Cảm nhận về bài thơ Tràng Giang của Huy Cận | Văn mẫu 12 Chân trời sáng tạo

Buồn nhưng không bi quan, không chán nản! Bài thơ hiện diện với tư cách là một bài thơ buồn nhưng vẫn đậm đà và lắng sâu một tình yêu quê hương tha thiết nồng nàn! Có phải chăng vì vậy mà Xuân Diệu đã từng ca ngợi" “Tràng giang là một bài thơ ca hát non sông đất nước, do đó dọn đường cho lòng yêu giang sơn Tổ quốc”. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!

Chủ đề:

Văn mẫu 12 639 tài liệu

Môn:

Ngữ Văn 12 1 K tài liệu

Thông tin:
30 trang 4 tháng trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Cảm nhận về bài thơ Tràng Giang của Huy Cận | Văn mẫu 12 Chân trời sáng tạo

Buồn nhưng không bi quan, không chán nản! Bài thơ hiện diện với tư cách là một bài thơ buồn nhưng vẫn đậm đà và lắng sâu một tình yêu quê hương tha thiết nồng nàn! Có phải chăng vì vậy mà Xuân Diệu đã từng ca ngợi" “Tràng giang là một bài thơ ca hát non sông đất nước, do đó dọn đường cho lòng yêu giang sơn Tổ quốc”. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!

35 18 lượt tải Tải xuống
Dàn ý cảm nhận bài thơ Tràng Giang
I. Mở bài
1, Tác giả:
- Là một trong những trụ cột của phong trào thơ mới
- Tràng Giang trích trong tập thơ đầu tay “Lửa thiêng” (1939)
2. Nội dung phân tích: bài thơ là nỗi lòng của một cá thể cô đơn trước vũ trụ vô
tận, trước dòng đời mênh mang
II, Thân bài:
1, Khái quát:
a, Hoàn cảnh sáng tác: Trích trong tập thơ đầu tay “Lửa thiêng” (1939)
- Cảm hứng sáng tác: Cảm hứng từ một buổi chiều mùa thu, khi tác giả một mình
đứng ở bờ Nam bến Chèm, nhìn cảnh sông Hồng mênh mang sóng nước
b, Nhan đề:
Phép điệp âm “ang” gợi hình ảnh con sông lớn, rộng mênh mông
Là một từ Hán Việt cổ nên gợi hình ảnh con sông cổ kính, lâu đời.
c, Lời đề từ:
Thâu tóm nội dung của cả bài thơ
Các hình ảnh “trời rộng”, “sông dài” gợi những phạm vi, không gian khác
nhau
Cảm xúc của nhà thơ: nỗi buồn nhớ nhẹ nhàng, man mác
=>Vừa có tác dụng định hướng, vừa tạo tính cổ điển, hiện đại
2, Phân tích:
a, Khổ 1: “Tràng giang” mở ra bằng hình ảnh dòng sông mang nỗi sầu nhân
thế (Trích 4 câu thơ)
- Câu 1:
Gợi sự vận động hết sức nhỏ bé, nhẹ nhàng của sóng
Từ láy “điệp điệp” khiến nỗi buồn trở nên cụ thể, chồng chất lên nhau
Trên dòng tràng giang mênh mông, nổi bật hình ảnh một con thuyền lẻ loi,
trôi vô định
Cụm từ “thuyền về nước lại” đọc lên nghe như có gì đó chia lìa đôi ngả.
Cụm từ “sầu trăm ngả”: nỗi sầu vô hướng, tỏa rộng khắp không gian
- Câu 4:
Hình ảnh “củi một cành khô” gợi cái cô đơn, nhỏ bé, phù du.]Số từ “một”
gợi sự ít ỏi, “cành khô” gợi sự khô héo, “lạc” mang nỗi sầu vô định, vô
hướng
=>Những cảm nhận tinh tế trước thiên nhiên sông nước, qua đó bộc lộ nỗi niềm,
tâm trạng của nhà thơ
b, Khổ 2: Huy Cận như vẽ thêm cảnh qua một cái nhìn bao quát hơn (trích 4
câu thơ)
- Câu 1,2:
Từ láy “lơ thơ” với biện pháp đảo ngữ: nhấn mạnh cái trống trải, thưa thớt
của cảnh vật trên cồn cát
Từ láy “đìu hiu”: tác giả học được từ câu thơ trong bài “Chinh phụ ngâm”
(Đoàn Thị Điểm) -> làm sống lại không khí trống trải, thê lương của thơ xưa
Từ “đâu” có thể hiểu là đâu có hoặc đâu đó. Nhưng hiểu theo cách nào thì
âm thanh nhỏ nhoi-biểu tượng cho dấu vết con người cũng quá mỏng manh,
mờ nhạt
- Câu 3,4
Huy Cận đã thể hiện được sự vận động, mở rộng về mọi hướng của không
gian
Cụm từ “sâu chót vót” khiến không gian được mở rộng theo 3 chiều: dài,
rộng, cao
=>Đó là cảm giác nhớ nhà, bơ vơ, lạc lõng giữa thiên nhiên, giữa trời rộng, sông
dài
c, Khổ 3: Nỗi buồn của cảnh vật gắn với nỗi sầu nhân thế (trích thơ)
- Câu 1,2
Hình ảnh “bèo dạt về đâu hàng nối hàng”: gợi sự bấp bênh, trôi nổi của
những kiếp người vô định
Hình ảnh “bờ xanh tiếp bãi vàng”: thiên nhiên nối tiếp thiên nhiên, không có
bóng dáng của con người
- Câu 3,4
+ Cấu trúc phủ định “không….. không” phủ nhận hoàn toàn những kết nối của con
người
=>Trước mắt nhà thơ giờ đây không có chút gì gợi niềm thân mật để kéo mình ra
khỏi nỗi cô đơn bao trùm
d, Khổ 4: Nỗi cô đơn được mở lên chiều cao với những hình ảnh đối lập (trích
thơ)
- Câu 1,2
Bút pháp chấm phá: mở ra hình ảnh những núi mây trắng được ánh nắng
chiếu vào như dát bạc
Câu thơ thứ 2 có thể hiểu theo 2 nghĩa: chim nghiêng cánh nhỏ kéo bóng
chiều sa xuống tràng giang hay chính bóng chiều đè nặng lên cánh chim làm
cánh chim nghiêng lệch
- Câu 3,4:
Từ láy “dợn dợn”: thể hiện nỗi niềm cô đơn, bâng khuâng
2 chữ “nhớ nhà”: gợi hình ảnh một người lữ thứ xa nhà lẻ loi, dừng bước
bên bờ tràng giang
Huy Cận không cần nhìn khói hoàng hôn cũng nhớ nhà bởi nỗi nhớ ấy
không phụ thuộc vào ngoại cảnh mà xuất phát từ tâm can
=>Nét tâm trạng chung của các nhà thơ mới lúc bấy giờ
3, Đánh giá:
a, Nghệ thuật:
Sử dụng những chất liệu, thi liệu gần gũi với đời sống
Bút pháp chấm phá, lấy cảnh để nói tâm trạng được sử dụng linh hoạt
Tiếp thu và làm mới thơ cổ điển
b, Nội dung:
Nỗi buồn, nỗi cô đơn của tác giả khi đứng trước quê hương nhưng quê
hương đã không còn
Mong muốn tìm kiếm hơi ấm của con người nhưng cái nhận lại chỉ là thất
vọng cùng cô đơn
Bộc lộ kín đáo lòng yêu nước sâu đậm
III, Kết bài:
Tổng kết lại vấn đề
Nêu cảm nhận của bản thân
Cảm nhận Tràng giang Huy Cận - Mẫu 1
Huy Cận được mệnh danh là nhà thơ cả vạn lí sầu. Trước cách mạng hồn thơ ông
mang nỗi sầu bi của thời đại. Tác phẩm Tràng giang là một bài thơ tiêu biểu cho
nỗi buồn miên man của nhà thơ trước cuộc đời, trước thời đại. Ẩn sau nỗi buồn ấy
còn là lời tâm sự, lòng yêu nước kín đáo.
