Câu 1: Kiến thức Tâm Lý Học phát triển có ý nghĩa như thế nào với ngành CTXH?
- Tâm lý học phát triển là nghiên cứu khoa học về cách thức và lý do tại sao con
người thay đổi trong suốt cuộc đời của họ.
- Cho chúng ta hiểu biết về tâm lý, cảm xúc và hành vi của từng giai đoạn độ tuổi.
- Có kiến thức về tâm lý của từng giai đoạn độ tuổi để hổ trợ thân chủ ở các giai
đoạn độ tuổi khác nhau.
- Biết được các đặc điểm tâm lý, đặc điểm thể chất, ngôn ngữ, giao tiếp, các mối
quan hệ tình cảm của từng giai đoạn lứa tuổi.
- Nhận biết được các hành vi bất thường từ các hành vi tâm ly cảm xúc của từng lứa
tuổi khác nhau.
Câu 2: Quan điểm của tác giả D. Levinson về các nhiệm vụ cơ bản của người trưởng
thành
1. Ba nhiệm vụ của người trưởng thành
- Theo Đanien Levinson sự trưởng thành của cá nhân trong giai đoạn 17 - 33 tuổi.
Đó chính là giai đoạn giải quyết các xung đột tuổi vị thành niên đi tìm vị trí của
mình trong xã hội của người trưởng thành, hình thành các khuôn mẫu ứng xử ổn
định. Giai đoạn 17 - 33 tuổi theo Lavinson, được chia thành 3 giai đoạn nhỏ:
Giai đoạn chuyển tiếp sang tuổi trưởng thành (Khoảng từ 17 - 20 tuổi)
Giai đoạn thâm nhập vào thế giới người lớn (Khoảng từ 22 – 28 tuổi)
Giai đoạn chuyển qua tuổi 30 (từ 28 – 33 tuổi)
- Những khủng hoảng phát triển diễn ra trong trường hợp cá nhân gặp khó khăn ở
giai đoạn nào đó trong 3 giai đoạn trên.
2. Bốn nhiệm vụ phát triển của người trưởng thành
- Theo như Levinson, cho rằng tuổi trưởng thành là một giai đoạn quan trọng và con
người cần thực hiện những nhiệm vụ có ảnh hưởng lớn, lâu dài và quyết định tới
toàn bộ hoạt động sống ở các giai đoạn sau của cuộc đời con người. Vì vậy để đạt
được độ trưởng thành chân thực, theo LeVinSon phải giải quyết bốn nhiệm vụ
phát triển:
2.1. Xác định khát vọng
- Xác định khát vọng là xác định các mục tiêu, nhiệm vụ mà mình cần hướng tới.
Nó giúpchúng ta có sự hứng thú, hào hứng và quyết tâm thực hiện mục tiêu của
mình đã đặt ra.
- Xác định khác vọng của mỗi người là khác nhau. Ví dụ người muốn làm ca sĩ,
diễn viên, người thì mong muốn mình có một gia đình thật hạnh phúc, người thì
muốn có khả năng ngoại ngữ tốt,…
- Thông qua việc khát vọng thì con người tìm thấy sự hứng thú động cơ để cố gắng
học tập và có ý chí trong công việc cũng như cuộc sống.
2.2. Tìm kiếm người hướng dẫn
- Sự giúp đỡ của những người có kinh nghiệm có thể đóng vai trò quan trọng trên
con đường theo đuổi khát vọng của các bạn trẻ. Họ có thể truyền đạt các kiến thức
và kinh nghiệm của mình cho các bạn trẻ, làm cho các bạn trẻ cảm thấy tự tin, chia
sẻ và tán đồng để thực hiện ước mơ của mình.
- Ông cũng cho rằng người trưởng thành phải là những người thành công trong sự
nghiệp hoặc có nhiều kiến thức, kinh nghiệm. Bên cạnh đó người trưởng thành
không những chỉ tìm người dẫn đường trên con đường sự nghiệp mà còn có thể là
những vấn đề khác trong lĩnh vực hôn nhân, tình yêu, gia đình… những vấn đề
trong cuộc sống.
2.3. Xây dựng công danh, sự nghiệp
- Theo LeVinSon ông cho rằng muốn biến những ước mơ, khát vọng đã xác định ở
nhiệmvụ đầu tiên. Đây là nhiệm vụ vô cùng quan trọng bao trùm cả toàn bộ thời
kỳ đầu của con đường sự nghiệp, khi bạn còn trẻ còn đang cố gắng xây dựng một
kế hoạch nghề nghiệp nhất định.
- Để thực hiện những ước mơ, khát vọng thì người trưởng thành phải cố gắng rất
nhiều vàcó thể gặp thất bại, đắng cay thì mới có được sự thành công trong sự
nghiệp cũng như trong cuộc sống.
- Tuy nhiên có thể nói đây là một nhiệm vụ có tính chất quyết định đến cuộc sống
sau nàycủa người trưởng thành.
2.4. Xác lập mối quan hệ thân tình
- Theo ông LeVinSon thì mối thân tình không phải chỉ bắt đầu bằng và cũng không
nhất thiết là phải kết thúc bằng sự kết hôn.
Câu 3: Biểu hiện, nguyên nhân và biện pháp ứng xử của người lớn với khủng hoảng 3
tuổi
- Khủng hoảng tuổi lên 3 là biểu hiện cho sự chuyển giao từ giai đoạn ấu nhi (0 - 3
tuổi) sang giai đoạn mẫu giáo (3 6 tuổi).
1. Biểu hiện
- Thường có hành vi trong khá buồn bả, hay có những hành vi chống đối, ương
ngạnh, bướng bỉnh, ăn vạ, nói tục và nổi loạn.
