









Preview text:
1. * Quan điểm của Hồ Chí Minh về bản chất, đặc trưng của chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam
Sáng tạo của Hồ Chí Minh là xuất phát từ thực tiễn đất nước, Người đã đưa
ra những quan niệm về của chủ nghĩa xã hội một cách thiết thực, cụ thể, với những nội dung chủ yếu sau:
- Bản chất của chủ nghĩa xã hội là giải phóng con người (cộng đồng và cá
nhân). Chủ nghĩa xã hội là chế độ xã hội mà mọi thiết chế, cơ cấu xã hội đều
hướng tới mục tiêu giải phóng con người, đảm bảo cho con người được phát triển tự do, toàn diện.
- Chủ nghĩa xã hội có những đặc trưng bản chất như sau:
Thứ nhất, đó là một chế độ chính trị dân chủ, do nhân dân là chủ, làm chủ,
mọi quyền hành, mọi lực lượng đều ở nơi dân, có nhà nước của dân, do dân, vì
dân, dựa trên khối đại đoàn kết toàn dân.
Thứ hai, Chủ nghĩa xã hội có nền kinh tế phát triển cao, dân giàu nước
mạnh, có khoa học, kỹ thuật tiên tiến, hiện đại
Thứ ba, Chủ nghĩa xã hội là chế độ không còn áp bức, bóc lột, bất công dựa
trên chế độ sở hữu xã hội về tư liệu sản xuất và thực hiện phân phối theo lao động
Thứ tư, Chủ nghĩa xã hội là một xã hội phát triển cao về văn hóa, đạo đức,
có hệ thống quan hệ xã hội dân chủ, bính đẳng, công bằng, con người được giải
phóng, phát triển tự do, toàn diện trong sự hài hòa giữa xã hội với tự nhiên.
Thứ năm, Chủ nghĩa xã hội là công trình tập thể của nhân dân, do nhân dân
tự xây dựng lấy dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản. Đó là một chủ nghĩa xã hội
của dân, do dân, vì dân, là hiện thân đỉnh cao của tiến trình tiến hóa lịch sử nhân loại.
* Động lực của chủ nghĩa xã hội
- Tất cả các nguồn lực, như: nguồn lực về vốn, khoa học kỹ thuật, con
người... Trong đó nguồn lực con người là bao trùm và quyết định nhất. Vì tất cả
đều phải thông qua con người; nguồn lực này là vô tận, trong đó trí tuệ con người
càng khai thác càng tăng trưởng.
Hồ Chí Minh yêu cầu phải đặc biệt chú trọng, phát huy động lực con người
trên cả phương diện cộng đồng và cá nhân:
+ Phát huy sức mạnh cộng đồng, thực hiện đại đoàn kết dân tộc và có chính
sách đúng đắn về giai cấp, dân tộc, tôn giáo…
+ Phát huy sức mạnh đoàn kết của cộng đồng dân tộc là động lực chủ yếu để
phát triển đất nước. Cần phải:
Thứ nhất, đảm bảo lợi ích của dân, thực hành dân chủ và đặt quyền lợi của dân lên trên hết.
Thứ hai, phát huy tính năng động, sáng tạo của cá nhân người lao động. Hồ
Chí Minh yêu cầu phải coi trọng các giải pháp:
1) Các giải pháp tác động vào nhu cầu và lợi ích, trước hết là lợi ích vật chất
của người lao động (khoán, khen thưởng, xử phạt về vật chất).
2) Các giải pháp kích thích về chính trị, tinh thần (thi đua, phát huy tinh thần yêu nước.)
3) Thực hiện công bằng xã hội
Kết luận: Theo Hồ Chí Minh, lợi ích của dân, dân chủ của dân, đoàn kết toàn
dân gắn bó hữu cơ với nhau, là cơ sở là tiền đề của nhau tạo nên động lực mạnh mẽ
nhất trong hệ thống động lực cuả chủ nghĩa xã hội.
- Chú trọng khai thác các nguồn ngoại lực: Hợp tác, đặc biệt là với các
nước xã hội chủ nghĩa anh em, tranh thủ sự ủng hộ của nhân loại tiến bộ, các
thành tựu của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật, ...
* Đi đôi với động lực cần nhận diện và khắc phục các lực cản của chủ nghĩa xã hội.
+ Hồ Chí Minh đã chỉ ra những lực cản chủ yêu nhất:
Thứ nhất là chủ nghĩa cá nhân - căn bệnh “mẹ”, “bệnh gốc”, “kẻ thù hung ác
nhất của chủ nghĩa xã hội” từ đó “đẻ ra trăm thứ bệnh nguy hiểm”.