Nhan đề của bài thơ gồm hai vần “ang” đây là âm mở, gợi nên sự mênh mông,
rộng lớn. Không gian dòng sông hiện ra không chỉ là một con sông bình thường mà
nó còn là con sông lớn mang tầm vóc vũ trụ. Không chỉ vậy, sử dụng từ Hán Việt
còn khiến cho bài thơ mang âm hưởng cổ kính, mang tính khái quát.
Không phải bất cứ tác phẩm nào cũng có lời đề từ, khi đề từ xuất hiện nó thường là
một gợi dẫn có ý nghĩa bao quát toàn bộ nội dung tác phẩm. Trước khi bắt đầu bài
thơ Tràng giang là lời đề từ do chính Huy Cận sáng tác:
Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài
Câu thơ đề tự gợi ra không gian vũ trụ rộng lớn, bát ngát mở ra cả chiều rộng và
chiều cao. Trước không gian ấy con người cảm thấy bơ vơ, lạc lòng, đây cũng là
cảm xúc của biết bao thế hệ thi nhân xưa nay. Câu thơ đề từ đã khơi mạch cảm xúc
chung của bài thơ.
Bài thơ mở đầu bằng khổ thơ thấm đượm nỗi buồn:
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng
Những con sóng lăn tăn gợn theo chiều gió thổi, không gian ấy hoàn toàn yên tĩnh.
Nhưng ở đây không chỉ có thiên nhiên mà ẩn khuất còn có tâm trạng của con người
“buồn điệp điệp”, nỗi buồn không còn vô hình mà hữu hình qua từ láy “điệp điệp”.
Nỗi buồn ấy tầng tầng lớp lớp chồng lên nhau, nó tuy nhẹ nhàng mà thấm đẫm, mà
lan tỏa trong lòng con người. Nổi bật trong không gian đó là hình ảnh con thuyền
xuôi mái, lênh đênh, phiêu dạt. Giữa dòng tràng giang con thuyền trở nên bé nhỏ,
đơn côi tựa như chính hình ảnh con người. Từ “xuôi mái” cho thấy trạng thái
buông xuôi, phó mặc cho dòng nước xô đẩy. Đó phải chăng cũng chính là tâm
trạng của những con người Việt Nam trong hoàn cảnh lịch sử lúc bấy giờ. Thuyền
cứ trôi, cứ về để lại nỗi buồn mênh mang, vô hạn cho người ở lại – nước. Và hiển
hiện trong hiện thực đó chính là những cành củi khô đơn độc, lẻ loi. Đảo ngữ “củi”
được đảo lên đầu câu nhấn mạnh sự vô nghĩa, tầm thường, không chỉ vậy đó còn là
cảnh củi khô không còn sức sống lạc trôi giữa dòng đời vô định. Hình ảnh “củi
khô” ẩn dụ cho những kiếp người nhỏ bé, bơ vơ giữa sự mênh mông của dòng đời.
Đồng thời còn ẩn dụ cho cái tôi lạc loài, bơ vơ trong Thơ mới.
Huy Cận di chuyển điểm nhìn về gần hơn với những bãi, những cồn ở ngay trước
mắt mình. “Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu” là một hình ảnh rất thực ở bãi giữa sông
Hồng, kết hợp với hai từ láy “lơ thơ” “đìu hiu” gợi nên sự thưa thớt, vắng vẻ, hiu
quạnh. Trong không gian ấy tác giả cố gắng đi tìm hơi ấm cuộc sống, là tiếng chợ
xa, nhưng “đâu” có thể tìm thấy được, không gian là sự tĩnh lặng đến tuyệt đối.
Nỗi buồn càng được tô đậm hơn nữa khi không gian được mở rộng đến vô cùng,
nắng xuống chiều lên, sông dài – trời rộng, kết hợp với từ “sâu chót vót” đã mở
rộng không gian ra cả ba phía: rộng, cao, sâu. Khắc họa nỗi cô đơn, sự nhỏ bé đến
cực điểm của con người trước không gian vũ trụ.
Đôi mắt Huy Cận lại tìm kiếm, lại hướng ra vô cùng và thu lại chỉ có:
Bèo dạt về đâu hàng nối hàng
Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cần gợi chút niềm thân mật
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.
Những cánh bèo lênh đênh, vô định nối tiếp nhau chảy trôi, sự chảy trôi không
mục đích, không phương hướng, cũng như những kiếp người nhỏ bé, đơn độc lúc
bấy giờ. Không gian sông nước mênh mông không có lấy một chuyến đò qua sông.
Đò ấy không đơn thuần là phương tiện trung chuyển con người mà nó còn là
phương tiện kết nối tình cảm. Nhưng tất cả đã bị phủ định một cách tuyệt đối:
không một, không cầu, không còn một chút tình đời, tình người nào còn tồn tại ở
đây nữa.
Khổ thơ cuối cùng vẽ ra bức tranh không gian nhiều tầng bậc, ông hướng mắt lên
cao: “Lớp lớp mây cao đùn núi bạc/ Chim nghiêng cánh nhỏ, bóng chiều sa”. Bầu
trời với những đám mây lớn được phản chiếu dưới ánh mặt trời trở nên hùng vĩ,
tráng lệ hơn. Động từ “đùn” cho thấy những đám mây ùn ùn kéo về, dựng lên
những dãy núi tráng lệ. Và giữa lưng chừng trời là cánh chim nhỏ bé, đơn độc, cảm
tưởng như nó đã bị không gian nuốt chửng. Trước cảnh thiên nhiên cô tịch, lặng lẽ,
nỗi nhớ quê hương trong ông bỗng da diết, cồn cào:
Lòng quê dờn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
Câu thơ làm ta bất giác nhớ đến câu thơ của Thôi Hiệu: “Nhật mộ hương quan hà
xứ thị/ Yên ba giang thượng sử nhân sầu”. Cũng đều là nỗi bi ai, là nỗi nhớ quê
khắc khoải nhưng Huy Cận đã có cách thể hiện thật mới, thật lạ. Lòng quê “dợn
dợn” tức cứ tăng, cứ mạnh mãi lên, dường như sóng lòng đang trải ra cùng sóng
nước. Nỗi nhớ quê hương luôn thường trực, dai dẳng. Đây cũng là biểu hiện kín
đáo của lòng yêu nước.