2. Nguyên nhân
- Khủng hoảng, đó là một phần tự nhiên trong quá trình phát triển tâm lý của con
người trong cuộc đời. Khi đứa trẻ lên 3 tuổi, trẻ nhận thức được mình là một cá
nhân độc lập, có những quyền lực nhất định. Các phản ứng, hành vi tiêu cực trở
nên trầm trọng hơn thường là do mô hình độc đoán trong gia đình. Nó làm hạn chế
quyền tự chủ và sáng kiến của đứa trẻ. Việc thực thi các điều cấm và hình phạt
thường xuyên và không đầy đủ cũng như sự bảo vệ quá mức trong giáo dục,
không liên hết mối quan hệ hoặc không nhất quán trong nội quy hoặc tấm gương
giáo dục cũng sẽ làm cho cuộc khủng hoảng ở trẻ trở nên dữ dội hơn.
3. Cách khắc phục và biện pháp xử lý
- Tạo cơ hội để trẻ được nói, đưa ra ý kiến và được làm một số hoạt động trong
phạm vi nào đó (cho trẻ được tự chon quần áo, tự lấy bát đũa…) - Tránh
mối quan hệ độc đoán, bảo vệ quá mức.
- Nhận thức được nguyện vọng độc lập của đứa trẻ, khả năng hiện tại và các khó
khăn của trẻ.
- Sử dụng một vài kỹ thuật, chiến thuật trong các hoạt động vui chơi để giao tiếp
với trẻ.\
- Giải thích các quy tắc, chuẩn mực về hành vi với những hình thức đơn giãn, dễ
hiểu.
- Nhấn mạnh những việc nên làm và không nên làm, thay vì “cấm”.
- Thỏa hiệp trong một số tình huống gay gắt, cho trẻ có quyền được tự do lựa chọn.
- Đừng chỉ trích những thất bại, lỗi lầm của bé.
- Hỗ trợ, giúp đỡ các bé khi các bé gặp các khó khăn.
- Hãy là một tấm gương, một hình mẫu tốt cho các bé noi theo.
Câu 4: Biểu hiện, nguyên nhân của khủng hoảng 1 tuổi. Cha mẹ cần ứng xử với trẻ như
thế nào ở thời điểm này.
Biểu hiện:
+ Dễ cáu gắt, bực bội, khóc lóc thường xuyên
- Đây là đặc điểm nổi bật nhất mẹ dễ nhận ra. Bé dễ dàng nổi cáu nếu không được
chiều theo ý mình. Những cơn cáu giận của bé có thể từ khóc lóc, gào thét đến
đánh người khác hoặc ném, pha đồ đạc.
- Nhiều khi mẹ có thể thấy bé phản ứng nhạy cảm đến độ có thể đoán được mẹ sẽ
không cho bé làm việc gì hoặc không đưa cho bé món đồ mà bé đang nghĩ tới.
+ Biếng ăn cà khóc đêm
- Giai đoạn này bé ăn không ngon miệng, ăn ít hơn và có vẻ kén ăn hơn. Việc mãi
mê khám phá thế giới xung quanh để trải nghiệm những kỹ năng mới học được
cũng khiến bé lơ là mất việc cần việc ăn uống.
- Bước qua 1 tuổi, hầu như các bé đều khó ngủ, ít ngủ hơn trong cả giấc ngày và
giấc đêm.
- Bé quá mệt và buồn ngủ khi ngày không ngủ đủ giấc. Với những em bé chưa có
khả năng tự ngủ, tình trạng này càng khó khăn hơn khi bé không tự dỗ mình đi
vào giấc ngủ.
- Thêm vào đó, các hoạt động, những biến động trong ngày cũng khiến bé gặp các
giấc mơ khiến bé sợ hãi và căng thẳng.
+ Bé bám mẹ hoặc người chăm sóc nhiều hơn
- Khi bé chưa định nghĩa được sự vật, sự việc mới mẻ xung quanh mình, nhận thức
nhạy cảm của bé lập tức báo động cho bé về cảm giác nguy hiểm và sự an toằn
- Ở giai đoạn này trong nhận thức của bé, bé và mẹ vẫn là một chỉnh thể không tách
rời. Bé chỉ an tâm khi được ở bên mẹ, được mẹ an ủi, vỗ về. Việc bé bám mẹ cũng
giống như bám vào một con thuyền vững chãi để ra khơi khám phá thế giới.
- Có những em bé cảm thấy cần phải bám chặt trên người mẹ, càng chặt càng tốt.
Cũng có những em bé chỉ cần mẹ vẫn ở trong tầm mắt bé để thỉnh thoảng bé được
trở lại ôm mẹ và sạc lại năng lượng. + Tâm trạng thay đổi thất thường
- Em bé đang vui vẻ bỗng chỉ một thay đổi nhỏ cũng khiến bé trở nên cáu giận. Bé
cũng bắt đầu thể hiện nỗi lo lắng, sợ hãi trước một sự vật, sự việc nào đó, chẳng
hạn sự xuất hiện của một món đồ chơi mới hay một thay đổi trong trình tự đi tắm
mà bé vẫn quen thuộc. Hoặc mẹ cũng có thể nhận thấy bé dễ tủi thân, hay òa khóc
nức nở hơn.
Khủng hoảng tuổi lên 1 bắt đầu khi nào và kéo dài bao lâu?
- Sau khi sinh nhật 1 tuổi, bé bắt đầu ý thức được sự thay đổi của thế giới xung
quanh cũng như những xáo trộn diễn ra trong cơ thể. Cuộc khủng hoảng bắt đầu
và thường kéo dài từ 3-6 tuần tùy theo tính cách của bé.
Khủng hoảng tuổi lên 1 và những lưu ý dành cho mẹ
+ Mẹ lên lịch trình sinh hoạt phù hợp và nhất quán
- Dù bất cứ độ tuổi nào, bé luôn cần được ăn uống và nghỉ ngơi đều đặn để giữ tình
trạng sức khỏe và tinh thần tốt nhất. Nhờ vậy, mức ddộ bực bội, cáu gắt của bé
cũng giảm đi.
- Trong lịch hoạt động hàng ngày, mẹ cố gắng sắp xếp để khuyến khích bé được vận
động, nhất là vui chơi khám phá ngoài thiên nhiên. Vận động tích cực và sự gần
gũi thiên nhiên không chỉ giúp bé tăng cường nhận thức mà còn giúp bé giải tỏa
những cằng thẳng bức bối.