Hồ Chí Minh vạch rõ: “Chủ nghĩa cá nhân là một thứ rất gian giảo, xảo
quyệt, nó khéo dỗ dành người ta đi xuống dốc. Nó là một thứ vi trùng rất độc, đẻ ra
hàng trăm thứ bệnh: tham ô, hủ hóa, lãng phí, xa hoa, tham danh trục lợi, thích địa
vị quyền hành, tự cao tự đại, coi thường tập thể, xem khinh quần chúng, độc đoán,
độc quyền, quan liêu, mệnh lệnh,
Chú ý là Hồ Chí Minh chống chủ nghĩa cá nhân, nhưng không chống lợi ích
cá nhân. Người chú trọng đảm bảo lợi ích cá nhân chính đáng, song phải chống chủ
nghĩa cá nhân „chỉ vì mình, quê mình mà kết thành phe cánh“, “đó là những điều
rất nguy hại cho chủ nghĩa xã hội ”.
Thứ hai là “Giặc nội xâm”: tham nhũng, lãng phí, quan liêu (bệnh gốc).
Thứ ba là tệ chia rẽ, bè phái, mất đoàn kết làm giảm sút uy tín và sức mạnh
của Đảng, của cách mạng.
Thứ tư là tệ chủ quan, bảo thủ lười biếng không chịu học tập lý luận, học tập cái mới.
Việc phát huy động lực, khắc phục được các lực cản trong xây dựng Chủ
nghĩa xã hội phụ thuộc vào vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản và hiệu quả quản
lý của nhà nước xã hội chủ nghĩa.
2. Một số nguyên tắc, bước đi, biện pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội
trong thời kỳ quá độ.
* Những nguyên tắc có tính chất phương pháp luận:
+ Quán triệt nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin, học tập kinh nghiệm của
các nước nhưng không được giáo điều, máy móc. Phải giữ vững độc lập dân tộc, tự chủ, tự cường.
+ Căn cứ vào điều kiện thực tế, đặc điểm dân tộc, nhu cầu và khả năng thực
tế của nhân dân để xác định bước đi cho phù hợp.
* Về bước đi cụ thể của thời kỳ quá độ:
Trong thời kỳ quá độ, Hồ Chí Minh chưa nói rõ các bước đi cụ thể, song tìm
hiểu kỹ tư tưởng của Người, chúng ta có thể hình dung ba bước sau:
Thứ nhất: Ưu tiên phát triển nông nghiệp,
Thứ hai: phát triển tiểu công nghiệp và công nghiệp nhẹ
Thứ ba là phát triển công nghiệp nặng
- Thời kỳ quá độ phải trải qua nhiều bước (nhiều chặng đường). Bước dài,
bước ngắn là do hoàn cảnh cụ thể của từng giai đoạn
- Phương hướng chung là phải tiến lên dần dần, từ thấp đến cao, đi bước nào
vững chắc bước ấy, phải coi trọng các khâu trung gian, quá độ nhỏ.
- Không ham làm lớn, làm mau, không được chủ quan, nóng vội ‚‘‘đốt cháy
giai đoạn‘‘ trong xây dựng chủ nghĩa xã hội.
* Về biện pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội
- Trong điều kiện chiến tranh, Hồ Chí Minh chủ trương thực hiện đồng thời
2 nhiệm vụ chiến lược: xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh giải
phóng miền Nam; vừa sản xuất vừa chiến đấu, vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa
bảo vệ chủ nghĩa xã hội
- Biện pháp cơ bản xây dựng chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ quá độ gồm:
+ Kết hợp cải tạo với xây dựng, trong đó xây dựng là chủ yếu và lâu dài
+ Thực hiện đường lối phát triển kinh tế xã hội hài hòa đảm bảo cho các
thành phần kinh tế, thành phần xã hội đều có điều kiện phát triển
+ Phương thức chủ yếu để xây dựng chủ nghĩa xã hội là “đem tài dân, sức
dân, của dân mà làm lợi cho dân”; “đó là chủ nghĩa xã hội nhân dân'', không phải
là chủ nghĩa xã hội Nhà nước“; xây dựng chủ nghĩa xã hội không thể bằng mệnh lệnh từ trên xuống.