Tác phẩm là sự kết hợp hài hòa giữa cổ điển và hiện đại, đã vẽ nên bức tranh thiên
nhiên mênh mông và quạnh hiu, hoang vắng. Qua đó còn cho ta thấy một cái tôi bơ
vơ lạc lõng, một nỗi buồn vô tận giữa đất trời. Nhưng đồng thời bài thơ cùng thể
hiện lòng yêu nước kín đáo mà vô cùng sâu lắng.
Cảm nhận bài Tràng giang - Mẫu 2
Đời người không khỏi có những lúc bước chân lang thang đến những nơi yên tĩnh
để lắng đọng tâm hồn. Những lúc ấy người ta cảm thấy mình bé nhỏ trước không
gian mênh mông, vũ trụ rộng lớn. Rồi chợt họ nhận ra kiếp người sao quá ngắn
ngủi, đời người thật phù du và con người nhỏ bé trước vạn vật. Đọc “Tràng giang"
của Huy Cận cảm xúc trong tôi dâng lên nỗi buồn cô quạnh khi nghĩ về những kiếp
người trôi nổi, lênh đênh.
Bài thơ “Tràng giang” ra đời vào năm 1939 khi hồn thơ của Huy Cận mang nét u
sầu, chất chứa nhiều phiền muộn, tâm tư. Chính vì thế mà những từ ngữ trong bài
phản ánh trực tiếp cái sầu của thi sĩ trước thời cuộc và những suy nghĩ của tác giả
trên hành trình đi tìm “Thơ mới”.
Tên tác phẩm “Tràng giang" đã tạo một ấn tượng mạnh mẽ về con sông dài, mênh
mông. Tựa đề cũng tạo cảm giác hoài cổ khi thi sĩ sử dụng một loạt từ Hán Việt.
Đã có rất nhiều người thử thay thế tên tác phẩm “Tràng giang" thành “Trường
giang" nhưng riêng tôi cho rằng cái tên vốn có của nó vẫn chính xác nhất vì khi
dùng “Trường giang" chỉ mới diễn tả được độ dài của con sông mà thôi. Thế nhưng
khi thay bằng “Tràng giang" con sông không chỉ dài mà còn rộng. Sông trở nên
mênh mông, bát ngát hơn từ đó nói lên được ý đồ của tác giả trong sự đối lập giữa
thiên nhiên rộng lớn và con người bé nhỏ. Câu đề từ tiếp tục khẳng định về một
con sông rộng lớn “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài". Nhưng cảm giác mang
lại là sự lưu luyến, nhớ thương về một con sông trong quá khứ.
Khổ thơ đầu tiên không chỉ mang đến bức tranh buồn, cô đơn mà thiên nhiên còn
gợi cảnh chia li, tách rời
“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng.”
Với những câu thơ đầu tiên, tác giả sử dụng nhiều hình ảnh như sóng, con thuyền,
củi. Sóng đi liền với động từ “gợn" - dịch chuyển nhẹ nhàng, lăn tăn lan xa. Chỉ
với một nét gợn nhẹ ấy cũng đủ làm cho nhân vật trữ tình trở nên buồn bã. Từ láy
“điệp điệp" diễn tả nỗi buồn chồng chất, nối tiếp nhau. Nỗi buồn không chỉ dâng
lên một lúc mà nó còn kéo dài mãi, miên man không dứt. Trên những gợn sóng ấy
xuất hiện “con thuyền xuôi mái" – cô đơn, lạc lõng, bơ vơ. Không nghe thấy tiếng
mái chèo tạo nên tiếng sóng vỗ vào mạn thuyền chỉ thấy một con thuyền buông
xuôi, lênh đênh mặc cho nước xuôi dòng. Câu thơ còn độc đáo trong việc khắc họa
sự tách rời giữa thuyền và nước. Thiên nhiên không chỉ gợi buồn mà khung cảnh
chia lìa cũng thấy rõ.
“Thuyền về nước lại sầu trăm ngả" là câu thơ có thể hiểu nhiều cách. Thứ nhất có
thể hiểu là khi thuyền về nỗi sầu của nước lại nhân lên gấp bội. Cách thứ hai chỉ rõ
hơn về sự chia cắt khi thuyền và nước đi ngược chiều nhau. Lúc thuyền về lại chốn
cũ cũng là lúc nước ở lại với dòng sông cùng nỗi sầu, nhưng nỗi sầu này không chỉ
đi theo nước một nơi mà là nhiều chốn khác nhau. Phép đối đã được sử dụng thành
công để nói về sự chia cách này. Khép lại khổ một Huy Cận mang đến một hình
ảnh đậm nét cô đơn - “củi". Tính chất của hình ảnh này là “khô" – héo úa, không
còn sự sống cùng với phép đối giữa “một cành khô" – “mấy dòng” càng nhấn
mạnh hơn sự chiếc bóng, lẻ loi của củi trên hành trình của mình. Động từ “lạc" đã
nói lên được sự bấp bênh, lênh đênh của sự vật nhưng tác giả dùng “lạc mấy dòng"
thì càng làm rõ hơn sự gian nan, “bảy nổi ba chìm" của củi. Chỉ với khổ một nhưng
tâm trạng mang lại đã buồn bã, u sầu đến vậy.
Tác giả bắt đầu với khổ thơ đầu tiên trong phạm vi hẹp. Đến với khổ thơ tiếp theo,
không gian bây giờ đã được mở rộng hơn.
“Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Nắng xuống trời lên sâu chót vót
Sông dài trời rộng bến cô liêu.”
Hình ảnh “cồn nhỏ" gợi lên không gian vắng lặng, trơ trọi. Tính từ “nhỏ" làm cho
hình ảnh này càng bé nhỏ, chơ vơ kết hợp với từ láy “Lơ thơ" gợi cảm giác ít ỏi
diễn tả bức tranh thiếu sức sống trên cồn cát. Không gian trên cồn không chỉ buồn
mà còn hiu hắt. Đến gió cũng mang cái “đìu hiu" buồn bã, thê lương như nhấn
khung cảnh vào nỗi u sầu. Các câu thơ mà tác giả sử dụng trong bài đôi khi được
hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau. “Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều" có thể hiểu là
một câu hỏi tu từ về vị trí của “tiếng làng xa", trông ngóng về tiếng họp buổi chiều
tà. Tuy nhiên “đâu" cũng là một từ mang nghĩa phủ định, tức là đến cả tiếng nói
cũng những người họp chợ nhà thơ cũng không hề nghe thấy. Tất cả chỉ còn lại
một không gian tĩnh lặng đến lạnh lùng.
Không gian trong khổ thơ thứ hai vừa mở rộng về chiều cao và dài nhưng đồng
thời cũng mở rộng cả chiều sâu vũ trụ. Thủ pháp nghệ thuật tương phản “Nắng
xuống trời lên" đã giúp không gian mở rộng theo chiều cao. Nắng chiếu xuống tới
đâu thì bầu trời càng được đẩy cao tới đó. Chốt lại câu thơ tác giả sử dụng “sâu
chót vót" không những gợi được cái thăm thẳm, hun hút mà còn giúp cho vũ trụ
được kéo dài ra nhấn mạnh hơn sự nhỏ bé của con người trước thiên hà. Câu thơ
cuối cùng của khổ chính là bức tranh thiên nhiên rộng lớn, bát ngát với “sông dài
trời rộng". Trên nền không gian ấy xuất hiện “bến cô liêu". Hình ảnh này không
chỉ lột tả được cái nhỏ nhoi, đơn độc mà “cô liêu" còn là sự quạnh quẽ, lạnh lẽo,
chơ vơ. Nghệ thuật tương phản giữa hình ảnh bé nhỏ với không gian rộng lớn càng
tô đậm hơn sự u sầu, buồn bã của tác giả khi nghĩ về kiếp người trôi nổi, long
đong.