+ Mẹ tạo môi trường thân thiện cho bé
- Mẹ hãy sắp xếp đồ đạc trong nhà để phù hợp với sự phát triển của bé trong từng
thời kỳ nhằm tạo cơ hội cho bé thảo sức khám phá môi trường xung quanh trong
giới hạn an toàn. Từ đó, mẹ khuyến khích bé tự làm những việc trong khả năng
của bé để phục vụ nhu cầu cá nhân như tập đánh răng, giúp mẹ lấy đồ, tự lấy sách
và đồ chơi trên giá kệ
+ Mẹ lưu ý cách xử lý khi có vấn đề xảy ra
- Bước 1: Ghi nhận vấn đề, không phán xét đánh giá. Vì sự phán xét của mẹ, dựa
trên kinh nghiệm và cả những trải nghiệm cá nhân tích cực hoặc không tích cực
của mẹ, sẽ làm ảnh hưởng tới sự quan sát, nhìn nhận vấn đề của bé
- Bước 2: Gợi ý giải pháp với bé: Bé vẫn đang trong giai đoạn định nghĩa mọi việc
trong thế giới mới nên mẹ từ tốn giải thích từng giải pháp để bé lắng nghe và hiểu
ngôn ngữ.
- Bước 3: Đồng hành thực hiện cùng bé. Mẹ làm mẫu và thực hiện cùng với bé. Mẹ
hãy kiên nhẫn đồng hành cùng với bé, để bé thấy mọi vấn đề đều có giải pháp, cứ
từ tốn quan sát và thực hiện.
+ Mẹ lưu ý cách nói chuyện: Luôn báo trước cho bé về sự việc sắp xảy ra
- Lúc này bé càng nhạy cảm với sự thay đổi. Mẹ chú ý luôn giới thiệu trước với bé
những điều sắp xảy ra với bản thân bé. Hành động này không chỉ tăng nhận thức
và chuẩn bị tâm lý cho bé mà còn hỗ trợ bé xây dựng niềm tin và cảm giác an toàn
về thế giới xung quanh.
- Giai đoạn này, nhu cầu có mẹ và nỗi sợ bị bỏ rơi cũng là vấn đề rất nhạy cảm với
bé. Nếu mẹ phải vắng mặt, mẹ hãy nói với bé rằng tạm thời mẹ cần phải rời khỏi
phòng và mẹ sẽ quay lại. Cho dù bé vẫn sẽ khóc nhưng mẹ cần nói và rời đi dứt
khoát, tránh kéo dài thời gian tạm biệt. Dần dần bé sẽ hiểu mọi thứ vẫn ổn khi mẹ
không có ở đó một lúc và an tâm rồi mẹ sẽ quay trở lại. Ban đầu mẹ chỉ rời đi
khoảng vài phút và trở lại ngay, khi bé bắt đầu hiểu mẹ có thể tăng dần thời gian
vắng mặt. Mẹ cũng có thể tập luyện trước cho bé về sự vắng mặt bằng trò chơi
trốn tìm.
+ Mẹ hãy chấp nhận những nỗi sợ vô lý của
- Trong hành trình trải nghiệm thế giới xung quanh, bé có thể gặp những sự vật, sự
việc mà bé chưa mà bé chưa hiểu rõ cũng như khám phá ra những mối nguy hiểm
mới. Trong khi bé chưa có khả năng diễn đạt những gì mình vừa tìm ra. Mẹ hãy
thể hiện cho bé thấy mẹ cũng hiểu cảm giác lo sợ của bé, công nhận nỗi sợ của bé
và nhẹ nhàng giải thích cho bé hiểu bằng ngôn từ đơn giản nhất có thể. Chỉ bằng
cách đó, nỗi sợ của bé mới từ từ biến mất.
- Cuối cùng mẹ cần nhớ mỗi cuộc khủng hoảng lại đánh dấu một chặng đường phát
triển mới. Chỉ khi mẹ thấu hiểu và kiên nhẫn đồng hành cùng con, khủng hoảng sẽ
luôn là những ngày tháng đáng nhớ bởi sự gắn kết giữa mẹ và con trong giai đoạn
phát triển vàng con cần có mẹ nhất.
Câu 5: Những khó khăn tâm lý của tuổi thiếu niên (12-17 tuổi). Cha mẹ cần nên ứng xử
như thế nào để giúp các em vượt qua các khó khăn đó.
Nhân cách chưa ổn định là khó khăn của tuổi thiếu niên
Thường các cảm xúc của con người bị chia phối bới rất nhiều tác động môi trường xung
quanh và sự thay đổi trong cơ thể, khiến trẻ luôn cảm thấy khó chịu, dễ nóng giận, dễ tủi
thân. Do vậy trẻ cũng vô cùng rất nhạy cảm với các cảm xúc khác nhau.
Cảm xúc bất thường
Sự không ổn định tâm trạng, cảm xúc thất thường của trẻ một phần liên quan đến quá
trình chín muồi tình dục cũng như những cải tổ sinh lý trong cơ thể. Và một số các yếu t
khác thuộc về nhân cách và môi trường xung quanh.
Chưa ổn định về mặt nhận thức các chuẩn mực đạo đức
Trẻ chưa có hệ thống chuẩn mực đạo đức bền vững. Và việc chưa ổn định về cảm xúc,
nhận thức, về chuẩn mực đạo đức nên khi các con tham gia với một nhóm bạn thì trẻ dễ
dàng vì nhóm (vì giá trị nhóm). Đôi khi vì nhóm dẫn đến vi phạm pháp luật, vi phạm các
chuẩn mực hành vi đạo đức.
Chưa ổn định về mặt tự đánh giá
Một điểm nữa đó là ở tuổi thiếu niên trẻ chưa biết tự đánh giá. vì ở độ tuổi này, “cái tôi”
của trẻ còn rất bấp bênh và chưa gắn kết với nhau một cách hòa hợp, ổn định. Nên việc tự
đánh giá mình của trẻ phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Đây cũng là giai đoạn nhạy cảm để
hình thành nên cá tính riêng cho trẻ, cần phải để trẻ tự sáng tạo, tự thử thách bản thân với
những điều kiện khác nhau thì trẻ mới trở nên mạnh mẽ và tự tin hơn.
