












Preview text:
  lOMoAR cPSD| 58097008
CẢM TÌNH ĐẢNG (REVIEW) 
1. Vai trò của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đối với sự ra đời của ĐCSVN?  
Bối cảnh lịch sử 
Đầu tháng 9/1858, thực dân Pháp nổ súng tiến công tại Đà Nẵng, mở đầu cuộc chiến 
tranh xâm lược Việt Nam. Trước sự xâm lược của thực dân Pháp, phong trào đấu tranh giải 
phóng dân tộc theo khuynh hướng phong kiến và tư sản diễn ra mạnh mẽ. Tiêu biểu là phong 
trào Cần Vương (1885 - 1896), cuộc khởi nghĩa Yên Thế (1884 - 1913), phong trào Đông Du 
của Phan Bội Châu, phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục của Phan Châu Trinh,.... Tuy thể hiện 
truyền thống yêu nước, tinh thần kiên cường, bất khuất vì độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam 
song các phong trào đó lần lượt thất bại. Sự thất bại của các phong trào yêu nước, chống thực 
dân Pháp cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20 đã chứng tỏ con đường cứu nước theo hệ tư tưởng 
phong kiến và hệ tư tưởng tư sản đã bế tắc. Cách mạng Việt Nam lâm vào tình trạng khủng 
hoảng sâu sắc về đường lối, về giai cấp lãnh đạo. Nhiệm vụ lịch sử đặt ra là phải tìm một con 
đường cách mạng mới, với một gia cấp có đủ tư cách đại biểu cho quyền lợi của dân tộc, của 
nhân dân, có đủ uy tín và năng lực để lãnh đạo cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ đi đến thành  công. 
Quá trình Nguyễn Ái Quốc ra đi tìm đường cứu nước và đọc được luận cương của  Lenin 
Trong bối cảnh lịch sử đó, Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh với lòng yêu nước, thương 
dân sâu sắc, lại sớm được tiếp thu những tư tưởng tiến bộ của nhân loại về “tự do, bình đẳng, 
bác ái”, đã sớm hình thành ý chí cứu nước, cứu đồng bào. Người nhận thấy những bất cập và 
bế tắc của con đường cứu nước của thế hệ cha anh đang tiến hành và yêu cầu bức bách đối 
với dân tộc là phải tìm kiếm con đường cách mạng mới. Năm 1911, người thanh niên Nguyễn 
Tất Thành rời bến cảng Nhà Rồng ra đi tìm đường cứu nước. Những chuyến đi, những cuộc 
khảo nghiệm, dấu chân Người từng in trên 3 đại dương, 4 châu lục và khoảng 30 quốc gia 
trong 10 năm (1911 - 1920). Quá trình thâm nhập thực tiễn rộng lớn đó đã giúp người thanh 
niên yêu nước nhận thức rõ hơn, khái quát hơn những vấn đề mang tính chất bước ngoặt quan 
trọng, đó là nhận ra diện mạo, bản chất của chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa thực dân: ở đâu bọn 
đế quốc, thực dân cũng tàn bạo, độc ác; ở đâu những người lao động cũng bị bóc lột, áp bức 
nặng nề và “dù màu da có khác nhau, trên đời này chỉ có hai giống người: giống người bóc 
lột và giống người bị bóc lột”. Nhận ra bản chất của các cuộc cách mạng qua nghiên cứu các      lOMoAR cPSD| 58097008
cuộc cách mạng của các nước tư bản chủ nghĩa: “Cách mệnh Pháp cũng như cách mệnh Mỹ, 
nghĩa là cách mệnh tư bản. Cách mệnh không đến nơi, không triệt để, tiếng nói là cộng hòa 
là dân chủ. Kỳ thực bên trong thì nó bóc lột công nông trong nước, ở ngoài thì áp bức thuộc 
địa”. Bắt gặp lý tưởng của Chủ nghĩa Mác Lênin: Người đã tìm thấy con đường cứu nước giải 
phóng cho dân tộc - con đường cách mạng vô sản. Sau này Người có kể lại: “Luận cương của 
Lênin đã làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao! Tôi vui mừng đến 
phát khóc lên. Ngồi một mình trong buồng mà tôi nói to lên như đang nói trước quần chúng 
đông đảo: Hỡi đồng bào bị đọa đày đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con 
đường giải phóng cho chúng ta”. Có thể khẳng định, chính chủ nghĩa yêu nước đã đưa Nguyễn 
Ái Quốc tìm đến lý tưởng cao quý của chủ nghĩa Mác - Lênin, với khát vọng mang lại hòa 
bình cho dân tộc, Người đưa ra những thông điệp mang giá trị vĩnh hằng, đó là những thông 
điệp về hòa bình, độc lập, tự do, hạnh phúc, dân chủ, đó chính là: độc lập dân tộc gắn liền với 
chủ nghĩa xã hội - con đường Người lựa chọn suốt 100 năm qua, nay vẫn là sợi chỉ đỏ, là kim 
chỉ nam cho hoạt động cách mạng Việt Nam. 
