lOMoARcPSD| 61630936
Câu hỏi nhận định đúng sai môn Luật so sánh (Có đáp án)
1. Nếu theo đúng. bản chất thì phải sử dụng thuật ngữ so sánh luật” chứ
không phải “luật so sánh”.
Nhận định đúng.Có nhiều học giả đưa ra định nghĩa về luật so sánh “là so sánh các hệ thống
PL khác nhau trên thế giới, nghiên cứu hệ thống các truyền thống PL và các quy phạm PL
nào đó trên sở so sánh”. Như trong định nghã của Michael Bogdan, luật so sánh bao gồm:
So sánh các hệ thống PL khác nhau để xác định những điểm tương đồng khác biệt giữa
chúng; nghiên cứu những điểm tương đồng khác biệt đã được xác định; làm những vấn
đề mang tính phương pháp luận nảy sinh liên quan đến các nhiệm vụ trên. vậy, nếu đúng.
bản chất thì phải sử dụng thuật ngữ “so sánh luật” (Legal Comparison), tuy nhiên do
“thói quen” sử dụng luật ngữ “luật so sánh” nên các học giả vẫn chủ yếu sử dụng thuật ngữ
“luật so sánh”
2. Tại Việt Nam, thuật ngữ chính thức sử dụng đặt tên cho môn học là
“Luật học so sánh” .
Nhận định sai. Hiện trên thế giới vẫn đang tồn tại các tên gọi khác nhau: “luật so sánh –
Comparative Law”, “luật học so sánh Comparative Jurisprudence” trong tiếng Anh; hay “so
sánh luật Rechtsvergleichung” trong tiếng Đức… Tuy nhiên, thuật ngữ chính thức sử dụng
đặt tên cho môn học này tại hai trường đại học luật lớn nhất tại Việt Nam Đại học Luật
Nội Đại học Luật Thẩm phán.HCM đều là “Luật so sánh” (tiếng Anh Comparative Law
tiếng Pháp Droit Comparé). Theo Michael Bogdan thì thuật ngữ “luật so sánh” đã được
hình thành từ rất lâu trong lịch sử và nó đã và đang được sử dụng một cách hợp pháp trong các
tài liệu để chỉ tên các khoa học.
3. Thuật ngữ “Luật so sánh” tạo ra sự nhầm lẫn môn học này như một ngành
luật, thế thuật ngữ y không được sử dụng một ch rộng rãi để đặt
tên cho khóa học. .
Nhận định sai. Theo Michael Bogdan thì thuật ngữ Luật so sánh rất thể sẽ gây hiểu lầm
như khi ta thay “lịch sử pháp luật”bằng “luật lịch sử” hoặc thay “xã hội học pháp luật” bằng
“luật xã hội” chẳng hạn. Hơn nữa thuật ngữ Luật so sánh còn tạo ra sự nhầm lẫn môn học này
như một ngành luật đem đến sự hoài nghi về sự tồn tại của một ngành luật mới ngành
lOMoARcPSD| 61630936
luật so sánh – bên cạnh sự tồn tại của các ngành luật khác như luật hình sự, luật dân sự,… Tuy
nhiên thuật ngữ “luật so sánh” đã được hình thành từ rất lâu trong lịch sđã đang
được sử dụng một cách hợp pháp trong các tài liệu để chỉ tên các khoa học. Xưa nay trên thế
giới môn học này vẫn được đặt tên là “luật so sánh” (tiếng Anh: Comparative Law; tiếng Pháp:
Droit Comparé; tiếng Đức: Rechtsvergleichung). Tại Việt Nam, thuật ngữ chính thức sử dụng
đặt tên cho học phần này tại hai trường đại học luật lớn nhất tại Việt Nam là ĐH Luật Hà Nội
và ĐH Luật Thẩm phán.HCM đều là “Luật so sánh”.
4. Định nghĩa về Luật so sánh của Micheal Bogdan được nhiều học giả ủng
hộ vì định nghĩa này đã thể hiện được bản chất của Luật so sánh .
Nhận định sai. Định nghĩa của Micheal Bogdan tuy nêu được đầy đủ các nội dung của luật
so sánh nhưng lại không nêu rõ được bản chất của luật so sánh là 1 ngành khoa học độc lập.
5. Sự tồn tại các tên gọi môn học khác nhau được giải thích bởi sự khác biệt
về vị trí, tính ứng dụng của lĩnh vực này tại các quốc gia. .
Nhận định sai. Sự tồn tại các tên gọi môn học khác nhau (“luật so sánh – Comparative
Law”, “luật học so sánh Comparative Jurisprudence” trong tiếng Anh hay “so sánh luật
Rechtsvergleichung” trong tiếng Đức…) không phải do sự khác biệt về vị trí, tính ứng dụng
của lĩnh vực này tại các quốc gia mà là do đây là thuật ngữ còn đang gây nhiều tranh cãi trong
giới nghiên cứu khoa học pháp lý trên thế giới. Thực tế cho thấy sự tranh cãi này của các học
giả xoay quanh bản chất các vấn đliên quan về nội dung của lĩnh vực học thuật này.
Nhiều học giả cho rằng thuật ngữ “luật học so sánh” nội dung tổng hợp hơn, rộng lớn hơn
rất nhiều so với thuật ngữ “luật so sánh” (PGS. TS. Khánh Vinh Giáo trình luật học so
sánh). Tuy nhiên ngày nay đa số các học giả đã chấp nhận việc sử dụng 2 thuật ngữ này có thể
thay thế cho nhau, trong đó thuật ngữ “luật so sánh” ngày càng được sử dụng phổ biến hơn trên
thế giới
6. Nghiên cứu pháp luật nước ngoài cũng là mục đích của luật so sánh. .
Nhận định sai. Theo Michael Bogdan thì 3 mục đích chính của Luật so sánh là: (i) tìm ra sự
tương đồng vàà khác biệt giữa các hệ thống pháp luật đó; (ii) sử dụng những điểm tương đồng
và khác biệt đã tìm ra nhằm giải thích nguồn gốc, đánh giá cách giải quyết trong các hệ thống
pháp luật, phân nhóm các hệ thống pháp luật hoặc tìm ra các vấn đề cốt lõi, bản của 1 hệ
thống pháp luật; (iii) Xử những vấn đề mang tính chất phương pháp nảy sinh trong quá
lOMoARcPSD| 61630936
trình so sánh luật, bao gồm cả những vấn đề khi nghiên cứu pháp luật ớc ngoài. Như vậy
nghiên cứu pháp luật nước ngoài chỉ phương tiện chứ hoàn toàn không phải mục đích.
Nếu chỉ trình bày những hiểu biết về hệ thống pháp luật của nước ngoài mà không đặt nó trong
sự so sánh với các hệ thống pháp luật khác, không xác định những điểm tương đồng khác
biệt của nó với các hệ thống pháp luật khác thì đó không phải là công trình so sánh luật.
