trung miêu tả thế trận của ông khách sông Đà ở sự
thông minh, linh hoạt và tài nghệ vượt thác dũng mãnh, phi thường. Chuyển từ thế
trận phòng ngự, ông lái đò chuyển thế chủ động tấn công. Ở trùng vi thạch trận thứ hai
này, sông Đà tăng cường một “tập đoàn cửa tử” và cửa sinh bố trí lệch qua bờ hữu ngạn.
Văn mẫu lớp 12: Cảm nhận hình tượng người lái đò sông Đà trong cảnh vượt thác
So với trùng vi một thì trùng vi này khó khăn hơn. Nhưng không vì thế mà ông đò nao
núng. Với kinh nghiệm nhiều năm chinh chiến trên chiến trường sông nước, người lái
đò đã “nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá, ông đã thuộc quy luật phục kích
của lũ đá”. Ông đò cũng tự triết lý với mình “cưỡi lên thác sông Đà là cưỡi đến cùng
như là cưỡi hổ”, vì thế “không một phút nghỉ tay nghỉ mắt phải phá luôn vòng vây thứ
hai và đổi luôn chiến thuật”. Ở trận này ông đò đánh phủ đầu với kế hoạch đánh nhanh
thắng nhanh. Như một vận động viên đua ngựa, ông đò “nắm chắc được cái bờm sóng
đúng luồng rồi, ông đò ghì cương lái”, ông “phóng nhanh”, “lái miết”… tốc độ di
chuyển mau lẹ. Nhưng sông Đà cũng không phải dạng vừa. Chúng xô ra định níu
chiếc thuyền vào tập đoàn cửa tử. Ông đò đã cảnh giác sẵn nên “đứa thì ông tránh mà
rảo bơi chèo”, “đứa thì đè sấn lên chặt đôi ra để mở đường tiến”. Hàng loạt động từ
được huy động như một đội quân ngôn ngữ hùng hậu hò reo theo từng nhịp tiến của
ông đò: nắm, ghì, phóng, lái, tránh, rảo, đè, chặt… Chính nhờ sự mưu trí và tài năng
ấy ông đò vượt qua hết các cửa tử. Một trùng vi với bao cửa tử, cửa sinh mà chỉ vài
ngón đòn ông lái đò đã đánh sập vòng vây của lũ đá, đồng thời làm cho bọn đá phải
thua cuộc với bộ mặt “tiu nghỉu, xanh lè thất vọng”. Qua đó để thấy người khách sông
Đà quả thật là Trí Dũng song toàn.
Đến trùng vi cuối cùng, sông Đà còn một cơ hội cuối cùng để chiến thắng được người
lái đò. Trùng vi này ít cửa hơn nhưng bên trái bên phải đều là luồng chết, luồng sống
thì lại nằm ngay giữa bọn đá hậu vệ. Có thể nói trận chiến này sông Đà đã dùng thế
“trên đe dưới búa” làm cho người lái đò phải đối mặt với thế “tiến thoái lưỡng nan”
nhưng vào “cái khó lại ló cái khôn” - ông lái đò đã biến chiếc thuyền sáu bơi chèo
thành một mũi tên còn ông giống như một cung thủ đã “phóng thẳng thuyền chọc
thủng cửa giữa. Thuyền vút qua cửa đá cánh mở, cánh khép, vút vút, cửa ngoài, cửa
trong lại cửa trong cùng. “Thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa
xuyên vừa tự động lái được, lượn được. Thế là hết thác”. Một loạt các động từ lại
được Nguyễn Tuân huy động để miêu tả cách đánh của ông đò: Phóng, chọc thủng,
xuyên qua, xuyên nhanh, lái được, lượn được… sự thần tốc trong cách đánh và cách
đánh nhanh thắng nhanh đã giúp người lái đò vượt trùng vi đầy phi thường.