Mâu thuẫn trong tính cách và xu hướng
Đây cũng là một biểu hiện nổi bật của thiếu niên. Các em vừa muốn được thừa nhận và
được những người khác tôn trọng. Đồng thời lại tỏ ra bất cần và làm bộ không cần che
giấu những nét cá tính phản diện của mình. Tính cách không nhất quán của trẻ được thể
hiện ở các tình huống khác nhau:
-Lúc rụt rè, nhút nhát
-Lúc lại thô lỗ, suồng sã
-Lúc đa cảm, đa sầu
-Lúc lại vô tình, nhẫn tâm
-Tâm hồn lúc mở rộng, lúc hẹp hòi ích kỷ
* Cha mẹ cần ứng xử như thế nào để giúp để giúp các em vượt qua khó khăn đó
Nguyên nhân làm nảy sinh vấn đề này là gì?
Một trong số đó là trẻ muốn tự khảng định và được nổi bật. Trẻ muốn thể hiện cái Tôi và
có tính riêng của mình. Dẫn đến sự chống đối những chuẩn mực quy tắc xã hội chung
đang tồn tại xung quanh trẻ. Sự không ổn định về mặt nhận cách, dễn bị ảnh hưởng bởi
các tác động bên ngoài. Đặc biệt là hành vi bắt chước và a dua.
Bên cạnh đó, sự cô đơn, cảm giác không có ai hiểu mình trong gia đình và trường hộc là
những yếu tố dẫn đến việc thiếu niên gia nhập vào nhóm bạn bè xấu và dễ bị lợi dụng.
Bị làm dụng tình dục và có thai ngoài ý muốn là một trong những khó khăn gây ảnh
hưởng lớn nhất đến sự phát triển của trẻ sau này:
Lạm dụng tình dục
Hiện nay, có rất nhiều trẻ bị lam dụng tình dục (bị buộc phải quan hệ tình dục khi không
đồng ý). Tuy nhiên những trường hợp được thông báo công khai chỉ là một phần nhỏ của
số các vụ việc xảy ra trên thực tế.
Việc thực hiện hành vi lạm dụng tình dục có thể diễn ra trong một thời gian dài và được
che giấu bởi kẻ thực hiện và nạn nhân. Đôi khi ngay cả cha mẹ của nạn nhân cũng không
hề hay biết chuyện gì đã xảy ra với con mình. Trong một số trường hợp thậm chí cha mẹ
không tin những điều con nói hoặc nếu có cũng không có biện pháp thích hợp để bảo vệ
con mình.
Có thai ngoài ý muốn
Việc có thai ngoài ý muốn xảy ra khi trẻ có quan hệ tình dục sớm thường xảy ra với
những trẻ sống tự do, không tìm thấy được sự “Yêu thương” từ cuộc sống gia đình cũng
như các mối quan hệ bạn bè. Nhiều trẻ có lối sống buông thả, vô trách nhiệm và có thái
độ thờ ơ trước cuộc sống, thiếu hiểu biết về sự thụ thai và thiếu hụt thông tin về tình dục
an toàn, các biện pháp tránh thai.
Nguyên nhân chủ yếu của việc có thai ngoài ý muốn là thiếu hiểu biết về sự thụ thai, thiết
hụt thông tin về tình dục an toàn, không sử dụng các biệc pháp tránh thai. Do vậy, khi có
thai ngoài ý muốn các em thường vô cùng hoang mang và lo sợ.
Uống rượu bia
Bia rượu có tác động ức chế hệ thần kinh trung ương như thuốc ngủ hoặc thuốc an thần.
Nhiều trẻ ở độ tuổi thiếu niên có hình dung việc uống rượu bia như là biểu tượng của sự
trưởng thành và sự chín chắc về mặt xã hội, do đó có xu hướng sử dụng rượu bia nhằm
thể hiện bản thân.
Ngoài ra một số em do có vấn để tâm lý như: khủng hoảng đồng nhất, cảm giác khồn trọn
vẹn về nhân cách, không có mục đích hoặc là luôn có xu hướng tìm kiếm cảm giác
kinh nghiệm lạ. Hoặc tính tự trọng, sự am hiểu xã hội thấm cũng dẫn đến việc uống rượu
bia bừa bãi của nhiều trẻ.
Vi phạm pháp luật
Ở đổ tuổi này trẻ rất dễ có những hành vi vi phạm pháp luật. không chỉ do thiếu thốn hay
do sống ở những môi trường tồi tệ mà đa số là không có kỹ năng và có thái độ chống đối
xã hội. Nhiều khi trẻ không có khả năng tự kiềm chế cơn tức giận hoặc không tìm ra lối
thoát cho sự thất vọng. Một số hành vi vi phạm pháp luật là bị bạn bè xấu rủ rê và có
những trải nghiệm mạnh. Các phương tiện truyền thông cũng ảnh hưởng đến sự phát triển
bạo lực và hành vi vi phạm pháp luật, chẳng hạn như phim ảnh đánh nhau, trộm cướp,…
bị sao chép một cách mù quáng.
Tự tử
Do tâm lý chưa ổn định, dễ nhay cảm, thiếu nhận thức mà nhiểu trẻ dễ bị trầm cảm dẫn
đến tự tử. Có rất nhiều nguyên nhân có thể khiến trẻ có hành vi này.
-Trẻ đã có ý định tự tử từ trước
-Trầm cảm do những trải nghiệm tồi tệ về việc bị bỏ rơi hoặc bị đánh mất lòng tin.
– Bị lạm dụng tình dụng hoặc bị đe dọa.
-Mâu thuẫn, xung đột lâu dài với các mối quan hệ với cha mẹ, bạn bè, thầy cô.
-Nghĩ đến một tương lai tồi tệ.