7. Luật so sánh không phải là 1 ngành luật trong hệ thống pháp luật .
Nhận định đúng. Luật so sánh không phải là 1 ngành luật hay lĩnh vực PL thực định trong hệ
thống pháp luật quốc gia. Luật so sánh không có đối tượng điều chỉnh do nó không có quan hệ
xã hội đặc thù, và vì vậy, nó không thể là ngành luật độc lập được. Vì vậy, Luật so sánh không
phải 1 hệ thống các quy phạm pháp luật điều chỉnh 1 lĩnh vực nhất định của đời sống hội
như luật dân sự, luật hình sự, luật hôn nhân gia đình.
8. Luật so sánh là một ngành khoa học độc lập .
Nhận định Nhận định đúng.đây là bản chất của luật so sánh, dựa trên các lập luận sau: Thứ
nhất, việc thường xuyên so sánh các hệ thống PL với nhau đã tạo ra một hệ thống tri thức độc
lập với hệ thống tri thức của các ngành khoa học độc lập khác. Thứ hai, tương tự với các ngành
khoa học khác, nhất khoa học xã hội, khi thực hiện so sánh thể phát sinh ra ngành khoa
học độc lập, ví dụ: bên cạnh ngành triết học có ngành triết học so sánh, bên cạnh ngành xã hội
học có ngành xã hội học so sánh, ngôn ngữ học ngôn ngữ học so sánh. Thứ ba, các học gi
đã chứng minh được “luật so sánh” “phương pháp so sánh luật” là hoàn toàn khác nhau ==>
không thể coi luật so sánh 1 phương pháp nghiên cứu phải coi đó là 1 ngành khoa học
độc lập
9. Đối tượng nghiên cứu của luật so sánh mang tính ổn định và phạm vi
ranh giới rõ ràng.
Nhận định sai. Hiện nhiều quan điểm khác nhau trong việc xác định đối tượng nghiên
cứu của Luật so sánh. Các nước theo hệ thống pháp luật XHCN cho rằng đối tượng nghiên cứu
của Luật so sánh phải pháp luật thực định, trong đó liệt các đối tượng mang tính cụ thể.
Ngược lại các hệ thống pháp luật phương tây (như hệ thống pháp luật Châu Âu lục địa, hệ
thống pháp luật của các nước Bắc Âu) lại cho rằng đối tượng nghiên cứu phải được xác định
bằng cách khai quá hóa các vấn đề thuộc đối tượng nghiên cứu của Luật so sánh, theo đó chính
bản thân phương pháp nghiên cứu cũng sẽ trở thành đối tượng nghiên cứu của Luật so sánh
lOMoARcPSD| 61630936
(Michael Bogdan) Nói cách khác Luật so sánh là ngành khoa học pháp lý cộng sinh không hề
có phạm vi, ranh giới rõ ràng.
10.Các nghiên cứu về luật nước ngoài là luật so sánh? .
Nhận định sai. Vì khi so sánh chúng ta phải có ít nhất hai hệ thống luật khác nhau. Phải là so
sánh các đối tượng của PL trong nước với PL nước ngoài hoặc của PL nước ngoài với nhau chứ
không phải đối tượng của PL trong nước với nhau vì nó không là đối tượng của luật so sánh
11.Căn cứ vào định nghĩa Luật so sánh của Micheal Bogdan thì phạm vi
nghiên cứu của Luật so sánh rất rộng.
Nhận định Nhận định đúng.So sánh các hệ thống pháp luật khác nhau để xác định những
điểm tương đồng khác biệt giữa chúng: hiện nay trên thế giới hàng trăm hệ thống PL
(mỗi quốc gia, mỗi vùng lãnh thổ đều có ít nhất 1 hệ thống pháp luật, ở các quốc gia liên bang
thì mỗi bang lại 1 hệ thống PL riêng như Hoa Kỳ), không 2 hệ thống PL nào trùng
hoàn toàn với nhau nên số lượng đối tượng nghiên cứu rất lớn. Nghiên cứu những điểm
tương đồng và khác biệt giữa các hệ thống PL: trong mỗi hệ thống PL đều có rất nhiều các chế
định, các nguyên tắc, các quy phạm nên có rất nhiều nội dung để luật so sánh nghiên cứu
12. Do không xác định được hết các vấn đề mà luật so sánh sẽ nghiên cứu
nên luật so sánh không có phương pháp nghiên cứu riêng biệt. .
Nhận định sai. Tuy không xác định được hết các vấn đề luật so sánh sẽ nghiên cứu (do
đối tượng nghiên cứu của Luật so sánh rất rộng và không có phạm vi ranh giới rõ ràng) nhưng
không phải vì thế mà Luật so sánh không có các phương pháp nghiên cứu riêng biệt. Có thể kể
ra các phương pháp nghiên cứu của Luật so sánh như: i) p.p so sánh lịch sử; (ii) p.p so sánh
quy phạm (so sánh văn bản); và (iii) p.p so sánh chức năng,..Trong đó, phương pháp so sánh
phương pháp nghiên cứu chủ đạo của ngành khoa học luật so sánh
13. Luật so sánh được hiểu đơn giản phương pháp so sánh các hệ thống
pháp luật. .
Nhận định sai. Về bản chất, Luật so sánh ngành khoa học độc lập, sử dụng nhiều
phương pháp nghiên cứu, trong đó phương pháp so sánh luật. Còn phương pháp so sánh
luật, 1 phương pháp nghiên cứu luật được áp dụng trong nhiều ngành khoa học khác,
trong đó ngành khoa học luật so sánh. Xét về mục đích, Luật so sánh nhằm tìm ra những
điểm tương đồng và khác biệt giữa những đối tượng so sánh; giải nguồn gốc của những điểm
lOMoARcPSD| 61630936
tương đồng khác biệt đó; đánh giá các giải pháp pháp dành cho các đối tượng so sánh.
Phương pháp so sánh luật nhằm tìm ra điểm tương đồng khác biệt giữa các đối tượng so
sánh mà không cần lý giải, không cần đánh giá.
14. Nghiên cứu pháp luật so nh pháp luật là hai loại hình họat động
nghiên cứu khoa học không tách rời nhau cùng chung mục đích,
phương pháp tiến hành. .
Nhận định sai. Mục đích của nghiên cứu pháp luật của so sánh pháp luật hoàn toàn khác
nhau. Mục đích của nghiên cứu pháp luật đơn thuần chỉ tìm hiểu về trong khi mục đích
của so sánh pháp luật sử dụng chính những kết quả nghiên cứu pháp luật để: (i) tìm ra sự
tương đồng khác biệt giữa các hệ thống pháp luật đó; (ii) sử dụng những điểm tương đồng
và khác biệt đã tìm ra nhằm giải thích nguồn gốc, đánh giá cách giải quyết trong các hệ thống
pháp luật, phân nhóm các hệ thống pháp luật hoặc tìm ra các vấn đề cốt lõi, bản của 1 hệ
thống pháp luật; (iii) Xử những vấn đề mang tính chất phương pháp nảy sinh trong quá
trình so sánh luật, bao gồm cả những vấn đề khi nghiên cứu pháp luật nước ngoài (Michael
Bogdan).
