Câu hỏi ôn tập Kinh tế chính trị | Học viện Báo chí và Tuyên truyền

Phân tích các điều kiện ra đời và tồn tại của sản xuất hàng hoá. Liên hệ thực tiễn  phát triển kinh tế hàng hoá ở Việt nam. Phân tích hai thuộc tính của hàng hoá. Liên hệ thực tiễn với hoạt động sản xuất một hàng hoá/dịch vụ. Phân tích vấn đề lượng giá trị hàng hoá. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!

Thông tin:
16 trang 2 tuần trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Câu hỏi ôn tập Kinh tế chính trị | Học viện Báo chí và Tuyên truyền

Phân tích các điều kiện ra đời và tồn tại của sản xuất hàng hoá. Liên hệ thực tiễn  phát triển kinh tế hàng hoá ở Việt nam. Phân tích hai thuộc tính của hàng hoá. Liên hệ thực tiễn với hoạt động sản xuất một hàng hoá/dịch vụ. Phân tích vấn đề lượng giá trị hàng hoá. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!

35 18 lượt tải Tải xuống
B. Nhóm câu hỏi vận dung, phân tích, so sánh (Mỗi đề 01 câu hỏi,
mỗi câu hỏi 04 điểm)
Câu 1: Phân tích các điều kiện ra đời tồn tại của sản xuất hàng hoá.
Liên hệ thực tiễn phát triển kinh tế hàng hoá ở Việt nam.
Trả lời:
*Sản xuất hàng hóa là: Kiểu tổ chức kinh tế trong đó sản phẩm sản xuất ra
dùng để trao đổi và buôn bán, trao đổi trên thị trường
Điều kiện ra đời và tồn tại của sản xuất hàng hóa:
Một sự phân công lao động hội: Phân công lao động hội làm cho
việc trao đổi sản phẩm trở thành tất yếu. Hàng hóa được sản xuất với quy
mô lớn, số lượng nhiều. Việc trao đổi, tiêu thụ phải được đảm bảo.
Bởi vì, khiphân công lao động xã hội, mỗi người, mỗisở chỉ sản xuất
một hoặc một vài thứ sản phẩm nhất định. Thực hiện thế mạnh trong sản
xuất, nâng cao năng suất với các chi phí vốn ổn định nhất. Trong khi nhu cầu
của cuộc sống đòi hỏi họ phải nhiều loại sản phẩm khác nhau. Do đó, họ
cần đến sản phẩm của nhau, trao đổi với nhau.
Điều đó giúp lao động được đào tạo trong chuyên môn công việc. Nhưng
vẫn đảm bảo tìm kiếm các lợi nhuận trong trao đổi, mua bán. Cũng như
được đáp ứng các nhu cầu khác nhau thông qua sản phẩm trên thị trường.
Mặt khác, nhờ phân công lao động hội, chuyên môn hóa sản xuất làm
cho năng suất lao động tăng lên. Các định hướng trong cải tiến sản xuất hay
nâng cao năng suất lao động được nghiên cứu phát triển. Sản phẩm thặng dư
ngày càng nhiều trao đổi sản phẩm ngày càng phổ biến. Các sản phẩm
tương tự mang đến nhiều sự lựa chọn hơn cho nhu cầu của con người. Trong
các tiêu chí về giá cả, chất lượng, thương hiệu,…
Như vậy,Phân công lao động hội sở, tiền đề của sản xuất hàng
hóa. Phải lao động với chuyên môn, đảm nhận các khâu công việc nhất
định. Vừa tạo ra việc làm cho người dân, vừa thúc đẩy phát triển kinh tế.
Phân công lao động xã hội ngày càng phát triển, thì sản xuất và trao đổi hàng
hóa càng mở rộng, đa dạng hơn. Trong định hướng tiếp cận các nhu cầu thực
tế của người tiêu dùng trong khả năng của đơn vị sản xuất.
Sự tách biệt về mặt kinh tế của các chủ thể sản xuất: Những người sản xuất
trở thành những chủ thể sản xuất, độc lập nhất định. Họ tìm kiếm khai
thác tốt nhất các lợi ích cho minhd. Do đó phải cố gắng tìm kiếm được lợi
nhuận cao từ hoạt động mua bán diễn ra trên thị trường. Từ đó sản phẩm làm
ra thuộc quyền sở hữu hoặc do họ chi phối một cách chủ động. Do vậy,
người này muốn tiêu dùng sản phẩm lao động của người khác cần phải
thông qua trao đổi mua bán hàng hóa.
Người sản xuất với các định hướng tiếp cận và phát triển hoạt động sản xuất
khác nhau. Tìm kiếm lợi nhuận để khẳng định mình, nâng cao chất lượng
đời sống vật chất của họ.
Phản ánh tính tất yếu theo chiều dài lịch sử sản xuất hàng hóa:
Trong lịch sử, sự tách biệt này do chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất quy định.
hữu thể hiện với đặc điểm riêng biệt đối với việc sở hữu các liệu sản
xuất. Vì trong chế độ hữu về liệu sản xuất thì liệu sản xuất thuộc sở
hữu của mỗi nhân. Việc sử dụng hay sử dụng, tìm kiếm lợi ích từ liệu
sản xuất thuộc chính chủ sở hữu đó. Mang đến kết quả sản phẩm làm ra
thuộc quyền sở hữu của họ, trở thành hàng hóa. Việc trao đổi, mua bán
diễn ra riêng lẻ, chưa có sự liên kết, tổ chức sản xuất có quy mô.
Còn trong điều kiện của nền sản xuất hiện đại, sự tách biệt này còn do các
hình thức sở hữu khác nhau về liệu sản xuất sự tách rời giữa quyền sở
hữu và quyền sử dụng đối với tư liệu sản xuất quy định.
*Liên hệ với thực tiễn phát triển kinh tế ở Việt Nam hiện nay
Dưới áp lực của tình thế khách quan, nhằm thoát khỏi khủng hoảng kinh tế -
hội, tại Đại hội toàn quốc lần thứ VI, Việt Nam đã quyết định xóa bỏ
chế quản lý cũ, bắt đầu thực hiện phát triển kinh tế nhiều thành phần theo
chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa:
nước ta đang tồn tại hệ thống phân công lao động do lịch sử để lại với
nhiều ngành nghề. Với sự phát triển khoa học kỹ thuật hiện đại, nhiều ngành
nghề mới xuất hiện làm cho sự phân công lao động nước ta trở nên phong
phú hơn, tạo điều kiện cho hàng hóa phát triển. Phân công lao động
hội với tư cách là cơ sở của trao đổi chẳng những không mất đi, trái lại ngày
một phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. Xét về phạm vi, phân công lao
động hội không chỉ diễn ra trên phạm vi quốc gia còn mở rộng trên
quy quốc tế. Nền kinh tế của mỗi quốc gia trở thành bộ phận của nền
kinh tế thế giới, cùng hợp tác, các quan hệ kinh tế đối ngoại ngày càng phát
triển. Mỗi quốc gia chỉ lựa chọn phát triển một số ngành, một số lĩnh vực
phát triển lợi thế của quốc gia mình. Việt Nam trên thế giới một đất nước
thuận lợi về phát triển nông nghiệp. vậy, những mặt hàng xuất khẩu ra
nước ngoài của Việt Nam chủ yếu sản phẩm của nông nghiệp. Hiện nay,
Việt Nam nước xuất khẩu gạo đứng thứ hai thế giới (sau Thái Lan). Phân
công lao động hội đã phá vỡ các mối quan hệ truyền thống của nền kinh
tế tự nhiên khép kín, tạo sở thống nhất, phụ thuộc lẫn nhau giữa những
người sản xuất vào hệ thống của hợp tác lao động.
Sự phân công lao động của ta đã ngày càng chi tiết hơn đến từng ngành,
từng cơ sở và ở phạm vi rộng hơn nữa là toàn bộ nền kinh tế quốc dân; có sự
chuyên môn hóa hình thành các vùng kinh tế, các ngành kinh tế. Hiện nay,
nước ta có 4 vùng kinh tế trọng điểm đó là: Vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ
(gồm Nội, Hưng Yên, Hải Phòng, Quảng Ninh, Hải Dương, Bắc Ninh,
Vĩnh Phúc); vùng kinh tế trọng điểm Trung Bộ (gồm Thừa thiên Huế, Đà
Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định); vùng kinh tế trọng điểm Nam
Bộ (gồm TP Hồ Chí Minh, Bình Dương, Bà Rịa – Vũng Tàu, Đồng Nai, Tây
Ninh, Bình Phước, Long An, Tiền Giang); vùng kinh tế trọng điểm vùng
đồng bằng sông Cửu Long (gồm TP. Cần Thơ, An Giang, Kiên Giang,
Mau). Hiện nay ta đã có hàng loạt các thị trường được hình thành từ sự phân
công lao động đó là: Thị trường công nghệ, thị trường các yếu tố sản xuất,…
Tạo đà cho nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần phát triển giúp ta nhanh
chóng hoà nhập được với kinh tế trong khu vực và thế giới.
Sự tách biệt về mặt kinh tế giữa những người sản xuất được thể hiện rất
rõ trong thời kỳ Việt Nam sau đổi mới. Việt Nam thừa nhận sự xuất hiện của
hữu. Ngoài những doanh nghiệp nhà nước như: tập đoàn điện lực Việt
Nam, tập đoàn dầu khí Việt Nam, tập đoàn xăng dầu Việt Nam, ngân hàng
nông nghiệp phát triển nông thôn, tập đoàn công nghiệp than khoáng sản
Việt Nam, … Hiện nay còn nhiều doanh nghiệp nhân hoạt động Việt
Nam, đó tập đoàn Vingroup, công ty cổ phần ôtô Trường Hải, công ty cổ
phần tập đoàn vàng bạc đá quý Doji, công ty cổ phần đầu thư thế giới di
động, công ty cổ phần FPT,… Không những thế, các doanh nghiệp nhân
còn những thành tựu đáng ghi nhận trong sản xuất kinh doanh. Tại bảng
xếp hạng top 500 doanh nghiệp lớn nhất cả nước, bao gồm các khối doanh
nghiệp Nhà nước, FDI và tư nhân - Vingroup đã vươn từ vị trí 28 năm ngoái
lên vị trí 11 năm 2017
VẬY THỂ THẤY VIỆT NAM ĐANG TỒN TẠI ĐẦY ĐỦ HAI
ĐIỀU KIỆN CỦA SẢN XUẤT HÀNG HÓA.
Câu 2:Phân tích hai thuộc tính của hàng hoá. Liên hệ thực tiễn với hoạt
động sản xuất một hàng hoá/dịch vụ.
Trả lời
Khái niệm hàng hóa: Hàng hóa một phạm trù lịch sử, chỉ
xuất hiện khi nền sản xuất hàng hóa, đồng thời sản phẩm lao
động mang hình thái hàng hóa khi đối tượng mua bán trên
thị trường. Hàng hóa sản phẩm của lao động, thỏa mãn mong
muốn, nhu cầu nào đó của con người thông qua trao đổi hay mua
bán.
Theo định nghĩa của Karl Marx, hàng hóa là sản phẩm của lao
động, thông qua trao đổi, mua bán thể thỏa mãn một số nhu
cầu nhất định của con người. Hàng hóa thể đáp ứng nhu cầu
nhân hoặc nhu cầu sản xuất. Hàng hóa thể tồn tại dưới
dạng vật thể hoặc phi vật thể.
Hai thuộc tính của hàng hóa đó là: giá trị sử dụng và giá trị
Giá trị sử dụng Giá trị sử dụng công dụng của vật phẩm thể thỏa mãn:
nhu cầu nào đó của con người.
dụ: Giá trị sử dụng của cơm để ăn, của áo để mặc, của máy móc,
thiết bị, nguyên nhiên vật liệu để sản xuất… ngay mỗi một vật cũng
thể nhiều thuộc tính tự nhiên khác nhau, do đó nhiều giá trị s
dụng hay công dụng khác nhau: gạo thể dùng nấu cơm, nhưng gạo cũng
có thể dùng làm nguyên liệu trong ngành rượu, bia hay chế biến cồn y tế..
S lượng giá trị sử dụng của một vật không phải ngay một lúc đã phát
hiện ra được hết, được phát hiện dần dần trong quá trình phát triển
của khoa học – kỹ thuật.