Vai trò của Nguyễn Ái Quốc trong việc truyền bá chủ nghĩa M-L vào VN 
Khi xác định con đường cách mạng Việt Nam là con đường cách mạng vô sản theo 
cách mạng Tháng Mười Nga, theo Quốc tế Cộng sản thì Nguyễn Ái Quốc bằng hoạt động 
thực tiễn tích cực của mình ở nước ngoài đã tiến hành truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin về 
Việt Nam, quá trình truyền bá đi từ thức tỉnh đến giác ngộ, từ lựa chọn con đường đến hành 
động cách mạng theo con đường cách mạng vô sản. 
Về tư tưởng: Nguyễn Ái Quốc đã tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt 
Nam nhằm làm chuyển biến nhận thức của quần chúng, đặc biệt là giai cấp công nhân, làm 
cho hệ tư tưởng Mác - Lênin từng bước chiếm ưu thế trong đời sống xã hội, làm chuyển biến 
mạnh mẽ phong trào yêu nước xích dần đến lập trường của giai cấp công nhân. Nội dung 
truyền bá là những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin được cụ thể hóa cho phù hợp 
với trình độ của các giai tầng trong xã hội. 
Người đã sử dụng những phương pháp thích hợp truyền bá chủ nghĩa Mác Lênin vào 
Việt Nam: từ chỗ thức tỉnh đến định hướng hành động, rồi đào tạo đội ngũ những người tuyên 
truyền thông qua một tổ chức vừa tầm thích hợp. Những phương pháp tuyên truyền từ thấp 
lên cao, phù hợp với điều kiện một nước thuộc địa nửa phong kiến. Những bài viết, bài giảng 
với lời văn giản dị, nội dung thiết thực đã nhanh chóng được truyền thụ đến quần chúng.      lOMoAR cPSD| 58097008
Nguyễn Ái Quốc đã dùng ngòi bút của mình tích cực tố cáo, lên án bản chất bóc lột 
của chủ nghĩa thực dân đối với nhân dân các nước thuộc địa và kêu gọi, thức tỉnh nhân dân bị 
áp bức đấu tranh giải phóng. Người đã góp phần quan trọng vào việc tố cáo tội ác của chủ 
nghĩa thực dân Pháp ở các thuộc địa. Chỉ rõ bản chất của chủ nghĩa thực dân, xác định chủ 
nghĩa thực dân là kẻ thù chung của các dân tộc thuộc địa, của giai cấp công nhân và nhân dân 
lao động trên thế giới trong tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp. Đồng thời tiến hành tuyên 
truyền tư tưởng Mác - Lênin, xây dựng mối quan hệ gắn bó giữa những người cộng sản và 
nhân dân lao động Pháp với các nước thuộc địa và phụ thuộc. 
Về chính trị: Người phác thảo những vấn đề cơ bản của đường lối cứu nước đúng đắn 
cho cách mạng Việt Nam, thể hiện tập trung trong những bài giảng của Người cho những cán 
bộ cốt cán của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên tại Quảng Châu (Trung Quốc). Năm 
1927, được in thành sách lấy tên là “Đường cách mệnh”. Những vấn đề then chốt trong tác 
phẩm có tác dụng lớn không chỉ đối với Việt Nam, mà còn đối với cuộc đấu tranh giải phóng 
dân tộc của nhân dân các nước thuộc địa Phương Đông. 
Tác phẩm Đường cách mệnh có giá trị rất lớn trên phương diện lý luận và thực tiễn. 
Nó đóng vai trò chủ đạo trong việc truyền bá tư tưởng cách mạng của Người vào Việt Nam, 
chỉ rõ con đường và biện pháp để nhân dân ta đấu tranh giành độc lập, tự do; đặt cơ sở khoa 
học cho việc hình thành đường lối chiến lược của cách mạng nước ta. Nó là ngọn cờ dẫn dắt 
cách mạng Việt Nam trong thời kỳ vận động thành lập Đảng, chấm dứt sự khủng hoảng về 
đường lối của cách mạng Việt Nam, vạch ra phương hướng cho cách mạng nước ta đi vào quỹ 
đạo của cách mạng vô sản thế giới, góp phần chuẩn bị về chính trị, tư tưởng cho việc thành 
lập Đảng; là thành công nổi bật củaNgười trong chuẩn bị về chính trị và tư tưởng. 
Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã hình thành một hệ thống luận điểm chính trị: Người khẳng 
định con đường cách mạng của các dân tộc bị áp bức; xác định cách mạng giải phóng dân tộc 
là một bộ phận của cách mạng vô sản thế giới; xác định lực lượng cách mạng; xác định vai 
trò lãnh đạo của Đảng; cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân. Những luận điểm 
ấy sau này phát triển thành những nội dung cơ bản trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của  Đảng. 