+ Coi trọng vai trò quyết định của biện pháp tổ chức thực hiện và phát huy
nỗ lực chủ quan trong việc thực hiện kế hoạch kinh tế xã hội. Hồ Chí Minh chủ
trương: chỉ tiêu một, biện pháp mười, quyết tâm hai mươi,...có như thế kế hoạch
mới hoàn thành tốt được
3. * Quan niệm về nhà nước của dân, do dân, vì dân
- Sợi chỉ đỏ xuyên suốt tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề nhà nước là chủ
trương xây dựng một nhà nước do Nnhân dân lao động làm chủ... Đây cũng là
điểm sáng tạo của Hồ Chí Minh so với quan điểm của các nhà kinh điển Mác -
Lênin và cũng là điểm cơ bản nhất để phân biệt nhà nước ta với nhà nước trước đó. - Nhà nước của dân:
+ Là nhà nước mà tất cả mọi quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân
Việt Nam. Việc nước là việc chung, mỗi một con Rồng cháu Tiên, bất kỳ già trẻ,
gái trai, giàu nghèo, nòi giống, tôn giáo... đều phải ghé vai gánh vác một phần.
+ Dân là chủ nhà nước, mọi quyền lực đều thuộc về nhân dân. Quyền bính
của cán bộ, công chức nhà nước là do dân ủy nhiệm, giao phó.
+ Dân có quyền bầu (ủy nhiệm) và bãi miễn người thay mặt mình vào Quốc
hội và các cơ quan quyền lực nhà nước; kiểm soát các công việc của NN; giám sát
hoạt động của các đại biểu do mình bầu ra thông qua các thiết chế dân chủ. - Nhà nước do dân:
+ Nhà nước do dân lập ra - Dân cử ra các đại diện của mình tham gia quản
lý nhà nước và xã hội;
+ Nhà nước do dân xây dựng, ủng hộ và bảo vệ; nhà nước được dân phê
bình, giám sát, tạo điều kiện để nhà nước ngày càng hoàn thiện hơn.
+ Các cơ quan nhà nước, cán bộ công chức phải lắng nghe ý kiến nhân dân,
liên hệ chặt chẽ với nhân dân, chịu sự kiểm soát của nhân dân. Nhân dân có quyền
bãi miễn các cơ quan nhà nước nếu tỏ ra không xứng đáng với tín nhiệm của dân
- Nhà nước vì dân:
+ Mọi hoạt động của nhà nước đều phải vì nhân dân, hướng vào việc phục
vụ nhân dân. Đem lại quyền lợi chonhân dân là mục tiêu cơ bản của nhà nước ta.
+ Mọi công chức nhà nước từ Chủ tịch nước trở xuống đều là công bộc
(người phục vụ chung của xã hội) của dân
+ Chính quyền các cấp phải chăm lo cho dân từ việc lớn đến việc nhỏ, các
cơ quan nhà nước quản lý xã hội là để lo cho dân: Nếu để cho dân đói, chính phủ
có lỗi, nếu để cho dân giét, chính phủ có lỗi, nếu để cho dân không được học hành, chính phủ có lỗi
+ Cán bộ nhà nước là người phục vụ, đồng thời còn là người lãnh đạo, người
hướng dẫn của nhân dân, phải "xứng đáng vừa là người lãnh đạo, vừa là người đày
tớ thật trung thành của nhân dân”.
* Xây dựng nhà nước trong sạch, vững mạnh
Kiểm soát quyền lực nhà nước
- Kiểm soát quyền lực nhà nước là tất yếu vì xu hướng tha hóa quyền lực là
khuyết tật bẩm sinh của bộ máy nhà nước.
- Quyền lực nhà nước là do dân ủy thác, nhưng phải làm sao để dân ủy
quyền nhưng không mất quyền. Vì vậy, quyền lực phải được kiểm soát.
- Về phương thức kiểm soát quyền lực nhà nước, theo Hồ Chí Minh trước
hết cần phát huy vai trò, trách nhiệm của Đảng cộng sản.
+ Đảng là đội tiên phong chiến đấu của giai cấp và dân tộc, là Đảng cầm
quyền nên có quyền và có trách nhiệm kiểm soát quyền lực Nhà nước thông qua
công tác kiểm tra, kiểm soát hoạt động của nhà nước và công chức nhà nước.
+ Kiểm soát quyền lực nhà nước còn dựa trên cách thức tổ chức và phương
thức vận hành của nhà nước (kiểm soát bên trong ).