Giá trị sử dụng hay công dụng của hàng hóa là do thuộc tính tự nhiên của
vật thể hàng hóa quyết định. Với ý nghĩa như vậy, giá trị sử dụng một
phạm trù vĩnh viễn.
Giá trị sử dụng chỉ thể hiện khi con người sử dụng hay tiêu dùng,
nội dung vật chất của của cải, không kể hình thức hội của của cái đó như
thế nào. Các Mác chỉ rõ: Chỉ có trong việc sử dụng hay tiêu dùng, thì giá trị
sử dụng mới được thể hiện.
Con người bất kỳ thời đại nào cũng đều cần đến các giá tr sử dụng
khác nhau của vật phẩm để thỏa mãn những nhu cầu muôn vẻ của mình.
Một vật khi đã hàng hóa thì nhất thiết phải giá tr sử dụng.
Nhưng không phải bất cứ vật giá trị sử dụng cũng đều hàng hóa.
Chẳng hạn, không khí rất cần cho cuộc sống con người. nhưng không phải là
hàng hóa. Nước suối, quả dại cũng giá trị sử dụng, nhưng cũng không
phải hàng hóa. Như vậy, một vật muốn trở thành hàng hóa thì giá trị sử
dụng của phải vật được sản xuất ra để bán, để trao đổi, cũng nghĩa
vật đó phải giá trị trao đổi. Trong kinh tế hàng hóa, giá trị sử dụng
vật mang giá trị trao đổi.
Giá trị: thuộc tính , công sức người sản xuất để của hàng hóa của
thể tạo ra đó.hàng hóa
Muốn hiểu được giá trị hàng hóa phải đi từ giá trị trao đổi. Các Mác viết:
“Giá trị trao đổi trước hết biểu hiện ra như một quan hệ về số lượng,
một tỷ lệ theo đó những giá trị sử dụng loại này được trao đổi với những giá
trị sử dụng loại khác”.
Ví dụ: 1 mét vải = 10 kg thóc.
Vấn đề đặt ra là, tại sao vải và thóc là hai hàng hóa có giá trị sử dụng khác nhau lại có thể
trao đổi được với nhau, hơn nữa chúng lại trao đổi với nhau theo một tỷ lệ nhất định?
Khi hai hàng hóa khác nhau vải thóc có thể trao đổi được với nhau, thì phảimột
sở chung nào đó: Cái chung đó không phải là giá trị sử dụng, tuy sự khác nhau về giá
trị sử dụng của chúngđiều kiện cần thiết của sự trao đổi. Song, cái chung đó phải nằm
ở cả hai hàng hóa. Nếu gạt giá trị sử dụng của sản phẩm sang một bên, thì giữa chúng chỉ
một cái chung: chúng đều là sản phẩm của lao động. Để sản xuất ra vải và thóc, nguời
thợ thủ công và người nông dân đều phải hao phí lao động để sản xuất ra chúng. Hao phí
lao động là cơ sở chung để so sánh vải với thóc, để trao đổi giữa chúng với nhau.
Sở phải trao đổi theo một tỷ lệ nhất định, (1m vải = 10kg thóc), người ta cho rằng
lao động hao phí sản xuất ra lm vải bằng lao động hao phí để sản xuất ra 10kg thóc. Lao
động hao phí để sản xuất ra hàng hóa ẩn giấu trong hàng hóa chính giá trị của hàng
hóa. Từ sự phân tích trên, rút ra kết luận: giá trị lao động hội của người sản xuất
hàng hóa kết tinh trong hàng hóa.
Như vậy, chất của giá trị là lao động, vì vậy, sản phẩm nào không có lao
động của người sản xuất kết tinh trong đó thì không giá trị. Sản phẩm
nào lao động hao phí để sản xuất ra chúng càng nhiều thì giá trị càng cao.
Giá trị hàng hóa biểu hiện quan hệ giữa những người sản xuất hàng hóa.
Giá trị là một phạm trù lịch sử, gắn liền với nền sản xuất hàng hóa. Giá trị
nội dung, sở của giá trị trao đổi, còn giá trị trao đổi chỉ hình thức
biểu hiện của giá trị. Nếu g trị sử dụng thuộc tính tự nhiên, thì giá trị
thuộc tính xã hội của hàng hóa.
Hàng hóa sự thống nhất của hai thuộc tính giá trị sử dụng giá trị,
nhưng đây là sự thống nhất của hai mặt đối lập.
Sự đối lập mâu thuẫn giữa giá trị sử dụng giá trị thể hiện chỗ:
người làm ra hàng hóa đem bán chỉ quan tâm đến giá trị hàng hóa do mình
làm ra, nếu họ chú ý đến giá trị sử dụng cũng chính để được giá trị.
Ngược lại, người mua hàng hóa lại chỉ chú ý đến giá tr sử dụng của hàng
hóa, nhưng muốn tiêu dùng giá trị sử dụng đó người mua phải trả giá trị của
cho người bán. Nghĩaquá trình thực hiện giá trị tách rời quá trình thực
hiện giá trị sử dụng: giá trị được thực hiện trước, sau đó giá trị sử dụng mới
được thực hiện.
3. Mối quan hệ giữa hai thuộc tính của hàng hóa:
Hai thuộc tính của hàng hóa quan hệ chặt chẽ với nhau, vừa thống nhất,
vừa mâu thuẫn với nhau.
Thống nhất
Hai thuộc tính này cùng đồng thời tồn tại trong một hàng hóa. Nếu một vật
giá trị sử dụng (tức thể thỏa mãn nhu cầu nào đó của con người,
hội), nhưng không có giá trị (tức không do lao động tạo ra, không có kết tinh
lao động) như không khí tự nhiên thì sẽ không phải hàng hóa. Ngược lại,
một vật giá trị (tức lao động kết tinh), nhưng không giá trị sử dụng
(tức không thể thỏa mãn nhu cầu nào của con người, hội) cũng không trở
thành hàng hóa.
Đối lập
Thứ nhất, với cách giá trị sử dụng thì các hàng hóa khác nhau về chất
(vải mặc, sắt thép, lúa gạo…). Nhưng ngược lại, với tư cáchgiá trị thì các
hàng hóa lại đồng nhất về chất, đều là “những cục kết tinh đồng nhất của lao
động thôi”, tức đều sự kết tinh của lao động, hay lao động đã được
vật hóa ( vải mặc, sắt thép, lúa gạo… đều do lao động tạo ra, kết tinh lao
động trong đó).
Thứ hai, quá trình thực hiện giá trị giá trị sử dụng sự tách rời nhau cả
về mặt không gian và thời gian.
Giá trị được thực hiện trong lĩnh vực lưu thông và thực hiện trước.
Giá trị sử dụng được thực hiện sau, trong lĩnh vực tiêu dùng.
Người sản xuất quan tâm tới giá trị, nhưng để đạt được mục đích giá trị bắt
buộc họ cũng phải chú ý đến giá trị sử dụng, ngược lại người tiêu dùng quan
tâm tới giá trị sử dụng để thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng của mình.
Nhưng muốn giá trị sử dụng họ phải trả giá trị cho người sản xuất ra nó.
Nếu không thực hiện giá trị sẽ không có giá trị sử dụng. Mâu thuẫn giữa giá
trị sử dụng giá trị hàng hóa cũng chính một trong những nguyên nhân
dẫn đến khủng hoảng sản xuất thừa.
Liên hệ với thực tiễn hoạt động sản xuất hàng hóa/ dịch vụ ở Việt Nam hiện
nay
– Về giá trị sử dụng
Đối với nền kinh tế nước ta, sản xuất phải chú trọng đến chất lượng của
hàng hóa, mang lại giá trị sử dụng tốt, đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng,
đem đến cho khách hàng những trải nghiệm tốt nhất khi sử dụng hàng hóa.
Giá trị sử dụng phải làm cho hàng hóa tốt, bền, đẹp, nhiều công dụng,
tính năng. Hiện nay, việc sản xuất hàng hóa Việt Nam về bản đã đáp
ứng nhu cầu của người tiêu dùng. Tuy nhiên, bên cạnh đó còn chưa đáp ứng
những nhu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng. Vì vậy, để sản xuất hàng
hóa ngày càng nâng cao giá trị s dụng thì chúng ta cần chú trọng đến những
vấn đề sau:
+ Nghiên cứu thị trường trong và ngoài nước. Tìm hiểu về những xu thế
sản xuất hàng hóa trên thị trường trong và ngoài nước.
+ Tiếp tục nâng cao tay nghề, chủ động, sáng tạo và linh hoạt trong việc
quản lý, đào tạo nguồn nhân lực cho người lao động.
+ Đổi mới trao đổi công nghệ, sử dụng những công nghệ tiên tiến để
tăng năng suất sản xuất đem đến những hàng hóa giá trị sử dụng cao,
đáp ứng những nhu cầu của khách hàng.
– Về giá trị trao đổi của hàng hóa
Để thực hiện được giá trị trao đổi của hàng hóa hay nói cách khác
muốn bán được hàng hóa sản xuất ra thì cần phải làm cho giá trị biệt của
hàng hóa thấp hơn giá trị hội mới lãi. Do đó để làm được đều này cần
thực hiện những biện pháp như sau:
+ Tiến hành đổi mới kỹ thuật công nghệ, sử dụng những công nghệ tiến
tiến vào quá trình sản xuất làm tăng năng suất sản xuất đem đến những
chất lượng hàng hóa cao, đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng, đồng thời tối
đa hóa chi phí sản xuất làm tăng giá trị trao đổi hàng hóa.
+ Hợp hóa sản xuất, tiết kiệm các nguồn lực trong sản xuất kinh
doanh.
+ Tăng năng suất lao động
Tóm lại, để đáp ứng nhu cầu đa dạng ngày càng tăng của người tiêu
dùng, thì việc sản xuất hàng hóa cần phải coi trọng cả hai thuộc tính của
hàng hóa để không ngừng cải tiến chất lượng, mẫu mã, nâng cao giá trị sử
dụng đem đến cho khách hàng giá cả sản phẩm phải chăng, hợp thúc
đẩy quá trình trao đổi hàng hóa trên thị trường. Trong nền kinh tế hàng hóa
hiện nay, kinh tế hàng hóa không thể thiếu được góp phần thúc đẩy
kinh tế, giải quyết việc làm và sự phân công lao động
Câu 3: Phân tích vấn đề lượng giá trị hàng hoá. Hãy rút ra ý nghĩa thực
tiễn về tăng năng suất tăng cường độ lao động trong sản xuất hàng
hóa.
Trả lời
Phân tích vấn đề về lượng giá trị của hàng hóa
* Lượng giá trị của hàng hóa lượng lao động hội hao phí để sản
xuất ra hàng hóa kết tinh trong hàng hóa, đo bằng thời gian lao động xã
hội cần thiết
* Thời gian lao động xã hội cần thiết được hiểu là thời gian để sản xuất
ra hàng hóa trong điều kiện bình thường của hội với một trình độ
thành thạo trung bình, một trang thiết bị trung bình
* Các nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá trị bao gồm:
Thứ nhất: Năng suất lao động
– Năng suất lao động là năng lực sản xuất của lao động. Nó được đo bằng số
lượng sản phẩm sản xuất ra trong một đơn vị thời gian hoặc lượng thời gian
lao động hao phí để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm.
– Năng suất lao động tăng lên có nghĩa là cũng trong một thời gian lao động,
nhưng khối lượng hàng hóa sản xuất ra tăng lên làm cho thời gian lao động
cần thiết để sản xuất ra một đơn vị hàng hóa giảm xuống. Do đó, khi năng
suất lao động tăng lên thì giá trị của một đơn vị hàng hóa sẽ giảm xuống
ngược lại.
Giá tr của hàng hóa tỷ lệ nghịch với năng suất lao động. Năng suất lao
động lại phụ thuộc vào nhiều yếu tố như:
+ Trình độ khéo léo (thành thạo) trung bình của người công nhân.
+ Mức độ phát triển của khoa học, kỹ thuật, công nghệ.
+ Mức độ ứng dụng những thành tựu khoa học, kỹ thuật, công nghệ vào sản
xuất.
+ Trình độ tổ chức quản lý.
+ Quy mô và hiệu suất của tư liệu sản xuất.
+ Các điều kiện tự nhiên.