Về tổ chức: Sau khi từ Liên Xô về Quảng Châu, Người lựa chọn một số thanh niên tích 
cực trong tổ chức Tâm tâm xã lập ra nhóm Cộng sản đoàn (2/1925). Trên cơ sở nhóm Cộng 
sản đoàn Người sáng lập nên Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên (6/1925) tại Quảng Châu 
- Trung Quốc, sau đó Người liên kết với những cộng sản ở thuộc địa đang hoạt động cách      lOMoAR cPSD| 58097008
mạng ở Pháp lập ra Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức Á Đông (7/1925). Các tổ chức là nơi 
để truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin về nước và cũng là sự chuẩn bị quan trọng về tổ chức để 
tiến tới thành lập chính đảng của giai cấp vô sản ở Việt Nam. Nhờ đó, thúc đẩy mạnh mẽ sự 
chuyển biến của phong trào công nhân, phong trào yêu nước Việt Nam những năm 1928 - 
1929 theo khuynh hướng cách mạng vô sản. Đây là một tổ chức tiền thân có tính chất quá độ, 
vừa tầm, thích hợp với thực tiễn cách mạng Việt Nam bấy giờ. Nó giúp cho những người Việt 
Nam yêu nước xuất thân từ các thành phần, tầng lớp dễ tiếp thu tư tưởng cách mạng của 
Người, phản ánh tư duy sáng tạo và là thành công của Người trong chuẩn bị vềmặt tổ chức  cho Đảng ra đời. 
Có thể nói, trong những năm tháng đầy cam go, hiểm nguy, thử thách, với khát vọng 
cháy bỏng giải phóng dân tộc, lãnh tụ NAQ đã hoạt động khẩn trương, tích cực và đầy sáng 
tạo chuẩn bị những tiền đề tư tưởng, chính trị, tổ chức để dẫn đến sự ra đời các tổ chức cộng 
sản ở Việt Nam phù hợp với xu thế tiến bộ của lịch sử. 
Vai trò của Nguyễn Ái Quốc trong việc chủ trì hội nghị thành lập Đảng 
Cuối năm 1929, phong trào cách mạng phát triển mạnh mẽ dẫn tới sự ra đời của ba tổ 
chức cộng sản: Đông Dương Cộng sản Đảng, An Nam Cộng sản Đảng, Đông Dương Cộng 
sản Liên đoàn. Sự ra đời của các tổ chức cộng sản đã khẳng định bước phát triển quan trọng 
của phong trào cách mạng Việt Nam. Tuy nhiên, sự ra đời ba tổ chức cộng sản ở ba miền đều 
tuyên bố ủng hộ Quốc tế Cộng sản, kêu gọi Quốc tế Cộng sản thừa nhận tổ chức của mình và 
đều nhận là đảng cách mạng chân chính, do đó không tránh khỏi phân tán về lực lượng và 
thiếu thống nhất về tổ chức.Trước nhu cầu cấp bách của phong trào cách mạng trong nước, 
với tư cách là phái viên của Quốc tế Cộng sản, Nguyễn Ái Quốc đến Hương Cảng (Trung 
Quốc) triệu tập Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản để lập một chính đảng duy nhất của 
Việt Nam, lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam. 
 Ý nghĩa sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam 
Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản Việt Nam mang tầm vóc lịch sử như là Đại hội 
thành lập Đảng'. Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập là kết quả của cuộc đấu tranh giai 
cấp và đấu tranhdân tộc ở nước ta trong những năm đầu thế kỷ XX, là sản phẩm của sự kết 
hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước, là kết quả của 
quá trình khảo nghiệm, lựa chọn, sàng lọc nghiêm khắc của lịch sử và của quá trình chuẩn bị 
đầy đủ về chính trị, tư tưởng và tổ chức của một tập thể chiến sĩ cách mạng, đứng đầu là lãnh  tụ Nguyễn Ái Quốc.      lOMoAR cPSD| 58097008
Sự kiện này đánh dấu một bước ngoặt trọng đại trong lịch sử cách mạng Việt Nam, 
chấm dứt thời kỳ khủng hoảng về đường lối cứu nước. Chánh cương vắn tắt của Đảng, Sách 
lược vắn tắt của Đảng do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc khởi thảo, được Hội nghị thành lập Đảng 
Cộng sản Việt Nam thông qua, đã xác định: Cách mạng Việt Nam phải tiến hành cách mạng 
tư sản dân quyền (tức cách mạng giải phóng dân tộc) và cách mạng ruộng đất (thổ địa cách 
mạng) để đi tới xã hội cộng sản, tiến lên chủ nghĩa xã hội. Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã 
hội là con đường cách mạng được lựa chọn để thực hiện mục tiêu giải phóng dân tộc, giải 
phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con người. 
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam với Cương lĩnh, đường lối cách mạng đúng 
đắn chứng tỏ giai cấp công nhân Việt Nam đã trưởng thành, đủ sức lãnh đạo cách mạng Việt 
Nam. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam gắn liền với vai trò của Nguyễn Ái Quốc - Hồ 
Chí Minh, người sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện Đảng ta. 
