







Preview text:
Cao trào kháng Nhật cứu nước
1. Bối cảnh lịch sử
Nhật đảo chính Pháp (9 - 3 - 1945)
- Đầu năm 1945, chiến tranh thế giới thứ hai bước vào giai đoạn kết
thúc. Nước Pháp được giải phóng. Phe Phát xít liên tục thất bại
trước phe Đồng Minh trên nhiều mặt trận.Tháng 8/1944, thủ đô
Paris bị chiếm lại, chính phủ bù nhìn Vichy bị sụp đổ, chính phủ
chống phát xít Đức của tướng Charles deGaulle lên nắm quyền.
- Nhật khốn dốn ở Đông Dương. Mâu thuẫn Nhật – Pháp gay gắt.
- Đông Dương: Pháp ráo riết hoạt động chờ cơ hội phản công Nhật.
- Sau khi độc chiếm Đông Dương, phát xít Nhật liền thi hành chính
sách mua chuộc kết hợp với những chính sách đàn áp, khủng bố.
+ Về chính trị, Đế quốc Nhật Bản dùng biện pháp tuyên bố "trao trả
độc lập" cho chính phủ Đế quốc Việt Nam nhưng vẫn giữ nguyên bộ
máy cai trị của Pháp và thay người Nhật vào vị trí người Pháp. Các
đảng phái, tổ chức chính trị theo Nhật chống Việt Minh thừa dịp lập
ra khắp nơi. Người Nhật dùng bộ máy tuyên truyền đồ sộ quảng bá
tinh thần bài Pháp, theo Nhật. Mặt khác, họ huy động quân đội tấn
công vào các chiến khu, các cơ sở cách mạng của Việt Minh.
+ Về kinh tế, Nhật Bản chiếm các cơ sở kinh tế của chế độ cũ, in
giấy bạc mới tung ra thị trường, vơ vét tư liệu sản xuất, hàng
hóa, lương thực và cướp đoạt tài sản của dân chúng; làm cho nền
kinh tế Đông Dương bị kiệt quệ, cuộc sống người dân điêu đứng,
cùng quẫn. Tình trạng đó đã dẫn đến nạn đói Ất Dậu 1945, làm gần
2 triệu người bị chết đói.
2. Diễn biến của cao trào kháng Nhật cứu nước
Dưới ánh sáng của Nghị quyết Hội nghị Ban thường vụ Trung ương
Đảng (9/3/1945) và bản chỉ thị “Nhật – Pháp bắn nhau và hành động
của chúng ta” (12/3/1945).Cả nước dấy lên một cao trào kháng Nhật
cứu nước mạnh mẽ làm tiền đề cho tổng khởi nghĩa tháng Tám.
Đêm 9-3-1945, Nhật đảo chính Pháp; Ban Thường vụ TW họp ở làng
Đình Bảng (Từ Sơn, Bắc Ninh). 12-3-1945, ra Chỉ thị “Nhật – Pháp
bắn nhau và hành động của chúng ta".
– Tại Quảng Ngãi: Ngày 11/3/1945, tù chính trị ở nhà lao Ba Tơ đã
nổi dậy giết giặc cướp đồn, thành lập chính quyền cách mạng,
thành lập đội du kích Ba Tơ và căn cứ địa cách mạng Ba Tơ.
– Tại căn cứ địa Việt Bắc: Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân
và Cứu Quốc quân đã giải phóng nhiều vùng rộng lớn thuộc các tỉnh
Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn, Tuyên Quang, Thái Nguyên (khu giải
phóng Việt Bắc được thành lập).
– Tại các đô thị lớn Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định, Vinh, Huế, Đà
Nẵng, Sài Gòn… liên tiếp nổ ra những cuộc biểu tình chống Nhật, lôi
cuốn hàng triệu người tham gia.
– Tại các vùng nông thôn: Phong trào kháng Nhật cứu nước cũng
dâng lên mạnh mẽ, tiêu biểu nhất là phong trào “Phá kho thóc của
Nhật giải quyết nạn đói”,phong trào được quần chúng hưởng ứng rất đông đảo.