Muốn tăng năng suất lao động phải hoàn thiện các yếu tố trên.
Thứ hai: Cường độ lao động
Cường độ lao động là đại dương chỉ mức độ hao phí sức lao động trong
một đơn vị thời gian, cho thấy mức độ khẩn trương, nặng nhọc hay căng
thẳng của lao động. Cường độ lao động tăng lên tức mức hao phí sức
bắp, thần kinh trong một đơn vị thời gian tăng lên, mức độ khẩn trương,
nặng nhọc hay căng thẳng của lao động tăng lên.
Nếu cường độ lao động tăng lên thì số lượng (hoặc khối lượng) hàng
hóa sản xuất ra tăng lên và sức hao phí lao động cũng tăng lên tương ứng, vì
vậy giá trị của một đơn vị hàng hóa vẫn không đổi. Tăng cường độ lao động
thực chất cũng như kéo dài thời gian lao động cho nên hao phí lao động
trong một đơn vị sản phẩm không đổi.
– Tăng năng suất lao động tăng cường độ lao động giống nhau đều
dẫn đến lượng sản phẩm sản xuất ra trong một đơn vị thời gian tăng lên.
Nhưng chúng khác nhautăng năng suất lao động làm cho lượng sản phẩm
(hàng hóa) sản xuất ra trong một đơn vị thời gian tăng lên, nhưng làm cho
giá trị của một đơn vị hàng hóa giảm xuống.
Tăng năng suất lao động thể phụ thuộc nhiều vào máy móc, kỹ thuật,
do đó, gần như một yếu tố “sức sản xuất” hạn, còn tăng cường
độ lao động, làm cho lượng sản xuất ra tăng lên trong một đơn vị thời gian,
nhưng giá trị của một đơn vị hàng hóa không đổi. Tăng cường độ lao động
phụ thuộc nhiều vào thể chất tinh thần của người lao động, do đó,
yếu tố của ‘sức sản xuất” có giới hạn nhất định. Chính vì vậy, tăng năng suất
lao động có ý nghĩa tích cực hơn đối với sự phát triển kinh tế.
Thứ ba: Tính chất của lao động
– Tính chất của lao động cũng ảnh hưởng nhất định đến lượng giá trị của
hàng hóa. Theo tính chất của lao động, thể chia lao động thành lao động
giản đơn và lao động phức tạp.
+ Lao động giản đơn là lao động mà một người lao động bình thường không
cần phải trải qua đào tạo cũng có thể làm được.
+ Lao động phức tạp lao động đòi hỏi phải được đào tạo, huấn luyện mới
có thể làm được.
– Trong cùng một thời gian, lao động phức tạp tạo ra nhiều giá trị hơn lao
động giản đơn. Lao động phức tạp thực chất là lao động giản đơn được nhân
lên. Trong quá trình trao đổi hàng hóa, mọi lao động phức tạp đều được quy
về lao động đơn giản trung bình, điều đó được quy đổi một cách tự phát
sau lưng những hoạt động sản xuất hàng hóa, hình thành những hệ số nhất
định thể hiện trên thị trường.
Ý nghĩa thực tiễn về việc tăng năng suất lao động và tăng cường độ lao động
trong sản xuất hàng hóa:
Năng suất lao động là: năng lực sản xuất của người lao động, được tính
bằng số lượng sản phẩm xuất ra trong một đơn vị thời gian hay số
lượng thời gian hao phí để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm. Năng suất
lao động tăng lên sẽ làm giảm thời gian hao phí lao động cần thiết trong
một đơn vị hàng hóa. Năng suất lao động tăng sẽ làm cho lượng giá trị
của một đơn vị hàng hóa giảm xuống. vậy trong sản xuất hàng hóa
cần chú ý để có thể giảm hao phí lao động cá biệt.
Cường độ lao động: mức khẩn trương tích cực của hoạt động lao
độngtrong sản xuất. Việc tăng cường độ lao động sẽ làm cho số lượng
sản phẩm tăng lên. Tổng lượng giá trị gộp lại của tất cả các hành hóa
tăng lên. Ngoài ra việc tăng cường độ lao động còn ý nghĩa rất quan
trọng trong việc tạo ra số lượng các giá trị sử dụng nhiều hơn, góp phần
thỏa mãn tốt hơn nhu cầu của xã hội
Câu 4:Phân tích nguồn gốc, bản chất, chức năng của tiền tệ.
Trả lời
*Tiền tệ: Tiền tệ một phạm trù lịch sử, sản phẩm tự phát của nền
kinh tế hàng hóa, sản phẩm của sự phát triển các hình thái giá trị. Đồng thời
cũng sản phẩm của sự phát triển mâu thuẫn giữa lao động phân công
lao động hội trong sản xuất hàng hóa. Sự ra đời phát triển của tiền tệ
gắn liền với sự ra đời và phát triển của sản xuất và trao đổi hàng hóa.
* Nguồn gốc: Là kết quả của quá trình phát triển sản xuất tiêu dùng hàng
hóa, sản phẩm của sự phát triển các hình thái giá trị: Hình thái giá trị
tương đối vật ngang giá chung. Hình thái giá trị toàn bộ hay mở rộng xuất
hiện sau lần phân công lao động lần thứ nhất. Lúc này giá trị của vật không
chỉ biểu hiện thông qua giá trị sử dụng của một vật còn biểu hiện thông
qua giá trị sử dụng của nhiều hàng hoá khác.Hình thái giá trị chung khi sự
phân công lao động lần thứ 2, thủ công nghiệp tách rời khỏi nông
nghiệp.Hình thái tiền tệ khi vật ngang giá chung cố định ở một thứ hàng hoá,
đó là kim loại (kẽm, đồng, sắt, bạc, vàng) chỉ đến lúc này thì hình thái tiền tệ
mới được xác lập và vàng với tư cách là vật ngang g chung và đã trở thành
tiền tệ, gọi là kim tệ.
* Bản chất:
Tiền là kết quả của quá trình phát triển sản xuất và trao đổi hàng hóa,
là kết quả của sự phát triển các hình thái giá trị từ thấp đến cao.
Theo quan điểm của K.Marx, “tiền chính loại hàng hóa đặc
biệt “vì: tiền giá trị sử dụng đặc biệt( giá trị công dụng ích
của hàng hóa. Tiền tệ thỏa mãn hầu hết các nhu cầu của người sử dụng
và sở hữu.
Quan điểm của P.Smuelson: “tiền chính thứ dầu bôi trơn
“trong các guồng máy luân chuyển hàng hóa từ nơi sản xuất để đi đến
nơi tiêu dùng.
Quan điểm của M. Freidman các nhà kinh tế học hiện đại:
tiền các phương tiện thanh toán” và có thể thực hiện được các chức
năng làm trung gian trao đổi, các đơn vị tính toán thể tích lũy
của cải. Tiền tệ ra đời kết quả tất yếu của sự phát triển nền kinh tế
thị trường hiện đại.
Tiền tệ một hình thái giá trị của hàng hoá, sản phẩm của
quá trình phát triển sản xuất trao đổi hàng hoá. Các nhà kinh tế
trước C. Mác giải thích tiền tệ từ hình thái phát triển cao nhất của nó,
bởi vậy đã không làm được bản chất của tiền tệ. Trái lại, C. Mác
nghiên ứu tiền tệ từ lịch sử phát triển của sản xuất trao dổi hàng
hoá, từ sự phát triển của các hình thái giá trị hàng hoá, do đó đã tìm
thấy nguồn gốc bản chất của tiền tệ. Vậy, tiền tệ hàng hoá đặc
biệt được tách ra từ trong thế giới hàng hoá làm vật ngang giá chung
thống nhất cho các hàng hoá khác, nó thể hiện lao động xã hội và biểu
hiện quan hệ giữa những người sản xuất hàng hoá.
*Chức năng của tiền tệ: Gồm 5 chức năng chính
- Thước đo giá trị
- Tiền tệ dùng để biểu hiện đo lường giá trị của các hàng hóa.
Muốn đo lường giá trị của các hàng hóa, bản thân tiền tệ cũng phải có giá
trị. Vì vậy, tiền tệ làm chức năng thước đo giá trị phải là tiền vàng.
- Để đo lường giá trị hàng hóa không cần đòi hỏi phải là tiền mặt
chỉ cần so sánh với lượng vàng nào đó trong ý tưởng.
- Giá cả hàng hóa hình thức biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng
hóa. Giá cả của hàng hóa là một đại lượng tỷ lệ thuận với giá trị của hàng
hóa tỷ lệ nghịch với giá trị của tiền tệ. Bên cạnh đó, giá cả hàng hóa
còn chịu ảnh hưởng bởi quan hệ cung-cầu về hàng hóa…
-Phương tiện lưu thông
Khi thực hiện chức năng phương tiện lưu thông, tiền được dùng làm
môi giới cho quá trình trao đổi hàng hóa.
Để thực hiện chức năng làm phương tiện lưu thông, yêu cầu phải
tiền mặt (tiền đúc bằng kim loại, tiền giấy). Trong thực hiện chức năng
phương tiện lưu thông, tiền không nhất thiết phải đủ giá trị. Đây sở
cho các quốc gia công nhậnphát hành các loại tiền giấy khác nhau. Thực
hiện chức năng phương tiện lưu thông, tiền làm cho quá trình trao đổi, mua
bán trở nên thuận lợi; đồng thời làm cho hành vi mua, hành vi bán tách rời
về không gian và thời gian. Do đó, có thể tiềm ẩn khả năng khủng hoảng.
- Phương tiện cất trữ
Thực hiện phương tiện cất trữ, tiền rút ra khỏi quá trình lưu thông để
đi vào cất trữ. Thực hiện phương tiện cất trữ, tiền phải có đủ g trị như
tiền vàng, tiền bạc. Tiền cất tr có tác dụng là dự trữ tiền cho lưu thông,
sẵn sàng tham gia lưu thông. Khi sản xuất hàng hóa phát triển, lượng hàng
hóa nhiều hơn, tiền cất trữ được đưa vào lưu thông. Ngược lại, nền sản xuất
giảm, lượng hàng hóa giảm, một phần tiền vàng rút khỏi lưu thông, đi o
cất trữ.
- Phương tiện thanh toán
Trong trường hợp tiền được dùng để trả nợ, trả tiền mua chịu hàng
hóa... thì tiền làm phương tiện thanh toán. Thực hiện chức năng thanh toán,
nhiều hình thức tiền khác nhau được chấp nhận. Chức năng phương tiện
thanh toán của tiền gắn liền với chế độ tín dụng thương mại, tức mua bán
thông qua chế độ tín dụng.
Ngày nay việc thanh toán không dùng tiền mặt phát triển mạnh mẽ.
Người ta thể sử dụng tiền ghi sổ, hoặc tiền trong tài khoản ngân hàng,
tiền điện tử, bitcoin...
- Tiền tệ thế giới
Khi trao đổi hàng hóa mở rộng ra ngoài biên giới quốc gia, tiền làm
chức năng tiền tệ thế giới. Lúc này tiền được dùng làm phương tiện mua
bán, thanh toán quốc tế giữa các nước với nhau. Để thực hiện chức năng này,
tiền phải đủ giá trị, phải tiền vàng hoặc những đồng tiền được công
nhận là phương tiện thanh toán quốc tế.
Câu 5:Phân tích quyền lợi trách nhiệm của các chủ thể bản trong
nền kinh tế thị trường. Liên hệ thực tiễn.
Trả lời
* Kinh tế thị trường: nền kinh tế vận hành theo chế thị trường, mọi
quan hệ sản xuất và trao đổi đều được thực hiện thông qua thị trường.
*Các chủ thể bản trong nền kinh tế thị trường bao gồm: Người sản xuất,
người tiêu dùng, người trung gian và nhà nước
+ Người sản xuất: người tổ chức sản xuất và cung ứng hàng hóa, dịch vụ
ra thị trường.
Bao gồm: nhà sản xuất, nhà đầu tư, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ gọi
chung là doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường
Quyền lợi:được những nguồn thu nhập chính đáng từ sản xuất các
giá trị khác
Trách nhiệm: Thỏa mãn nhu cầu xã hội và trách nhiệm xã hội
+ Người tiêu dùng: người sử dụng hàng hóa, dịch vụ để thỏa mãn nhu
cầu của mình
Bao gồm: nhân, hộ gia đình, tổ chức hội, nhà nước, người nước
ngoài.