Văn mẫu lớp 12: Cảm nhận hình tượng người lái đò sông Đà trong cảnh vượt thác
Qua phân tích trên, có thể thấy người lái đò sông Đà được Nguyễn Tuân khắc họa qua
cảnh vượt thác với vẻ đẹp tài hoa. Ông lái đò chính là nhân vật tiêu biểu cho phong
cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân sau cách mạng.
Hình tượng người lái đò sông đà qua 3 trùng vi thạch trận - Mẫu 16
Tác phẩm Người lái đò Sông Đà được tác giả sáng tác trong một chuyến đi thực tế, vẻ
đẹp thiên nhiên vùng núi Tây Bắc và hình ảnh người lái đò sông Đà chính là những
điểm nhấn quan trọng. Trên nền của thiên nhiên Tây Bắc hình tượng ông lái đò sông
Đà hiện lên thật khỏe khoắn và tài hoa.
Hình ảnh người lái đò hiện lên qua những miêu tả ngoại hình từ tác giả “tay lêu nghêu
như cái sào, chân khuỳnh ra như kẹp lấy một cái bánh lái tưởng tượng, giọng nói ào ào
như thác lũ sông Đà”, công việc vốn nguy hiểm, cần nhiều sức lực nhưng ông vẫn gắn
bó với nghề. Thế giới của ông đó là vượt qua nhiều nguy hiểm “nước xô đá, đá xô
sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm” nhưng bằng sự am hiểu
tường tận từng con thác, xoáy nước, tảng đá trên sông đã giúp ông vượt qua thử thách từ thiên nhiên.
Công việc của ông có thể xem là đối mặt với “thần chết” nhưng lúc nào người lái đò
cũng tự tin, bình tĩnh vượt qua khó khăn, đó không chỉ là sự am hiểu về con sông Đà
mà còn là tài năng của người lái đò khi điều khiển con thuyền vượt qua thử thách từ
thiên nhiên. Tài năng của người lái đò thể hiện đậm nét trong cuộc chiến giữa con
người và thiên nhiên – thời điểm ông lái đò vượt qua con sông Đà hung hãn, con sông
hiểm trở, thử thách bao nhiêu thì người lại đó càng giỏi giang và mạnh mẽ bấy nhiêu.
Không chỉ là người tài hoa mà người lái đò sông Đà còn toát lên sự bình dị, khiêm tốn
đó là thời điểm mà con thuyền đã về bến an toàn, mọi người tập trung cùng nhau ăn
uống và tuyệt nhiên không có một lời nói nào về những mối nguy hiểm họ vừa trải
qua, những con người bình dị xem những mối nguy hiểm đó trở nên bình thường và
công việc mỗi ngày mà thôi.
Tác giả đã thực sự thán phục và tôn vinh người lái đò là những con người tài hoa bởi
để vượt qua con sông Đà hung hãn, ngang tàn người lái đò phải thực sự giỏi giang,
Văn mẫu lớp 12: Cảm nhận hình tượng người lái đò sông Đà trong cảnh vượt thác
tinh thần thép, thuần thục những kĩ năng điều khiển giúp con thuyền vượt qua muôn
trùng sóng gió, bởi chỉ một sai sót nhỏ có thể phải trả giá bằng cả tính mạng.
Với một chuyến đi trải nghiệm thực tế tác giả Nguyễn Tuân đã giúp người đọc hình
dung ra công việc hàng ngày của một người lái đò thật sự nguy hiểm và nhất thiết phải
có sự dũng cảm, can trường. Người lái đò trên con sông Đà là đại diện cho những con
người lao động Tây Bắc giỏi giang, tài hoa và khiêm tốn.
Hình tượng người lái đò sông đà qua 3 trùng vi thạch trận - Mẫu 17
Cái nhan đề Người lái đò sông Đà ùa vào ta một liên tưởng kép: Nguyễn Tuân xưng
tụng ông lái đò tài hoa trí dũng trên dòng sông thiên nhiên bạo liệt, còn ngôn ngữ
Nguyễn Tuân lại hùa nhau xưng tụng tác giả của nó như một ông lái bậc thầy con
thuyền chữ trên một dải sông văn không kém thác ghềnh.