2. Đặc trưng XH XHCN của CL1991 so với CL2011, trình bày đặc trưng XH  XHCN trong CL2011? 
Đặc trưng của XH XHCN được nêu trong CL 1991: 
1/ Do nhân dân lao động làm chủ; 
2/ Có 1 n.KT p.triển cao dựa trên LLSX h.đại và CĐCH về các TLSX chủ yếu; 
3/ Có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc văn hoá dân tộc; 
4/ CN được g.phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng theo 
l.động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có đ.kiện p.triển toàn diện cá nhân; 
5/ Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ. 
6/ Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới3. 
Đặc trưng của XH XHCN được nêu trong CL 2011: 
l/ Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh;  2/ Do nhân dân làm chủ; 
3/ Có nền KT phát triển cao dựa trên LLSX hiện đại và QHSX tiến bộ phù hợp; 
4/ Có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; 
5/ CN có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; 6/ 
Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng. 7/ Có NNPQ 
XHCN của nhân dân, do nhân dân vì nhân dân do ĐCS lãnh đạo; 8/ Có quan hệ 
hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới.      lOMoAR cPSD| 58097008
So với Cương lĩnh 1991, mô hình xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam trong Cương 
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 
2011) có một số điều chỉnh quan trọng. Thực ra, một số điều chỉnh mới trong Cương lĩnh 2011 
về đặc trưng của chủ nghĩa xã hội so với trong Cương lĩnh 1991 đó được nêu ra từ Đại hội X 
của Đảng (2006). Nếu trong Cương lĩnh 1991 chỉ đưa ra 6 đặc trưng của chủ nghĩa xã hội thì 
trong văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Đảng ta đã xác định 8 đặc trưng cơ bản 
của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Theo đó, đặc trưng thứ nhất và thứ bảy được bổ sung mới 
hoàn toàn và trong một số đặc trưng khác (đặc trưng thứ hai, ba và năm) có sự điều chỉnh nhất  định về thuật ngữ. 
Như vậy, không có nghĩa là phải đến Cương lĩnh 2011 Đảng Cộng sản Việt Nam mới 
có sự điều chỉnh, bổ sung các đặc trưng của chủ nghĩa xã hội; trái lại, cùng với sự phát triển 
của công cuộc đổi mới, Đảng đã có những nhận thức ngày càng sâu sắc về chủ nghĩa xã hội 
phù hợp hơn với thực tiễn cuộc sống, kịp thời bổ sung và hoàn chỉnh dần quan điểm, đường 
lối về chủ nghĩa xã hội. Đặc biệt, như trên vừa đề cập, Đại hội X của Đảng đã khẳng định mô 
hình chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam bao gồm 8 đặc trưng. Điều đó muốn nói lên rằng, một số 
điểm mới về các đặc trưng của chủ nghĩa xã hội nêu trong Cương lĩnh 2011 không phải đến 
Đại hội XI mới được bổ sung, mà đã được điều chỉnh từ trước đó; đồng thời, những điểm mới 
trong Cương lĩnh 2011 không chỉ mới so với Cương lĩnh 1996, mà một số chi tiết (trong một 
số đặc trưng cụ thể) cũng mới hơn so với quan niệm của Đảng nêu trong Đại hội X. 
Những bổ sung, điều chỉnh mới:  
Thứ nhất, so với Cương lĩnh 1991, Cương lĩnh 2011 đã bổ sung hai đặc trưng mới: 1/ 
Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh và 7/ Có Nhà nước pháp quyền xã hội 
chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Trong Văn 
kiện Đại hội X, hai đặc trưng quan trọng này cũng đã được nêu ra khi nói về chủ nghĩa xã hội 
mà nhân dân ta xây dựng. Song, trong đặc trưng thứ nhất của Cương lĩnh 2011, tiêu chí dân 
chủ được đặt trước tiêu chí công bằng. Thực tiễn cho thấy, nước ta hiện nay, dân chủ và việc 
thực hiện dân chủ giữ vị trí và vai trò đặc biệt quan trọng trong đời sống xã hội. Dân chủ 
không những là mục tiêu, mà còn là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội theo 
hướng phát triển nhanh và bền vững. Khi dân chủ được bảo đảm mới có thể nói đến công 
bằng và đến lớn mạnh, những điều đó mới thể hiện sự văn minh. 
Việc bổ sung đặc trưng ' có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do 
nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản' thể hiện vị trí đặc biệt quan trọng      lOMoAR cPSD| 58097008
của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong hệ thống chính trị của Việt Nam. Nhà nước 
ấy thuộc về nhân dân, do nhân dân xây dựng nên và hướng tới phục vụ lợi ích của nhân dân, 
là cơ quan quyền lực của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Mục tiêu căn bản của công cuộc 
đổi mới nói chung, của đổi mới chính trị và đổi mới hệ thống chính trị nói riêng ở nước ta 
chính là xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Việc 
xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân 
là một trong những điều kiện tiên quyết để thực hiện và phát huy quyền làm chủ của nhân  dân. 
