














Preview text:
ĐỀ 1: Cảm nhận hình tượng người đàn bà
hàng chài qua đoạn trích
“Người đàn bà bỗng chép miệng, con mắt như
đang nhìn suốt cả đời mình:
– Giá như tôi đẻ ít đi hoặc chúng tôi sắm được một
chiếc thuyền rộng hơn, từ ngày cách mạng về đã
đỡ đói khổ chứ trước kia vào các vụ bắc , ông trời
làm động biển suốt hàng tháng, cả nhà vợ chồng
con cái toàn ăn cây xương rồng luộc chấm muối…
-Lão ta trước hồi bảy nhăm cỏ đi lính ngụy
không?-Tôi bỗng hỏi một câu như lạc đề.
-Không chú à cũng nghèo khổ, túng quẫn đi vì
trốn lính – bỗng mụ đỏ mặt – nhưng cái lỗi chính
là đám đàn bà ở thuyền đẻ nhiều quá, mà thuyền lại chật.
– Vậy sao không lên bờ mà ở – Đẩu hỏi.
– Làm nhà trên đất ở một chỗ đâu có thể làm được
cái nghề thuyền lưới vó? Từ ngày cách mạng về,
cách mạng đã cấp đất cho nhưng chẳng ai ở, vì
không bỏ nghề được!
– Ở trên thuyền có bao giờ lão ta đánh chị không? – Tôi hỏi.
– Bất kể lúc nào thấy khổ quá là lão xách tôi ra
đánh, cũng như đàn ông thuyền khác uống rượu…
Giá mà lão uống rượu… thì tôi còn đỡ khổ… Sau
này con cái lớn lên, tôi mới xin được với lão… đưa
tôi lên bờ mà đánh…
– Không thể nào hiểu được, không thể nào hiểu
được! – Đẩu và tôi cùng một lúc thốt lên.
– Là bởi vì các chú không phải là đàn bà, chưa bao
giờ các chú biết như thế nào là nỗi vất vả của
người đàn bà trên một chiếc thuyền không có đàn ông…
– Phải, phải, bây giờ tôi đã hiểu, – bất ngờ Đẩu
trút một tiếng thở dài đầy chua chát, – trên
thuyền phải có một người đàn ông… dù hắn man rợ, tàn bạo?
– Phải – Người đàn bà đáp – Cũng có khi biển động sóng gió chứ chú?
Lát lâu sau mụ lại mới nói tiếp:
– Mong các chú cách mạng thông cảm cho, đám
đàn bà hàng chài ở thuyền chúng tôi cần phải có
người đàn ông để chèo chống phong ba, để cùng
làm ăn nuôi nấng đặng một sắp con, nhà nào
cũng trên dưới chục đứa. Ông trời sinh ra người
đàn bà là để đẻ con, rồi nuôi con cho đến khi khôn
lớn cho nên phải gánh lấy cái khổ. Đàn bà ở
thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không
thể sống cho mình như ở trên đất được! Mong các
chú lượng tình cho cái sự lạc hậu. Các chú đừng
bắt tôi bỏ nó! – Lần đầu tiên trên khuôn mặt xấu
xí của mụ chợt ửng sáng lên như một nụ cười – vả
lại, ở trên chiếc thuyền cũng có lúc vợ chồng con
cái chúng tôi sống hòa thuận, vui vẻ.
– Cả đời chị có một lúc nào thật vui không? -Đột nhiên tôi hỏi.