Cha mẹ có thể phòng ngừa hoạt động nguy cơ của con mình bằng cách xây dựng bầu
không khí tâm lý gia đình vui vẻ, hòa thuận và chia sẻ lẫn nhau; chọn lựa phong cach
giáo dục phù hợp, tôn trọng con cái; phát triển tính tự trọng, sự am hiểu của con, phối
hợp với các cán bộ làm công tác xã hội và giáo viên áp dụng những biện pháp phòng
ngừa; trường hợp bất đắc dĩ phải chuyển ocn mình đến môi trường an toàn hơn để tránh
ảnh hường của nhóm bạn xấu.
Nhìn chung, tuổi thiếu niên là giai đoạn lứa tuổi chín muồi tính dục và trưởng thành dần
về tâm lý. Trẻ không muốn cha mẹ đi sâu, kiểm soát nhiều lĩnh vực cuộc sống của mình,
và dễ xung đột với người lớn nếu bị xâm phạm những quyền này. Tuy nhiên trẻ rất cần sự
chỉ bảo, hỗ trợ, động viên. Chính vì vậy, người lớn cần có cách ứng xử phù hợp để giúp
các em phát triển và vượt qua những khó khăn của giai đoạn lứa tuổi này.
Câu 6: Những thay đổi về hoạt động của trẻ 6 đến 11 tuổi. Những yếu tố ảnh hưởng đến
kết quả học tập của trẻ 6 – 11 tuổi.
PHÁT TRIỂN TÂM LÝ CỦA TRẺ 6 ĐẾN 11 TUỔI
Từ lúc sinh đến lúc chết, con người luôn lớn lên về mặt thể chất, cảm xúc, tâm trí, tinh
thần… Tuy nhiên, chính trong thời thơ ấu mà sự tăng trưởng xảy ra nhanh nhất- chỉ trong
vài năm đầu đời, chúng ta trở thành một em bé hoàn toàn độc lập, rồi thành một trẻ chạy
lon ton thích khám phá, rồi đến một trẻ thích đặt câu hỏi, đến một trẻ vị thành niên có ý
thức và người thanh niên đầy tự tin.
Theo định nghĩa, sự phát triển của trẻ là tiến trình tăng trưởng thể chất, tâm trí và cảm
xúc từ lúc mới sinh đến 18 tuổi đối với trẻ em.
Khi làm việc với trẻ em, chúng ta cần hiểu về sự phát triển của trẻ vì:
Trẻ có nhu cầu khác nhau tùy giai đoạn phát triển
Chúng ta nói và tương tác với trẻ khác nhau tùy theo tuổi của trẻ
Nếu có điều gì làm cho trẻ bị tổn thương ở một giai đoạn nào đó (như bị lạm dụng hoặc
cha mẹ tử vong) thì sẽ ảnh hưởng xấu đến sự phát triển của trẻ. I. Những thay đổi về cơ
thể và hoạt động:
1. Đặc điểm cơ thể: Có những thay đổi cơ bản về những đặc điểm giải phẫu tâm lý cụ thể
như:
- Bộ xương phát triển, đặt biệt là cột sống.
- Các dây chằng, cơ bắp được tăng cường.
- Sự cốt hóa ở các ngón tay hoàn thiện.
- Cơ tim phát triển mạnh ở tuổi 10 – 11.
- Trọng lượng não phát triển bằng người lớn, đặt biệt thùy trán phát triển mạnh.
- Có sự cân bằng hơn trong hoạt động của 2 quá trình hưng phấn và ức chế.
Tóm lại, lứa ở lứa tuổi nhi đồng đang có sự hoàn thiện về cơ thể. Đây là tiền đề vật chất
quan trọng cho những hoạt động mới ở trẻ.
2. Những thay đổi về hoạt động:
Hoạt động học tập là hoạt động chủ đạo và là bước ngoặc lớn trong sự phát triển của lứa
tuổi nhi đồng.
a) Những đòi hỏi của hoạt động học tập với trẻ:
- Phát triển trí tuệ để tiếp thu kĩ năng, kĩ xảo.
- Năng lực, ý chí để thực hiện những yêu cầu của hoạt động học tập.
- Thích ứng với những tình huống xã hội mới ở lớp học.b) Những khó khăn của hoạt
động học tập đối với trẻ:
- Khó khăn liên quan đến việc thay đổi chế độ sinh hoạt.
- Khó khăn liên quan đến việc thay đổi môi trường hoạt động.
- Khó khăn liên quan đến việc giảm sút hứng thú học tập.
II. Đặc điểm phát triển tâm lý của tuổi nhi đồng:
Những cấu tạo tâm lý mới chủ yếu do hoạt động học tập mang lại và được hình thành dần
dần với chính quá trình hình thành của quá trình hoạt động học tập.
1. Sự phát triển của quá trình nhận thức:
a) Sự phát triển của tri giác
- Đầu lớp 1 trẻ chưa biết phân tích có hệ thống những thuộc tính và phẩm chất của các
đối tượng tri giác.
- Trình độ tri giác phát triển nhờ vào những hành động học tập có mục đích, có kế hoạch.
- Ở trẻ lớp 4, lớp 5 tính tổng thể của tri giác dần dần nhường chỗ cho tri giác chính xác.
b) Sự phát triển của sự tập trung
- Trẻ lớp 2, lớp 3 biết chú ý vào tài liệu học tập cũng như vào việc hoàn thành các nhiệm
vụ học tập.
- Đến lớp 4. lớp 5 trẻ còn biết phân phối chú ý với những dạng hoạt động khác nhau.
- Tính chủ định của chú ý, tri giác là những nét tâm lý mới của trẻ lứa tuổi này. c) Sự phát
triển của trí nhớ
- Ghi nhớ có chủ định được hình thành và phát triển dần trong quá trình học tập và được
hình thành rõ nét ở trẻ lớp 3.
- Hai hình thức ghi nhớ chủ định và ghi nhớ không chủ định tồn tại song song, chuyển
hóa, bổ sung cho nhau.