15. Tính tương đồng và (hoặc) khác biệt được giải thích trong khuôn khổ
nội dung pháp luật thực định. .
Nhận định sai. Một trong các nguyên tắc quan trọng khi tiến hành các họat động nghiên cứu
pháp luật nước ngoài đó là: “Phải nghiên cứu pháp luật nước ngoài trong tính toàn diện và tổng
thể của vấn đề”. “Tính toàn diện” được thể hiện qua 2 góc độ, góc độ luận góc độ thực
tiễn, đồng thời để tăng độ chính xác của công trình nghiên cứu thì cần phải sử dụng cả 2 phương
pháp tiếp cận: trực tiếp gián tiếp. “Tính tổng thể” được hiểu: Một là, phải đặt vấn đề trong
bối cảnh lịch sử cụ thể của các điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội của quốc gia đó; Hai là, phải
xem xét trong chính sách pháp luật cthể của mỗi quốc gia. Tóm lại, có làm được như vậy mới
nhận biết và giải thích chính xác tính tương đồng và khác biệt của các hệ thống pháp luật khác
nhau
16. Luật so sánh chỉ được tiếp nhận tại các nước XHCN các nước trước
đây thuộc khối XHCN vào những năm 90 của thế kỷ XX vì còn có rất nhiều
tranh luận về tên gọi và bản chất của lĩnh vực này. .
lOMoARcPSD| 61630936
Nhận định sai. Có thể lấy VN làm điển hình. Luật so sánh đã được tiếp nhận tại VN từ khá
sớm.à Hiến pháp 1959 được xem như là một trong những sản phẩm của so sánh pháp luật được
thực hiện bởi các nhà làm luật VN. Ở phương diện so sánh học thuật, trong giai đoạn từ 1954-
1975 tại miền Nam VN đã có một số công trình nghiên cứu luật so sánh mà đáng chú ý nhất là
cuốn sách “Những ứng dụng của luật so sánh” của TS. Ngô Thành xuất bản năm 1965 tại
Sài gòn. Giai đoạn sau 1975 thì hiến pháp 1980 cũng là một trong số các kết quả của các công
trình so sánh luật trên cơ sở nghiên cứu kinh nghiệm lập pháp của các nước theo khối XHCN.
Điều này đã làm cho hệ thống pháp luật của VN giai đoạn này rất nhiều điểm tương đồng
với pháp luật của Liên Xô.
17.Có thể sdụng phương pháp so sánh cho bất kỳ đối tượng nào cần so sánh
mà không nhất thiết phải tương đồng với nhau .
Nhận định sai. Nguyên chung khi sử dụng phương pháp so sánh: các đối tượng so sánh
phải tương đồng, tương ứng với nhau. Trong luật so sánh phải tuân thủ nguyên đó nên các
đối tượng trong 1 công trình so sánh luật phải thực hiện cùng chức năng
18.Phương pháp so sánh chức năng p.p nghiên cứu độc lập của Luật so
sánh. .
Nhận định đúng. Luật so sánh có 3 p.p nghiên cứu đặc thù là: (i) p.p so sánh lịch sử; (ii) p.p
SS qui phạm; (iii) p.p so sánh chức năng. Trong đó p.p so sánh chức năng dựa trên chức
năng điều chỉnh các quan hệ XH của các hiện tượng pháp lý, từ đó xác định những nguyên tắc
pháp lý được sử dụng để trực tiếp hoặc gián tiếp điều chỉnh các quan hệ XH đó, đồng thời xác
định những yếu tố về kinh tế, chính trị, văn a, xã hội… đã tác động đến các giải pháp pháp
lý đó như thế nào.
19.Phương pháp so sánh chức năng là phương pháp hiệu quả nhất. .
Nhận định sai. Thực tiễn nghiên cứu cho thấy phương pháp so sánh chức năng chỉ p.p
được sửà dụng thường xuyên phổ biến nhất chứ không phải hiệu quả nhất. Mỗi p.p đều
những ưu, nhược điểm riêng. Việc áp dụng p.p nào sẽ phụ thuộc vào phạm vi và cấp độ nghiên
cứu khác nhau. Trong các phương pháp nghiên cứu của Luật so sánh thì không phương
pháp nào được xem tối ưu, hiệu quả nhất bởi các phương pháp còn phụ thuộc vào trình độ
của người nghiên cứu. Cách tốt nhất là lồng ghép các phương pháp lại với nhau.
20.Phương pháp đặc thù chỉ có ở Luật so sánh. .
lOMoARcPSD| 61630936
Nhận định sai. Phương pháp đặc thù gồm: (i) p.p so sánh lịch sử; (ii) p.p so sánh quy phạm;
(iii) p.p so sánh chức năng. Trong đó, thể dễ dàng nhận thấy p.p so sánh lịch sử không
những chỉ Luật so sánh còn được áp dụng để nghiên cứu rộng rãi trong các lĩnh vực
khoa học pháp khác chẳng hạn như nghiên cứu vluận lịch sử nhà nước pháp luật chẳng
hạn.
21.Khi xây dựng giả thuyết nghiên cứu cho 1 công trình so sánh luật bất kỳ,
người nghiên cứu không nên sử dụng các thuật ngữ pháp lý, khái niệm pháp
lý. .
Nhận định đúng. Vì công trình so sánh luật là so sánh luật giữa các quốc gia khác nhau, sẽ có
những thuật ngữ pháp lý, khái niệm pháp lý khác nhau dẫn đến dễ gây nhầm lẫn nếu sử dụng.
22.Khi thực hiện các công trình so sánh luật, người nghiên cứu cần phải sử
dụng văn bản pháp luật mới nhất của nước ngoài .
Nhận định sai. tùy thuộc vào mục đích nghiên cứu. VD so sánh bộ luật dân sự Pháp và bộ
luật dân sự Đức khi mới ra đời thì sẽ sử dụng 2 BLDS từ cuối thế kỷ 19 chứ không phải sử
dụng 2 BLDS hiện hành.
23.Ở giai đoạn cuối của quá trình so sánh cần đánh giá xem giải pháp nào
phù hợp hơn và giải thích tại sao lại phù hợp hơn? .
Nhận định Nhận định đúng.giai đoạn cuối của quá trình so sánh cần đánh giá kết quả so
sánh, giải thích nguồn gốc của những điểm tương đồng, điểm khác biệt, phân tích, đánh giá ưu,
nhược của các giải pháp pháp lý, nhận xét về hiệu quả của các giải pháp pháp lý. Tại giai đoạn
này, nhà nghiên cứu hoàn toàn có thể đưa ra ý kiến chủ quan của mình.
24.Luật so sánh được xếp vào những ngành khoa học nghiên cứu các vấn đề
chung nhất do chúng có cùng mục đích nghiên cứu .