Vai trò: Tiêu dùng nhu cầu, đơn đặt hàng của sản xuất, động lực
của sản xuất
Quyết định mua sắm và tiêu dùng ảnh hưởng đến giá cả hàng hóa
Quyền lợi: Được sử dụng hàng hóa, dịch vụ chất lượng giá cả phù
hợp để thỏa mãn nhu cầu.
Trách nhiệm: bảo vệ quyền lợi của mình của doanh nghiệp và xã hội
+ Các chủ thể trung gian: Kết nối giữa người sản xuất và người tiêu dùng
Bao gồm: Thương nhân và mô giới
Quyền lợi: Được hưởng lợi ích kinh tế các lợi ích khác nhau từ hoạt
động trung gian
Trách nhiệm: Phục vụ tốt nhất cho người sản xuất và người tiêu dùng thực
hiện trách nhiệm xã hội
+ Nhà nước: người tiêu dùng, nhà sản xuất cung ứng dịch vụ nhà
quản lý vĩ mô nên kinh tế
Mục tiêu: Lợi ích kinh tế, chính trị, quốc phòng giáo dục...
Vai trò: Thiết lập thể chế, môi trường pháp luật cho các chủ thể tham gia
thị trường đạt hiệu quả tối đa
Đảm bảo tính công bằng, thúc đẩy cạnh tranh bình đẳng khắc phục những
khuyết tật của thị trường
Định hướng phát triển một số quan hệ kinh tế trong sản xuất tác động
sao cho đem lại phúc lợi cho xã hội
Liên hệ thực tế:
Câu 6:Phân tích nội dung yêu cầu tác dụng của quy luật giá trị trong
nền kinh tế thị trường.
Trả lời
Nền kinh tế thị trường: nền kinh tế được vận hành theo chế thị trường,
mọi quan hệ sản xuất và tiêu dùng đều thực hiện thông qua thị trường
Các quy luật của nền kinh tế thị trường: Quy luật giá trị, quy luật cạnh tranh,
Quy luật lưu thông tiền tệ, Quy luật cung cầu
Phân tích quy luật giá trị: Đây quy luật kinh tế bản của sản xuất hàng
hóa. ở đâu có sản xuất hàng hóa thì ở đó có sự hoạt động của quy luật giá trị
Nội dung:
Quy luật giá trị quy luật kinh tế căn bản của sản xuất lưu thông hàng
hoá.Quy luật giá trị đòi hỏi việc sản xuất lưu thông hàng hoá phải dựa
trên cơ sở hao phí lao động xã hội cần thiết,cụ thể là:
Trong sản xuất thì hao phí lao động cá biệt phải phù hợpvới hao phí lao động
hội cần thiết.Vì trong nền sản xuất hàng hóa ,vấn đề đặc biệt quan trọng
hàng hóa sản xuất ra bán được hay không.Để thể bán được thì hao
phí lao động để sản xuất ra hàng hóa cuả các chủ thể kinh doanh phải phù
hợp với mức hao phí lao động hội thể chấp nhận được .Mức hao phí
càng thấp thì họ càng khả năng phát triển kinh doanh,thu được nhiều lợi
nhuận,ngược lại sẽ bị thua lỗ,phá sản…
Trong trao đổi hàng hoá cũng phải dựa vào hao phí lao động hội cần
thiết,tức là tuân theo nguyên tắc trao đổi ngang giá,hai hàng hoá có giá trị sử
dụng khác nhau,nhưng lương giá trị bằng nhau thì phải trao đổi ngang
nhau.
Đòi hỏi trên của quy luật khách quan ,đảm bảo sự công bằng ,hợp lí,bình
đẳng giữa những người sản xuất hàng hoá.
Quy luật giá trị bắt buộc những người sản xuất trao đổi hàng hoá phải
tuân theo yêu cầu hay đòi hỏi cuả thông qua mệng lệnh” của giá cả thị
trường.
Tuy nhiên trong thực tế do sự tác động cuả nhiều quy luật kinh tế ,nhất
quy luật cung cầu làm cho giá cả hàng hoá thường xuyên tách rời giá trị.
Nhưng sự tách rời đó chỉ xoay quanh giá trị,C.mác gọi đó vẻ đẹp của quy
luật giá trị.Trong vẻ đẹp này ,giá trị hàng hoá trục ,giá cả thị trường lên
xuống quanh trục đó.Đối với mỗi hàng hoá ,giá cả của thể cao thấp
khác nhau,nhưng khi xét trong một khoảng thời gian nhất định ,tổng giá cả
phù hợp với tổng giá trị của nó.
Giá cả thị trường tự phát lên xuống xoay quanh giá trị biểu hiện sự hoạt
động của quy luật giá trị..
Yêu cầu:
Trong sản xuất: Chi phí cá biệt nhỏ hơn hoặc bằng chi phí xã hội cần thiết
Trong lưu thông: Trao đổi phải tiến hành theo quy tắc ngang giá
Cơ chế hoạt động: sự vận động giá cả lên xuống xoay xung quanh giá trị:
Tác động: Điều tiết các quan hệ sản xuất và lưu thông hàng hóa
Kích thích cải tiễn kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất
Phân hóa những người sản xuất thành người giàu, người nghèo
Liên hệ thực tế:
Nền sản xuất xã hội chủ nghĩa không chịu sự điều tiết của quy luật giá trị mà
chịu sự chi phối của quy luật kinh tế cơ bản của chủ nghĩa xã hội và quy luật
phát triển kế hoạch cân đối nền kinh tế quốc dân .Tuy nhiên ,quy luật
giá trị không phải không ảnh hưởng đến sản xuất.Những vật phẩm tiêu
dùng cần thiết để vào sức lao động đã hao phí trong quá trình sản xuất
,đều được sản xuất tiêu thụ dưới hình thức hàng hoá chịu sự tác động
của quy luật giá trị .Trong những thành phần kinh tế khác nhau ,tác động của
quy luật giá tr những điểm không giống nhau.Nhà nước ta đã chủ động
vận dụng quy luật giá trị vào lĩnh vưc sản xuất.Vì thế các nghiệp của
chúng ta không thể và không được bỏ qua quy luật giá trị
Một nguyên tắc căn bản của kinh tế thị trường trao đổi ngang giá tức
thực hiện sự trao đổi hàng hoá thông qua thị trường, sản phẩm phải trở thành
hàng hoá.Nguyên tắc này đòi hỏi tuân thủ quy luật giá trị _ sản xuất trao
đỏi hàng hoá phải dựa trên cơ sở thời gian lao động xã hội cần thiết. Cụ thể:
Xét tầm vi mô: Mỗi nhân khi sản xuát các sản phẩm đều cố gắng làm
cho thời gian lao động cá biệt nhỏ hơn thời gian lao động xã hội .
Xét ở tầm vĩ mô:Mỗi doanh nghiệp đều cố gắng nâng cao năng suất lao động
, chất lượng sản phẩm, giảm thời gian lao động xã hội cần thiết.
Do vậy, nhà nước đua ra các chính sách để khuyến khích nâng cao trình độ
chuyên môn.Mỗi doanh nghiệp phải cố gắng cải tiến may móc, mẫu mã,
nâng cao tay nghề lao động. Nếu không, quy luật giá trị đây sẽ thực hiện
vai trò đào thảicủa nó: loại bỏ những cái kém hiệu quả , kích thích các
nhân,nghành, doanh nghiệp phát huy tính hiệu quả . Tất yếu điều đó dẫn tới
sự phát triển của lực lượng sản xuất trong đó đội ngũ lao động tay
nghề chuyên môn ngày càng cao, công cụ lao động luôn luôn được cải tiến.
cùng với nó, sự hội hoá, chuyên môn hoá lực lượng sản xuất cũng
được phát triển.Đây là những vận dụng đúng đắn của nhà nước ta
Câu 7:Phân tích điều kiện để sức lao động trở thành hàng hoá hai
thuộc tính của hàng hoá sức lao động.
Trả lời
* Khái niệm: Theo C.Mác, sức lao động hay năng lực lao động toàn bộ
những năng lực thể chất tinh thần tồn tại trong thể, trong một con
người đang sống và được người đó đem ra vận dụng mỗi khi sản xuất ra một
giá trị sử dụng nào đó.
Hàng hóa sức lao động là gì?
Hàng hóa sức lao động kết quả của một quá trình lao động trong một
khoảng thời gian nhất định. Thông qua đó con người làm ra các sản
phẩm, cung cấp được các dịch vụ trong nhu cầu của khách hàng. Sức lao
động được trao đổi như một thứ hàng hóa. Các công nhân làm việc, bỏ ra
sức lao động để nhận được lương theo giờ, theo buổi. Tuy nhiên, các giá trị
họ làm ra được có thể lớn gấp nhiều lần giá trị thu về.
Hàng hóa sức lao động được tạo thành khi xảy ra các điều kiện sau:
Người lao động được tự do sử dụng sức lao động của mình trao đổi lấy
một giá trị khác. như làm việc để nhận lại tiền hoặc một loại hàng hóa
nào đó.
Bản thân người lao động không thể tự sản xuất kinh doanh. Họ phải tham
gia vào chuỗi sản xuất, sử dụng tư liệu và phương tiện, công cụ của người sử
dụng lao động. Vì vậy, họ phải bán sức lao động để phục vụ mục đích tồn tại
và sống. Nhận được lương thanh toán cho công việc đã thực hiện.
Khi hai điều kiện trên tồn tại song song, sức lao động sẽ trở thành hàng hóa
như một điều kiện tất yếu.v
Để sức lao động trở thành hàng hóa cần đáp ứng hai điều kiện sau:
– Một là người lao động được tự do về thân thể.
Hai người lao động không đủ các liệu sản xuất để tự kết hợp với
sức lao động của mình tạo ra hàng hóa để bán, cho nên họ phải bán sức lao
động.
Hai thuộc tính của hàng hóa sức lao động đó là giá trị và giá trị sử dụng
- Giá trị của hàng hóa sức lao động cũng do một số lượng lao động hội
cần thiết để sản xuất tái sản xuất ra sức lao động quyết định. Giá trị của
hàng hóa sức lao động được tạo thành bởi các yếu tố sau:
+ Giá trị tư liệu sinh hoạt cần thiết (cả vật chất, tinh thần) để tái sản xuất sức
lao động.
+ Phí tổn đào tạo người lao động.
+ Giá trị những liệu sinh hoạt cần thiết bao gồm vật chất tinh thần của
người lao động.
Giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động cũng để thỏa mãn nhu cầu
của người mua.
Người mua hàng hóa sức lao động mong muốn thỏa mãn nhu cầu giá trị
lớn hơn, giá trị tăng thêm. Giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động được
thể hiện trong quá trình sử dụng
Sức lao động là hàng hóa đặc biệt
Để trở thành hàng hóa, sức lao động cần đáp ứng các điều kiện như đã nêu
trên.
Hàng hóa sức lao động được hình thành bởi con người với những nhu cầu
đa dạng phức tạp của con người. Các nhu cầu đó toàn diện bao gồm cả
vật chất và tinh thần phù hợp với quá trình phát triển của xã hội.
Nhu cầu vật chất của con người rất đa dạng để đáp ứng các nhu cầu bản
như ăn, mặc, sinh sống,…. Bên cạnh đó, công nhân còn mong muốn đáp úng
các nhu cầu về tinh thần như giải trí, được khuyến khích, được tôn trọng,…
Thậm chí, việc cung cấp hàng hóa sức lao động của con người còn phụ
thuộc vào các nhu cầu thực tế khác như tâm lý, nhận thức, văn hóa, khu vực
địa lý, môi trường sinh hoạt,… Trong khi đó, hội luôn vận động phát
triển dẫn đến các nhu cầu của con người ngày càng nâng cao.
– Đặc biệt, hàng hóa sức lao động được coi là hàng hóa đặc biệt mang yếu tố
tinh thần lịch sử đồng thời tạo ra giá trị thặng cho hội. Bởi, giá trị
sử dụng của hàng hóa sức lao động có điểm ưu điểm đặc biệt mà không hàng
hóa nào được, đótrong quá trình sử dụng, chúng không những bảo tồn
được giá trị mà còn tạo được giá trị lớn hơn, gọi là giá trị thặng dư.
| 1/16

Preview text:

B. Nhóm câu hỏi vận dung, phân tích, so sánh (Mỗi đề 01 câu hỏi, mỗi câu hỏi 04 điểm)
Câu 1: Phân tích các điều kiện ra đời và tồn tại của sản xuất hàng hoá.