Thì chính Nguyễn Tuân đã hạ bút ngay từ khúc dạo đầu: "Chúng thuỷ giai đông tẩu,
Đà giang độc bắc lưu" (Mọi con sông đều chảy về đông, chỉ có sông Đà ngược bắc).
Câu đề từ của Nguyễn Tuân vừa thâu tóm lấy cái thần sông Đà, vừa tóm luôn cái thần
chữ của mình. Một mặt bắc lưu là sự cưỡng lại đông tẩu, cái riêng độc đáo là sự cưỡng
lại sức xói mòn của cái chung nhàm cũ. Mặt khác, bắc lưu chỉ tồn tại trước đông tẩu,
cái riêng độc đáo chỉ tồn tại trước cái chung khi nó đồng nghĩa với cái cao hơn sự
khác lạ là cái sáng tạo (tức là cái độc đáo phải trở thành cái riêng mang giá trị). Phi giá
trị, cái riêng hóa trò chơi duy mĩ. Đó là nguyên tắc của phép lạ hóa văn chương, để
vừa chối bỏ sự nhàm lặp của cái chung, vừa hội nhập với cái chung mang giá trị văn
chương bền vững. Còn nguyên tắc riêng của phép lạ hóa ngôn ngữ Nguyễn Tuân?
Trong kho từ vị Việt, ngôn ngữ mang bản tính nguyên thủy của một vật liệu tĩnh, lạnh,
khá ổn định. Tài năng nghệ sĩ là biết vùng cây gậy thần biến nó thành chất liệu động
và nóng, phập phồng sự sống. Nổi trội trong các tài năng, văn Nguyễn Tuân là thứ
ngôn từ nóng giãy sự sống. Có thể coi bài kí sông Đà này là cuộc thí nghiệm tâm đắc
của ngôn ngữ nóng Nguyễn Tuân.
Đầu tiên, sức nóng ngôn ngữ Nguyễn Tuân cũng tìm được một đối tượng "nóng":
sông Đà. Con sông độc lạ ấy thật thích hợp với một ngòi bút độc lạ. Ngôn ngữ
Nguyễn Tuân đã lay con sông vô tri thức dậy, tưới linh hồn vào nó, và ông khai sinh
Văn mẫu lớp 12: Cảm nhận hình tượng người lái đò sông Đà trong cảnh vượt thác
dòng sông nghệ thuật của mình bằng một cái tên đủ in luôn tính nết vào đó: "hung bạo
và trữ tình". Nếu chỉ có một vế, con sông sẽ lười nhác trong đơn giản. Tính cách sông
Đà phải là một hệ thống những phẩm chất đối chọi nhau như nước với lửa, và phải từ
những nghịch lí nghịch âm ấy, con sông mới có điều kiện phô bày hết vẻ phức tạp
phong phú, đầy hấp dẫn của mình.
Đầu tiên là con thác - tâm điểm dữ dội của sông Đà. Nước dữ, đã đành. Đá cũng dữ.