Nhận định sai. Luật so sánh được xếp vào nhóm những ngành khoa học nghiên cứu các vấn
đề chung nhất của hệ thống pháp luật cùng với các lĩnh vực nghiên cứu khác như: lịch sử nhà
nước & pháp luật, hội học pháp luật …Tuy nhiên mục đích nghiên cứu của chúng hoàn
toàn khác nhau. So với Lịch sử nhà nước & pháp luật thì Luật so sánh cũng có cùng đối tượng
nghiên cứu, cũng sử dụng phương pháp so sánh lịch sử giống như Luật so sánh nhưng Luật so
sánh lại có mục đích nghiên cứu hoàn toàn khác. Mục đích của Luật so sánh là tìm ra sự tương
lOMoARcPSD| 61630936
đồng và khác biệt giữa các hệ thống pháp luật khác nhau, sử dụng những điểm tương đồng và
khác biệt đã tìm ra nhằm giải thích nguồn gốc, đánh giá cách giải quyết trong các hệ thống
pháp luật, phân nhóm các hệ thống pháp luật hoặc tìm ra các vấn đề cốt lõi, bản của 1 hệ
thống pháp luật (Michael Bogdan).
25. Luật so sánh được xếp cùng nhóm với các ngành khoa học pháp mang
tính lý luận chung vì chúng có cùng phương pháp nghiên cứu. .
Nhận định sai. Luật so sánh được xếp vào nhóm những ngành khoa học pháp mang tính
lý luận chung như: Lý luận lịch sử nhà nước & pháp luật, XH học pháp luật … Mặc dù Lý luận
lịch sử NN&pháp luật Luật so sánh cùng sử dụng phương pháp nghiên cứu giống nhau
p.p so sánh lịch sử nhưng không phải vì thế mà chúng được xếp chung thành 1 nhóm.
Sở chúng được xếp cùng 1 nhóm là bởi vì chúng cùng đối tượng nghiên cứu: đó chuyên
nghiên cứu những vấn đề chung có ảnh hưởng tới toàn thể hoặc gần như toàn thể hệ thống pháp
luật trên thế giới (Michael Bogdan).
26.Hệ thống chính trị quốc gia nhân tduy nhất quyết định sự tương đồng
và khác biệt giữa các hệ thống pháp luật? .
Nhận định đúng.sở để lý giải những điểm tương đồng và khác biệt giữa các hệ thống PL
gồm: Hệ thống chính trị và tư tưởng, sự phát triển của nền kinh tế: VD hệ thống PL của nước
phát triển khác với hệ thống PL của nước đang phát triển; hay nước chậm phát triển; tôn giáo;
yếu tố lịch sử và địa lý; lịch sử: VD các quốc gia từng là thuộc địa => chịu ảnh hưởng lớn của
hệ thống PL chính quốc; vị trí địa lý và khí hậu; yếu tố về dân số; VD ảnh hưởng tới PL về hôn
nhân gia đình; an sinh xã hội; tác động phối hợp của các biện pháp kiểm soát: liên quan đến PL
về thuế, sở hữu trí tuệ, … của mỗi quốc gia; những yếu tố ngẫu nhiên: có những trường hợp hệ
thống PL của 2 quốc gia giống nhau (một phần) mà không thuộc các yếu tố đã nêu trên
27.Yếu tố dân số là một cơ sở để lý giải những điểm tương đồng và khác biệt
giữa các hệ thống pháp luật .
Nhận định đúng. Cơ sở để lý giải những điểm tương đồng và khác biệt giữa các hệ thống PL
gồm: Hệ thống chính trị và tư tưởng, sự phát triển của nền kinh tế: VD hệ thống PL của nước
phát triển khác với hệ thống PL của nước đang phát triển; hay nước chậm phát triển; tôn giáo;
yếu tố lịch sử và địa lý; lịch sử: VD các quốc gia từng là thuộc địa => chịu ảnh hưởng lớn của
hệ thống PL chính quốc; vị trí địa lý và khí hậu; yếu tố về dân số; VD ảnh hưởng tới
lOMoARcPSD| 61630936
PL về hôn nhân gia đình; an sinh hội; tác động phối hợp của các biện pháp kiểm soát: liên
quan đến PL về thuế, sở hữu trí tuệ, của mỗi quốc gia; những yếu tố ngẫu nhiên: những
trường hợp hệ thống PL của 2 quốc gia giống nhau (một phần) không thuộc các yếu tố đã
nêu trên
28. Do cùng nguồn gốc pháp luật Luật La nên hệ thống pháp luật
XHCN và hệ thống pháp luật Pháp-Đức có sự tương đồng về cấu trúc phân
chia pháp luật thành luật công và luật tư.
Nhận định sai. Mặc dù hệ thống pháp luật XHCN chịu nhiều ảnh hưởng của hệ thống pháp
luật Châu âu lục địa nhất cácà chế định pháp luật dân sự nguồn gốc từ Dân luật La
(Corpus Juris Civilis) tuy nhiên hệ thống pháp luật XHCN không sự phân chia thành luật
công và luật tư. Theo Michael Bogdan thì điều này được giải thích bởi hệ thống pháp luật
XHCN 2 đặc tính cơ bản: (i)nó dựa trên nền tảng học thuyết Mác_Lê Nin về pháp luật;
(ii) nó gắn chặt với nền kinh tế kế hoạch. Ở các nước XHCN chỉ có thể có luật công mà không
luật bởi học thuyết Mác-Lê Nin cho rằng quyền lực nhà nước thống nhất. Hơn
nữa tại các quốc gia XHCN người ta chỉ công nhận hình thức duy nhất là “công hữu về tư liệu
sản xuất”, theo đó mọi hình thức sở hữu nhân đều bị triệt tiêu, do vậy luật không
đất để phát triển cũng là lẽ tất yếu.
29. Cách phân nhóm các hệ thống PL của Rene David được nhiều học giả
phương Tây đón nhận vì Rene David đã sử dụng 2 tiêu chí chính xác nhất để
phân nhóm .
Nhận định sai. sự phân nhóm các hệ thống PL trên thế giới chỉ tương đối, nên không
thể có tiêu chí phân nhóm chính xác nhất
30. Theo tiêu chí của Rene David, hệ thống pháp luật được chia làm 4
nhóm .
Nhận định đúng. Rene David dựa vào 2 tiêu chí là Hệ tưởng và Kỹ thuật lập pháp cho
ra 4 nhóm: nhóm PL Đức – La Mã (hay nhóm Rome – Giecmanh), nhóm PL xã hội chủ nghĩa,
nhóm PL dựa trên tôn giáo truyền thống (những nước Hồi giáo, Phật giáo một số nước
châu Phi), nhóm PL Anh – Mỹ (common law)

Preview text:

lOMoAR cPSD| 61630936
Câu hỏi nhận định đúng sai môn Luật so sánh (Có đáp án)
1. Nếu theo đúng. bản chất thì phải sử dụng thuật ngữ “ so sánh luật” chứ
không phải “luật so sánh”.