“Bèo dạt về đâu hàng nối hàng
Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.”
“Bèo" – sinh vật phù du mang trong mình kiếp sống trôi nổi, bấp bênh, đã vậy còn
kết hợp với động từ “dạt" làm rõ hơn sự chìm nổi của sinh vật này. “Đâu" từ hỏi về
nơi chốn của “bèo". Hình ảnh bèo lạc lõng, bơ vơ, không điểm tựa không nơi bám
vía. “Hàng nối hàng" như khắc họa rõ hơn về số phận của loài sinh vật này. Đọc
câu thơ ta có thể liên tưởng về những kiếp người nổi trôi, không có nơi nương tựa.
Và trong không gian “mênh mông" đó, tác giả mong ngóng có thể nhìn thấy
chuyến đò để cảm nhận được sự sống nhưng dường như không có tín hiệu đáp lại
sự mong chờ ấy. “Không một chuyến đò" cũng đồng nghĩa không có hoạt động của
con người, điều này càng làm cho nỗi cô đơn dâng lên. Trong khổ thơ này, thi sĩ sử
dụng nhiều từ phủ định nhằm khắc họa sự cô đơn trống vắng của lòng người. Tiếp
sau “không đò” là “không cầu". Chiếc cầu vốn là hình ảnh đặc trưng của miền quê,
mang nét giản dị, thân mật. Nhưng vì hình ảnh này không có nên có thể thấy thiếu
vắng cảm giác quê hương. Câu thơ cuối tác giả sử dụng màu xanh và vàng nhằm
vẽ nên bức tranh tươi sáng hơn nhưng từ láy “lặng lẽ” đã dìm màu sắc này xuống.
Hai hình ảnh “bờ xanh”, “bãi vàng” không còn được tươi tắn như màu sắc ban đầu
của nó. Từ láy này được đưa lên đầu như sự nối tiếp của nỗi cô đơn từ vật này sang
vật khác.
Trong ba khổ thơ đầu, tác giả chỉ miêu tả về thiên nhiên thì khổ thơ cuối cùng thi sĩ
đã bộc lộ nỗi niềm nhớ nước của mình
“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh mỏi bóng chiều xa
Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”
Chỉ với 4 câu thơ nhưng nhà thơ đã cho thấy sự kết hợp hài hòa giữa cổ điển và
hiện đại. Từ láy hoàn toàn “lớp lớp” diễn tả sự chồng chất, nối tiếp nhau. Câu thơ
đầu tiên khắc họa những đám mây từng lớp đùn lên thành những dãy núi bạc. Đến
đây, ta chợt nhớ tới chữ “đùn” trong bài “Thu hứng” của Đỗ Phủ:
“Mặt đất mây đùn cửa ải xa”
Nếu như với Đỗ Phủ câu thơ trên là hình ảnh mây trắng sà xuống thấp tới mức
tưởng như đùn từ mặt đất lên, che lấp cả cửa ải phía xa xa. Thì trong câu thơ “Lớp
lớp mây cao đùn núi bạc” lại mang tới hình ảnh nhiều lớp mây chồng chất lên nhau
giống như nỗi sầu của thi nhân đã thấm sâu vào cảnh vật, nó chất chứa trong tâm
hồn ông giống như tầng tầng lớp lớp mây kia chất chồng thành núi bạc vậy. Câu
thơ tiếp theo tác giả sử dụng thủ pháp cổ điển để nói về tình cảnh lẻ loi đơn độc
của cánh chim trước “bóng chiều sa”. Hình ảnh “chim nghiêng cánh nhỏ” không
chỉ gợi sự đơn độc mà “nghiêng” còn nói tới trạng thái mất cân bằng, không rõ nơi
trú của mình là đâu, hình ảnh này càng làm nổi bật hơn sự lận đận của kiếp người
trước thiên nhiên. Trong không gian buồn ấy, thi sĩ bỗng nhớ về quê hương
“Lòng quê dợn dợn vời con nước”
“Dợn dợn" là gợi lên, dấy lên, có những cảm xúc khó nói. Chỉ cần nhìn thấy “con
nước” là lòng thi sĩ là nhớ về quê hương – nỗi nhớ thường trực. Nếu như ở các câu
thơ trên phải có một hình ảnh, chi tiết nào về cố hương thì thi sĩ mới bộ lộ cảm xúc
của mình còn trong câu thơ cuối “Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà" thì không
cần bất cứ sự vật nào nỗi nhớ ấy vẫn cứ ùa về. Trong thơ Đường hơn nghìn năm
trước cũng từng có tác phẩm nói về nỗi nhớ quê hương
“Nhật mộ hương quan hà xứ thị
Yên ba giang thượng sử nhân sầu.”
(Quê hương khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai)
(Hoàng Hạc Lâu – Thôi Hiệu)
Nhưng Thôi Hiệu nhìn thấy khói sóng liền nhớ về quê nhà của mình còn Huy Cận
không cần thấy gì nỗi nhớ ấy vẫn dấy lên. Nếu như Thôi Hiệu đứng trên xứ người
lòng khắc khoải hướng về cố hương thì Huy Cận lại đặc biệt hơn khi chính ông
đang đứng trên mảnh đất của mình nhưng lòng buồn bã, bâng khuâng khôn nguôi.
Như vậy, bằng cách kết hợp nhuần nhuyễn giữa yếu tố Đường thi và yếu tố Thơ
mới, cùng với việc sử dụng các biện pháp nghệ thuật như từ láy, biện pháp tương
phản,… nhà thơ Huy Cận đã giúp người đọc cảm nhận về một bức tranh thiên
nhiên mênh mông. Ở đó con người có thể cảm thấy sự bé nhỏ của mình trước
không gian, kiếp người ngắn ngủi trước vũ trụ. “Tràng giang” còn là tiếng lòng của
một người con yêu quê hương, đất nước sâu nặng.
Cảm nhận Tràng giang ngắn gọn - Mẫu 3
Tràng Giang là một trong những bài thơ tiêu biểu của tài năng Huy Cận và thể hiện
rõ chất tâm hồn ông. Huy Cận cũng đã nhiều lần kể lại quá trình viết nó. Cảm hứng
thơ được gợi từ phong cảnh sông nước vùng Chèm Vẽ ngoại thành Hà Nội. Bây
giờ nơi này đã là nội thành đông đúc với nhiều nhà cao tầng, biệt thự nhưng vào
thời Huy Cận viết Tràng giang cho đến mấy chục năm sau, nó đìu hiu sông nước,
vắng lặng, đẹp và buồn đúng như trong bài thơ đã tả.