Thứ hai, nếu Cương lĩnh năm 1991 xác định xã hội xã hội chủ nghĩa là xã hội 
' do nhân dân lao động làm chủ'' thì trong Văn kiện Đại hội X và Cương lĩnh 2011, đặc trưng 
thứ hai được điều chỉnh thành ' do nhân dân làm chủ''. Rõ ràng, khái niệm ' nhân dân” trong 
Văn kiện Đại hội X có nội hàm rộng hơn so với khái niệm ' nhân dân lao động' được đề cập 
trong Cương lĩnh năm 1991. Điều này cho phép thực hiện khối đại đoàn kết toàn dân tộc và 
huy động sức mạnh của toàn dân vào sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước theo định 
hướng xã hội chủ nghĩa. 
Thứ ba, đặc trưng thứ 2 trong Cương lĩnh năm 1991 ' Có một nền kinh tế phát triển cao 
dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu' được 
Cương lĩnh 2011 bổ sung bằng ' Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện 
đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp''. Điều này là cần thiết và đúng đắn. Bởi lẽ, theo quan 
niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin, quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất 
và quan hệ sản xuất là xương sống của mọi hình thái kinh tế - xã hội. Quan hệ sở hữu chế độ 
công hữu) không đồng nhất với quan hệ sản xuất. Dù đóng vai trò hết sức quan trọng, song 
quan hệ sở hữu cũng chỉ là một trong 3 yếu tố (quan hệ sở hữu, quan hệ quản lý và quan hệ 
phân phối) cấu thành quan hệ sản xuất. Cũng cần lưu ý rằng, Đại hội VI của Đảng Cộng sản 
Việt Nam đã rút ra một trong những bài học quan trọng về sự phù hợp của quan hệ sản xuất 
với trình độ phát triển của lựclượng sản xuất. 
Thứ tư, cụm từ ' được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công” trong đặc trưng thứ tư 
của Cương lĩnh 1991 (cụm từ “được giải phóng khỏi áp bức, bất công” ở đặc trưng thứ 5 của 
mô hình chủ nghĩa xã hội nêu trong Văn kiện Đại hội X) được Cương lĩnh 2011 lược bỏ và 
xác định là ' Con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn 
diện”. Theo chúng tôi điều này là hợp lý. Bởi lẽ, sự ''ấm no, tự do, hạnh phúc' của con người 
cũng đã bao hàm ý nghĩa được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột và bất công.      lOMoAR cPSD| 58097008
Thứ năm, trong Cương lĩnh năm 2011 xác định ' con người... có điều kiện phát triển 
toàn diện'' (trong Cương lĩnh 1991 viết: ' Con người... có điều kiện phát triển toàn diện cá 
nhân'', cũng Văn kiện Đại hội X ghi ' con người ... được phát triển toàn diện''). Việc bổ sung 
cụm từ ' có điều kiện” là chính xác thể hiện trong chủ nghĩa xã hội sự phát triển của con người 
luôn được tạo điều kiện, đồng thời phải căn cứ vào trình độ phát triển kinh tế - xã hội của đất  nước. 
Thứ sáu, trong đặc trưng thứ 5 của Cương lĩnh năm 1991 viết ''Các dân tộc trong nước 
bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ”; trong Văn kiện Đại hội X viết: ' Các 
dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tương trợ, giúp nhau cùng tiến bộ' . 
Trong Cương lĩnh năm 2011, đặc trưng này được điều chỉnh thành ' Các dân tộc trong cộng 
đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển''. Việc thay thuật 
ngữ ' tương trợ' bằng thuật ngữ ' tôn trọng' hoàn toàn đúng đắn và làm cho đặc trưng này có 
nội dung toàn diện hơn (với 4 tiêu chí: bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau), bởi thuật 
ngữ ' tương trợ” và ' giúp nhau” (trong Văn kiện Đại hội X), về cơ bản, có nội dung như nhau. 
Thứ bảy, nếu Cương lĩnh 1991 xác định đặc trưng thứ 6 của chủ nghĩa xã hội ở Việt 
Nam là “Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới'' thì trong 
Văn kiện Đại hội lần thứ X và trong Cương lĩnh 2011, nó được diễn đạt một cách chính xác 
hơn - ' Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới' . Cụm từ ' với các nước trên 
thế giới'' rõ ràng rộng hơn cụm từ ' với nhân dân tất cả các nước trên thế giới' . Nó thể hiện 
mối quan hệ hữu nghị và hợp tác của Việt Nam không chỉ với nhân dân các nước, mà cùng 
với nhà nước, chính phủ và các tổ chức phi chính phủ của các nước trên thế giới. 