Nhận định đúng.Có nhiều học giả đưa ra định nghĩa về luật so sánh “là so sánh các hệ thống
PL khác nhau trên thế giới, nghiên cứu có hệ thống các truyền thống PL và các quy phạm PL
nào đó trên cơ sở so sánh”. Như trong định nghã của Michael Bogdan, luật so sánh bao gồm:
So sánh các hệ thống PL khác nhau để xác định những điểm tương đồng và khác biệt giữa
chúng; nghiên cứu những điểm tương đồng và khác biệt đã được xác định; làm rõ những vấn
đề mang tính phương pháp luận nảy sinh có liên quan đến các nhiệm vụ trên. Vì vậy, nếu đúng.
bản chất thì phải sử dụng thuật ngữ “so sánh luật” (Legal Comparison), tuy nhiên do
“thói quen” sử dụng luật ngữ “luật so sánh” nên các học giả vẫn chủ yếu sử dụng thuật ngữ “luật so sánh”
2. Tại Việt Nam, thuật ngữ chính thức sử dụng đặt tên cho môn học là
“Luật học so sánh” .
Nhận định sai. Hiện trên thế giới vẫn đang tồn tại các tên gọi khác nhau: “luật so sánh –
Comparative Law”, “luật học so sánh – Comparative Jurisprudence” trong tiếng Anh; hay “so
sánh luật – Rechtsvergleichung” trong tiếng Đức… Tuy nhiên, thuật ngữ chính thức sử dụng
đặt tên cho môn học này tại hai trường đại học luật lớn nhất tại Việt Nam là Đại học Luật Hà
Nội và Đại học Luật Thẩm phán.HCM đều là “Luật so sánh” (tiếng Anh là Comparative Law
và tiếng Pháp là Droit Comparé). Theo Michael Bogdan thì thuật ngữ “luật so sánh” đã được
hình thành từ rất lâu trong lịch sử và nó đã và đang được sử dụng một cách hợp pháp trong các
tài liệu để chỉ tên các khoa học.
3. Thuật ngữ “Luật so sánh” tạo ra sự nhầm lẫn môn học này như một ngành
luật, vì thế thuật ngữ này không được sử dụng một cách rộng rãi để đặt
tên cho khóa học. .
Nhận định sai. Theo Michael Bogdan thì thuật ngữ Luật so sánh rất có thể sẽ gây hiểu lầm
như khi ta thay “lịch sử pháp luật”bằng “luật lịch sử” hoặc thay “xã hội học pháp luật” bằng
“luật xã hội” chẳng hạn. Hơn nữa thuật ngữ Luật so sánh còn tạo ra sự nhầm lẫn môn học này
như một ngành luật vì nó đem đến sự hoài nghi về sự tồn tại của một ngành luật mới – ngành lOMoAR cPSD| 61630936
luật so sánh – bên cạnh sự tồn tại của các ngành luật khác như luật hình sự, luật dân sự,… Tuy
nhiên thuật ngữ “luật so sánh” đã được hình thành từ rất lâu trong lịch sử và nó đã và đang
được sử dụng một cách hợp pháp trong các tài liệu để chỉ tên các khoa học. Xưa nay trên thế
giới môn học này vẫn được đặt tên là “luật so sánh” (tiếng Anh: Comparative Law; tiếng Pháp:
Droit Comparé; tiếng Đức: Rechtsvergleichung). Tại Việt Nam, thuật ngữ chính thức sử dụng
đặt tên cho học phần này tại hai trường đại học luật lớn nhất tại Việt Nam là ĐH Luật Hà Nội
và ĐH Luật Thẩm phán.HCM đều là “Luật so sánh”.
4. Định nghĩa về Luật so sánh của Micheal Bogdan được nhiều học giả ủng
hộ vì định nghĩa này đã thể hiện được bản chất của Luật so sánh .
Nhận định sai. Định nghĩa của Micheal Bogdan tuy nêu được đầy đủ các nội dung của luật
so sánh nhưng lại không nêu rõ được bản chất của luật so sánh là 1 ngành khoa học độc lập.
5. Sự tồn tại các tên gọi môn học khác nhau được giải thích bởi sự khác biệt
về vị trí, tính ứng dụng của lĩnh vực này tại các quốc gia. .
Nhận định sai. Sự tồn tại các tên gọi môn học khác nhau (“luật so sánh – Comparative
Law”, “luật học so sánh – Comparative Jurisprudence” trong tiếng Anh hay “so sánh luật –
Rechtsvergleichung” trong tiếng Đức…) không phải do sự khác biệt về vị trí, tính ứng dụng
của lĩnh vực này tại các quốc gia mà là do đây là thuật ngữ còn đang gây nhiều tranh cãi trong
giới nghiên cứu khoa học pháp lý trên thế giới. Thực tế cho thấy sự tranh cãi này của các học
giả xoay quanh bản chất và các vấn đề có liên quan về nội dung của lĩnh vực học thuật này.
Nhiều học giả cho rằng thuật ngữ “luật học so sánh” có nội dung tổng hợp hơn, rộng lớn hơn
rất nhiều so với thuật ngữ “luật so sánh” (PGS. TS. Võ Khánh Vinh – Giáo trình luật học so
sánh). Tuy nhiên ngày nay đa số các học giả đã chấp nhận việc sử dụng 2 thuật ngữ này có thể
thay thế cho nhau, trong đó thuật ngữ “luật so sánh” ngày càng được sử dụng phổ biến hơn trên thế giới
6. Nghiên cứu pháp luật nước ngoài cũng là mục đích của luật so sánh. .
Nhận định sai. Theo Michael Bogdan thì 3 mục đích chính của Luật so sánh là: (i) tìm ra sự
tương đồng vàà khác biệt giữa các hệ thống pháp luật đó; (ii) sử dụng những điểm tương đồng
và khác biệt đã tìm ra nhằm giải thích nguồn gốc, đánh giá cách giải quyết trong các hệ thống
pháp luật, phân nhóm các hệ thống pháp luật hoặc tìm ra các vấn đề cốt lõi, cơ bản của 1 hệ
thống pháp luật; và (iii) Xử lý những vấn đề mang tính chất phương pháp nảy sinh trong quá lOMoAR cPSD| 61630936
trình so sánh luật, bao gồm cả những vấn đề khi nghiên cứu pháp luật nước ngoài. Như vậy
nghiên cứu pháp luật nước ngoài chỉ là phương tiện chứ hoàn toàn không phải là mục đích.
Nếu chỉ trình bày những hiểu biết về hệ thống pháp luật của nước ngoài mà không đặt nó trong
sự so sánh với các hệ thống pháp luật khác, không xác định những điểm tương đồng và khác
biệt của nó với các hệ thống pháp luật khác thì đó không phải là công trình so sánh luật.