Huy Cận kể lại, ông đã thử vào bài bằng nhiều thể thơ, nhưng cuối cùng chọn thơ
bảy chữ, đậm chất Đường thi. Ông còn cho biết Lớp lớp mây cao đùn núi bạc là do
ông học ở bản dịch thơ Đỗ Phủ “Mặt đất mây đùn cửa ải xa". Ý kết là ông tựa vào
thơ Thôi Hiệu, qua bản dịch của Tản Đà “Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai”
để tả nỗi buồn của lòng mình: Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà. Chính không
gian Đường thi trong hơi thơ bảy chữ tạo nên sự cộng hưởng cảm xúc đồng chiều
ấy. Nếu viết ở thể thơ khác, chưa chắc đã có sự cộng hưởng ấy. Huy Cận buồn hơn
Thôi Hiệu. Huy Cận thừa biết mình đứng nhờ trên vai người ta, có cao nhưng
không chắc mình có chiều cao hơn người ta. Đọc Tràng giang có thể thấy buồn
Hoàng Hạc lâu nhưng là ở nhiều chỗ khác chứ không phải ở câu kết ấy.
Bài thơ Tràng giang có vẻ đẹp cổ điển, trang trọng mở vào cao rộng trời đất mà nỗi
buồn lại thấm thía sâu thẳm xuống một cõi lòng. Nỗi buồn bàng bạc mơ hồ nhưng
đụng vào đầu cũng thấy. Mơ hồ vì buồn không rõ lí do cụ thể. Bàng bạc vì không
rõ sắc thái, không rát bỏng nhưng ngân nga như một nỗi bâng khuâng, một tâm
trạng nhớ không đối tượng: trời rộng nhớ sông dài. Câu đề từ quả đã ôm đủ chủ đề
bài thơ. Nỗi bâng khuâng buồn nhớ đựng đầy không gian. Cảnh nào cũng gợi
buồn, cảnh bị nhiễm vào từ trường tình cảm. Huy Cận nói: Đây là bài thơ của tâm
hồn. Tâm hồn ông khi ấy thường trực một nỗi buồn thế hệ, cái thế hệ vừa biết suy
nghĩ thì chạm ngay vào nỗi buồn mất nước, vào thân phận nhược tiểu, một linh hồn
nho nhỏ/ mang mang thiên cổ sầu. Chất tâm hồn bất thường bắt rất nhạy cảm xúc
không gian rộng xa, vắng lặng hắt hiu. Riêng với Huy Cận, người đã từng
“nghiêng tai kì diệu” nửa nghe vũ trụ nửa nghe lòng mình. Nghe trời nặng nặng,
nghe ta buồn buồn thì không gian trời nước quãng sông Hồng nơi Chèm Vẽ cộng
hưởng với lòng ông mà thành thơ là điều không khó hiểu.
Chữ tràng trong Tràng giang đề bài và trong câu đầu tiên vốn ít dùng trong ngôn
ngữ giao tiếp hơn trường nhưng Huy Cận lại chọn dùng… Có người giảng là để
khỏi nhầm với sông Trường Giang bên Trung Quốc. Chả hiểu có đúng thế không.
Nhưng chỉ căn cứ vào âm thanh (chứ không phải chỉ nghĩa chữ) thì giang hai âm
vang đồng dạng đứng liền nhau gợi được khoảng rộng, dần theo chiều ngang, bát
ngát bao la hơn là trường. Trường chỉ cho thấy chiều dài, đa nghĩa chữ và hình âm
trường thuôn lại trong khi tràng mở ra. Mặt sông dài rộng, nên đầu sóng của sông,
vốn thấp như càng thấp thêm, chỉ như gợn nhẹ mặt sông phẳng. Đã rộng lại tĩnh
nên gợi buồn, buồn điệp điệp. Chứ sóng mà dào dạt hay réo sôi chắc dẫn tới cảm
giác khác. Điệp điệp là trạng thái của gợn sóng trên tràng giang và cũng là của gợn
buồn trong lòng người. Câu vào này buồn thật. Nhưng câu thứ hai: “Con thuyền
xuôi mái nước song song" có người cũng cho là câu thơ buồn, buồn lắm, lấy lí
rằng: song song là chẳng bao giờ gặp nhau, là không gắn bó gì với nhau. Đấy là
vận dụng định lý đường song song trong hình học sơ cấp vào hình tượng văn
chương. E khó thuyết phục. Thuyền nước trong câu thơ này là đang gắn bó, thậm
chí hài hoà xuôi chèo mát mái. Câu thơ này không buồn. Hơn nữa, vui. Đang vui.
(Chữ nước song song chỉ là một dụng ý để đối với buồn điệp điệp). Có đang vui
mới dẫn đến cái buồn ở câu sau. Mới tạo nên mối tương quan: vui chỉ khoảnh khắc
mà buồn thì tất yếu, ấy là lúc thuyền về tới bến, nước vẫn tiếp tục đi, đi một mình,
phiêu bạt hai ngả rẽ vô thường nên mới kinh hãi với cái sầu trăm ngả. Hình ảnh
sông nước đến đây đã nhập vào thân phận con người. Thuyền về nước lại, sầu trăm
ngả. Một chữ lại (trạng từ), lại sầu… cho thấy cách nhìn đời hồi ấy của Huy Cận
khá giống Xuân Diệu (hoa nở để mà tàn - Trăng trong để mà khuyết - Bèo hợp để
chia tan - Người gần để li biệt). Thuyền và nước song song xuôi mái chỉ khoảnh
khắc rồi lẻ loi với bao nhiêu ngã ba sông nước, sầu trăm ngả. Từ hình ảnh trăm ngả
dẫn đến câu cuối đoạn như tổng kết:
Củi một cành khô lạc mấy dòng.
Trên sông Hồng, nhất là mùa lũ có thể thấy cả cây trôi, thân gỗ trôi, vật vã nổi
chìm trong sóng đục phù sa. Cảnh gợi tang thương. Nhưng không phải mà cảm xúc
Huy Cận ở bài này. Ông nói ông phải lựa chọn hình ảnh sao cho ra cai thân phận
của kiếp người. Chọn củi hơn là gỗ, chọn một cành không hơn là những cây tươi.
Củi một cành mà lạc mấy dòng thì đắt quá, chưa kể nó còn ứng với sầu trăm ngả ở
trên.
Đoạn một là nhìn vào mặt sông mà tả. Chi tiết tung hứng, ngôn ngữ đăng đổi và
ngay trung tâm của chủ đề. Đoạn hai nhìn ra xa xung quanh: cồn nhỏ, làng xa, trời
sâu, bến rộng… không gian mở ra rộng – cao để hồn ngấm vào thưa vắng. Thưa
vắng và yên tĩnh. Chỉ một âm thanh xa, vọng tự đâu không rõ, mơ hồ như nghe
trong hoài niệm một phiên chợ quê lúc vãn người. Âm thanh mơ hồ là cách đặc tả
cái tĩnh lặng. Đoạn thơ này mở không gian. Chiều thẳng đứng thì như đang giãn
dần ra theo nắng, theo trời:
“Nắng xuống, trời lên sâu chót vót”.
Sâu chứ không cao là một sáng tạo, gây ấn tượng. Chiều nằm ngang thì “ Sông dài,
trời rộng, bến cô liêu"… Không màu sắc, không âm thanh, không hoạt động. Tất cả
bất động, lặng đi, ngấm vào nỗi cô liêu.