+ Phải có cơ chế huy động sự kiểm soát của nhân dân đối với nhà nước (kiểm soát bên ngoài)
Phòng chống tiêu cực trong nhà nước
- Hồ Chí Minh là người phát hiện rất sớm những vấn đề tiêu cực trong quá
trình xây dựng nhà nước mới. Phải chống đặc quyền, đặc lợi và các tiêu cực khác,
giữ cho nhà nước luôn trong sạch, vững mạnh.
Chỉ một tháng sau khi giành được độc lập, trong thủ gửi ủy ban nhân dân
các kỳ, tỉnh, huyện và làng (10/1945), Người chỉ ra 6 căn bệnh: trái phép, cậy thế,
hủ hóa, tư túi, chia rẽ, kiêu ngạo
Cậy thế: cậy thế mình ở trong bộ máy nhà nước để ngang tàng, muốn sao
được vậy, coi khinh dư luận, không nghĩ đến dân, quên rằng dân bầu ra mình là để
làm việc cho dân chứ không phải để cậy thế với dân.
Hủ hóa: ăn tiêu xa xỉ, thậm chí lấy của công dùng vào việc tư, quên cả thanh
liêm, đạo đức, “Ông ủy viên đi xe hơi, rồi bà ủy viên cho đến các cô cậu ủy viên
cũng dùng xe hơi của công. Thử hỏi những hao phí đó ai phải chịu?.
Tư túng: kéo bè kéo cánh, bà con bạn hữu, không tài năng gì cũng kéo vào
chức này chức nọ, người có tài đức, nhưng không vừa lòng mình thì đẩy ra ngoài.
Quên rằng việc công, chứ không phải việc riêng gì dòng họ của ai.
Chia rẽ: bênh lớp này chống lớp khác, không biết làm cho các tầng lớp nhân
dân nhân nhượng, hòa thuận với nhau.
Kiêu ngạo: tưởng mình ở trong cơ quan chính phủ là thần thánh rồi, coi
khinh ND, cử chỉ lúc nào cũng vác mặt “quan cách mạng” lên.” (T4, 57, 58)
- Bộ máy nhà nước từ trung ương đến làng xã không sợ sai lầm, mà phải biết
nhận ra sai và hết sức sửa chữa. Hồ Chí Mnh viết: “Không sợ sai lầm, nhưng đã
nhận biết sai lầm thì phải ra sức sửa chữa. Vậy nên, ai không phạm những lầm lỗi
trên này, thì nên chú ý tránh đi, và gắng sức cho thêm tiến bộ. Ai đã phạm những
lầm lỗi trên này, thì phải hết sức sửa chữa; nếu không tự sửa chữa thì chính phủ sẽ
không khoan dung. Vì hạnh phúc của dân tộc, vì lợi ích của nước nhà, mà tôi phải
nói. Chúng ta phải ghi sâu những chữ “công bình, chính trực” vào lòng” (T4, 58)
- Phải kiên quyết chống lại tệ đặc quyền, đặc lợi, lợi dụng, lạm dụng quyền
lực để sách nhiễu nhân dân; bệnh tham ô, lãng phí, quan liệu được Hồ Chí Minh
coi như kẻ “giặc nội xâm” phải kiên quyết chống như đánh giặc trên mặt trận nhằm
tránh nguy cơ suy thoái, đổ vỡ không lường hết được
- Để chống tiêu cực trong bộ máy nhà nước, phương pháp luận của Hồ Chí
Minh là quy tất cả các quan hệ phức tạp của XH thành mối quan hệ với mình, với
công việc, và với người.
+ Với mình phải cần, kiệm, liêm, chính chí công vô tư, phải tự mình xử lý chính mình.
+ Với người khác phải biết thương yêu, quý trọng, nhất là phải tin tưởng vào
nhân dân, lắng nghe ý kiến của nhân dân, hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân;
+ Với công việc phải tận tụy, làm đến nơi đến chốn.
- Để xây dựng nhà nước trong sạch, vững mạnh, hiệu quả, Hồ Chí Minh
nhấn mạnh hai nội dung sau:
+ Tăng cường pháp luật: hoàn thiện pháp luật, xử lý mọi sai phạm một cách
nghiêm minh theo đúng quy định của pháp luật. Điều này phù hợp với yêu cấu
khách quan của NN mới, và là đòi hỏi cấp thiết của thực tiễn: nước ta kinh tế tiểu
nông, người dân chỉ quen sống theo luật tục mà chưa quen sống theo pháp luật.