Đúng ra là do đá dữ mà nước dữ. Vậy thì cần phải dựng đá dậy cho lộ bản chất của nó
ra. Và Nguyễn Tuân hạ một so sánh đắc địa: "Một hòn (đá) ấy trông nghiêng thì y như
là đang hất hàm hỏi cái thuyền phải xưng tên tuổi trước khi giao chiến". Trong công
thức A = B của so sánh, cái độc lạ của Nguyễn Tuân chủ yếu tỏa sắc ở vế B. Trong
câu văn trên, ông chêm động từ hất hàm vào B để mang đến cho nó một năng lượng
sống, đủ khả năng truyền hồn vào đá vô tri, rọi một cái nhìn đậm tính điêu khắc vào
thói du côn của thiên nhiên man dại. Nhưng gây cảm giác "chết người" nhất là cái hút
nước. Nguyễn Tuân tả hình ảnh những cái thuyền bị dòng sông nuốt vào bụng, gợi
cảm giác lạnh người: "Có những thuyền đã bị cái hút nó hút xuống, thuyền trồng ngay
cây chuối ngược rồi vụt biến đi, bị dìm và đi ngầm dưới lòng sông đến mươi phút sau
mới thấy tan xác ở khuỷnh sông dưới". Người ta nói văn Nguyễn Tuân là thứ văn ham
cảm giác mạnh, có lẽ vì thế mà cái hút nước hiểm nguy kia trở thành một đam mê
dưới ngòi bút của ông. Ông tiếp tục gây áp lực lên hệ thần kinh người đọc bằng cách
bắt họ phải tự "chiêm nghiệm" cái cảm giác lạ lùng này: "Tôi sợ hãi mà nghĩ đến một
anh bạn quay phim táo tợn nào muốn truyền cảm giác lạ cho khán giả, đã dũng cảm
ngồi vào một cái thuyền thúng tròn vành rồi cho cả thuyền cả mình cả máy quay
xuống đáy cái hút Sông Đà, - từ đáy cái hút nhìn ngược lên vách thành hút mặt sông
chênh nhau tới một cột nước cao đến vài sải. Thế rồi thu ảnh. Cái thuyền xoay tít,
những thước phim màu cũng quay tít, cái máy lia ngược contre-plongée lên một cái
mặt giếng mà thành giếng xây toàn bằng nước sông xanh ve một áng thủy tinh khối
đúc dày, khối pha lê xanh như sắp vỡ tan úp vào cả máy cả người quay phim cả người
đang xem. Cái phim ảnh thu được trong lòng giếng xoáy tít đáy, truyền cảm lại cho
người xem phim kí sự thấy mình đang lấy gân ngồi giữ chặt ghế như ghì lấy mép một
chiếc lá rừng bị vứt vào một cái cốc pha lê nước khổng lồ vừa rút lên cái gậy đánh
Văn mẫu lớp 12: Cảm nhận hình tượng người lái đò sông Đà trong cảnh vượt thác
phèn". Hình ảnh những cái thuyền bị cái hút nước nuốt chửng, hình ảnh cái hút nước
như một cái giếng xây bằng nước sông đang xoay tít... tạo nên ở người đọc một cảm
giác hình hết sức mạnh mẽ. Họ bị đặt vào trong cuộc, và cảm thấy bối rối vì khó bứt
thoát khỏi những ám ảnh đầy ma lực mà ngôn từ Nguyễn Tuân truyền tới họ. Và đọng
lại cuối cùng trong lòng người đọc là một sông Đà được nhìn như một hung thần, gây
cảm giác hãi hùng về cuộc quyết đấu dữ dội giữa con người và thiên nhiên đã diễn ra
nơi đây hàng bao thế kỉ.
Cảm giác hình gắn với cảm giác âm nên ám ảnh của văn Nguyễn Tuân càng mạnh. Ở
đây, người đọc lại hứng khởi nhận ra một đặc điểm khác của văn Nguyễn Tuân:
những câu văn của ông thường liên kết trong một tính liên hoàn giàu giá trị thẩm mĩ,
có khả năng thôi miên người đọc trong một chuỗi dây chuyền liên tưởng ngỡ như vô
tận. Tả cái thác nước, Nguyễn Tuân viết: "Thế rồi nó rống lên như tiếng một ngàn con
trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa,
rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng". Đúng là một cảnh tượng
man rợ như thời tiền sử. Để dò hết năng lượng thẩm mĩ của câu văn, liên tưởng của
người đọc phải nối nhau trong cơ chế ba chặng: tiếng thác (rống) - tiếng trâu mộng
(lồng lộn) - tiếng rừng lửa (gầm thét). Liên tưởng của Nguyễn Tuân rất lạ: âm thanh
thác được động vật hóa thành tiếng gầm "trâu mộng", nhưng cao tay nhất là lấy thác
lửa (hỏa) gây một bất ngờ thẩm mĩ. Sức mạnh hoang dã của thiên nhiên qua miêu tả
của Nguyễn Tuân, cứ như một trận động rừng, động đất hay nạn núi lửa thời tiền sử.