⇨ Tới những ngày đầu tháng 8/1945 cao trào kháng Nhật diễn ra
ngày càng sôi sục. Không khí chuẩn bị khởi nghĩa đã trở nên
hết sức khẩn trương, quần chúng đã sẵn sàng, chỉ chờ chờ cơ
hội là đứng lên tổng khởi nghĩa. 3. Thời cơ
- Lời cam kết ở Hội nghị Yanta, ngày 8/8/1945, Liên Xô tuyên
chiến với Nhật, quân đội Liên Xô tấn công đội quân Quan Đông
tinh nhuệ nhất gồm hơn 1 triệu quân của Nhật ở Đông Bắc Trung Quốc.
- Bên cạnh việc quân đội Liên Xô tiến đánh quân đội Nhật thì Mỹ
ném hai quả bom nguyên tử xuống Hirôsima ngày (6/8/1945) và Nagadaki ngày (9/8/1945).
- Trước sức mạnh của đồng minh, ngày 11/8/1945 Chính phủ
Nhật gửi thông điệp cho Liên Xô, Mỹ và các nước Đồng minh
chấp nhận đầu hàng vô điều kiện.
=> Đúng như dự đoán của lãnh tụ Hồ Chí Minh thì đây là cơ hội
nghìn năm có một để nhân dân ta thực hiện tổng khởi nghĩa.
- Lúc này, thời cơ đã đến. Thời cơ xuất hiện trong những ngày
tháng 8/1945 không chỉ có ở Việt Nam mà còn ở nhiều nước
Đông Nam châu Á bị quân đội Nhật chiếm đóng. Các nước này
tuy có điều kiện khách quan thuận lợi giống như ở Việt Nam,
nhưng không chớp được thời cơ khởi nghĩa hoặc kịp thời phát
động tổng khởi nghĩa nhưng thành quả thu được không nhiều,
vì lực lượng chưa được chuẩn bị đầy đủ, Đảng tiên phong chưa
nắm được quyền lãnh đạo cách mạng… Chỉ có duy nhất ở Việt
Nam từ khi Đảng thành lập năm 1930 đến năm 1945, đảng
từng bước chuẩn bị lực lượng, sẵn sàng chờ thời cơ đến và kịp
thời chớp thời cơ, lãnh đạo nhân dân Tổng khởi nghĩa thắng lợi. 4. Chỉ thị
• Chỉ thị nhận định:
Cuộc đảo chính tạo ra cuộc khủng hoảng chính trị sâu sắc, nhưng
điều kiện khởi nghĩa chưa thực sự chín muồi. Vì:
• Tuy hàng ngũ Pháp ở Đông Dương hoang mang, tan rã đến cực
điểm. Nhưng thế lực thống trị Nhật Bản về cơ bản vẫn ổn định.
• Các tầng lớp nhân dân đứng giữa tất nhiên phải qua 1 thời kỳ
chán ngán những kết quả tai hại của cuộc đảo chính của Nhật,
lúc đó mới ngả hẳn về phe Việt Minh, mới quyết tâm giúp đỡ lực lượng khởi nghĩa.
• Các lực lượng vũ trang vẫn còn lúng túng ở chỗ sửa soạn khởi
nghĩa, chưa sẵn sàng chiến đấu, chưa quyết tâm hy sinh.
Tuy nhiên, chỉ thị đó cũng cho rằng có nhiều cơ hội tốt đang giúp
cho những điều kiện tổng khởi nghĩa mau chín muồi. Cao trào kháng
Nhật sẽ là một cuộc tổng dợt và tiền đề cho tổng khởi nghĩa. • Chỉ thị xác định:
Nhật là kẻ thù chính. Thay khẩu hiệu: “Đánh đuổi Nhật – Pháp” bằng
khẩu hiệu “Đánh đuổi Phát xít Nhật” và đề ra khẩu hiệu “Thành lập
chính quyền cách mạng của nhân dân Đông Dương”.
Ngoài ra chỉ thị còn chỉ rõ: do tình hình tương quan lực lượng giữa ta
và địch ở mỗi nơi không giống nhau, cách mạng có thể chín muồi ở
các địa phương không đều nhau, nên nơi nào thấy so sánh lực lượng
có lợi cho cách mạng thì tiến hành khởi nghĩa từng phần, giành
chính quyền từng bộ phận, rồi tiến tới tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong toàn quốc.