Liên hệ thực tiễn phát triển kinh tế hàng hoá ở Việt nam. Trả lời:
*Sản xuất hàng hóa là: Kiểu tổ chức kinh tế trong đó sản phẩm sản xuất ra
dùng để trao đổi và buôn bán, trao đổi trên thị trường
Điều kiện ra đời và tồn tại của sản xuất hàng hóa:
Một là sự phân công lao động xã hội: Phân công lao động xã hội làm cho
việc trao đổi sản phẩm trở thành tất yếu. Hàng hóa được sản xuất với quy
mô lớn, số lượng nhiều. Việc trao đổi, tiêu thụ phải được đảm bảo.
Bởi vì, khi có phân công lao động xã hội, mỗi người, mỗi cơ sở chỉ sản xuất
một hoặc một vài thứ sản phẩm nhất định. Thực hiện thế mạnh trong sản
xuất, nâng cao năng suất với các chi phí vốn ổn định nhất. Trong khi nhu cầu
của cuộc sống đòi hỏi họ phải có nhiều loại sản phẩm khác nhau. Do đó, họ
cần đến sản phẩm của nhau, trao đổi với nhau.
Điều đó giúp lao động được đào tạo trong chuyên môn công việc. Nhưng
vẫn đảm bảo tìm kiếm các lợi nhuận trong trao đổi, mua bán. Cũng như
được đáp ứng các nhu cầu khác nhau thông qua sản phẩm trên thị trường.
Mặt khác, nhờ có phân công lao động xã hội, chuyên môn hóa sản xuất làm
cho năng suất lao động tăng lên. Các định hướng trong cải tiến sản xuất hay
nâng cao năng suất lao động được nghiên cứu phát triển. Sản phẩm thặng dư
ngày càng nhiều và trao đổi sản phẩm ngày càng phổ biến. Các sản phẩm
tương tự mang đến nhiều sự lựa chọn hơn cho nhu cầu của con người. Trong
các tiêu chí về giá cả, chất lượng, thương hiệu,…
Như vậy,Phân công lao động xã hội là cơ sở, là tiền đề của sản xuất hàng
hóa. Phải có lao động với chuyên môn, đảm nhận các khâu công việc nhất
định. Vừa tạo ra việc làm cho người dân, vừa thúc đẩy phát triển kinh tế.
Phân công lao động xã hội ngày càng phát triển, thì sản xuất và trao đổi hàng
hóa càng mở rộng, đa dạng hơn. Trong định hướng tiếp cận các nhu cầu thực
tế của người tiêu dùng trong khả năng của đơn vị sản xuất.
Sự tách biệt về mặt kinh tế của các chủ thể sản xuất: Những người sản xuất
trở thành những chủ thể sản xuất, độc lập nhất định. Họ tìm kiếm và khai
thác tốt nhất các lợi ích cho minhd. Do đó phải cố gắng tìm kiếm được lợi
nhuận cao từ hoạt động mua bán diễn ra trên thị trường. Từ đó sản phẩm làm
ra thuộc quyền sở hữu hoặc do họ chi phối một cách chủ động. Do vậy,
người này muốn tiêu dùng sản phẩm lao động của người khác cần phải
thông qua trao đổi mua bán hàng hóa.
Người sản xuất với các định hướng tiếp cận và phát triển hoạt động sản xuất
khác nhau. Tìm kiếm lợi nhuận để khẳng định mình, nâng cao chất lượng
đời sống vật chất của họ.
Phản ánh tính tất yếu theo chiều dài lịch sử sản xuất hàng hóa:
Trong lịch sử, sự tách biệt này do chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất quy định.
Tư hữu thể hiện với đặc điểm riêng biệt đối với việc sở hữu các tư liệu sản
xuất. Vì trong chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất thì tư liệu sản xuất thuộc sở
hữu của mỗi cá nhân. Việc sử dụng hay sử dụng, tìm kiếm lợi ích từ tư liệu
sản xuất thuộc chính chủ sở hữu đó. Mang đến kết quả là sản phẩm làm ra
thuộc quyền sở hữu của họ, nó trở thành hàng hóa. Việc trao đổi, mua bán
diễn ra riêng lẻ, chưa có sự liên kết, tổ chức sản xuất có quy mô.
Còn trong điều kiện của nền sản xuất hiện đại, sự tách biệt này còn do các
hình thức sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất và sự tách rời giữa quyền sở
hữu và quyền sử dụng đối với tư liệu sản xuất quy định.
*Liên hệ với thực tiễn phát triển kinh tế ở Việt Nam hiện nay
Dưới áp lực của tình thế khách quan, nhằm thoát khỏi khủng hoảng kinh tế -
xã hội, tại Đại hội toàn quốc lần thứ VI, Việt Nam đã quyết định xóa bỏ cơ
chế quản lý cũ, bắt đầu thực hiện phát triển kinh tế nhiều thành phần theo cơ
chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa:
Ở nước ta đang tồn tại hệ thống phân công lao động do lịch sử để lại với
nhiều ngành nghề. Với sự phát triển khoa học kỹ thuật hiện đại, nhiều ngành
nghề mới xuất hiện làm cho sự phân công lao động ở nước ta trở nên phong
phú hơn, nó tạo điều kiện cho hàng hóa phát triển. Phân công lao động xã
hội với tư cách là cơ sở của trao đổi chẳng những không mất đi, trái lại ngày
một phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. Xét về phạm vi, phân công lao
động xã hội không chỉ diễn ra trên phạm vi quốc gia mà còn mở rộng trên
quy mô quốc tế. Nền kinh tế của mỗi quốc gia trở thành bộ phận của nền
kinh tế thế giới, cùng hợp tác, các quan hệ kinh tế đối ngoại ngày càng phát
triển. Mỗi quốc gia chỉ lựa chọn phát triển một số ngành, một số lĩnh vực
phát triển lợi thế của quốc gia mình. Việt Nam trên thế giới là một đất nước
thuận lợi về phát triển nông nghiệp. Vì vậy, những mặt hàng xuất khẩu ra
nước ngoài của Việt Nam chủ yếu là sản phẩm của nông nghiệp. Hiện nay,
Việt Nam là nước xuất khẩu gạo đứng thứ hai thế giới (sau Thái Lan). Phân
công lao động xã hội đã phá vỡ các mối quan hệ truyền thống của nền kinh
tế tự nhiên khép kín, tạo cơ sở thống nhất, phụ thuộc lẫn nhau giữa những
người sản xuất vào hệ thống của hợp tác lao động.
Sự phân công lao động của ta đã ngày càng chi tiết hơn đến từng ngành,
từng cơ sở và ở phạm vi rộng hơn nữa là toàn bộ nền kinh tế quốc dân; có sự
chuyên môn hóa hình thành các vùng kinh tế, các ngành kinh tế. Hiện nay,
nước ta có 4 vùng kinh tế trọng điểm đó là: Vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ
(gồm Hà Nội, Hưng Yên, Hải Phòng, Quảng Ninh, Hải Dương, Bắc Ninh,
Vĩnh Phúc); vùng kinh tế trọng điểm Trung Bộ (gồm Thừa thiên – Huế, Đà
Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định); vùng kinh tế trọng điểm Nam
Bộ (gồm TP Hồ Chí Minh, Bình Dương, Bà Rịa – Vũng Tàu, Đồng Nai, Tây
Ninh, Bình Phước, Long An, Tiền Giang); và vùng kinh tế trọng điểm vùng
đồng bằng sông Cửu Long (gồm TP. Cần Thơ, An Giang, Kiên Giang, Cà
Mau). Hiện nay ta đã có hàng loạt các thị trường được hình thành từ sự phân
công lao động đó là: Thị trường công nghệ, thị trường các yếu tố sản xuất,…
Tạo đà cho nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần phát triển giúp ta nhanh
chóng hoà nhập được với kinh tế trong khu vực và thế giới.
Sự tách biệt về mặt kinh tế giữa những người sản xuất được thể hiện rất
rõ trong thời kỳ Việt Nam sau đổi mới. Việt Nam thừa nhận sự xuất hiện của
tư hữu. Ngoài những doanh nghiệp nhà nước như: tập đoàn điện lực Việt
Nam, tập đoàn dầu khí Việt Nam, tập đoàn xăng dầu Việt Nam, ngân hàng
nông nghiệp và phát triển nông thôn, tập đoàn công nghiệp than khoáng sản
Việt Nam, … Hiện nay còn có nhiều doanh nghiệp tư nhân hoạt động ở Việt
Nam, đó là tập đoàn Vingroup, công ty cổ phần ôtô Trường Hải, công ty cổ
phần tập đoàn vàng bạc đá quý Doji, công ty cổ phần đầu thư thế giới di
động, công ty cổ phần FPT,… Không những thế, các doanh nghiệp tư nhân
còn có những thành tựu đáng ghi nhận trong sản xuất kinh doanh. Tại bảng
xếp hạng top 500 doanh nghiệp lớn nhất cả nước, bao gồm các khối doanh
nghiệp Nhà nước, FDI và tư nhân - Vingroup đã vươn từ vị trí 28 năm ngoái lên vị trí 11 năm 2017
VẬY CÓ THỂ THẤY VIỆT NAM ĐANG TỒN TẠI ĐẦY ĐỦ HAI
ĐIỀU KIỆN CỦA SẢN XUẤT HÀNG HÓA.
Câu 2:Phân tích hai thuộc tính của hàng hoá. Liên hệ thực tiễn với hoạt
động sản xuất một hàng hoá/dịch vụ. Trả lời
• Khái niệm hàng hóa: Hàng hóa là một phạm trù lịch sử, nó chỉ
xuất hiện khi có nền sản xuất hàng hóa, đồng thời sản phẩm lao
động mang hình thái hàng hóa khi nó là đối tượng mua bán trên
thị trường. Hàng hóa là sản phẩm của lao động, thỏa mãn mong
muốn, nhu cầu nào đó của con người thông qua trao đổi hay mua bán.
Theo định nghĩa của Karl Marx, hàng hóa là sản phẩm của lao
động, thông qua trao đổi, mua bán có thể thỏa mãn một số nhu
cầu nhất định của con người. Hàng hóa có thể đáp ứng nhu cầu
cá nhân hoặc nhu cầu sản xuất. Hàng hóa có thể tồn tại dưới
dạng vật thể hoặc phi vật thể.
• Hai thuộc tính của hàng hóa đó là: giá trị sử dụng và giá trị Giá trị sử dụng: Giá
trị sử dụng là công dụng của vật phẩm có thể thỏa mãn
nhu cầu nào đó của con người.
Ví dụ: Giá trị sử dụng của cơm là để ăn, của áo là để mặc, của máy móc,
thiết bị, nguyên nhiên vật liệu là để sản xuất… Và ngay mỗi một vật cũng
có thể có nhiều thuộc tính tự nhiên khác nhau, do đó nó có nhiều giá trị sử
dụng hay công dụng khác nhau: gạo có thể dùng nấu cơm, nhưng gạo cũng
có thể dùng làm nguyên liệu trong ngành rượu, bia hay chế biến cồn y tế..
Số lượng giá trị sử dụng của một vật không phải ngay một lúc đã phát
hiện ra được hết, mà nó được phát hiện dần dần trong quá trình phát triển
của khoa học – kỹ thuật.
Giá trị sử dụng hay công dụng của hàng hóa là do thuộc tính tự nhiên của
vật thể hàng hóa quyết định. Với ý nghĩa như vậy, giá trị sử dụng là một phạm trù vĩnh viễn.
Giá trị sử dụng chỉ thể hiện khi con người sử dụng hay tiêu dùng, nó là
nội dung vật chất của của cải, không kể hình thức xã hội của của cái đó như
thế nào. Các Mác chỉ rõ: Chỉ có trong việc sử dụng hay tiêu dùng, thì giá trị
sử dụng mới được thể hiện.
Con người ở bất kỳ thời đại nào cũng đều cần đến các giá trị sử dụng
khác nhau của vật phẩm để thỏa mãn những nhu cầu muôn vẻ của mình.