7. Luật so sánh không phải là 1 ngành luật trong hệ thống pháp luật .
Nhận định đúng. Luật so sánh không phải là 1 ngành luật hay lĩnh vực PL thực định trong hệ
thống pháp luật quốc gia. Luật so sánh không có đối tượng điều chỉnh do nó không có quan hệ
xã hội đặc thù, và vì vậy, nó không thể là ngành luật độc lập được. Vì vậy, Luật so sánh không
phải 1 hệ thống các quy phạm pháp luật điều chỉnh 1 lĩnh vực nhất định của đời sống xã hội
như luật dân sự, luật hình sự, luật hôn nhân gia đình.
8. Luật so sánh là một ngành khoa học độc lập .
Nhận định Nhận định đúng.đây là bản chất của luật so sánh, dựa trên các lập luận sau: Thứ
nhất, việc thường xuyên so sánh các hệ thống PL với nhau đã tạo ra một hệ thống tri thức độc
lập với hệ thống tri thức của các ngành khoa học độc lập khác. Thứ hai, tương tự với các ngành
khoa học khác, nhất là khoa học xã hội, khi thực hiện so sánh có thể phát sinh ra ngành khoa
học độc lập, ví dụ: bên cạnh ngành triết học có ngành triết học so sánh, bên cạnh ngành xã hội
học có ngành xã hội học so sánh, ngôn ngữ học có ngôn ngữ học so sánh. Thứ ba, các học giả
đã chứng minh được “luật so sánh” và “phương pháp so sánh luật” là hoàn toàn khác nhau ==>
không thể coi luật so sánh là 1 phương pháp nghiên cứu mà phải coi đó là 1 ngành khoa học độc lập
9. Đối tượng nghiên cứu của luật so sánh mang tính ổn định và có phạm vi
ranh giới rõ ràng.
Nhận định sai. Hiện có nhiều quan điểm khác nhau trong việc xác định đối tượng nghiên
cứu của Luật so sánh. Các nước theo hệ thống pháp luật XHCN cho rằng đối tượng nghiên cứu
của Luật so sánh phải là pháp luật thực định, trong đó liệt kê các đối tượng mang tính cụ thể.
Ngược lại các hệ thống pháp luật phương tây (như hệ thống pháp luật Châu Âu lục địa, hệ
thống pháp luật của các nước Bắc Âu) lại cho rằng đối tượng nghiên cứu phải được xác định
bằng cách khai quá hóa các vấn đề thuộc đối tượng nghiên cứu của Luật so sánh, theo đó chính
bản thân phương pháp nghiên cứu cũng sẽ trở thành đối tượng nghiên cứu của Luật so sánh lOMoAR cPSD| 61630936
(Michael Bogdan) Nói cách khác Luật so sánh là ngành khoa học pháp lý cộng sinh không hề
có phạm vi, ranh giới rõ ràng.
10.Các nghiên cứu về luật nước ngoài là luật so sánh? .
Nhận định sai. Vì khi so sánh chúng ta phải có ít nhất hai hệ thống luật khác nhau. Phải là so
sánh các đối tượng của PL trong nước với PL nước ngoài hoặc của PL nước ngoài với nhau chứ
không phải đối tượng của PL trong nước với nhau vì nó không là đối tượng của luật so sánh
11.Căn cứ vào định nghĩa Luật so sánh của Micheal Bogdan thì phạm vi
nghiên cứu của Luật so sánh rất rộng.
Nhận định Nhận định đúng.So sánh các hệ thống pháp luật khác nhau để xác định những
điểm tương đồng và khác biệt giữa chúng: hiện nay trên thế giới có hàng trăm hệ thống PL
(mỗi quốc gia, mỗi vùng lãnh thổ đều có ít nhất 1 hệ thống pháp luật, ở các quốc gia liên bang
thì mỗi bang lại có 1 hệ thống PL riêng như Hoa Kỳ), mà không có 2 hệ thống PL nào trùng
hoàn toàn với nhau nên số lượng đối tượng nghiên cứu là rất lớn. Nghiên cứu những điểm
tương đồng và khác biệt giữa các hệ thống PL: trong mỗi hệ thống PL đều có rất nhiều các chế
định, các nguyên tắc, các quy phạm nên có rất nhiều nội dung để luật so sánh nghiên cứu
12. Do không xác định được hết các vấn đề mà luật so sánh sẽ nghiên cứu
nên luật so sánh không có phương pháp nghiên cứu riêng biệt. .
Nhận định sai. Tuy không xác định được hết các vấn đề mà luật so sánh sẽ nghiên cứu (do
đối tượng nghiên cứu của Luật so sánh rất rộng và không có phạm vi ranh giới rõ ràng) nhưng
không phải vì thế mà Luật so sánh không có các phương pháp nghiên cứu riêng biệt. Có thể kể
ra các phương pháp nghiên cứu của Luật so sánh như: i) p.p so sánh lịch sử; (ii) p.p so sánh
quy phạm (so sánh văn bản); và (iii) p.p so sánh chức năng,..Trong đó, phương pháp so sánh là
phương pháp nghiên cứu chủ đạo của ngành khoa học luật so sánh
13. Luật so sánh được hiểu đơn giản là phương pháp so sánh các hệ thống pháp luật. .
Nhận định sai. Về bản chất, Luật so sánh là ngành khoa học độc lập, có sử dụng nhiều
phương pháp nghiên cứu, trong đó có phương pháp so sánh luật. Còn phương pháp so sánh
luật, là 1 phương pháp nghiên cứu luật và được áp dụng trong nhiều ngành khoa học khác,
trong đó có ngành khoa học luật so sánh. Xét về mục đích, Luật so sánh nhằm tìm ra những
điểm tương đồng và khác biệt giữa những đối tượng so sánh; lý giải nguồn gốc của những điểm lOMoAR cPSD| 61630936
tương đồng và khác biệt đó; đánh giá các giải pháp pháp lý dành cho các đối tượng so sánh.
Phương pháp so sánh luật nhằm tìm ra điểm tương đồng và khác biệt giữa các đối tượng so
sánh mà không cần lý giải, không cần đánh giá.
14. Nghiên cứu pháp luật và so sánh pháp luật là hai loại hình họat động
nghiên cứu khoa học không tách rời nhau và cùng có chung mục đích,
phương pháp tiến hành. .
Nhận định sai. Mục đích của nghiên cứu pháp luật và của so sánh pháp luật là hoàn toàn khác
nhau. Mục đích của nghiên cứu pháp luật đơn thuần chỉ là tìm hiểu về nó trong khi mục đích
của so sánh pháp luật là sử dụng chính những kết quả nghiên cứu pháp luật để: (i) tìm ra sự
tương đồng và khác biệt giữa các hệ thống pháp luật đó; (ii) sử dụng những điểm tương đồng
và khác biệt đã tìm ra nhằm giải thích nguồn gốc, đánh giá cách giải quyết trong các hệ thống
pháp luật, phân nhóm các hệ thống pháp luật hoặc tìm ra các vấn đề cốt lõi, cơ bản của 1 hệ
thống pháp luật; và (iii) Xử lý những vấn đề mang tính chất phương pháp nảy sinh trong quá
trình so sánh luật, bao gồm cả những vấn đề khi nghiên cứu pháp luật nước ngoài (Michael Bogdan).