Mọi kết quả nhận thức đều do thực tiễn quy định: Phải xuất phát từ thực tiễn và được 
chính thực tiễn kiểm nghiệm. Đó là biện chứng của quá trình nhận thức. Đặc biệt, việc xác 
định đúng và trúng những đặc trưng bản chất, cốt lõi của chủ nghĩa xã hội - một xã hội hoàn 
toàn mới và chưa từng có tiền lệ trong lịch sử phát triển xã hội của dân tộc ta, như cách nói 
của V.I.Lênin, chỉ có thể dựa trên cơ sở tổng kết kinh nghiệm thực tiễn xây dựng chủ nghĩa 
xã hội của hàng triệu người khi họ bắt tay vào hành động. Hơn nữa, thực tiễn luôn vận động, 
biến đổi không ngừng; do đó, lý luận cũng phải có sự thay đổi tương ứng nhằm phản ánh đúng 
thực tiễn, phù hợp với thực tiễn. Nghĩa là, sự điều chỉnh, bổ sung và phát triển những đặc 
trưng của chủ nghĩa xã hội cho sát với thực tế khách quan luôn là việc làm cần thiết và phải 
được tiến hành thường xuyên. Đó cũng chính là ý nghĩa của nguyên tắc mang tính phương 
pháp luận mà Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu ra: lý luận phải gắn liền với thực tiễn.      lOMoAR cPSD| 58097008
3. Qua học tập tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức, anh chị hãy phân tích ý nghĩa  của luận điểm: 
“Trời có bốn mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông. 
Đất có bốn phương Đông, Tây, Nam, Bắc. 
Người có bốn đức cần, kiệm, liêm, chính. 
Thiếu một mùa thì không thành trời. 
Thiếu một phương thì không thành đất. 
Thiếu một đức thì không thành người”. 
Để trở thành Đảng viên của ĐCS, anh chị đã ra sức rèn đức, luyện tài của bản 
thân theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh như thế nào? 
Phân tích ý nghĩa 
Trong toàn bộ cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đề 
cao và thực hiện nghiêm minh những đức tính cần, kiệm, liêm, chính. Người xem đây là 
nguyên tắc, là phẩm chất cơ bản có liên quan mật thiết với các nhiệm vụ và công tác hoạt 
động cách mạng khác nhau và thiếu chúng thì khó dẫn đến thành công một cách trọn vẹn, triệt 
để. Bác đã đúc kết những đức gồm: cần, kiệm, liêm, chính ấy là những phẩm chất mà một con 
người phải có; cũng như quy luật của tự nhiên khi “Trời có bốn mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông, 
Đất có bốn phương Đông, Tây, Nam, Bắc”. 
Người đã giải thích về các đức một cách cụ thể, cặn kẽ nội dung của từng khái niệm. 
Để có được Trời hoàn chỉnh, cần phải trải qua bốn mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông. Để có 
được Đất hoàn chỉnh, cần có bốn phương Đông, Tây, Nam, Bắc. Để là người hoàn thiện, cần 
có trong mình cần, kiệm, liêm, chính. Luận điểm trên nhấn mạnh tầm quan trọng của việc rèn 
luyện đạo đức cách mạng nói chung, xây dựng và rèn luyện “tứ đức” nói riêng của một người. 
Bác đã đúc kết đức: cần, kiệm, liêm, chính là những phẩm chất cần phải có của mỗi con người, 
giống như quy luật tất yếu của tự nhiên. Mỗi người, nhất là những người có vị trí ảnh hưởng 
đối với xã hội, đối với cộng đồng phải luôn phấn đấu, tu dưỡng, rèn luyện và thực hành theo 
4 đức: cần, kiệm, liêm, chính; thiếu một đức tính cũng không thành người. 
Những lời dạy của Hồ Chí Minh về vai trò của cần, kiệm, liêm, chính đối với sự phát 
triển toàn diện con người cho đến nay vẫn còn nguyên giá trị. Đây là những cơ sở khoa học, 
cách mạng để Đảng ta vận dụng trong chỉ đạo xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên vừa có 
đức, vừa có tài, vượt qua mọi cám dỗ, khó khăn, để phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân 
dân.Trước yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc đặt ra ngày càng nặng nề, đội ngũ cán bộ, đảng      lOMoAR cPSD| 58097008
viên trong quân đội phải luôn thấm nhuần lời dạy của Bác về vai trò của các đức cần, kiệm, 
liêm, chính đối với sự hình thành phẩm chất, nhân cách của mỗi người; kiên định, vững vàng 
về lập trường, quan điểm; tích cực tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất đạo đức, lối sống theo tư 
tưởng, tấm gương đạo đức và phong cách của Chủ tịch Hồ Chí Minh về cần, kiệm, liêm, 
chính, chí công vô tư; quan tâm xây dựng đơn vị, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của 
bộ đội; luôn nêu gương, đi đầu trong sinh hoạt, học tập, công tác, cổ vũ bộ đội phấn đấu học 
tập, noi theo, vượt qua mọi khó khăn, thử thách, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. 
Qua đó cho thấy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đề cao 4 đức tính trên như điều kiện cần đối 
với mỗi người trong đời sống và hoạt động xã hội. Nếu là người tham gia hoạt động cách 
mạng trực tiếp, 4 đức tính ấy lại càng phải quán triệt và hành động triệt để hơn, có hiệu quả  hơn, nghiêm minh hơn. 