Một vật khi đã là hàng hóa thì nhất thiết nó phải có giá trị sử dụng.
Nhưng không phải bất cứ vật gì có giá trị sử dụng cũng đều là hàng hóa.
Chẳng hạn, không khí rất cần cho cuộc sống con người. nhưng không phải là
hàng hóa. Nước suối, quả dại cũng có giá trị sử dụng, nhưng cũng không
phải là hàng hóa. Như vậy, một vật muốn trở thành hàng hóa thì giá trị sử
dụng của nó phải là vật được sản xuất ra để bán, để trao đổi, cũng có nghĩa
là vật đó phải có giá trị trao đổi. Trong kinh tế hàng hóa, giá trị sử dụng là
vật mang giá trị trao đổi.
– Giá trị: là thuộc tính của hàng hóa, là công sức của người sản xuất để có
thể tạo ra hàng hóa đó.
Muốn hiểu được giá trị hàng hóa phải đi từ giá trị trao đổi. Các Mác viết:
“Giá trị trao đổi trước hết biểu hiện ra như là một quan hệ về số lượng, là
một tỷ lệ theo đó những giá trị sử dụng loại này được trao đổi với những giá
trị sử dụng loại khác”.
Ví dụ: 1 mét vải = 10 kg thóc.
Vấn đề đặt ra là, tại sao vải và thóc là hai hàng hóa có giá trị sử dụng khác nhau lại có thể
trao đổi được với nhau, hơn nữa chúng lại trao đổi với nhau theo một tỷ lệ nhất định?
Khi hai hàng hóa khác nhau là vải và thóc có thể trao đổi được với nhau, thì phải có một
cơ sở chung nào đó: Cái chung đó không phải là giá trị sử dụng, tuy sự khác nhau về giá
trị sử dụng của chúng là điều kiện cần thiết của sự trao đổi. Song, cái chung đó phải nằm
ở cả hai hàng hóa. Nếu gạt giá trị sử dụng của sản phẩm sang một bên, thì giữa chúng chỉ
có một cái chung: chúng đều là sản phẩm của lao động. Để sản xuất ra vải và thóc, nguời
thợ thủ công và người nông dân đều phải hao phí lao động để sản xuất ra chúng. Hao phí
lao động là cơ sở chung để so sánh vải với thóc, để trao đổi giữa chúng với nhau.
Sở dĩ phải trao đổi theo một tỷ lệ nhất định, (1m vải = 10kg thóc), vì người ta cho rằng
lao động hao phí sản xuất ra lm vải bằng lao động hao phí để sản xuất ra 10kg thóc. Lao
động hao phí để sản xuất ra hàng hóa ẩn giấu trong hàng hóa chính là giá trị của hàng
hóa. Từ sự phân tích trên, rút ra kết luận: giá trị là lao động xã hội của người sản xuất
hàng hóa kết tinh trong hàng hóa.
Như vậy, chất của giá trị là lao động, vì vậy, sản phẩm nào không có lao
động của người sản xuất kết tinh trong đó thì nó không có giá trị. Sản phẩm
nào lao động hao phí để sản xuất ra chúng càng nhiều thì giá trị càng cao.
Giá trị hàng hóa là biểu hiện quan hệ giữa những người sản xuất hàng hóa.
Giá trị là một phạm trù lịch sử, gắn liền với nền sản xuất hàng hóa. Giá trị là
nội dung, là cơ sở của giá trị trao đổi, còn giá trị trao đổi chỉ là hình thức
biểu hiện của giá trị. Nếu giá trị sử dụng là thuộc tính tự nhiên, thì giá trị là
thuộc tính xã hội của hàng hóa.
Hàng hóa là sự thống nhất của hai thuộc tính giá trị sử dụng và giá trị,
nhưng đây là sự thống nhất của hai mặt đối lập.
Sự đối lập và mâu thuẫn giữa giá trị sử dụng và giá trị thể hiện ở chỗ:
người làm ra hàng hóa đem bán chỉ quan tâm đến giá trị hàng hóa do mình
làm ra, nếu họ có chú ý đến giá trị sử dụng cũng chính là để có được giá trị.
Ngược lại, người mua hàng hóa lại chỉ chú ý đến giá trị sử dụng của hàng
hóa, nhưng muốn tiêu dùng giá trị sử dụng đó người mua phải trả giá trị của
nó cho người bán. Nghĩa là quá trình thực hiện giá trị tách rời quá trình thực
hiện giá trị sử dụng: giá trị được thực hiện trước, sau đó giá trị sử dụng mới được thực hiện.
3. Mối quan hệ giữa hai thuộc tính của hàng hóa:
Hai thuộc tính của hàng hóa có quan hệ chặt chẽ với nhau, vừa thống nhất,
vừa mâu thuẫn với nhau. Thống nhất
Hai thuộc tính này cùng đồng thời tồn tại trong một hàng hóa. Nếu một vật
có giá trị sử dụng (tức có thể thỏa mãn nhu cầu nào đó của con người, xã
hội), nhưng không có giá trị (tức không do lao động tạo ra, không có kết tinh
lao động) như không khí tự nhiên thì sẽ không phải là hàng hóa. Ngược lại,
một vật có giá trị (tức có lao động kết tinh), nhưng không có giá trị sử dụng
(tức không thể thỏa mãn nhu cầu nào của con người, xã hội) cũng không trở thành hàng hóa. Đối lập
Thứ nhất, với tư cách là giá trị sử dụng thì các hàng hóa khác nhau về chất
(vải mặc, sắt thép, lúa gạo…). Nhưng ngược lại, với tư cách là giá trị thì các
hàng hóa lại đồng nhất về chất, đều là “những cục kết tinh đồng nhất của lao
động mà thôi”, tức đều là sự kết tinh của lao động, hay là lao động đã được
vật hóa ( vải mặc, sắt thép, lúa gạo… đều do lao động tạo ra, kết tinh lao động trong đó).
Thứ hai, quá trình thực hiện giá trị và giá trị sử dụng có sự tách rời nhau cả
về mặt không gian và thời gian.
• Giá trị được thực hiện trong lĩnh vực lưu thông và thực hiện trước.
• Giá trị sử dụng được thực hiện sau, trong lĩnh vực tiêu dùng.
Người sản xuất quan tâm tới giá trị, nhưng để đạt được mục đích giá trị bắt
buộc họ cũng phải chú ý đến giá trị sử dụng, ngược lại người tiêu dùng quan
tâm tới giá trị sử dụng để thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng của mình.
Nhưng muốn có giá trị sử dụng họ phải trả giá trị cho người sản xuất ra nó.
Nếu không thực hiện giá trị sẽ không có giá trị sử dụng. Mâu thuẫn giữa giá
trị sử dụng và giá trị hàng hóa cũng chính là một trong những nguyên nhân
dẫn đến khủng hoảng sản xuất thừa.
Liên hệ với thực tiễn hoạt động sản xuất hàng hóa/ dịch vụ ở Việt Nam hiện nay
– Về giá trị sử dụng
Đối với nền kinh tế nước ta, sản xuất phải chú trọng đến chất lượng của
hàng hóa, mang lại giá trị sử dụng tốt, đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng,
đem đến cho khách hàng những trải nghiệm tốt nhất khi sử dụng hàng hóa.
Giá trị sử dụng phải làm cho hàng hóa tốt, bền, đẹp, có nhiều công dụng,
tính năng. Hiện nay, việc sản xuất hàng hóa ở Việt Nam về cơ bản đã đáp
ứng nhu cầu của người tiêu dùng. Tuy nhiên, bên cạnh đó còn chưa đáp ứng
những nhu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng. Vì vậy, để sản xuất hàng
hóa ngày càng nâng cao giá trị sử dụng thì chúng ta cần chú trọng đến những vấn đề sau:
+ Nghiên cứu thị trường trong và ngoài nước. Tìm hiểu về những xu thế
sản xuất hàng hóa trên thị trường trong và ngoài nước.
+ Tiếp tục nâng cao tay nghề, chủ động, sáng tạo và linh hoạt trong việc
quản lý, đào tạo nguồn nhân lực cho người lao động.
+ Đổi mới trao đổi công nghệ, sử dụng những công nghệ tiên tiến để
tăng năng suất sản xuất và đem đến những hàng hóa có giá trị sử dụng cao,
đáp ứng những nhu cầu của khách hàng.
– Về giá trị trao đổi của hàng hóa
Để thực hiện được giá trị trao đổi của hàng hóa hay nói cách khác là
muốn bán được hàng hóa sản xuất ra thì cần phải làm cho giá trị cá biệt của
hàng hóa thấp hơn giá trị xã hội mới có lãi. Do đó để làm được đều này cần
thực hiện những biện pháp như sau:
+ Tiến hành đổi mới kỹ thuật công nghệ, sử dụng những công nghệ tiến
tiến vào quá trình sản xuất làm tăng năng suất sản xuất và đem đến những
chất lượng hàng hóa cao, đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng, đồng thời tối
đa hóa chi phí sản xuất làm tăng giá trị trao đổi hàng hóa.
+ Hợp lý hóa sản xuất, tiết kiệm các nguồn lực trong sản xuất và kinh doanh.
+ Tăng năng suất lao động
Tóm lại, để đáp ứng nhu cầu đa dạng và ngày càng tăng của người tiêu
dùng, thì việc sản xuất hàng hóa cần phải coi trọng cả hai thuộc tính của
hàng hóa để không ngừng cải tiến chất lượng, mẫu mã, nâng cao giá trị sử
dụng và đem đến cho khách hàng giá cả sản phẩm phải chăng, hợp lý thúc
đẩy quá trình trao đổi hàng hóa trên thị trường. Trong nền kinh tế hàng hóa
hiện nay, kinh tế hàng hóa không thể thiếu được vì nó góp phần thúc đẩy
kinh tế, giải quyết việc làm và sự phân công lao động
Câu 3: Phân tích vấn đề lượng giá trị hàng hoá. Hãy rút ra ý nghĩa thực
tiễn về tăng năng suất và tăng cường độ lao động trong sản xuất hàng hóa. Trả lời
Phân tích vấn đề về lượng giá trị của hàng hóa
* Lượng giá trị của hàng hóa là lượng lao động xã hội hao phí để sản
xuất ra hàng hóa kết tinh trong hàng hóa, đo bằng thời gian lao động xã hội cần thiết
* Thời gian lao động xã hội cần thiết được hiểu là thời gian để sản xuất
ra hàng hóa trong điều kiện bình thường của xã hội với một trình độ
thành thạo trung bình, một trang thiết bị trung bình
* Các nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá trị bao gồm: Thứ nhất: Năng suất lao động
– Năng suất lao động là năng lực sản xuất của lao động. Nó được đo bằng số
lượng sản phẩm sản xuất ra trong một đơn vị thời gian hoặc lượng thời gian
lao động hao phí để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm.
– Năng suất lao động tăng lên có nghĩa là cũng trong một thời gian lao động,
nhưng khối lượng hàng hóa sản xuất ra tăng lên làm cho thời gian lao động
cần thiết để sản xuất ra một đơn vị hàng hóa giảm xuống. Do đó, khi năng
suất lao động tăng lên thì giá trị của một đơn vị hàng hóa sẽ giảm xuống và ngược lại.
– Giá trị của hàng hóa tỷ lệ nghịch với năng suất lao động. Năng suất lao
động lại phụ thuộc vào nhiều yếu tố như:
+ Trình độ khéo léo (thành thạo) trung bình của người công nhân.
+ Mức độ phát triển của khoa học, kỹ thuật, công nghệ.
+ Mức độ ứng dụng những thành tựu khoa học, kỹ thuật, công nghệ vào sản xuất.
+ Trình độ tổ chức quản lý.
+ Quy mô và hiệu suất của tư liệu sản xuất.
+ Các điều kiện tự nhiên.
Muốn tăng năng suất lao động phải hoàn thiện các yếu tố trên. Thứ hai: Cường độ lao động
– Cường độ lao động là đại dương chỉ mức độ hao phí sức lao động trong
một đơn vị thời gian, nó cho thấy mức độ khẩn trương, nặng nhọc hay căng
thẳng của lao động. Cường độ lao động tăng lên tức là mức hao phí sức cơ
bắp, thần kinh trong một đơn vị thời gian tăng lên, mức độ khẩn trương,
nặng nhọc hay căng thẳng của lao động tăng lên.