15. Tính tương đồng và (hoặc) khác biệt được giải thích trong khuôn khổ
nội dung pháp luật thực định. .
Nhận định sai. Một trong các nguyên tắc quan trọng khi tiến hành các họat động nghiên cứu
pháp luật nước ngoài đó là: “Phải nghiên cứu pháp luật nước ngoài trong tính toàn diện và tổng
thể của vấn đề”. “Tính toàn diện” được thể hiện qua 2 góc độ, góc độ lý luận và góc độ thực
tiễn, đồng thời để tăng độ chính xác của công trình nghiên cứu thì cần phải sử dụng cả 2 phương
pháp tiếp cận: trực tiếp và gián tiếp. “Tính tổng thể” được hiểu: Một là, phải đặt vấn đề trong
bối cảnh lịch sử cụ thể của các điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội của quốc gia đó; Hai là, phải
xem xét trong chính sách pháp luật cụ thể của mỗi quốc gia. Tóm lại, có làm được như vậy mới
nhận biết và giải thích chính xác tính tương đồng và khác biệt của các hệ thống pháp luật khác nhau
16. Luật so sánh chỉ được tiếp nhận tại các nước XHCN và các nước trước
đây thuộc khối XHCN vào những năm 90 của thế kỷ XX vì còn có rất nhiều
tranh luận về tên gọi và bản chất của lĩnh vực này. . lOMoAR cPSD| 61630936
Nhận định sai. Có thể lấy VN làm điển hình. Luật so sánh đã được tiếp nhận tại VN từ khá
sớm.à Hiến pháp 1959 được xem như là một trong những sản phẩm của so sánh pháp luật được
thực hiện bởi các nhà làm luật VN. Ở phương diện so sánh học thuật, trong giai đoạn từ 1954-
1975 tại miền Nam VN đã có một số công trình nghiên cứu luật so sánh mà đáng chú ý nhất là
cuốn sách “Những ứng dụng của luật so sánh” của TS. Ngô Bá Thành xuất bản năm 1965 tại
Sài gòn. Giai đoạn sau 1975 thì hiến pháp 1980 cũng là một trong số các kết quả của các công
trình so sánh luật trên cơ sở nghiên cứu kinh nghiệm lập pháp của các nước theo khối XHCN.
Điều này đã làm cho hệ thống pháp luật của VN giai đoạn này có rất nhiều điểm tương đồng
với pháp luật của Liên Xô.
17.Có thể sử dụng phương pháp so sánh cho bất kỳ đối tượng nào cần so sánh
mà không nhất thiết phải tương đồng với nhau .
Nhận định sai. Nguyên lý chung khi sử dụng phương pháp so sánh: các đối tượng so sánh
phải tương đồng, tương ứng với nhau. Trong luật so sánh phải tuân thủ nguyên lý đó nên các
đối tượng trong 1 công trình so sánh luật phải thực hiện cùng chức năng
18.Phương pháp so sánh chức năng là p.p nghiên cứu độc lập của Luật so sánh. .
Nhận định đúng. Luật so sánh có 3 p.p nghiên cứu đặc thù là: (i) p.p so sánh lịch sử; (ii) p.p
SS qui phạm; và (iii) p.p so sánh chức năng. Trong đó p.p so sánh chức năng dựa trên chức
năng điều chỉnh các quan hệ XH của các hiện tượng pháp lý, từ đó xác định những nguyên tắc
pháp lý được sử dụng để trực tiếp hoặc gián tiếp điều chỉnh các quan hệ XH đó, đồng thời xác
định những yếu tố về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội… đã tác động đến các giải pháp pháp lý đó như thế nào.
19.Phương pháp so sánh chức năng là phương pháp hiệu quả nhất. .
Nhận định sai. Thực tiễn nghiên cứu cho thấy phương pháp so sánh chức năng chỉ là p.p
được sửà dụng thường xuyên và phổ biến nhất chứ không phải hiệu quả nhất. Mỗi p.p đều có
những ưu, nhược điểm riêng. Việc áp dụng p.p nào sẽ phụ thuộc vào phạm vi và cấp độ nghiên
cứu khác nhau. Trong các phương pháp nghiên cứu của Luật so sánh thì không có phương
pháp nào được xem là tối ưu, hiệu quả nhất bởi các phương pháp còn phụ thuộc vào trình độ
của người nghiên cứu. Cách tốt nhất là lồng ghép các phương pháp lại với nhau.
20.Phương pháp đặc thù chỉ có ở Luật so sánh. . lOMoAR cPSD| 61630936
Nhận định sai. Phương pháp đặc thù gồm: (i) p.p so sánh lịch sử; (ii) p.p so sánh quy phạm;
và (iii) p.p so sánh chức năng. Trong đó, có thể dễ dàng nhận thấy p.p so sánh lịch sử không
những chỉ có ở Luật so sánh mà còn được áp dụng để nghiên cứu rộng rãi trong các lĩnh vực
khoa học pháp lý khác chẳng hạn như nghiên cứu về lý luận lịch sử nhà nước và pháp luật chẳng hạn.
21.Khi xây dựng giả thuyết nghiên cứu cho 1 công trình so sánh luật bất kỳ,
người nghiên cứu không nên sử dụng các thuật ngữ pháp lý, khái niệm pháp lý. .
Nhận định đúng. Vì công trình so sánh luật là so sánh luật giữa các quốc gia khác nhau, sẽ có
những thuật ngữ pháp lý, khái niệm pháp lý khác nhau dẫn đến dễ gây nhầm lẫn nếu sử dụng.
22.Khi thực hiện các công trình so sánh luật, người nghiên cứu cần phải sử
dụng văn bản pháp luật mới nhất của nước ngoài .
Nhận định sai. Vì tùy thuộc vào mục đích nghiên cứu. VD so sánh bộ luật dân sự Pháp và bộ
luật dân sự Đức khi mới ra đời thì sẽ sử dụng 2 BLDS từ cuối thế kỷ 19 chứ không phải sử dụng 2 BLDS hiện hành.
23.Ở giai đoạn cuối của quá trình so sánh cần đánh giá xem giải pháp nào
phù hợp hơn và giải thích tại sao lại phù hợp hơn? .
Nhận định Nhận định đúng.Ở giai đoạn cuối của quá trình so sánh cần đánh giá kết quả so
sánh, giải thích nguồn gốc của những điểm tương đồng, điểm khác biệt, phân tích, đánh giá ưu,
nhược của các giải pháp pháp lý, nhận xét về hiệu quả của các giải pháp pháp lý. Tại giai đoạn
này, nhà nghiên cứu hoàn toàn có thể đưa ra ý kiến chủ quan của mình.
24.Luật so sánh được xếp vào những ngành khoa học nghiên cứu các vấn đề
chung nhất do chúng có cùng mục đích nghiên cứu .