Nguyễn Tuân còn chạm bút tới cái hút nước một lần nữa: "nước ặc ặc lên như vừa rót
dầu sôi vào". Hai chữ "ặc ặc" mô phỏng rất tài thứ âm thanh quái vật, khiến sông Đà
như loài thủy quái bị bóp cổ đang quằn quại.
Mặt thứ hai của sông Đà là trữ tình. Để lột tả đặc tính này của sông Đà, Nguyễn Tuân
rất tâm đắc với những so sánh. Mỗi so sánh chứa đựng một góc nhìn độc đáo, đầy tính
phát hiện của nhà văn trước đối tượng thẩm mĩ của mình. Sông Đà như loài thủy quái
với những nanh vuốt nơi mặt ghềnh, hút nước và thạch trận dữ hiểm, được nhà văn ví
như "kẻ thù số một" của con người. Song những so sánh đam mê nhất của Nguyễn
Tuân là dành cho một Đà giang trữ tình: "Cái dây thừng ngoằn ngoèo" dưới chân
người ngồi trên tàu bay nhìn xuống, cái "áng tóc trữ tình (...) ẩn hiện trong mây trời
Văn mẫu lớp 12: Cảm nhận hình tượng người lái đò sông Đà trong cảnh vượt thác
Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương
xuân"; rồi lại "như một cố nhân" trong nỗi niềm du khách, như "cái miếng sáng lóe
lên" trong trò chiếu gương con trẻ, như "một bờ tiền sử", như "một nỗi niềm cổ tích
ngày xưa"... Những so sánh biến hóa không trùng lặp, luôn gây men bằng những đột
ngột, người đọc sửng sốt vì những so sánh lạ lẫm, gây đứt quãng liên tưởng, để rồi
thán phục nhận ra không thể so sánh hay hơn, đúng hơn, và cứ thế bị thôi miên vào
mê hồn trận của những so sánh ăm ắp tràn bờ...
Vẻ đẹp ngôn ngữ Nguyễn Tuân không đơn thuần là thứ trời cho. Nhà văn phải lao
động cật lực, trong đó có khổ công quan sát. Liệu đã mấy ai đủ công phu quan sát
những biến đổi tinh vi đến thế của sông Đà, với mùa xuân thì "dòng xanh ngọc bích"
mùa thu thì "lừ lừ chín đỏ", giữa hai mùa ấy là cái "màu nắng tháng ba Đường thi"...
Sông Đà giàu ám ảnh trở thành nỗi nhớ thật da diết của con người.
Một sông Đà góc cạnh như thế ắt cần một đối tượng giao tiếp tương xứng cỡ ông lái
đò. Hình như Nguyễn Tuân tô đậm sức hấp dẫn của sông Đà là để ngâm đề cao chính
ông lái đó tài ba, nghệ sĩ này chăng. Để tiếp ông khách không vừa này, sông Đà "bày
thạch trận trên sông" với một thế trận bài bản theo kiểu binh pháp Tôn Tử: nào là cửa
tử, cửa sinh, đánh vu hồi, đánh du kích, đánh mai phục, đánh giáp lá cà... Sông Đà còn
lắm mưu nhiều kế bày bao nhiêu mẹo lược và sự nham hiểm để sẵn sàng bóp chết con
người. Ông lái đò thì nhỏ bé nhưng lại sừng sững hiện lên như một viên tướng trí dũng
song toàn trước con thủy quái khổng lồ kia, với tư thế của kẻ đã nắm chắc "binh pháp
của thần sông thần đá". Để miêu ta cuộc giao tranh giữa người và thác dữ, Nguyễn
Tuân có ngón chơi động từ độc đáo. Trong dăm trang kí, ông tốc tới ngót 300 động từ
để đủ sức gánh tài cùng con nước cuồng nộ Đà giang và trí lực ông lái phi thường.