– Có chứ, chú! Vui nhất là lúc ngồi nhìn đàn con
tôi chúng nó được ăn no…”
( Trích Chiếc thuyền ngoãi xa- Nguyễn Minh
Châu , Ngữ Văn 12 , Tập 2, NXB Giáo dục Việt Nam , 2015, tr.75-76 )
Cảm nhận của anh chị về nhân vật người đàn bà
hàng chài trong đoạn trích trên. Từ đó, bình luận
ngắn gọn về cách bình luận cuộc sống và con
người của nhà văn Nguyên Minh Châu trong tác
phẩm Chiếc thuyền ngoài xa. 1. Mở bài
Nguyễn Minh Châu là cây bút xuất sắc của nền
văn học Việt Nam hiện đại, người mở đường tinh
anh và tài năng nhất (Nguyên Ngọc). Trước 1975,
sáng tác của ông thiên về cảm hứng sử thi với
thiên hướng trữ tình lãng mạn. Sau 1975, nhà văn
trăn trở, tìm tòi đổi mới mạnh mẽ về tư tưởng và
nghệ thuật, đi sâu khám phá sự thật đời sống ở
bình diện đạo đức thế sự. Tâm điểm những khám
phá nghệ thụât của ông giai đoạn này là con
người trong cuộc mưu sinh, trong hành trình nhọc
nhằn kiếm tim hạnh phúc và hoàn thiện nhân
cách. “Chiếc thuyền ngoài xa” là một trong những
truyện ngắn tiêu biểu mang xu hướng của văn học
thời kỳ mới, khai thác số phận cá nhân và thân
phận con người đời thường. Và trong truyện ngắn
đã để lại cho người đọc nhiều ấn tượng với hình
ảnh người đàn bà hàng chài lam lũ, nhọc nhằn,
phải chịu nhiều đau khổ và bất hạnh nhưng lại
mang trong mình một vẻ đẹp đáng quý của người
phụ nữ Việt Nam. Đoạn trích “Người đàn
bà……..được ăn no” đã tập trung thể hiện rõ vẻ đẹp ấy của chị. 2. Thân bài
- Hoàn cảnh ra đời, vị trí, xuất xứ của tác phẩm:
Tác phẩm được sáng tác vào tháng 8 năm
1983, in lần đầu trong tập truyện “Bến quê”
(1985), in lần hai trong tập truyện “Chiếc thuyền
ngoài xa” (1987). Truyện mang xu hướng nghệ
thuật của văn học thời kỳ đổi mới: khai thác số
phận cá nhân và thân phận con người đời thường.
Để khắc họa thành công nhân vật người đàn bà
hàng chài, nhà văn Nguyễn Minh Châu đã đặt
nhân vật vào trong một tình huống độc đáo.
- Phân tích người đàn bà hàng chài: *Hoàn cảnh: (0,5đ)
+ Không có tên: mụ, người đàn bà
+ Trạc ngoài 40 tuổi, cao lớn, thô kệch, rỗ mặt,
lúc nào cũng xuất hiện với khuôn mặt mệt mỏi, tái
ngắt như đang buồn ngủ, với tấm lưng áo bạc phếch và rách rưới.
⟶ cuộc đời nhọc nhằn, lam lũ, quanh năm phải
chống chọi với cái nghèo, cái đói, với thiên tai
khắc nghiệp. Ngay từ hình thức bên ngoài của
nhân vật, tác giả đã dự báo về một số phận lắm
éo le, nghịch cảnh. Người đàn bà xuất hiện với
khuôn mặt mệt mỏi, tái ngắt vì thiếu ngủ, vì lao lực,
khuôn mặt chứa đầy những giọt nước mắt trong
những vết rổ chằng chịt, khuôn mặt cúi xuống
nhẫn nhục khi nói về đời mình, khuôn mặt ấy còn
ám ảnh Phùng mãi sau này.
-Gia cảnh đáng thương: đông con, nghèo khổ lại
thường xuyên bị chồng đánh đập, hành hạ khốn
khổ “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận
nặng” nhưng chị vẫn thầm lặng chịu đựng mọi
đau đớn “bà không hề kêu một tiếng, không
chống trả, cũng không tìm cách chạy trốn”. Cuộc
sống của bà thật cơ cực và bất hạnh, bà coi đó là
lẽ đương nhiên, chỉ đơn giản trong cuộc mưu sinh
đầy cam go, trên chiếc thuyền kiếm sống ngoài
biển xa cần có một người đàn ông khỏe mạnh và
biết nghề, chỉ vì những đứa con của bà cần được sống và lớn lên.