Cõi rộng không giới hạn, tả dễ miên man. Huy Cận tỉnh táo chuyển lại ánh về mặt
sông, về chỗ bắt đầu bài thơ “Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng”. Đẩy mức vắng lặng
tới chỗ bặt dấu người. Hai đoạn trên còn có thuyền, có chợ. Giờ đây, trên sông chỉ
còn có bèo, duy nhất bèo, hàng nối hàng. Không đò ngang, không cầu bắc, không
thấy một công trình nào mang dấu người, chỉ lặng lẽ thiên nhiên với thiên nhiên.
Buồn lan theo cảnh. Buồn trải ra xa “Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”. Rồi lại dựng
lên cao “Lớp lớp mây cao đùn núi bạc". Trút qua đôi cánh chim nhỏ và rơi xuống
một lòng người, ở chỗ cảnh bặt dấu người, nên lòng mới trên lên nỗi nhớ quê, lòng
quê. Tình thế trôi dạt nổi lênh của ngoại cảnh làm con người ngậm ngùi thân phận,
thèm tình cảm ấm áp gia đình quần tụ.
Bài thơ khép lại trong nỗi nhớ nhà. Tính logic trong những bước chuyển của tâm
hồn rất được coi trọng trong bài thơ này. Có lẽ vì thế Huy Cận tự giới thiệu:
“Tràng giang là bài thơ tình, và tình gặp cảnh, một bài thơ về tâm hồn.
Cảm nhận Tràng giang học sinh giỏi - Mẫu 4
Huy Cận là một trong những nhà thơ xuất sắc nhất trong phong trào Thơ mới, thơ
Huy Cận bật lên trong phong trào Thơ Mới với nỗi buồn mênh mang, khắc khoải,
đó là nỗi sầu của một cái tôi giàu ý thức, giàu suy tư về cuộc đời và con người.
“Tràng giang” (trích trong tập thơ “Lửa thiêng”) là bài thơ tiêu biểu, thể hiện rõ
nhất phong cách thơ của Huy Cận, trong mỗi khổ thơ đều chất chứa nỗi buồn da
diết. Đặt cái nhỏ bé của con người trước thiên nhiên mênh mông, Huy Cận đã
thành công khơi dậy nỗi cô đơn, cảm giác chơi vơi, lạc lõng của con người giữa
dòng đời rộng lớn.
Mở đầu bài thơ là những câu thơ đậm phong cách cổ điển giàu hình ảnh và giàu
nhạc điệu, chính những từ láy và cách gieo vần đã tạo nên âm điệu cho cả khổ thơ:
“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng”
“Tràng giang” ở đây không chỉ nói đến một con sông dài mà còn rộng, những con
sóng trên sông được miêu tả rất thật, sống động với từng gợn sóng, đọc câu thơ
“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp” ta cảm nhận được sức gợi rất mãnh liệt,
từng con sóng giống như những nỗi buồn của thi nhân, nỗi buồn ấy cứ dài rộng,
triền miên theo cả không gian và thời gian. Hình ảnh con thuyền xuôi mái chèo,
mặc cho sức nước đẩy đưa gợi sự lênh đênh, phó mặc số phận cuộc đời, cũng bởi
con thuyền so với dòng sông là quá nhỏ bé, dòng nước “song song”, “thuyền về
nước lại” chẳng hứa hẹn sự giao thoa, gặp gỡ lại mang nặng nỗi buồn chia lìa, xa
cách. Ta cảm nhận được sự mới mẻ hiện đại trong “Tràng giang” bởi nó xuất hiện
cái tầm thường, nhỏ bé, vô nghĩa như “củi một cành khô”, đã là củi nhưng cũng chỉ
có một cành mà lại còn là củi khô, hết sức tầm thường, bé nhỏ. Hình ảnh một cành
củi khô lạc trôi bồng bềnh trên dòng nước mênh mông rộng lớn gợi lên nỗi buồn
về một kiếp người nhỏ bé, tầm thường. Nỗi buồn càng thấm sâu hơn vào cảnh vật
khi cảnh càng hoang tàn, quạnh hiu đến nao lòng:
“Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót;
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.”
Cặp từ láy “lơ thơ”, “đìu hiu” cùng gợi lên sự buồn bã, quạnh hiu, cô đơn, không
gian xung quanh đều vắng vẻ, lại thêm tiếng vãn chợ chiều đằng xa, chợ chiều
ngày xưa vốn đã thưa thớt, vắng vẻ, không có được cái nhộn nhịp tấp nập như chợ
sáng, ngay cả tiếng chợ chiều đằng xa cũng không còn nữa, âm thanh cuộc sống
của con người văng vẳng nhạt nhòa. Hai câu thơ sau gợi ra một không gian cao
sâu, dài rộng mênh mông “sâu chót vót”, chiều cao dường như vô tận, “sông dài,
trời rộng”, nhưng đứng giữa cái mênh mông bao la, rộng dài vô tận của vũ trụ đó
lại chỉ có “bến cô liêu”, ta cảm nhận được sự cô liêu không chỉ của bến đò mà còn
là sự cô liêu trong lòng người, con người nhỏ bé như bị choáng ngợp, lạc lõng giữa
đất trời bao la.
“Bèo dạt về đâu hàng nối hàng
Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”
Tiếp nối mạch cảm xúc được gợi ra từ hai khổ thơ đầu, đến đây nỗi buồn vẫn được
khắc sâu vào hình ảnh bèo dạt lênh đênh, lênh đênh vô định lại thêm sự chia ly tan
tác, trời rộng mênh mông nhưng tuyệt nhiên không có bóng dáng con người
“không một chuyến đò ngang”, cũng không có nổi một cây cầu để gắn kết, tạo sự
gần gũi với con người. Chỉ có thiên nhiên với thiên nhiên “bờ xanh” với “bãi
vàng” nối tiếp nhau, có thể nói, nỗi buồn của tác giả không dừng lại ở nỗi buồn
trước trời rộng sông dài mà còn là nỗi buồn về nhân thế, cuộc đời.
“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa
Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”
Khung cảnh trời thu với những đám mây trắng đùn lên phía cuối trời, ánh mặt trời
phản chiếu lên những đám mây đó biến chúng thành những ngọn núi màu bạc
trắng xóa, gợi cảnh thiên nhiên thật kỳ vĩ, tráng lệ. Thế nhưng xen giữa cái tráng lệ
ấy vẫn là nỗi buồn, là hình ảnh cánh chim nhỏ nghiêng mình, con chim bé nhỏ đơn
côi lẻ bóng trong buổi chiều tà gợi nỗi niềm xa vắng nhớ thương, cảnh thiên nhiên
càng hùng vĩ, rợn ngợp bao nhiêu thì nỗi buồn càng sâu lắng và khắc khoải hơn.
Nỗi nhớ quê hương dợn dợn theo từng con nước lên xuống, không thể ngừng,
không thể nguôi ngoai, nỗi nhớ nhà cũng theo đó mà càng da diết, không cần khói
hoàng hôn, không cần tác động ngoại cảnh cũng đủ làm cho sự nhớ nhung tràn
ngập tâm hồn. Nhà thơ khát khao,được trở về quê hương, tìm một bến đỗ cho tâm
hồn, tìm nơi sẻ chia sự cô đơn, trống vắng.