Rèn đức, luyện tài của bản thân 
Rèn đức, luyện tài là rèn luyện theo bốm chuẩn mực cơ bản về phẩm chất của người 
cách mạng và ba nguyên tắc trong xây dựng và thực hành đạo đức. Bốn chuẩn mực 
Một là, với đất nước, dân tộc phải “trung với nước, hiếu với dân”. 
Hai là, với mọi người phải “yêu thương con người, sống có nghĩa, có tình”. 
Ba là, với mình phải thực sự “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”. 
Bốn là, mở rộng quan hệ yêu thương con người đối với toàn nhân loại, người cách 
mạng phải có “tinh thần quốc tế trong sáng”. 
Là một sinh viên của khoa Khoa học Chính trị, bản thân tôi nhận thấy được trách nhiệm 
to lớn của mình đối với tương lai của thế hệ tiếp theo và cả sự phát triển của đất nước. Muốn 
thực hiện được lý tưởng đó, trước hết bản thân tôi cần phải tu dưỡng đạo đức và rèn luyện để 
nâng cao trình độ chuyên môn của mình. Có như vậy mới có thể làm cho đất nước "sánh vai 
với các cường quốc năm châu". 
Rèn đức là rèn luyện những phẩm chất đạo đức truyền thống quý báu của dân tộc Việt 
Nam, trước hết là trung và hiếu. Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, trung với nước, hiếu với dân 
phải gắn bó với dân, gần dân, dựa vào dân, lấy dân làm gốc. Phải nắm vững dân tình, hiểu rõ 
dân tâm, quan tâm cải thiện dân sinh, nấng cao dân trí, làm cho dân hiểu rõ trách nhiệm và 
quyền lợi của người làm chủ đất nước. 
Bên cạnh đó, việc tu dưỡng đạo đức bản thân chính là rèn luyện theo tư tưởng của chủ 
tịch Hồ Chí Minh về cần, kiệm, liêm, chính và chí công vô tư. Cần là lao động cần cù, siêng 
năng; lao động có kế hoạch, sáng tạo, có năng suất cao. Kiệm là tiết kiệm sức lao động, tiết      lOMoAR cPSD| 58097008
kiệm thì giờ, tiết kiệm tiền của dân, của nước, của bản thân mình, tiết kiệm từ cái to đến cái 
nhỏ. Liêm là luôn tôn trọng, giữ gìn của công và của dân. Chính là không tà, là thẳng thắn, 
đúng đắn. Đối với mình không tự cao, tự đại; đối với người không nịnh trên, khinh dưới, 
không dối trá, lừa lọc, luôn giữ thái độ chân thành, khiêm tốn, đoàn kết. Đối với việc thì để 
việc công lên trên, lên trước việc tư, việc nhà. Chí công vô tư là đem lòng chí công vô tư đối 
với người, với việc, “khi làm bất cứ việc gì cũng đừng nghĩ đến mình trước, mà phải nghĩ đến 
đồng bào, đến toàn dân đã… khi hưởng thụ thì mình nên đi sau”, “lo trước thiên hạ, vui sau  thiên hạ”. 
Để trở thành Đảng viên của Đảng Cộng sản Việt Nam, bản thân tôi nhận thấy được sự 
cần thiết của việc phát huy những truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Đặc biệt là lòng yêu 
thương con người và trong bối cảnh hiện đại, đó còn là sự kết hợp với chủ nghĩa nhân văn của 
nhân loại, chủ nghĩa nhân đạo cộng sản. 
Yêu thương con người là phải làm mọi việc để vì con người, vì mục tiêu "ai cũng có 
cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành' ; dám hy sinh, dám dấn thân để đấu tranh giải phóng 
con người. Yêu thương con người là phải tin vào con người, là giúp cho mỗi người ngày càng 
tiến bộ, sống cao đẹp hơn. Yêu thương con người phải thực hiện tự phê bình, phê bình chân 
thành, giúp nhau sửa chữa khuyết điểm. 
 Để đứng vào hàng ngũ của Đảng Cộng sản, tôi nhận thấy sự cần thiết của việc quán 
triệt tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh về tình đoàn kết quốc tế trong sáng. Lòng yêu thương, 
đoàn kết giữa con người với con người không chỉ giới hạn trong phạm vi là “con người Việt 
Nam”. Đó còn là sự mở rộng quan hệ đạo đức với toàn nhân loại vì Người không chỉ là "người 
Việt Nam nhất" như cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng khẳng định, mà còn là "nhà văn hóa lớn 
của thế giới”, “chiến sĩ lỗi lạc của phong trào cộng sản quốc tế”. 
Đoàn kết quốc tế trong sáng theo chủ tịch Hồ Chí Minh là tình đoàn kết quốc tế giữa 
những người vô sản toàn thế giới vì một mục tiêu chung, "bốn phương vô sản đều là anh em"; 
là đoàn kết với các dân tộc vì hòà bình, công lý và tiến bộ xã hội. Đoàn kết quốc tế gắn liền 
với chủ nghĩa yêu nước. Chủ nghĩa yêu nước chân chính sẽ dẫn đến chủ nghĩa quốc tế trong  sáng. 