Chứng kiến cảnh ấy, nghệ sĩ Phùng rất kinh
ngạc và quyết định nhờ chánh án Đẩu giúp người
đàn bà ấy. Trước những lời khuyên, đề nghị của
chánh án Đẩu nhưng người đàn bà hàng chài
không chịu bỏ chồng. Những lời giải thích của
người đàn bà hàng chài tại tòa án huyện đã khiến
nghệ sĩ Phùng kinh ngạc và thay đổi quan niệm về
đối tượng nghệ thuật.
*Cuộc trò chuyện, gặp gỡ của người đàn bà
hàng chài tại tòa án huyện:
- Độ lượng giàu lòng vị tha, thấu hiểu chồng
+ Tự nhận lỗi về mình là do đẻ nhiều (nhắc đến 2
lần); đổ lỗi cho hoàn cảnh nếu có chiếc thuyền rộng hơn.
+ Chi tiết “người đàn bà bỗng chép miệng”: ngán
ngẫm, chán nản, buông xuôi, chấp nhận.
+ Chi tiết ăn xương rồng chấm muối: ngoài nhấn
mạnh cuộc sống cơ cực, còn cho thấy sự thấu hiểu của chị.
- Thâm trầm, sâu sắc thấu hiểu lẽ đời
+ Lí giải: không thể làm nhà trên đất vì không làm
được cái nghề chài lưới
+ Những lí do không thể bỏ chồng: 4 lí do + Hiểu chồng
- Giàu đức hi sinh biết chắt chiu hạnh phúc (1,0)
+ Cam chịu mỗi lần bị đánh, xin lên bờ đánh vì
không muốn con chứng kiến.
+ Xin không bỏ chồng (chỉ ra sự khác của chị khi
vừa bước chân đến tòa án huyện và khi chị nói
chuyện và lí giải việc k thể bỏ chồng)
+ Vui nhất là khi nhìn đàn con ăn no
+ Chi tiết “lần đầu tiên trên khuôn mặt xấu xí ửng sáng lên nụ cười”
Liên hệ hình ảnh bà cụ Tứ (thương con, giàu
đức hi sinh, độ lượng, thấu hiểu lẽ đời), so sánh với nhật Nguyệt.
Liên hệ nhân vật Nguyệt trong “Mảnh trăng
cuối rừng” – một sáng tác khác của ông trước
1975: Nguyệt trong “Mảnh trăng cuối rừng” qua
cái nhìn mê muội xen lẫn niềm cảm phục của Lãm
đã được “tráng lên một lớp men trữ tình quá dày”.
Là một nhân vật hoàn mĩ, lí tưởng, Nguyệt đẹp từ
tên gọi cho đến đôi gót chân bóng hồng sạch sẽ,
từng sợi tóc sáng lấp lánh dưới ánh trăng thượng
huyền. Người đàn bà hàng chài trong “Chiếc
thuyền ngoài xa” ……………………………………
…………………………………………………………………
…………………………………………………………………
………………………………………………………………… ………
⟶ Chốt: giá trị nhân đạo và phong cách sáng
tác của tác giả, thông điệp qua xây dựng
nhân vật: Giá trị hiện thực và nhân đạo của
truyện ngắn qua nhân vật người đàn bà hàng chài:
+ Nhà văn tái hiện cuộc sống nghèo khổ, vất vả
của những dân nghèo hàng chài ven biển đông
con lam lũ với những cảnh bạo lực gia đình, đồng
thời lên án, tố cáo nạn bạo lực gia đình.
+ Nhà văn phát hiện, trân trọng những vẻ đẹp
tâm hồn của người đàn bà hàng chài: thương con,
vị tha, bao dung. Đồng thời đặt vấn đề phải tạo
điều kiện sống cho những dân chài để họ không
lâm vào khó khăn, bạo lực gia đình.
Quả thật, Nguyễn Minh Châu là "người gieo
phù sa cho những mảnh đất cằn", là "người ở giữa
cuộc đời để yêu thương và triết lý phủ kín trang
văn". Với hình tượng người đàn bà hàng chài cùng
tình huống truyện mang tính nhận thức và khám
phá nhà văn muốn gửi người đọc một thông điệp
đó chính là vấn đề tiếp cận cuộc sống: cuộc sống
muôn màu muôn vẻ. Con người luôn có những
quan hệ chằng chịt phức tạp. Bởi vậy nhìn nhận
mọi sự việc hiện tượng cuộc sống và con người
không được dễ dãi đơn giản phiến diện công thức.