• Chỉ thị chủ trương:
Phát động cao trào kháng Nhật, thay đổi hình thức tuyên truyền và
đấu tranh: Tuyên truyền xung phong, biểu tình tuần hành, bãi công
chính trị, biểu tình phá kho thóc của Nhật, XD các đội tự vệ cứu quốc, v.v.
Như vậy, chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”
có giá trị ý nghĩa như một ngọn cờ dẫn dắt toàn dân ta tiến hành
Cao trào kháng Nhật cứu nước, tạo điều kiện cho sự sáng tạo của
các địa phương trên cơ sở đường lối chung của Đảng.
5. Sự phát triển của cao trào kháng Nhật cứu nước
• Dự kiến điều kiện tổng khởi nghĩa:
- Khi đồng minh vào Đông Dương đánh Nhật, Nhật kéo ra mặt trận cản, phía sau sơ hở
- Nhật mất nước như Pháp 1940, quân Nhật mất tinh thần, hoang mang dao động
• Đẩy mạnh khởi nghĩa từng phần, giành quyền bộ phận chính
- Giữa 3-1945, Cao trào kháng Nhật rất sôi nổi, Đấu tranh vũ trang, khởi nghĩa từng
phần diễn ra ở vùng thượng du và trung du Bắc Kỳ.
- Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân và Cứu quốc quân phối
hợp với lực lượng quần chúng giải phóng hàng loạt xã, châu, huyện
thuộc Cao Bằng, Bắc Can, Lang Sơn, T.Nguyên, T.Quang.
- Ở Bắc Giang, quần chúng thành lập Ủy ban DTGP . Đội du kích
Bắc Giang được thành lập.
- Ở Quảng Ngãi, khởi nghĩa nổ ra ở Ba Tơ. Đội du kích Ba Tơ được thành lập.
• 15-4-1945, Ban Thường vụ TW triệu tập Hội nghị quân sự CM
Bắc Kỳ tại Hiệp Hòa (Bắc Giang). Hội nghị nhận định:
- Tình thế đã đặt nhiệm vụ quân sự lên trên hết Phát triển chiến
tranh du kích, XD căn cứ địa, chuẩn bị cho tổng khởi nghĩa.
- Thống nhất các lực lượng vũ trang thành Việt Nam giải phóng
quân; XD bảy chiến khu trong cả nước.
• 5 và 6-1945, khởi nghĩa từng phần ở nhiều chiến khu, ở cả ba miền.
• Khu giải phóng được thành lập gồm Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng
Sơn, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Hà Giang và một số vùng lân
cận thuộc Bắc Giang, Phú Thọ, Yên Bái, Vĩnh Yên.
• Ở khu giải phóng và một số địa phương, chính quyền nhân dân
hình thành song song với chính quyền tay sai của Nhật
• Thời gian này diễn ra nạn đói, hơn hai triệu đồng bào chết.
Đảng ra khẩu hiệu: “Phá kho thóc, giải quyết nạn đói”.
• Mở trường đào tạo cán bộ quân sự, chính trị…Hồ Chí Minh từ
Cao Bằng về Tân Trào (Tuyên Quang) để chỉ đạo cách mạng.
• Cả nước dấy lên cao trào kháng Nhật cứu nước sôi nổi mạnh mẽ.
⇨ Đây là một cao trào có quy mô rộng lớn, thu hút đông đảo
quần chúng tham gia ở khắp thành thị và nông thôn với những
hình thức đấu tranh phong phú, quyết liệt, thích ứng với thời kì tiền khởi nghĩa
6. Kết quả của cao trào kháng Nhật cứu nước
- Nhật hứng chịu 2 quả bom nguyên tử do Mỹ thả xuống 2thành phố
là Hirosima và Nagasaki khiến phát xít Nhật đầuhàng phe Đồng minh vô điều kiện
- Quân Nhật tại các nước Đông Dương cũng dần tan rã và rút quân
tháo chạy về nước. - Nhiều Đoàn thể được thành lập đặc biệt là Việt
Nam giải phóng quân (15/4/1945) đặc nền móng tiến đến cách mạng tháng 8.
7. Ý nghĩa của cao trào kháng Nhật cứu nước
– Lôi cuốn hàng triệu quần chúng tham gia, rèn luyện cho quần
chúng nhiều hình thức đấu tranh phong phú, quyết liệt, sức mạnh
quần chúng tăng lên vượt bậc, quần chúng sẵn sàng hành động khi thời cơ đến.