Ba nguyên tắc 
Một là, nói đi đôi với làm, phải nêu gương về đạo đức. 
Đối với mỗi người, lời nói phải đi đôi với việc làm. Nói đi đôi với làm trước hết là sự 
nêu gương tốt. Sự nêu gương của thế hệ đi trước với thế hệ đi sau, lãnh đạo với nhân viên,      lOMoAR cPSD| 58097008
đảng viên phải nêu gương trước quần chúng. Người nói: "Trước mặt quần chúng, không phải 
ta cứ viết lên trán chữ "cộng sản" mà ta được họ yêu mến. Quần chúng chỉ quý mến những 
người có tư cách, đạo đức. Muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực thước cho người  ta bắt chước". 
Hai là, xây đi đôi với chống. 
Cùng với việc xây dựng đạo đức mới, bồi dưỡng những phẩm chất tốt đẹp, nhất thiết 
phải chống những biểu hiện đạo đức sai trái, xấu xa, không phù hợp với những chuẩn mực 
của đạo đức mới. Xây đi đôi với chống, muốn xây phải chống, chống nhằm mục đích xây. 
Xây dựng đạo đức mới trước hết phải tác động vào nhận thức, đẩy mạnh việc giáo dục, 
từ trong gia đình đến nhà trường, tập thể và toàn xã hội. Những phẩm chất đạo đức chung 
phải được cụ thể hóa, sát hợp với từng tầng lớp, đối tượng. Trong các bài viết của mình, Hồ 
Chí Minh đã nêu rất cụ thể các phẩm chất đạo đức cơ bản đối với từng giai cấp, tầng lớp, với 
mỗi lứa tuổi và nhóm xã hội. 
Trong giáo dục đạo đức, vấn đề quan trọng là phải khơi dậy ý thức đạo đức lành mạnh 
trong mỗi người, để mỗi cá nhân nêu cao nhận thức và tự giác thực hiện. Trong đấu tranh 
chống lại cái tiêu cực, lạc hậu phải phát hiện sớm, phải chú ý đến việc phòng ngừa và ngăn  chặn. 
Trong xây và chống, cần phát huy vai trò của dư luận xã hội, tạo ra phong trào quần 
chúng rộng rãi, biểu dương cái tốt, phê phán cái xấu. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn quan 
tâm đến việc biểu dương gương người tốt, việc tốt. Người đã phát động cuộc thi đua "ba xây, 
ba chống", viết sách "người tốt, việc tốt" để tuyên truyền, giáo dục về đạo đức, lối sống. 
Ba là, phải tu dưỡng đạo đức suốt đời. 
Theo chủ tịch Hồ Chí Minh, đạo đức cách mạng phải qua đấu tranh, rèn luyện bền bỉ 
mới thành, phải coi trọng vai trò của việc tự rèn luyện. Người khẳng định, đã là người thì ai 
cũng có chỗ hay, chỗ dở, chỗ xấu, chỗ tốt, ai cũng có thiện, có ác ở trong mình. Vấn đề là dám 
nhìn thẳng vào con người mình, không tự lừa dối, huyễn hoặc, thấy rõ cái hay, cái tốt, cái 
thiện để phát huy và thấy rõ cái dở, cái xấu, cái ác để khắc phục. Tu dưỡng đạo đức phải được 
thực hiện trong mọi hoạt động thực tiễn, trong mọi mối quan hệ của mình, trong đời tư cũng 
như trong sinh hoạt cộng đồng. 
Để phấn đấu trở thành một người Đảng viên của Đảng Cộng sản Việt Nam, bản thân 
tôi cần phải rèn luyện theo cả ba nguyên tắc vừa nêu trên. Bởi như vậy mới có thể từng bước 
xây dựng, bồi dưỡng được những phẩm chất đạo đức tốt đẹp. Việc rèn luyện đó không chỉ      lOMoAR cPSD| 58097008
trong những giai đoạn nhất định, mà là rèn luyện suốt đời, có như vậy mới trở thành tấm 
gương về đạo đức cho các thế hệ tiếp theo. 
Bên cạnh việc rèn đức, luyện tài cũng là yếu tố quan trọng không thể thiếu đối với bản 
thân của mỗi người. Đặc biệt là đối với bản thân tôi, nhất là trong quá trình phấn đấu tu dưỡng 
theo tư tưởng đạo đức của chủ tịch Hồ Chí Minh và để trở thành Đảng viên của Đảng Cộng 
sản Việt Nam. Trước hết là sự cần thiết của việc trao dồi kiến thức chuyên môn và vững vàng 
về bản lĩnh chính trị. Học tập và trang bị kiến thức, nhận thức đúng đắn về chủ nghĩa Marx - 
Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh, lấy đó làm cơ sở để xây dựng quan điểm chính trị vững vàng, 
tuyệt đối trung thành với mục tiêu, lý tưởng của Đảng.