- Ở những năm cuối của giai đoạn này, trí nhớ có sự tham gia tích cực của ngôn ngữ. d)
Sự phát triển của tưởng tượng
- Chủ yếu là phát triển tưởng tượng tái tạo cụ thể như sau:
+ Lớp 1 – 2, tưởng tượng còn nghèo nàn có khi chưa phù hợp với đối tượng.
+ Lớp 3, trẻ bắt đầu hình dung được một cách trọn vẹn, đầy đủ hơn với trạng thái trung
gian của nó.
+ Đến cuối cấp, tưởng tượng của trẻ phát triển theo xu hướng rút gọn và khái quát hơn.
Đặc điểm này được phát triển song song với ghi nhớ có ý nghĩa.
- Điểm khác nhau căn bản về tưởng tượng của trẻ mẫu giáo và trẻ nhi đồng là: trẻ nhi
đồng ý thức rõ rệt về tính thuần túy, qui ước về những điều tưởng tượng của mình.
- Tưởng tượng sáng tạo bắt đầu hình thành ở thời gian cuối của giai đoạn. e) Sự phát triển
của tư duy
- Giai đoạn 1 ( 6 – 7 ): Tư duy trực quan hành động chiếm ưu thế.
+ Trẻ học chủ yếu bằng phương pháp phân tích, so sánh, đối chiếu dựa trên các đối tượng
hoặc những hình ảnh trực quan.
+ Những khái quát của trẻ về sự vật hiện tượng ở giai đoạn này chủ yếu dựa vào những
dấu hiệu cụ thể nằm trên bề mặt của đối tượng hoặc những dấu hiệu thuộc công dụng và
chức năng.
+ Tư duy còn chịu ảnh hưởng nhiều bởi yếu tố tổng thể.
+ Tư duy phân tích bằng đầu hình thành nhưng còn yếu. -
Giai đoạn 2 ( 8 – 12 tuổi ): Tư duy trực quan hình tượng
+ Trẻ nắm được các mối quan hệ của khái niệm.
+ Những thao tác về tư duy như phân loại, phân hạng tính toán, không gian, thời gian,..
được hình thành và phát triển mạnh.
- Đến cuối giai đoạn 2, tư duy ngôn ngữ bắt đầu hình thành.
Theo lý thuyết phát triển trí tuệ của Piaget, thì đây được gọi là giai đoạn “vận dụng năng
lực tư duy cụ thể (concrete operational stage) với hai đặc điểm nổi bật là trẻ am hiểu
nguyên lý bảo tồn và khái niệm nghịch đảo. Tuy nhiên năng lực tư duy của trẻ còn bị hạn
chế bởi sự ràn buộc với những thật tại vật chất cụ thể. Trẻ gặp khó khăn trong tư duy trừu
tượng.
2. Sự phát triển của cảm xúc, ý chí:
- Đời sống cảm xúc, tình cảm khá phong phú, đa dạng và cơ bản mang tính tích cực.
- Tính kiềm chế và tự giác được tăng cường.
- Trạng thái cảm xúc ổn định. Đặc biệt tâm trạng sáng khoái, vui tươi thường bền vững,
lâu dài.
3. Sự phát triển nhân cách của học sinh nhỏ:
- Chủ yếu diễn ra và bị chi phối bởi hoạt động chủ đạo là hoạt động học tâp.
+ Trẻ tự điều khiển mình tuân theo những điều “cần phải” chứ không phải theo ý muốn
chủ quan.
+ Nhờ có tính chủ định đối với mọi hành vi, trẻ dần dần nắm được những chuẩn mực đạo
đức, những qui tắc hành vi.
+ Nét đặc trưng của những mối quan hệ qua lại giữa trẻ là chúng dựa vào sự giống nhau
về hoàn cảnh sống hay những hứng thú ngẫu nhiên.
+ Cuối tuổi này, hành vi, lời đánh giá của bạn bè có ý nghĩa rất lớn trong việc nhìn nhận
và đánh giá bản thân của trẻ làm cơ sở cho tính tự đáng giá ở trẻ.
+ Hình ảnh của người lớn đặc biệt là của giáo viên có ý nghĩa rất to lớn trong việc giáo
dục cho trẻ.
- Ảnh hưởng của hoạt động lao động
+ Những công việc tự phục vụ bản thân và giúp đỡ gia đình đã làm hình thành những kỹ
năng lao động, kỹ năng vạch kế hoạch, mục tiêu cho hành động và tạo điều kiện cho
những rung cảm, tình cảm tốt đẹp đối với lao động.
- Ảnh hưởng của hoạt động đội nhóm: Dưới ảnh hưởng của tiêu chuẩn, nội qui, quyền lợi
chung của tập thể trẻ phát triển được:
+ Tính tự lập.
+ Tình cảm trách nhiệm.
+ Mối quan tâm, đồng cảm với người khác.
+ Rèn luyện kĩ năng giao tiếp. ð Phát huy tính tích cực xã hội, điều kiện hình thành
nhân cách mang đậm nét xã hội nơi trẻ.
Theo thuyết phát triển tâm lý xã hội của Erikson, thì giai đoạn này được gọi là giai đoạn
“chuyên cần – ngược lại – tụt hậu”. Cụ thể là tình trạng phát triển TLXH thành công đặc
trưng bởi ngày càng tăng thêm khả năng vượt qua mọi yêu cầu, các yêu cầu có thể là các
tương tác xã hội hay kĩ năng học vấn. Ngược lại rắc rối trong giai đoạn này khiến trẻ có
cảm giác thất bại và thua sút.
4. Sự phát triển về giới tính:
- Định dạng giới tính (Gender Identity): Khoảng 6 – 7 tuổi, khi tính giữ lại (tính bảo thủ)
có thể trở thành nhận thức, thì khi đó trẻ có sự hằng đinh về giới (Gender constancy).
Trẻ có ý tưởng giới tính là vĩnh viễn không thay đổi được. Trẻ cũng ghi nhận rằng các
cơ quan sinh dục là yếu tố quan trọng để xác định giới tính.