Tần số động từ đậm đặc nhất là ở trường đoạn hỗn chiến giữa người và sông nước,
khiến người đọc nghẹt thở. Cơn cuồng phong động từ xô lên cùng cơn thịnh nộ sông
Đà: "rống lên, nhổm cả dậy, vồ lấy, đánh khuýp, reo hò, thúc, đội, túm, lật ngửa, bóp
chặt... Phía ông lái, động từ cũng hợp sức tạo nên thế cưỡi hổ tung hoành: nắm chặt,
ghì cương, bám chắc, phóng nhanh, lái miết, đè sấn, chặt đôi, phóng thẳng, chọc
thủng... Hai hệ thống động từ đối chọi, tương phản gay gắt, nhưng đọc kĩ, vẫn thấy nổi
lên thế chủ động, thế lấn lướt của ông lái đò. Hãy xem tiếp động từ phát huy sức mạnh
Văn mẫu lớp 12: Cảm nhận hình tượng người lái đò sông Đà trong cảnh vượt thác
như thế nào trong đoạn văn sau đây của Nguyễn Tuân: "Dòng thác hùm beo đang
hồng hộc tế mạnh trên sông đá. Nắm chặt lấy được cái bờm sóng đúng luồng rồi, ông
đò ghì cương lái, bám chắc lấy luồng nước đúng mà phóng nhanh vào cửa sinh, mà lái
miết một đường chéo về phía cửa đá ấy. Bốn năm bọn thủy quân cửa ải nước bên bờ
liên xô ra định níu thuyền lôi vào tập đoàn cửa tử. Ông đò vẫn nhớ mặt bọn mày, đứa
thì ông tránh mà rảo bơi chèo lên, đứa thì ông đè sấn lên mà chặt đôi ra để mở đường
tiến...". Quả là một bức tranh chiến trận hào hùng, ngôn ngữ Nguyễn Tuân hả hê tụng
ca con người trong cuộc quyết đấu với thiên nhiên để giành sự sống.
Văn Nguyễn Tuân mang vẻ đẹp của sự tổng hòa văn hóa. Nàng văn của ông thật
quảng giao đón du khách từ bốn phương trời kiến thức: lịch sử, địa lí, quân sự, võ
thuật, điện ảnh, hội họa, điêu khắc, âm nhạc... Những kiến thức liên ngành đa dạng ấy
tạo bề dày uyên bác trong vốn tri thức của nhà văn, nâng cho đôi cánh tài hoa bay
bổng. Có thể coi Nguyễn Tuân là người đã nắm vững "binh pháp của ngôn ngữ". Với
một ý thức ngôn từ mới mẻ, hiện đại, Nguyễn Tuân đã truyền hồn cho chữ, chữ truyền
hồn cho dòng sông, và dòng sông truyền xúc cảm vào người đọc.
Song luận gì về Nguyễn Tuân cũng chớ quên văn ông không chỉ là tòa lâu đài chữ
nghĩa mà còn là bể thẳm tâm hồn. Nhiều người từng than phiền văn Nguyễn Tuân cầu
kì, rắc rối. Trước Cách mạng tháng Tám, Nguyễn Tuân tự nhận xét: "Ngôn ngữ của
Nguyễn lủng cà lủng củng, dấm dẳng cứ như đấm vào họng. Đọc lên nghĩa tối quá lời
sấm ông trạng. Nguyễn cứ lập ngôn một cách bướng bỉnh vì đời nó ngu thế thì không
bướng bỉnh sao được" (Đôi tri kỉ gượng). Nay ngôn ngữ Nguyễn Tuân là ngôn ngữ
của một công dân đầy trách nhiệm trước một nước Việt Nam mới. Ông lái Nguyễn
Tuân đã chở con đò chữ không chỉ bằng bàn tay khéo dùng từ, đặt câu mà còn bằng
tình yêu tha thiết thiên nhiên và con người lao động xây dựng cuộc đời. Xin chiêm
ngưỡng tấm lòng thơ của nhà văn ẩn trong câu văn òa ập nỗi niềm này: "Nói chuyện
với người lái đò, như càng lai láng thêm cái lòng muốn đề thơ vào sông nước".