Nhận định sai. Luật so sánh được xếp vào nhóm những ngành khoa học nghiên cứu các vấn
đề chung nhất của hệ thống pháp luật cùng với các lĩnh vực nghiên cứu khác như: lịch sử nhà
nước & pháp luật, xã hội học pháp luật …Tuy nhiên mục đích nghiên cứu của chúng là hoàn
toàn khác nhau. So với Lịch sử nhà nước & pháp luật thì Luật so sánh cũng có cùng đối tượng
nghiên cứu, cũng sử dụng phương pháp so sánh lịch sử giống như Luật so sánh nhưng Luật so
sánh lại có mục đích nghiên cứu hoàn toàn khác. Mục đích của Luật so sánh là tìm ra sự tương lOMoAR cPSD| 61630936
đồng và khác biệt giữa các hệ thống pháp luật khác nhau, sử dụng những điểm tương đồng và
khác biệt đã tìm ra nhằm giải thích nguồn gốc, đánh giá cách giải quyết trong các hệ thống
pháp luật, phân nhóm các hệ thống pháp luật hoặc tìm ra các vấn đề cốt lõi, cơ bản của 1 hệ
thống pháp luật (Michael Bogdan).
25. Luật so sánh được xếp cùng nhóm với các ngành khoa học pháp lý mang
tính lý luận chung vì chúng có cùng phương pháp nghiên cứu. .
Nhận định sai. Luật so sánh được xếp vào nhóm những ngành khoa học pháp lý mang tính
lý luận chung như: Lý luận lịch sử nhà nước & pháp luật, XH học pháp luật … Mặc dù Lý luận
lịch sử NN&pháp luật và Luật so sánh cùng sử dụng phương pháp nghiên cứu giống nhau là
p.p so sánh lịch sử nhưng không phải vì thế mà chúng được xếp chung thành 1 nhóm.
Sở dĩ chúng được xếp cùng 1 nhóm là bởi vì chúng có cùng đối tượng nghiên cứu: đó là chuyên
nghiên cứu những vấn đề chung có ảnh hưởng tới toàn thể hoặc gần như toàn thể hệ thống pháp
luật trên thế giới (Michael Bogdan).
26.Hệ thống chính trị quốc gia là nhân tố duy nhất quyết định sự tương đồng
và khác biệt giữa các hệ thống pháp luật? .
Nhận định đúng.Cơ sở để lý giải những điểm tương đồng và khác biệt giữa các hệ thống PL
gồm: Hệ thống chính trị và tư tưởng, sự phát triển của nền kinh tế: VD hệ thống PL của nước
phát triển khác với hệ thống PL của nước đang phát triển; hay nước chậm phát triển; tôn giáo;
yếu tố lịch sử và địa lý; lịch sử: VD các quốc gia từng là thuộc địa => chịu ảnh hưởng lớn của
hệ thống PL chính quốc; vị trí địa lý và khí hậu; yếu tố về dân số; VD ảnh hưởng tới PL về hôn
nhân gia đình; an sinh xã hội; tác động phối hợp của các biện pháp kiểm soát: liên quan đến PL
về thuế, sở hữu trí tuệ, … của mỗi quốc gia; những yếu tố ngẫu nhiên: có những trường hợp hệ
thống PL của 2 quốc gia giống nhau (một phần) mà không thuộc các yếu tố đã nêu trên
27.Yếu tố dân số là một cơ sở để lý giải những điểm tương đồng và khác biệt
giữa các hệ thống pháp luật .
Nhận định đúng. Cơ sở để lý giải những điểm tương đồng và khác biệt giữa các hệ thống PL
gồm: Hệ thống chính trị và tư tưởng, sự phát triển của nền kinh tế: VD hệ thống PL của nước
phát triển khác với hệ thống PL của nước đang phát triển; hay nước chậm phát triển; tôn giáo;
yếu tố lịch sử và địa lý; lịch sử: VD các quốc gia từng là thuộc địa => chịu ảnh hưởng lớn của
hệ thống PL chính quốc; vị trí địa lý và khí hậu; yếu tố về dân số; VD ảnh hưởng tới lOMoAR cPSD| 61630936
PL về hôn nhân gia đình; an sinh xã hội; tác động phối hợp của các biện pháp kiểm soát: liên
quan đến PL về thuế, sở hữu trí tuệ, … của mỗi quốc gia; những yếu tố ngẫu nhiên: có những
trường hợp hệ thống PL của 2 quốc gia giống nhau (một phần) mà không thuộc các yếu tố đã nêu trên
28. Do có cùng nguồn gốc pháp luật là Luật La Mã nên hệ thống pháp luật
XHCN và hệ thống pháp luật Pháp-Đức có sự tương đồng về cấu trúc phân
chia pháp luật thành luật công và luật tư.
Nhận định sai. Mặc dù hệ thống pháp luật XHCN chịu nhiều ảnh hưởng của hệ thống pháp
luật Châu âu lục địa nhất là cácà chế định pháp luật dân sự có nguồn gốc từ Dân luật La Mã
(Corpus Juris Civilis) tuy nhiên hệ thống pháp luật XHCN không có sự phân chia thành luật
công và luật tư. Theo Michael Bogdan thì điều này được giải thích bởi hệ thống pháp luật
XHCN có 2 đặc tính cơ bản: (i)nó dựa trên nền tảng học thuyết Mác_Lê Nin về pháp luật; và
(ii) nó gắn chặt với nền kinh tế kế hoạch. Ở các nước XHCN chỉ có thể có luật công mà không
có luật tư là bởi vì học thuyết Mác-Lê Nin cho rằng quyền lực nhà nước là thống nhất. Hơn
nữa tại các quốc gia XHCN người ta chỉ công nhận hình thức duy nhất là “công hữu về tư liệu
sản xuất”, theo đó mọi hình thức sở hữu tư nhân đều bị triệt tiêu, và do vậy luật tư không có
đất để phát triển cũng là lẽ tất yếu.
29. Cách phân nhóm các hệ thống PL của Rene David được nhiều học giả
phương Tây đón nhận vì Rene David đã sử dụng 2 tiêu chí chính xác nhất để phân nhóm .
Nhận định sai. Vì sự phân nhóm các hệ thống PL trên thế giới chỉ là tương đối, nên không
thể có tiêu chí phân nhóm chính xác nhất
30. Theo tiêu chí của Rene David, hệ thống pháp luật được chia làm 4 nhóm .
Nhận định đúng. Rene David dựa vào 2 tiêu chí là Hệ tư tưởng và Kỹ thuật lập pháp và cho
ra 4 nhóm: nhóm PL Đức – La Mã (hay nhóm Rome – Giecmanh), nhóm PL xã hội chủ nghĩa,
nhóm PL dựa trên tôn giáo và truyền thống (những nước Hồi giáo, Phật giáo và một số nước
châu Phi), nhóm PL Anh – Mỹ (common law)