- Vai trò giới (Gender role):
+ Ngoài việc hiểu biết các định dạng giới tính, trẻ cũng có biêu hiện ưa thích việc tham
gia vào các hành vi định hình giới tính. Ở giai đoạn tuổi thiếu nhi, các trẻ nam ưa thích
hành vi và thái độ theo kiểu giới tính của mình nhiều hơn, trong khi đó các trẻ nữ lại
chuyển các hoạt động và nét theo kiểu nam nhiều hơn.
+ Học thuyết học tập xã hội (Social learning theory) đã chỉ ra sự ảnh hưởng rất mạnh của
người lớn đối với trẻ trong những biểu hiện trên.
- Tính dục (Sexuality):
+ Theo Volbert ở trẻ 6 – 7 tuổi, trẻ không nói về một chức năng tính dục đối với các bộ
phận sinh dục ngoài chuyện “em bé được sinh ra từ đó”.
* Đến 9 tuổi, trẻ bắt đầu liên tưởng sự sinh sản với hoạt động tình dục.
+ Theo Nghiên cứu của Stanfort và Cohen Kenttenis, thì trẻ ở giai đoạn này thường xuất
hiện những hành vi “khám phá” thân thể như: sờ mó bộ phận sinh dục của mình và của
người khác, thủ dâm, cho người khác xem, vẽ hình bộ phận sinh dục và đặc biệt là chơi
trò “bác sĩ” với bạn bè.
+ Đến cuối thời kỳ này, trẻ bắt đầu có dấu hiệu của dậy thì.
Câu 7: Vai trò của hoạt động học tập, nghiên cứu khoa học và hoạt động xã hội đối với sự
phát triển nhận thức, tình cảm, tự đánh giá của lứa tuổi sinh viên (18 – 22 tuổi)
Một số đặc điểm tâm lý cơ bản của sinh viên
Lứa tuổi sinh viên có những nét tâm lý điển hình, đây là thế mạnh của họ so với các lứa
tuổi khác như: tự ý thức cao, có tình cảm nghề nghiệp, có năng lực và tình cảm trí tuệ
phát triển (khao khát đi tìm cái mới, thích tìm tòi, khám phá), có nhu cầu, khát vọng
thành đạt, nhiều mơ ước và thích trải nghiệm, dám đối mặt với thử thách.
Sinh viên là một nhóm xã hội đặc biệt, đang tiếp thu những kiến thức, kỹ năng chuyên
môn ở các trường cao đẳng, đại học để chuẩn bị cho hoạt động nghề nghiệp sau khi ra
trường.
Mỗi một lứa tuổi khác nhau đều có những đặc điểm tâm lý nổi bật, chịu sự chi phối của
hoạt động chủ đạo. Ở đây, chúng tôi quan tâm đến sinh viên, những người có hoạt động
chủ đạo là học tập để tiếp thu kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo nghề nghiệp ở các trường cao
đẳng, đại học. Một trong những đặc điểm tâm lý quan trọng nhất ở lứa tuổi thanh niên -
sinh viên là sự phát triển tự ý thức. Nhờ có tự ý thức phát triển, sinh viên có những hiểu
biết, thái độ, có khả năng đánh giá bản thân để chủ động điều chỉnh sự phát triển bản thân
theo hướng phù hợp với xu thế xã hội. Chẳng hạn sinh viên đang học ở các trường cao
đẳng, đại học sư phạm, họ nhận thức rõ ràng về những năng lực, phẩm chất của mình,
mức độ phù hợp của những đặc điểm đó với yêu cầu của nghề nghiệp, qua đó họ sẽ xác
định rõ ràng mục tiêu học tập, rèn luyện và thể hiện bằng hành động học tập hàng ngày
trong giờ lên lớp, thực tập nghề hay nghiên cứu khoa học. Nhờ khả năng tự đánh giá phát
triển mà sinh viên có thể nhìn nhận, xem xét năng lực học tập của mình, kết quả học tập
cao hay thấp phụ thuộc vào ý thức, thái độ, vào phương pháp học tập của họ.
Ở SV đã bước đầu hình thành thế giới quan để nhìn nhận, đánh giá vấn đề cuộc sống, học
tập, sinh hoạt hàng ngày. Sinh viên là những trí thức tương lai, ở các em sớm nảy sinh
nhu cầu, khát vọng thành đạt. Học tập ở đại học là cơ hội tốt để SV được trải nghiệm bản
thân, vì thế, sinh viên rất thích khám phá, tìm tòi cái mới, đồng thời, họ thích bộc lộ
những thế mạnh của bản thân, thích học hỏi, trau dồi, trang bị vốn sống, hiểu biết cho
mình, dám đối mặt với thử thách để khẳng định mình.
Một đặc điểm tâm lý nổi bật nữa ở lứa tuổi này là tình cảm ổn định của sinh viên, trong
đó phải đề cập đến tình cảm nghề nghiệp - một động lực giúp họ học tập một cách chăm
chỉ, sáng tạo, khi họ thực sự yêu thích và đam mê với nghề lựa chọn. Sinh viên là lứa tuổi
đạt đến độ phát triển sung mãn của đời người. Họ là lớp người giàu nghị lực, giàu ước
mơ và hoài bão. Tuy nhiên, do quy luật phát triển không đồng đều về mặt tâm lý, do
những điều kiện, hoàn cảnh sống và cách thức giáo dục khác nhau, không phải bất cứ
sinh viên nào cũng được phát triển tối ưu, độ chín muồi trong suy nghĩ và hành động còn
hạn chế. Điều này phụ thuộc rất nhiều vào tính tích cực hoạt động của bản thân mỗi sinh
viên. Bên cạnh đó, sự quan tâm đúng mực của gia đình, phương pháp giáo dục phù hợp
từ nhà trường sẽ góp phần phát huy ưu điểm và khắc phục những hạn chế về mặt tâm lý
của SV. Bên cạnh những mặt tích cực trên đây, mặc dù là những người có trình độ nhất
định, sinh viên không tránh khỏi những hạn chế chung của lứa tuổi thanh niên. Đó là sự
thiếu chín chắn trong suy nghĩ, hành động, đặc biệt, trong việc tiếp thu, học hỏi những cái
mới. Ngày nay, trong xu thế mở cửa, hội nhập quốc tế, trong điều kiện phát triển công
nghệ thông tin, nền văn hoá của chúng ta có nhiều điều kiện giao lưu, tiếp xúc với các
nền văn hoá trên thế giới, kể cả văn hoá phương Đông và phương Tây. Việc học tập, tiếp
thu những tinh hoa, văn hoá của các nền văn hoá khác là cần thiết. Tuy nhiên, do đặc
điểm nhạy cảm, ham thích những điều mới lạ kết hợp với sự bồng bột, thiếu kinh nghiệm
của thanh niên, do đó, sinh viên dễ dàng tiếp nhận cả những nét văn hoá không phù hợp
với chuẩn mực xã hội, với truyền thống tốt đẹp của dân tộc và không có lợi cho bản thân
họ.