– Đây là một cuộc tập dượt vĩ đại để đưa quần chúng tiến lên Tổng khởi nghĩa thắng lợi.
– Cao trào có tác dụng chuẩn bị trực tiếp cho cuộc Tổng khởi nghĩa thắng lợi.
– Qua cao trào kháng Nhật cứu nước, lực lượng chính trị và lực lượng
vũ trang cách mạng ở cả nông thôn và thành thị đều phát triển
nhanh chóng vượt bậc, lực lượng địch suy yếu nghiêm trọng đưa thời
cơ Tổng khởi nghĩa nhanh chóng đến chín muồi.
– Nhờ sự phát triển của cách mạng qua cào trào kháng Nhật cứu
nước nên nhân dân ta đã chớp được thời cơ “ngàn năm có một” để
Tổng khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi.
8. Liên hệ việc đặt mối quan hệ ngoại giao và phát triển đất
nướcNgoại giao Việt Nam:
"Từ nền ngoại giao kháng chiến, kiến quốc đến nền ngoại giao toàn
diện, hiện đại và phục vụ phát triển đất nước."
* Phục vụ giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Sau khi thành lập trong tình thế đất nước “thù trong, giặcngoài”,
thực hiện những quyết sách ngoại giao mưu lược khéo của Đảng và
Bác Hồ, ngoại giao đã góp phần quantrọng bảo vệ chính quyền cách
mạng non trẻ, tạo thời gian hòabình quý giá để đất nước chuẩn bị
lực lượng cho trường kỳkháng chiến.
-Giương cao ngọn cờ hòa bình, độc lập dân tộc gắn liền với chủnghĩa
xã hội, ngoại giao đã trở thành một mặt trận chiến lượctrong hai
cuộc kháng chiến và kiến quốc, tranh thủ được sự ủnghộ to lớn của
các nước xã hội chủ nghĩa và nhân dân yêuchuộng hòa bình trên thế
giới đối với sự nghiệp chính nghĩa củadân tộc.
* Ngoại giao trong công cuộc Đổi mới và hội nhập quốc tế
Thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợptác và
phát triển, đa phương hóa, đa dạng hóa, chủ động và tíchcực hội
nhập quốc tế, vì lợi ích quốc gia - dân tộc, ngoại giaocùng các binh
chủng đối ngoại đã “đi đầu trong kiến tạo hòabình, bảo vệ Tổ quốc
và thu hút nguồn lực cho phát triển đấtnước”và nâng cao vị thế quốc gia.
-Từ khi đại dịch COVID-19 bùng phát và diễn biến phức tạp trênthế
giới và trong nước, ngành Ngoại giao đã tiên phong cùng cácBộ,
ngành đẩy mạnh “ngoại giao y tế”, “ngoại giao vắc-xin”,tranh thủ sự
hỗ trợ kịp thời, hiệu quả của cộng đồng quốc tế vềvắc-xin, thiết bị y
tế và thuốc điều trị, chung tay cùng cả nướcphòng, chống dịch bệnh
và phát triển kinh tế - xã hội
* Xây dựng nền ngoại giao toàn diện, hiện đại, phục vụ phát triển
đất nước trong giai đoạn mới
Để góp phần thực hiện mục tiêu phát triển đất nước theođường lối
Đại hội Đảng XIII, nhiệm vụ của đối ngoại là bảođảm cao nhất lợi ích
quốc gia - dân tộc, triển khai đồng bộ,sáng tạo, hiệu quả hoạt động
đối ngoại, chủ động và tích cựchội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng;
tiếp tục phát huy vai tròtiên phong của đối ngoại trong tạo lập và giữ
vững môi trườnghòa bình, ổn định, huy động các nguồn lực bên
ngoài phục vụphát triển và nâng cao vị thế, uy tín đất nước.
Document Outline
- 1.Bối cảnh lịch sử
- 2.Diễn biến của cao trào kháng Nhật cứu nước
- 3.Thời cơ
- 4.Chỉ thị
- 5.Sự phát triển của cao trào kháng Nhật cứu nước
- 6.Kết quả của cao trào kháng Nhật cứu nước
- 7.Ý nghĩa của cao trào kháng Nhật cứu nước
- 8.Liên hệ việc đặt mối quan hệ ngoại giao và phát tr