Chính vì có cái nhìn phiến diện mà Phùng và Đẩu
mới bắt người đàn bà kia bỏ chồng. Khi và chỉ khi
thấu hiểu tấm lòng người đàn bà hàng chài thì
Phùng và Đẩu mới vỡ lẽ ra. Chính người đàn bà
hàng chài đã dạy cho các anh bài học về cách
nhìn nhận cuộc sống: Cuộc sống muôn hình muôn
vẻ nếu chỉ nhìn từ một phía thì sẽ đánh giá lệch
lạc phiến diện. Vậy cần phải có cái nhìn đa diện
nhiều chiều để từ đó đưa nghệ thuật vươn tới
chiều sâu nhân bản “Nghệ thuật phải gắn liền với đạo đức”.
*Chốt nghệ thuật: Nhà văn xây dựng thành
công nhân vật người đàn bà hàng chài với những
nét sâu sắc về ngoại hình, lời nói, cử chỉ, suy nghĩ;
với cách xây dựng tình huống truyện độc đáo, kịch
tính; ngôn ngữ giản dị đời thường đầy dư vị;
giọng điệu chiêm nghiệm suy tư.
3. Kết bài: Qua đoạn trích hình ảnh người đàn bà
hàng chài đã để lại nhiều ấn tượng cho người đọc:
lam lũ, khổ cực, nhẫn nhịn giàu tình thương con,
thấu hiểu lẽ đời. Chính những nét khắc họa từ
ngoại hình đến hành động, lời nói,… đã khiến
người đàn bà hàng chài ấy trở thành biểu tượng
cho những người phụ nữ miền biển đáng thương.
Và hình tượng người đàn bà ấy đã giúp Nguyễn
Minh Châu thể hiện tư tưởng nhân đạo sâu sắc
của mình: đó là sự thương cảm, thấu hiếu dành
cho những số phận bất hạnh bị nghèo đói, bạo lực
bủa vây, nhưng ở họ, vẫn sáng ngời những phẩm
chất tốt đẹp, nhận hậu, vị tha. Qua truyện ngắn,
nhà văn muốn nhắc nhở chúng ta rằng: hãy nhìn
nhận cuộc sống và con người một cách đa diện,
nhiều chiều để phát hiện ra được bản chất thật
sau vẻ đẹp bề ngoài của hiện tượng.
KB2: Khép những trang sách kể về cuộc đời một
người đàn bà vô danh trên biển trong đoạn trích
trên, nhưng dư âm câu chuyện về số phận, cuộc
đời nhọc nhằn, lam lũ, đắng cay ấy vẫn cứ day dứt,
ám ảnh người đọc. Làm thế nào để số phận
những người đàn bà như trong tác phẩm Chiếc
thuyền ngoài xa thoát khỏi tình trạng bi kịch
trên?. Qua tác phẩm nhà văn đã gửi gắm đến độc
giả một thông điệp: con người trong thời đại nào
cũng cần phải có sự thương yêu, lòng thông cảm, phải có niềm tin và
o cuộc đời; người phụ nữ ở thời đại nào cũng cần
được yêu thương, trân trọng.