Như vậy, xuyên suốt bài thơ “Tràng giang” của Huy Cận là cả nỗi buồn cứ triền
miên, vô tận, đó là cái buồn của một “cái tôi” đang cô đơn trống trải giữa thiên
nhiên rộng lớn mênh mông. Bài thơ mới chấm phá nét cổ điển đã khắc họa rõ nỗi
buồn nhân thế, niềm khao khát hòa nhập với cuộc đời của nhà thơ, đồng thời là
tình cảm nhớ thương đối với quê hương, đất nước.
Cảm nhận Tràng giang của Huy Cận - Mẫu 5
Huy Cận là nhà thơ của từ thiên nhiên, cuộc sống và con người. Ông thường viết
các vần thơ ca ngợi vẻ đẹp của cuộc sống lao động, của tinh thần hăng say đóng
góp cho xã hội. Ta thấy được nét khoẻ khoắn, vui tươi trong những sáng tác của
ông như: Đoàn thuyền đánh cá, Bài ca cuộc đời,....... Nhưng Huy Cận cũng có
những lúc cô đơn, buồn bã nơi đất khách quê người – điều ít khi ta thấy trong các
tác phẩm của nhà thơ này. Nỗi nhớ quê, nhớ mẹ cùng tâm trạng cô độc, buồn bã
được nhà thơ thể hiện trong bài thơ Tràng giang, được viết năm 1939. Trước cảnh
sông nước bao la, mênh mông, nhà thơ thấy mình bé nhỏ và đơn độc, điều đó gợi
dậy nỗi nhớ quê hương da diết.
Ta cảm nhận được một tâm trạng đượm buồn của tác giả ẩn sau bức tranh thiên
nhiên ở khổ thơ đầu:
“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song.
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng”.
Các từ láy "song song", "điệp điệp" gợi nên một không gian sông nước mênh
mang, bao la và ảm đạm. Trong không gian u ám đó chỉ có duy nhất một hình bóng
con thuyền, nhưng con thuyền nào cũng chơi vơi, vô định và bỏ mặc cho dòng
nước cuốn trôi theo cũng hệt như tâm trạng của nhà thơ lúc này. Những sự vật
cũng chuyển động một cách im lặng, như thể đang bất lực và tuyệt vọng trước cuộc
sống. Hình ảnh "Thuyền về nước lại" nghe sao mà đau xót quá! Thuyền và nước
vốn dĩ là hai sự vật song hành với nhau, thuyền không có nước mới trôi đi, nước
nhờ có thuyền mà về, ấy thế nhưng ở đây Huy Cận đã biểu hiện sự chia cắt của
thuyền và nước, sự chia cắt này gợi một nỗi sầu "trăm ngả"..... Không có gì có thể
đau hơn nữa. Câu thơ cuối cùng của khổ thơ thứ nhất là hình tượng thơ đặc biệt với
hai vế: "Chỉ một cành khô – không nhiều dòng". Lượng chữ "một" diễn tả sự
đơn, chỉ độc một cành củi khô, cũng gần như chỉ có duy nhất một con thuyền. Tâm
trạng buồn bã của nhà thơ được đẩy lên cao trào, khi xung quanh các sự vật cũng
chỉ cô đơn, vắng bóng không biết nhìn về đâu. Nghệ thuật tả cảnh vô tình vừa cho
ra cái đẹp của thiên nhiên, vừa bộc lộ được sự có hồn, là tâm trạng đau buồn của
thi nhân.
Khổ thơ thứ hai tiếp tục diễn tả nỗi cô đơn của tác giả, nhưng có một chút gì đó rõ
ràng hơn:
“Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.”
Nếu như ở khổ thơ đầu, ta chỉ thấy những hình ảnh của thiên nhiên thì đến những
câu thơ này đã xuất hiện hình bóng của con người. Nhưng con người cũng xuất
hiện trong trạng thái thật chán nản, đó là tiếng vãn chợ chiều ở phía xa xa. Một
ngôi làng gần đây đang bắt đầu dọn dẹp cho phiên chợ cả ngày của mình, chỉ còn
lại những tiếng chào tạm biệt, âm thanh vãn chợ văng vẳng đâu đấy. Những tưởng
sự xuất hiện của con người sẽ làm cho bức tranh bớt ảm đạm hơn nhưng không,
chúng lại khiến cho tác giả cảm nhận sâu sắc được tình cảnh của mình, chợ đã
không còn tươi vui, tấp nập như buổi sớm mai, cũng như tâm trạng không còn vui
vẻ, hào hứng của nhà thơ Huy Cận. Hai câu thơ sau miêu tả thiên nhiên cực độc
đáo:
“Nắng xuống, trời lên sâu chót vót,
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.”
Hình ảnh đối lập: “Nắng xuống – trời lên” thể hiện sự buông thả của cuộc đời. Ánh
nắng rực rỡ đã nhường chỗ cho một màn đêm sắp buông xuống. Cụm từ “sâu chót
vót” là hình ảnh cực kì độc đáo, bởi lẽ “chót vót” vốn là một từ để miêu tả độ cao
nhưng ở đây lại được dùng để miêu tả độ sâu, cùng với câu thơ sau tạo nên một
bức tranh vô cùng rộng lớn mà trong đó là sự tồn tại nhỏ bé của tác giả. Khổ thơ
tiếp theo vẫn là một sự buồn thương, u ám trong bức tranh thiên nhiên buổi chiều
tà:
“Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng,
Mênh mông không một chuyến đò ngang.
Không cầu gợi chút niềm thân mật,
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.”
Nhà thơ tiếp tục sử dụng hình ảnh “bèo” trôi, cũng như con thuyền và cành củi khô
ở đoạn đầu, là những số phận lênh đênh, trôi nổi không biết dạt về đâu. Khung
cảnh bên bến sông trơ trọi, không có một chuyến đò để đưa khách, không có một
cái cầu bắc nhịp, chỉ có một bờ bãi rộng lớn bao la. Cả một bức tranh hiện thực
đượm buồn mà nỗi cô đơn của tác giả như đang muốn thoát ra khỏi đó, để có một
cuộc sống tươi đẹp hơn, tươi vui hơn.
Khổ thơ cuối là nỗi nhớ nhà của tác giả:
“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa
Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”.
Cách miêu tả thiên nhiên của Huy Cận đã gợi ra trước mắt người đọc một bức
tranh với những đám mây cứ tầng tầng, lớp lớp hiện ra trên các đỉnh núi cao chót
vót, cùng với đó là hình ảnh con chim nhỏ bay trong bóng chiều tìm đến tổ để về
sum họp với cha mẹ. Có lẽ khi bắt gặp những hình ảnh đó ở các câu thơ đầu, nhà
thơ đã cảm nhận được nỗi buồn ẩn sâu trong lòng người nhưng phải đến lúc trông
thấy hình ảnh cánh chim thì Huy Cận mới bộc lộ rõ nỗi nhớ gia đình, nhớ quê
hương đất nước. Ta thấy được tình cảm yêu thương, gần gũi của nhà thơ với nhân
dân, với quê hương, đất nước. Dù có đang sống nơi nào thì trong lòng của một
người con xa xứ cũng vẫn khắc khoải nhớ đến từng bóng hình của những người
thân thương.