– Nếu cường độ lao động tăng lên thì số lượng (hoặc khối lượng) hàng
hóa sản xuất ra tăng lên và sức hao phí lao động cũng tăng lên tương ứng, vì
vậy giá trị của một đơn vị hàng hóa vẫn không đổi. Tăng cường độ lao động
thực chất cũng như kéo dài thời gian lao động cho nên hao phí lao động
trong một đơn vị sản phẩm không đổi.
– Tăng năng suất lao động và tăng cường độ lao động giống nhau là đều
dẫn đến lượng sản phẩm sản xuất ra trong một đơn vị thời gian tăng lên.
Nhưng chúng khác nhau là tăng năng suất lao động làm cho lượng sản phẩm
(hàng hóa) sản xuất ra trong một đơn vị thời gian tăng lên, nhưng làm cho
giá trị của một đơn vị hàng hóa giảm xuống.
Tăng năng suất lao động có thể phụ thuộc nhiều vào máy móc, kỹ thuật,
do đó, nó gần như là một yếu tố có “sức sản xuất” vô hạn, còn tăng cường
độ lao động, làm cho lượng sản xuất ra tăng lên trong một đơn vị thời gian,
nhưng giá trị của một đơn vị hàng hóa không đổi. Tăng cường độ lao động
phụ thuộc nhiều vào thể chất và tinh thần của người lao động, do đó, nó là
yếu tố của ‘sức sản xuất” có giới hạn nhất định. Chính vì vậy, tăng năng suất
lao động có ý nghĩa tích cực hơn đối với sự phát triển kinh tế. Thứ ba:
Tính chất của lao động
– Tính chất của lao động cũng ảnh hưởng nhất định đến lượng giá trị của
hàng hóa. Theo tính chất của lao động, có thể chia lao động thành lao động
giản đơn và lao động phức tạp.
+ Lao động giản đơn là lao động mà một người lao động bình thường không
cần phải trải qua đào tạo cũng có thể làm được.
+ Lao động phức tạp là lao động đòi hỏi phải được đào tạo, huấn luyện mới có thể làm được.
– Trong cùng một thời gian, lao động phức tạp tạo ra nhiều giá trị hơn lao
động giản đơn. Lao động phức tạp thực chất là lao động giản đơn được nhân
lên. Trong quá trình trao đổi hàng hóa, mọi lao động phức tạp đều được quy
về lao động đơn giản trung bình, và điều đó được quy đổi một cách tự phát
sau lưng những hoạt động sản xuất hàng hóa, hình thành những hệ số nhất
định thể hiện trên thị trường.
Ý nghĩa thực tiễn về việc tăng năng suất lao động và tăng cường độ lao động
trong sản xuất hàng hóa:
Năng suất lao động là: năng lực sản xuất của người lao động, được tính
bằng số lượng sản phẩm xuất ra trong một đơn vị thời gian hay số
lượng thời gian hao phí để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm. Năng suất
lao động tăng lên sẽ làm giảm thời gian hao phí lao động cần thiết trong
một đơn vị hàng hóa. Năng suất lao động tăng sẽ làm cho lượng giá trị
của một đơn vị hàng hóa giảm xuống. Vì vậy trong sản xuất hàng hóa
cần chú ý để có thể giảm hao phí lao động cá biệt.
Cường độ lao động: là mức khẩn trương tích cực của hoạt động lao
độngtrong sản xuất. Việc tăng cường độ lao động sẽ làm cho số lượng
sản phẩm tăng lên. Tổng lượng giá trị gộp lại của tất cả các hành hóa
tăng lên. Ngoài ra việc tăng cường độ lao động còn có ý nghĩa rất quan
trọng trong việc tạo ra số lượng các giá trị sử dụng nhiều hơn, góp phần
thỏa mãn tốt hơn nhu cầu của xã hội
Câu 4:Phân tích nguồn gốc, bản chất, chức năng của tiền tệ. Trả lời
*Tiền tệ: Tiền tệ là một phạm trù lịch sử, nó là sản phẩm tự phát của nền
kinh tế hàng hóa, sản phẩm của sự phát triển các hình thái giá trị. Đồng thời
cũng là sản phẩm của sự phát triển mâu thuẫn giữa lao động và phân công
lao động xã hội trong sản xuất hàng hóa. Sự ra đời và phát triển của tiền tệ
gắn liền với sự ra đời và phát triển của sản xuất và trao đổi hàng hóa.
* Nguồn gốc: Là kết quả của quá trình phát triển sản xuất và tiêu dùng hàng
hóa, là sản phẩm của sự phát triển các hình thái giá trị: Hình thái giá trị
tương đối – vật ngang giá chung. Hình thái giá trị toàn bộ hay mở rộng xuất
hiện sau lần phân công lao động lần thứ nhất. Lúc này giá trị của vật không
chỉ biểu hiện thông qua giá trị sử dụng của một vật mà còn biểu hiện thông
qua giá trị sử dụng của nhiều hàng hoá khác.Hình thái giá trị chung khi sự
phân công lao động lần thứ 2, thủ công nghiệp tách rời khỏi nông
nghiệp.Hình thái tiền tệ khi vật ngang giá chung cố định ở một thứ hàng hoá,
đó là kim loại (kẽm, đồng, sắt, bạc, vàng) chỉ đến lúc này thì hình thái tiền tệ
mới được xác lập và vàng với tư cách là vật ngang giá chung và đã trở thành
tiền tệ, gọi là kim tệ. * Bản chất:
• Tiền là kết quả của quá trình phát triển sản xuất và trao đổi hàng hóa,
là kết quả của sự phát triển các hình thái giá trị từ thấp đến cao. •
Theo quan điểm của K.Marx, “tiền chính là loại hàng hóa đặc
biệt “vì: tiền có giá trị sử dụng đặc biệt( là giá trị công dụng có ích
của hàng hóa. Tiền tệ thỏa mãn hầu hết các nhu cầu của người sử dụng và sở hữu. •
Quan điểm của P.Smuelson: “tiền chính là thứ dầu bôi trơn
“trong các guồng máy luân chuyển hàng hóa từ nơi sản xuất để đi đến nơi tiêu dùng. •
Quan điểm của M. Freidman và các nhà kinh tế học hiện đại: ”
tiền là các phương tiện thanh toán” và có thể thực hiện được các chức
năng làm trung gian trao đổi, các đơn vị tính toán và có thể tích lũy
của cải. Tiền tệ ra đời là kết quả tất yếu của sự phát triển nền kinh tế thị trường hiện đại. •
Tiền tệ là một hình thái giá trị của hàng hoá, là sản phẩm của
quá trình phát triển sản xuất và trao đổi hàng hoá. Các nhà kinh tế
trước C. Mác giải thích tiền tệ từ hình thái phát triển cao nhất của nó,
bởi vậy đã không làm rõ được bản chất của tiền tệ. Trái lại, C. Mác
nghiên ứu tiền tệ từ lịch sử phát triển của sản xuất và trao dổi hàng
hoá, từ sự phát triển của các hình thái giá trị hàng hoá, do đó đã tìm
thấy nguồn gốc và bản chất của tiền tệ. Vậy, tiền tệ là hàng hoá đặc
biệt được tách ra từ trong thế giới hàng hoá làm vật ngang giá chung
thống nhất cho các hàng hoá khác, nó thể hiện lao động xã hội và biểu
hiện quan hệ giữa những người sản xuất hàng hoá.
*Chức năng của tiền tệ: Gồm 5 chức năng chính - Thước đo giá trị
- Tiền tệ dùng để biểu hiện và đo lường giá trị của các hàng hóa.
Muốn đo lường giá trị của các hàng hóa, bản thân tiền tệ cũng phải có giá
trị. Vì vậy, tiền tệ làm chức năng thước đo giá trị phải là tiền vàng.
- Để đo lường giá trị hàng hóa không cần đòi hỏi phải là tiền mặt mà
chỉ cần so sánh với lượng vàng nào đó trong ý tưởng.
- Giá cả hàng hóa là hình thức biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng
hóa. Giá cả của hàng hóa là một đại lượng tỷ lệ thuận với giá trị của hàng
hóa và tỷ lệ nghịch với giá trị của tiền tệ. Bên cạnh đó, giá cả hàng hóa
còn chịu ảnh hưởng bởi quan hệ cung-cầu về hàng hóa… -Phương tiện lưu thông
Khi thực hiện chức năng phương tiện lưu thông, tiền được dùng làm
môi giới cho quá trình trao đổi hàng hóa.
Để thực hiện chức năng làm phương tiện lưu thông, yêu cầu phải có
tiền mặt (tiền đúc bằng kim loại, tiền giấy). Trong thực hiện chức năng
phương tiện lưu thông, tiền không nhất thiết phải có đủ giá trị. Đây là cơ sở
cho các quốc gia công nhận và phát hành các loại tiền giấy khác nhau. Thực
hiện chức năng phương tiện lưu thông, tiền làm cho quá trình trao đổi, mua
bán trở nên thuận lợi; đồng thời làm cho hành vi mua, hành vi bán tách rời
về không gian và thời gian. Do đó, có thể tiềm ẩn khả năng khủng hoảng. - Phương tiện cất trữ
Thực hiện phương tiện cất trữ, tiền rút ra khỏi quá trình lưu thông để
đi vào cất trữ. Thực hiện phương tiện cất trữ, tiền phải có đủ giá trị như
tiền vàng, tiền bạc. Tiền cất trữ có tác dụng là dự trữ tiền cho lưu thông,
sẵn sàng tham gia lưu thông. Khi sản xuất hàng hóa phát triển, lượng hàng
hóa nhiều hơn, tiền cất trữ được đưa vào lưu thông. Ngược lại, nền sản xuất
giảm, lượng hàng hóa giảm, một phần tiền vàng rút khỏi lưu thông, đi vào cất trữ. - Phương tiện thanh toán
Trong trường hợp tiền được dùng để trả nợ, trả tiền mua chịu hàng
hóa... thì tiền làm phương tiện thanh toán. Thực hiện chức năng thanh toán,
có nhiều hình thức tiền khác nhau được chấp nhận. Chức năng phương tiện
thanh toán của tiền gắn liền với chế độ tín dụng thương mại, tức là mua bán
thông qua chế độ tín dụng.
Ngày nay việc thanh toán không dùng tiền mặt phát triển mạnh mẽ.
Người ta có thể sử dụng tiền ghi sổ, hoặc tiền trong tài khoản ngân hàng,
tiền điện tử, bitcoin... - Tiền tệ thế giới
Khi trao đổi hàng hóa mở rộng ra ngoài biên giới quốc gia, tiền làm
chức năng tiền tệ thế giới. Lúc này tiền được dùng làm phương tiện mua
bán, thanh toán quốc tế giữa các nước với nhau. Để thực hiện chức năng này,
tiền phải có đủ giá trị, phải là tiền vàng hoặc những đồng tiền được công
nhận là phương tiện thanh toán quốc tế.
Câu 5:Phân tích quyền lợi và trách nhiệm của các chủ thể cơ bản trong
nền kinh tế thị trường. Liên hệ thực tiễn. Trả lời
* Kinh tế thị trường: là nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường, mọi
quan hệ sản xuất và trao đổi đều được thực hiện thông qua thị trường.
*Các chủ thể cơ bản trong nền kinh tế thị trường bao gồm: Người sản xuất,
người tiêu dùng, người trung gian và nhà nước
+ Người sản xuất: Là người tổ chức sản xuất và cung ứng hàng hóa, dịch vụ ra thị trường.
Bao gồm: nhà sản xuất, nhà đầu tư, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ gọi
chung là doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường
Quyền lợi: có được những nguồn thu nhập chính đáng từ sản xuất và các giá trị khác
Trách nhiệm: Thỏa mãn nhu cầu xã hội và trách nhiệm xã hội
+ Người tiêu dùng: Là người sử dụng hàng hóa, dịch vụ để thỏa mãn nhu cầu của mình
Bao gồm: cá nhân, hộ gia đình, tổ chức xã hội, nhà nước, người nước ngoài.