ĐỀ 2: Trình bày cảm nhận của anh/chị về nhân
vật Phùng trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài
xa của Nguyễn Minh Châu (Ngữ văn 12, Tập hai,
NXB Giáo dục Việt Nam, 2016). Dàn ý 1. Mở bài
Nguyễn Minh Châu là cây bút xuất sắc của nền
văn học Việt Nam hiện đại, người mở đường tinh
anh và tài năng nhất (Nguyên Ngọc). Trước 1975,
sáng tác của ông thiên về cảm hứng sử thi với
thiên hướng trữ tình lãng mạn. Sau 1975, nhà văn
trăn trở, tìm tòi đổi mới mạnh mẽ về tư tưởng và
nghệ thuật, đi sâu khám phá sự thật đời sống ở
bình diện đạo đức thế sự. Tâm điểm những khám
phá nghệ thụât của ông giai đoạn này là con
người trong cuộc mưu sinh, trong hành trình nhọc
nhằn kiếm tim hạnh phúc và hoàn thiện nhân
cách. “Chiếc thuyền ngoài xa” là một trong những
truyện ngắn tiêu biểu mang xu hướng của văn học
thời kỳ mới, khai thác số phận cá nhân và thân
phận con người đời thường. Và trong truyện ngắn
đã để lại cho người đọc nhiều ấn tượng với hình
ảnh người nghệ sĩ Phùng và quá trình nhận thức của anh về nghệ thuật. 2. Thân bài
- Hoàn cảnh ra đời, vị trí, xuất xứ của tác phẩm:
Tác phẩm được sáng tác vào tháng 8 năm
1983, in lần đầu trong tập truyện “Bến quê” (1985),
in lần hai trong tập truyện “Chiếc thuyền ngoài xa”
(1987). Truyện mang xu hướng nghệ thuật của
văn học thời kỳ đổi mới: khai thác số phận cá
nhân và thân phận con người đời thường. Để khắc
họa thành công nhân vật người nghệ sĩ Phùng,
nhà văn Nguyễn Minh Châu đã đặt nhân vật vào
trong một tình huống độc đáo.
- Phân tích người nghệ sĩ Phùng:
+ Giới thiệu về nghệ sĩ Phùng và câu chuyện của
anh: Phùng vốn là người lính của một thời đất
nước rực lửa chiến tranh. Hiện tại anh là nghệ sĩ
nhiếp ảnh, sự hòa hợp giữa nghệ sĩ với chiến sĩ tạo
nên ở anh những phẩm chất cao quý. Được sự
phân công của trưởng phòng mà Phùng cần phải
đến vùng biển miền Trung – nơi từng là chiến
trường cũ của anh để săn một bức ảnh nghệ thuật
cho vào bộ lịch năm sau với chủ đề thuyền và
biển. Và chính chuyến đi này đã cho Phùng những
trải nghiệm và nhận thức mới về cuộc sống.
a. Người nghệ sĩ tài hoa, nhạy cảm trước cái đẹp:
- Là người nghệ sĩ có tài: vị trưởng phòng khó tính
khi muốn có thêm một bức ảnh nữa để bổ sung
thêm vào bộ lịch năm ấy đã yêu cầu nghệ sĩ
Phùng là người thực hiện nhiệm vụ. (đây là nhiệm
vụ vô cùng khó khăn) ⟶ tin tưởng vào tài năng của Phùng.
- Là người nghệ sĩ có trách nhiệm: khi nghệ sĩ
nhiếp ảnh Phùng khoác máy ảnh lên đường đến
vùng biển miền Trung để thực hiện bức ảnh, sau 1
tuần lễ phục kích cũng đã chụp được vài tấm ảnh
tạm ưng ý nhưng vẫn chưa thực sự hài lòng ⟶
Hôm nào cũng dậy sớm ra vùng biển để cố gắng
tìm một bức ảnh mà mình thực sự thỏa mãn.
- Là người nghệ sĩ nhạy cảm trước cái đẹp:
Sau mấy buổi sáng "phục kích", anh đã chụp
được "cảnh đắt trời cho". Đó là cảnh ban mai vùng
ven biển, với "mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe
nhòe vào bầu sương mù trắng như sữa có pha đôi
chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào".
Với tâm hồn nghệ sĩ của mình, anh đắm say, ca
tụng cảnh đẹp như "bức tranh mực tàu của danh
họa thời cổ". Rồi anh cảm thấy tràn ngập niềm
hạnh phúc "bối rối, trái tim như có gì đó bóp thắt
vào". Anh thấy được cái khoảnh khắc trong ngần
của tâm hồn, cảm nhận được chân- thiện-mĩ của
cuộc đời. Anh cảm thấy tâm hồn mình như được
thanh lọc, trở nên trong trẻo và thanh khiết. Từ đó,
anh nhận thức "bản thân cái đẹp là đạo đức".