Tràng là dài, giang là sông, tràng giang là sông dài, cũng là một nỗi buồn kéo dài
vô tận của nhà thơ. Huy Cận đã lồng ghép tâm trạng của mình vào từng cảnh vật
trong bài thơ, qua đó bộc lộ nỗi buồn thương và nỗi nhớ nhà tha thiết. Đọc bài thơ,
ta thấy thêm được một khía cạnh khác trong thơ Huy Cận, rằng ông không chỉ viết
hay, viết sâu sắc về sự hồ hởi, tươi vui mà còn viết rất thấm thía, cảm động khi nói
về nỗi buồn. Như vậy, xuyên suốt bài thơ “Tràng Giang” của Huy Cận là cả nỗi
buồn cứ triền miên, vô tận, đó là cái buồn của một “cái tôi” đang cô đơn trống trải
giữa thiên nhiên rộng lớn mênh mông. Bài thơ mới chấm phá nét cổ điển đã khắc
họa rõ nỗi buồn nhân thế, niềm khao khát hòa nhập với cuộc đời của nhà thơ, đồng
thời là tình cảm nhớ thương đối với quê hương, đất nước.
Cảm nhận bài thơ Tràng Giang - Mẫu 6
Huy Cận là một trong những tác giả xuất sắc nhất trong phong trào thơ mới. Thơ
ông rất giàu chất suy tưởng, triết lí, luôn thể hiện sự giao cảm giữa con người và vũ
trụ. Tràng giang là một trong những bài thơ tiêu biểu của tác giả, thể hiện đầy đủ tư
tưởng và phong cách thơ của nhà thơ.
Ngay ở câu đề từ của bài thơ, nhà thơ đã cho người đọc cảm nhận được nỗi buồn
của cảnh vật cũng như của tâm trạng người thi sĩ, lời đề từ đã thâu tóm ngắn gọn
và chính xác cả cảnh lẫn tình của bài thơ.
Sóng gợn Tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng
Đứng trước cảnh mênh mông sông nước, nỗi buồn của tác giả như được nhân lên.
Ngay ở khổ thơ đầu tác giả đã dùng ngôn ngữ giàu hình ảnh để khái quát về cảnh
vật, qua những cảnh vật ấy tác giả muốn thể hiện tâm trạng của mình. Hình ảnh
"sóng gợn" gợi cho ta liên tưởng tới những làn sóng đang lan ra, loang ra đến vô
tận cũng giống như nỗi buồn của nhà thơ âm thầm mà da diết khôn nguôi. Con
sóng ở giữa một dòng sông dài và rộng càng làm cho nỗi buồn của nhà thơ được
nhân lên. Cảnh con thuyền và mọi cảnh vật đều cô đơn càng làm cho người thi sĩ
mang đầy tâm sự trong lòng không biết bày tỏ tâm trạng cùng ai. Tác giả đã dùng
những hình ảnh hết sức đời thường để đưa vào thơ ông và đó là sự sáng tạo độc
đáo trong phong cách thơ của ông.
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót
Sông dài, trời rộng bến cô liêu
Lại một lần nữa tác giả đã dùng những hình ảnh "cồn, gió, làng, chợ, bến" để giãi
bày tâm sự của mình. Bằng cảm nhận của tác giả cảnh vật trở nên thưa và vắng
mang đậm nét buồn, làm cho cảnh vật vắng lặng, buồn tẻ, im ắng và cũng chính vì
im ắng nên nhà thơ cảm nhận được.
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Tác giả nhận được những âm thanh sinh hoạt của đời sống hằng ngày, nhưng âm
thanh đó không rõ ở chỗ nào. Nhà thơ đã cố gắng tĩnh tâm để nghe ngóng cái âm
thanh mơ hồ kia, nhưng không thể cảm nhận được và nhà thơ đã chuyển nhãn quan
của mình đến một điểm mới.
Nắng xuống trời lên sâu chót vót
Sông dài, trời rộng bến cô liêu
Nhà thơ sử dụng nghệ thật đối ý nắng xuống và trời lên để gợi sự chuyển động hai
chiều của đất trời và cũng là nỗi buồn trong tâm trạng của nhà thơ. Đứng giữa một
vùng mênh mông sông nước, đất trời hun hút, con người càng nhỏ bé hơn và nỗi
buồn thì dài vô tận.
Bèo dạt về đâu hàng nối hàng
Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng
Hình ảnh cánh bèo gợi cho ta liên tưởng tới một kiếp người trôi nổi, lênh đênh.
Bèo trôi không biết dạt về đâu, không có một cái cầu, không chuyến đò để đưa
khách, cảnh tưởng như vậy thì làm sao con người thoát được nỗi buồn. Miêu tả
cảnh vật đó, tác giả đã thể hiện niềm khát khao giao cảm với đời, mong muốn thoát
khỏi nỗi buồn u uất của cuộc đời để có cuộc sống tốt đẹp hơn.
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa
Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà
Sau khi ngắm hết những cảnh vật xung quanh mình, nhà thơ đã hướng nhãn quan
của ông đã hướng lên vũ trụ và ông thấy hình ảnh đầu tiên là những đám mây, với
từ "đùn" cho thấy chúng chồng xếp mạnh mẽ lên nhau thành núi sau đó được ánh
hoàng hôn chiếu vào tạo ra màu sắc lấp lánh mà nhà thơ gọi nó là "núi bạc". Hình
ảnh này tuy rực rỡ nhưng lại ẩn chứa nỗi buồn của ông, giống như nỗi buồn của
ông tích tụ như núi cùng với đám mây còn có hình ảnh cánh chim.
Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà
Tác giả đã dùng từ láy "dợn dợn" để diễn tả những con sóng vời theo con nước lan
tỏa ra tích tắc cho thấy nỗi nhớ nhà luôn thường trực trong ông và sẵn sàng lan tỏa
ra khắp nơi.
Bài Tràng giang đã thể hiện nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương đến da diết của nhà thơ.
Đứng trước cảnh thiên nhiên rộng lớn, nhà thơ đã tức cảnh mà sinh tình, đó là tình
cảm chân thành với quê hương đất nước của nhà thơ. Với cách tiếp cận với những
vấn đề gần gũi trong cuộc sống, Tràng giang đã trở thành một sáng tác tiêu biểu
của văn học Việt Nam.
Cảm nhận bài thơ Tràng Giang - Mẫu 7
Huy Cận là một nhà thơ gắn liền với phong trào thi ca cách mạng Việt Nam. Trước
Cách mạng tháng tám, thơ ông mang nỗi sầu về kiếp người và ca ngợi cảnh đẹp
của thiên nhiên, tạo vật với các tác phẩm tiêu biểu như: “Lửa thiêng”, “Vũ trụ ca…
Nhưng sau cách mạng tháng Tám, thơ ông lại mang một màu sắc mới, thơ ông chủ
yếu hướng tới cuộc sống và con người, thiên nhiên, tiêu biểu với những tác phẩm
như: “Trời mỗi ngày lại sáng”, “Đất nở hoa”… Và một trong những tác phẩm
không thể không kể đến đó là tác phẩm “Tràng Giang” được trích từ tập “ Lửa
Thiêng”, bài thơ gợi lên vẻ đẹp của thiên nhiên nhưng lại chất chứa một nỗi buồn
ảm đạm, ẩn dụ cho một kiếp người nhỏ bé, trôi nổi giữa dòng đời vô định.
Với nhan đề “ Tràng Giang” có nghĩa là “ sông dài” đã gợi cho người đọc một
không gian mênh mông, không bến bờ. “Tràng Giang” hai câu từ vừa mang sắc
| 1/30