+ Tăng cường pháp luật phải đi đôi với đẩy mạnh giáo dục đạo đức. đức
(Thực chất là kết hợp đức trị với pháp trị - Nét đặc sắc trong Tư tưởng Hồ Chí
Minh về xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam)
Bởi đạo đức và pháp luật là hai hình thái ý thức xã hội kết hợp, bổ sung cho
nhau; nước ta có truyền thống đức trị, nhân dân rất coi trọng đạo đức, nhất là đạo
đức của người cầm quyền; kết hợp đức trị với pháp trị là một truyền thống trong
đường lối trị nước ở phương Đông cần được kế thừa, phát huy.
4 . Đạo đức là gốc, là nền tảng tinh thần của xã hội, của người cách mạng
Hồ Chí Minh coi đạo đức là yếu tố cốt lõi, là nền tảng quan trọng nhất để
xây dựng xã hội mới, xã hội của công lý, tự do và hạnh phúc. Theo Người, đạo đức
không chỉ là một hệ thống những chuẩn mực về cách sống, mà còn là kim chỉ nam
cho hành động của mỗi cá nhân, đặc biệt là những người cách mạng. Đối với
Người, đạo đức là yêu cầu không thể thiếu để xây dựng lòng tin của nhân dân và
nâng cao phẩm chất của người cách mạng.
Hồ Chí Minh đã đề cao những phẩm chất đạo đức như trung thực, giản dị,
khiêm tốn, cần kiệm, tận tụy với công việc và nhân dân. Người luôn nhấn mạnh
tầm quan trọng của việc rèn luyện đạo đức trong việc tạo ra sự gương mẫu, tự giác
và sự trong sáng trong hành động của mỗi người.
2. Các chuẩn mực cơ bản của đạo đức Hồ Chí Minh
Hồ Chí Minh đề xuất những chuẩn mực đạo đức cơ bản như:
• Yêu nước, yêu nhân dân: Làm việc vì lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân, vì sự nghiệp cách mạng.
• Cần, kiệm, liêm, chính: Đây là bốn đức tính quan trọng trong đạo đức của
người cách mạng, giúp xây dựng một xã hội công bằng, trong sạch.
• Tôn trọng lẽ phải, công bằng: Sống trung thực, chính trực, bảo vệ lẽ phải,
không vì lợi ích cá nhân mà làm hại người khác.
• Tự học hỏi và phấn đấu: Luôn luôn học hỏi, rèn luyện để hoàn thiện bản
thân, đóng góp cho xã hội.
Liên hệ với việc rèn luyện đạo đức của sinh viên hiện nay
Sinh viên hiện nay, là thế hệ trẻ và có vai trò quan trọng trong sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ đất nước, cần phải nắm vững và thực hiện các chuẩn mực đạo đức
mà Hồ Chí Minh đã đề ra. Việc rèn luyện đạo đức của sinh viên không chỉ gói gọn
trong lý thuyết mà còn phải được thể hiện qua hành động cụ thể trong cuộc sống
hàng ngày, trong học tập, nghiên cứu và công tác xã hội.
1. Yêu nước và cống hiến cho xã hội: Sinh viên cần phát huy tinh thần yêu
nước, tham gia các hoạt động tình nguyện, góp phần vào sự phát triển của
đất nước. Đặc biệt, họ cần nhận thức sâu sắc về trách nhiệm công dân và biết
tôn trọng các giá trị của xã hội.
2. Rèn luyện phẩm chất cá nhân: Sinh viên cần rèn luyện các phẩm chất như
trung thực, khiêm tốn, học hỏi không ngừng và làm gương mẫu trong mọi
hoạt động. Trong học tập, họ cần trung thực, tránh gian lận trong thi cử và
phát huy khả năng sáng tạo, cải tiến trong nghiên cứu khoa học.
3. Đạo đức trong quan hệ xã hội: Sinh viên cần tôn trọng và đối xử công
bằng với mọi người, không phân biệt giai cấp, dân tộc hay tôn giáo. Đồng
thời, cần giữ gìn đạo đức trong mối quan hệ giữa thầy và trò, bạn bè, đặc
biệt là trong việc phát triển kỹ năng giao tiếp và hợp tác.
4. Xây dựng lối sống lành mạnh, chống lại tiêu cực: Trong thời đại hiện nay,
sinh viên cũng phải đối mặt với nhiều vấn đề tiêu cực như tệ nạn xã hội, áp
lực từ các phương tiện truyền thông, môi trường học tập. Do đó, việc rèn
luyện đạo đức theo tấm gương Hồ Chí Minh sẽ giúp sinh viên tự tin vượt
qua thử thách và góp phần xây dựng môi trường học tập và làm việc trong sạch.