Bằng con mắt và tâm hồn nghệ sĩ của mình, anh
đã đưa đến cho người đọc một quan niệm về cái
đẹp. Đó chính là cái đẹp là phải có tác dụng thanh
lọc tâm hồn, hướng con người đến cái hoàn mĩ.
b. Người nghệ sĩ có tấm lòng với cuộc đời và con người:
- Lần thứ nhất chứng kiến cảnh bạo hành gia đình:
Sẵn sàng vứt chiếc máy ảnh xuống đất để nhào
tới can thiệp giúp đỡ người đàn bà khốn khổ mặc
dù chiếc máy ảnh rất quý, đặc biệt là đối với người
nghệ sĩ như anh, nhất là khi nó còn đang chứa
đựng kiệt tác nghệ thuật. Tuy nhiên, hơn cả sự
quý giá về vật chất và tinh thần, đó là con người.
Khi cần, anh có thể hi sinh nghệ thuật để bảo về con người
- Lần thứ hai chứng kiến cảnh bạo hành gia đình:
tuy đã thực hiện xong nhiệm vụ được giao nhưng
vẫn ở lại vì anh quan tâm đến gia đình hàng chài
này, thấy mình không thể đứng ngoài cuộc mà
phải làm điều gì đó. Khi chứng kiến cảnh bạo hành
gia đình lần hai nghệ sĩ Phùng đã lao ra can thiệp
kịp thời và bị thương, nhờ bạn mình là chánh án
tòa án huyện giúp đỡ gia đình này.
c. Người nghệ sĩ luôn trăn trở với thiên chức
nghề nghiệp của mình:
* Nhận thức qua hai phát hiện ban đầu:
- Phát hiện về cái đẹp, cái thiện.
- Phát hiện về cái xấu, cái ác đằng sau cái đẹp, cái thiện.
⟶ Chiếc thuyền ngoài xa chính là hình ảnh cuộc
đời khi nhìn ở tầm xa, khi quan sát với cái nhìn hời
hợt ⟶ Cần nhìn nhận con người, sự việc thấu đáo, toàn diện.
_ Phê phán vị trưởng phòng ⟶ phê phán những
quan điểm nghệ thuật đang tồn tại nhan nhản
trong thời kì trước đổi mới ⟶ người nghệ sĩ phải
thay đổi, trước hết là thay đổi tư tưởng.
* Nhận thức qua câu chuyện của người đàn bà
hàng chài: Cuộc đời và con người rất phức tạp ⟶
Đòi hỏi người nghệ sĩ phải dấn thân, phải dùng cái
tâm của mình để cảm nhận, khám phá mới thấu hiểu hết được.
* Nhận thức mới khi đứng trước tấm ảnh của chiếc
thuyền ngoài xa: nghệ thuật phải gắn liền với
cuộc sống, không được xa rời cuộc sống và phải
quay trở về để phục vụ cuộc sống.
• Liên hệ với nhân vật Vũ Như Tô trong đoạn
trích “Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài”
Vũ Như Tô là một kiến trúc sư tài ba có khát
vọng lớn lao, muốn xây dựng cho đời tòa thành
đẹp như trăng sao, sánh ngang với hóa công.
Song Vũ Như Tô lại là một người nghệ sĩ lầm lạc
trong suy nghĩ và hành động. Để xây Cửu Trùng
Đài triều đình đã tróc nã, bắt người, tăng sưu thuế,
gây ra biết bao cảnh lầm than. Giữa hai nhân vật
đều có nét tương đồng: họ đều là người nghệ sĩ tài
hoa và trăn trở với nghề nghiệp; đều mang trong
mình những khát vọng về nghệ thuật nhưng (ban
đầu) chưa có những nhận thức đúng đắn về mối
quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc đời.
Song giữa họ lại có nhiều điểm khác nhau: nếu
nghệ sĩ Phùng sau cùng đã nhận thức ra mối quan
hệ giữa nghệ thuật và cuộc đời thì Vũ Như Tô kết
thúc mọi thứ với bi kịch của mình và của chính
nghệ thuật mà mình theo đuổi. Đến khi chết, Vũ
Như Tô vẫn không nhận ra chân lí, mối quan hệ
mật thiết giữa nghệ thuật và cuộc đời. Chính vì
không hiểu được mối quan hệ giữa nghệ thuật và
cuộc sống, lầm lạc trong suy nghĩ và hành động
đã dẫn đến kết cục bi thảm cho người nghệ sĩ tài
hoa: Vũ Như Tô bị giết, Cửu Trùng Đài bị đốt cháy.