Vai trò: Tiêu dùng là nhu cầu, là đơn đặt hàng của sản xuất, là động lực của sản xuất
Quyết định mua sắm và tiêu dùng ảnh hưởng đến giá cả hàng hóa
Quyền lợi: Được sử dụng hàng hóa, dịch vụ có chất lượng và giá cả phù
hợp để thỏa mãn nhu cầu.
Trách nhiệm: bảo vệ quyền lợi của mình của doanh nghiệp và xã hội
+ Các chủ thể trung gian: Kết nối giữa người sản xuất và người tiêu dùng
Bao gồm: Thương nhân và mô giới
Quyền lợi: Được hưởng lợi ích kinh tế và các lợi ích khác nhau từ hoạt động trung gian
Trách nhiệm: Phục vụ tốt nhất cho người sản xuất và người tiêu dùng thực
hiện trách nhiệm xã hội
+ Nhà nước: Là người tiêu dùng, nhà sản xuất cung ứng dịch vụ và là nhà
quản lý vĩ mô nên kinh tế
Mục tiêu: Lợi ích kinh tế, chính trị, quốc phòng giáo dục...
Vai trò: Thiết lập thể chế, môi trường pháp luật cho các chủ thể tham gia
thị trường đạt hiệu quả tối đa
Đảm bảo tính công bằng, thúc đẩy cạnh tranh bình đẳng khắc phục những
khuyết tật của thị trường
Định hướng phát triển một số quan hệ kinh tế trong sản xuất và tác động
sao cho đem lại phúc lợi cho xã hội Liên hệ thực tế:
Câu 6:Phân tích nội dung yêu cầu và tác dụng của quy luật giá trị trong
nền kinh tế thị trường. Trả lời
Nền kinh tế thị trường: là nền kinh tế được vận hành theo cơ chế thị trường,
mọi quan hệ sản xuất và tiêu dùng đều thực hiện thông qua thị trường
Các quy luật của nền kinh tế thị trường: Quy luật giá trị, quy luật cạnh tranh,
Quy luật lưu thông tiền tệ, Quy luật cung cầu
Phân tích quy luật giá trị: Đây là quy luật kinh tế cơ bản của sản xuất hàng
hóa. ở đâu có sản xuất hàng hóa thì ở đó có sự hoạt động của quy luật giá trị Nội dung:
Quy luật giá trị là quy luật kinh tế căn bản của sản xuất và lưu thông hàng
hoá.Quy luật giá trị đòi hỏi việc sản xuất và lưu thông hàng hoá phải dựa
trên cơ sở hao phí lao động xã hội cần thiết,cụ thể là:
Trong sản xuất thì hao phí lao động cá biệt phải phù hợpvới hao phí lao động
xã hội cần thiết.Vì trong nền sản xuất hàng hóa ,vấn đề đặc biệt quan trọng
là hàng hóa sản xuất ra có bán được hay không.Để có thể bán được thì hao
phí lao động để sản xuất ra hàng hóa cuả các chủ thể kinh doanh phải phù
hợp với mức hao phí lao động xã hội có thể chấp nhận được .Mức hao phí
càng thấp thì họ càng có khả năng phát triển kinh doanh,thu được nhiều lợi
nhuận,ngược lại sẽ bị thua lỗ,phá sản…
Trong trao đổi hàng hoá cũng phải dựa vào hao phí lao động xã hội cần
thiết,tức là tuân theo nguyên tắc trao đổi ngang giá,hai hàng hoá có giá trị sử
dụng khác nhau,nhưng có lương giá trị bằng nhau thì phải trao đổi ngang nhau.
Đòi hỏi trên của quy luật là khách quan ,đảm bảo sự công bằng ,hợp lí,bình
đẳng giữa những người sản xuất hàng hoá.
Quy luật giá trị bắt buộc những người sản xuất và trao đổi hàng hoá phải
tuân theo yêu cầu hay đòi hỏi cuả nó thông qua “ mệng lệnh” của giá cả thị trường.
Tuy nhiên trong thực tế do sự tác động cuả nhiều quy luật kinh tế ,nhất là
quy luật cung cầu làm cho giá cả hàng hoá thường xuyên tách rời giá trị.
Nhưng sự tách rời đó chỉ xoay quanh giá trị,C.mác gọi đó là vẻ đẹp của quy
luật giá trị.Trong vẻ đẹp này ,giá trị hàng hoá là trục ,giá cả thị trường lên
xuống quanh trục đó.Đối với mỗi hàng hoá ,giá cả của nó có thể cao thấp
khác nhau,nhưng khi xét trong một khoảng thời gian nhất định ,tổng giá cả
phù hợp với tổng giá trị của nó.
Giá cả thị trường tự phát lên xuống xoay quanh giá trị là biểu hiện sự hoạt
động của quy luật giá trị.. Yêu cầu:
Trong sản xuất: Chi phí cá biệt nhỏ hơn hoặc bằng chi phí xã hội cần thiết
Trong lưu thông: Trao đổi phải tiến hành theo quy tắc ngang giá
Cơ chế hoạt động: sự vận động giá cả lên xuống xoay xung quanh giá trị:
Tác động: Điều tiết các quan hệ sản xuất và lưu thông hàng hóa
Kích thích cải tiễn kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất
Phân hóa những người sản xuất thành người giàu, người nghèo Liên hệ thực tế:
Nền sản xuất xã hội chủ nghĩa không chịu sự điều tiết của quy luật giá trị mà
chịu sự chi phối của quy luật kinh tế cơ bản của chủ nghĩa xã hội và quy luật
phát triển có kế hoạch và cân đối nền kinh tế quốc dân .Tuy nhiên ,quy luật
giá trị không phải không có ảnh hưởng đến sản xuất.Những vật phẩm tiêu
dùng cần thiết để bù vào sức lao động đã hao phí trong quá trình sản xuất
,đều được sản xuất và tiêu thụ dưới hình thức hàng hoá và chịu sự tác động
của quy luật giá trị .Trong những thành phần kinh tế khác nhau ,tác động của
quy luật giá trị có những điểm không giống nhau.Nhà nước ta đã chủ động
vận dụng quy luật giá trị vào lĩnh vưc sản xuất.Vì thế các xí nghiệp của
chúng ta không thể và không được bỏ qua quy luật giá trị
Một nguyên tắc căn bản của kinh tế thị trường là trao đổi ngang giá tức là
thực hiện sự trao đổi hàng hoá thông qua thị trường, sản phẩm phải trở thành
hàng hoá.Nguyên tắc này đòi hỏi tuân thủ quy luật giá trị _ sản xuất và trao
đỏi hàng hoá phải dựa trên cơ sở thời gian lao động xã hội cần thiết. Cụ thể:
Xét ở tầm vi mô: Mỗi cá nhân khi sản xuát các sản phẩm đều cố gắng làm
cho thời gian lao động cá biệt nhỏ hơn thời gian lao động xã hội .
Xét ở tầm vĩ mô:Mỗi doanh nghiệp đều cố gắng nâng cao năng suất lao động
, chất lượng sản phẩm, giảm thời gian lao động xã hội cần thiết.
Do vậy, nhà nước đua ra các chính sách để khuyến khích nâng cao trình độ
chuyên môn.Mỗi doanh nghiệp phải cố gắng cải tiến may móc, mẫu mã,
nâng cao tay nghề lao động. Nếu không, quy luật giá trị ở đây sẽ thực hiện
vai trò đào thảicủa nó: loại bỏ những cái kém hiệu quả , kích thích các cá
nhân,nghành, doanh nghiệp phát huy tính hiệu quả . Tất yếu điều đó dẫn tới
sự phát triển của lực lượng sản xuất mà trong đó đội ngũ lao động có tay
nghề chuyên môn ngày càng cao, công cụ lao động luôn luôn được cải tiến.
Và cùng với nó, sự xã hội hoá, chuyên môn hoá lực lượng sản xuất cũng
được phát triển.Đây là những vận dụng đúng đắn của nhà nước ta
Câu 7:Phân tích điều kiện để sức lao động trở thành hàng hoá và hai
thuộc tính của hàng hoá sức lao động. Trả lời
* Khái niệm: Theo C.Mác, sức lao động hay năng lực lao động là toàn bộ
những năng lực thể chất và tinh thần tồn tại trong cơ thể, trong một con
người đang sống và được người đó đem ra vận dụng mỗi khi sản xuất ra một
giá trị sử dụng nào đó.
Hàng hóa sức lao động là gì?
Hàng hóa sức lao động là kết quả của một quá trình lao động trong một
khoảng thời gian nhất định. Thông qua đó mà con người làm ra các sản
phẩm, cung cấp được các dịch vụ trong nhu cầu của khách hàng. Sức lao
động được trao đổi như một thứ hàng hóa. Các công nhân làm việc, bỏ ra
sức lao động để nhận được lương theo giờ, theo buổi. Tuy nhiên, các giá trị
họ làm ra được có thể lớn gấp nhiều lần giá trị thu về.
Hàng hóa sức lao động được tạo thành khi xảy ra các điều kiện sau:
– Người lao động được tự do sử dụng sức lao động của mình trao đổi lấy
một giá trị khác. Ví như làm việc để nhận lại tiền hoặc một loại hàng hóa nào đó.
– Bản thân người lao động không thể tự sản xuất kinh doanh. Họ phải tham
gia vào chuỗi sản xuất, sử dụng tư liệu và phương tiện, công cụ của người sử
dụng lao động. Vì vậy, họ phải bán sức lao động để phục vụ mục đích tồn tại
và sống. Nhận được lương thanh toán cho công việc đã thực hiện.
Khi hai điều kiện trên tồn tại song song, sức lao động sẽ trở thành hàng hóa
như một điều kiện tất yếu.v
Để sức lao động trở thành hàng hóa cần đáp ứng hai điều kiện sau:
– Một là người lao động được tự do về thân thể.
– Hai là người lao động không có đủ các tư liệu sản xuất để tự kết hợp với
sức lao động của mình tạo ra hàng hóa để bán, cho nên họ phải bán sức lao động.
Hai thuộc tính của hàng hóa sức lao động đó là giá trị và giá trị sử dụng
- Giá trị của hàng hóa sức lao động cũng do một số lượng lao động xã hội
cần thiết để sản xuất và tái sản xuất ra sức lao động quyết định. Giá trị của
hàng hóa sức lao động được tạo thành bởi các yếu tố sau:
+ Giá trị tư liệu sinh hoạt cần thiết (cả vật chất, tinh thần) để tái sản xuất sức lao động.
+ Phí tổn đào tạo người lao động.
+ Giá trị những tư liệu sinh hoạt cần thiết bao gồm vật chất và tinh thần của người lao động.
– Giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động cũng là để thỏa mãn nhu cầu của người mua.
Người mua hàng hóa sức lao động mong muốn thỏa mãn nhu cầu có giá trị
lớn hơn, giá trị tăng thêm. Giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động được
thể hiện trong quá trình sử dụng
Sức lao động là hàng hóa đặc biệt
Để trở thành hàng hóa, sức lao động cần đáp ứng các điều kiện như đã nêu ở trên.
– Hàng hóa sức lao động được hình thành bởi con người với những nhu cầu
đa dạng và phức tạp của con người. Các nhu cầu đó toàn diện bao gồm cả
vật chất và tinh thần phù hợp với quá trình phát triển của xã hội.
Nhu cầu vật chất của con người rất đa dạng để đáp ứng các nhu cầu cơ bản
như ăn, mặc, sinh sống,…. Bên cạnh đó, công nhân còn mong muốn đáp úng
các nhu cầu về tinh thần như giải trí, được khuyến khích, được tôn trọng,…
Thậm chí, việc cung cấp hàng hóa sức lao động của con người còn phụ
thuộc vào các nhu cầu thực tế khác như tâm lý, nhận thức, văn hóa, khu vực
địa lý, môi trường sinh hoạt,… Trong khi đó, xã hội luôn vận động và phát
triển dẫn đến các nhu cầu của con người ngày càng nâng cao.
– Đặc biệt, hàng hóa sức lao động được coi là hàng hóa đặc biệt mang yếu tố
tinh thần và lịch sử đồng thời tạo ra giá trị thặng dư cho xã hội. Bởi, giá trị
sử dụng của hàng hóa sức lao động có điểm ưu điểm đặc biệt mà không hàng
hóa nào có được, đó là trong quá trình sử dụng, chúng không những bảo tồn
được giá trị mà còn tạo được giá trị lớn hơn, gọi là giá trị thặng dư.