Qua hai nhân vật, dù ở hai thời đại khác nhau
những câu chuyện của họ đều được Nguyễn Huy
Tưởng và Nguyễn Minh Châu xây dựng để nhằm
khẳng định: gười nghệ sĩ phải là người tài hoa và
biết theo đuổi để cống hiến cái tài của mình cho
cuộc đời; người nghệ sĩ cần đưa nghệ thuật của
mình về cuộc đời, cần cúi xuống để nếm vị mặn
của cuộc đời. Những tác phẩm được sinh ra như
vậy mới thực sự có giá trị.
Quả thật, Nguyễn Minh Châu là "người gieo
phù sa cho những mảnh đất cằn", là "người ở giữa
cuộc đời để yêu thương và triết lý phủ kín trang
văn". Với tình huống truyện mang tính nhận thức
và khám phá của người nghễ sĩ Phùng nhà văn
muốn gửi người đọc một thông điệp đó chính là
vấn đề tiếp cận cuộc sống: cuộc sống muôn màu
muôn vẻ. Con người luôn có những quan hệ chằng
chịt phức tạp. Bởi vậy nhìn nhận mọi sự việc hiện
tượng cuộc sống và con người không được dễ dãi
đơn giản phiến diện công thức. Chính vì có cái
nhìn phiến diện mà Phùng và Đẩu mới bắt người
đàn bà kia bỏ chồng. Khi và chỉ khi thấu hiểu tấm
lòng người đàn bà hàng chài thì Phùng và Đẩu mới
vỡ lẽ ra. Chính người đàn bà hàng chài đã dạy cho
các anh bài học về cách nhìn nhận cuộc sống:
Cuộc sống muôn hình muôn vẻ nếu chỉ nhìn từ
một phía thì sẽ đánh giá lệch lạc phiến diện. Vậy
cần phải có cái nhìn đa diện nhiều chiều để từ đó
đưa nghệ thuật vươn tới chiều sâu nhân bản
“Nghệ thuật phải gắn liền với đạo đức”.
+ Đối thoại ngầm với cả một giai đoạn văn học:
(1) Chiếc thuyền ngoài xa: biểu trưng cho
những giá trị và hạn chế của các sáng tác văn học giai đoạn 1945 – 1975.
(2) Chiếc thuyền vào gần: biểu trưng cho yêu
cầu đổi mới văn học nghệ thuật thời bấy giờ. Vì
vậy, tác phẩm được xem là: “Lời ai điếu cho một
giai đoạn văn nghệ minh họa”
*Chốt nghệ thuật: Xây dựng tình huống truyện
độc đáo, hấp dẫn, mang ý nghĩa khám phá, phát
hiện về đời sống; nghệ thuật kể chuyện: sinh
động; Người kể chuyện: là nhân vật Phùng. -> tạo
ra điểm nhìn trần thuật sắc sảo, có khả năng
khám phá đời sống; lời kể khách quan, chân thực,
thuyết phục; Ngôn ngữ nhân vật: phù hợp với đặc
điểm tính cách của từng người. Giọng điệu trần thuật đa dạng
Document Outline
- ĐỀ 1: Cảm nhận hình tượng người đàn bà hàng chài q
- 1.Mở bài
- 2.Thân bài
- - Phân tích người đàn bà hàng chài:
- *Cuộc trò chuyện, gặp gỡ của người đàn bà hàng chà
- - Thâm trầm, sâu sắc thấu hiểu lẽ đời
- - Giàu đức hi sinh biết chắt chiu hạnh phúc (1,0)
- 1.Mở bài
- 2.Thân bài
- -Phân tích người nghệ sĩ Phùng:
- a.Người nghệ sĩ tài hoa, nhạy cảm trước cái
- b.Người nghệ sĩ có tấm lòng với cuộc đời và con ngườ
- c.Người nghệ sĩ luôn trăn trở với thiên chức nghề ng
- •Liên hệ với nhân vật Vũ Như Tô trong đoạn trích “V