Lứa tuổi sinh viên có những nét tâm lý điển hình, đây là thế mạnh của họ so với các lứa
tuổi khác như: tự ý thức cao, có tình cảm nghề nghiệp, có năng lực và tình cảm trí tuệ
phát triển (khao khát đi tìm cái mới, thích tìm tòi, khám phá), có nhu cầu, khát vọng
thành đạt, nhiều mơ ước và thích trải nghiệm, dám đối mặt với thử thách. Song, do hạn
chế của kinh nghiệm sống, sinh viên cũng có hạn chế trong việc chọn lọc, tiếp thu cái
mới. Những yếu tố tâm lý này có tác động chi phối hoạt động học tập, rèn luyện và phấn
đấu của sinh viên.
Câu 7: Sự lo âu và các giai đoạn thích nghi với cái chết ở người sắp mất. Những người
chăm sóc nên ứng xử với người sắp mất như thế nào?
* Sự lo âu
Hướng về quá khứ: để giải tỏa những nỗi buồn trong cuộc số ng, người cao tuổi thường
tìm lại bạn bè cũ, thích ôn lại chuyện cũ, viết hồi ký, tái hiện kinh nghiệm sống...
Chuyển từ trạng thái “tích cực” sang trạng thái “tiêu cực”: người cao tuổi chuyển từ trạng
thái lao động sang trạng thái nghỉ ngơi nên họ chưa thích nghi được dễ gặp phải “hội
chứng về hưu”
Biểu hiện sự cô đơn, mong được quan tâm chăm sóc nhiều hơn từ những người thân
trong gia đình
Cảm thấy bất lực và tủi thân: đa số sinh hoạt và kinh tế đều phụ thuộc vào con cháu nên
họ thường cảm thấ y tủi thân Nói nhiề u hoặc bị trầ m cảm: vì muốn truyền đạt kinh
nghiệm sống cho con cháu nên người cao tuổi thường bảo thủ, can thiệp vào cuộc sống
riêng tư của con cháu
Sợ đối mặt với cái chết: có những trường hợp chuẩn bị sn cho cái chết của mình và cũng
có một số trường hợp không chấp nhận, lãnh tránh
5 giai đoạn thích nghi với ý nghĩa về cái chết: Phủ nhận, giận dữ, mặc cả, trầm uất và tiếp
nhận. Dưới đây là mô tả tóm tắt các giai đoạn đó.
Trong giai đoạn phủ nhận, con người bác bỏ khả năng chết và đi tìm những ý kiến và
những triển vọng thuận lợi nhất.
Khi con người nhận thức được rằng họ trên thực tế sẽ chết, sự kích thích, phẫn nộ
vàlòng đố kỵ bao bọc lấy họ. Đó là giai đoạn giận dữ. Con người cảm thấy mình bị lừa
dối bởi lẽ các kế hoạch và khát vọng của họ không khi nào được thực hiện.
Ở giai đoạn mặc cả, con người có thể tranh thủ thời gian, đưa ra những lời hứa hẹn
vàcầu nguyện Chúa Trời của mình, trò chuyện với các bác sĩ, y tá hoặc với những người
khác lấy cớ trì hoãn bản án, giải thoát khỏi đau đớn và khổ ải. • Nếu mặc cả không đem
lại kết quả, còn thời gian trôi đi thì sự bất lực và vô vọng bao quanh họ. Đến lúc này
con người đang trong giai đoạn trầm uất và khóc than không những về những tổn thất
thực sự mà không lâu nữa phải chia ly với gia đình mình và bạn bè.
Trong giai đoạn tiếp nhận thực tế cận kề cái chết và bình tĩnh chờ đợi nó.
Có nhiều yếu tố tác động đến sự phản ứng của con người đó là: bản sắc văn hoá, tính
cách cá nhân, tôn giáo, triết lý cá nhân, độ dài và tính chất của bệnh tật. Một số người ở
trong giai đoạn giận dữ hoặc trầm cảm cho đến khi chết, số người khác chờ chết như là
sự giải thoát khỏi nỗi đau đớn. Mỗi con người chờ đón cái chết theo cách của mình, vì
vậy trong những trường hợp đó họ không phải ép buộc vào các giai đoạn thích nghi nhất
định.
5. Tác động của mối quan hệ gắn bó mẹ-con
Vai trò của gắn bó mẹ con đối với sự phát triển cảm xúc của trẻ Cần khẳng định rằng sự
gắn bó với mẹ có vai trò đặc biệt quan trọng trong sự phát triển tâm lý của trẻ. Nếu thiếu
sự gắn bó mẹ - con, quá trình phát triển của trẻ sẽ gặp nhiều khó khăn. Anna Freud (năm
1941) cho thấy các tuyến đường chủ yếu của sự phát triển tâm lý của trẻ: từ lệ thuộc đến
tự chủ về cảm xúc và có những quan hệ với đối tượng như người lớn. Các tuyến đường
này gồm nhiều giai đoạn, trong đó, hai giai đoạn đầu tiên là hai giai đoạn mà nếu sự gắn
bó mẹ con không được đảm bảo sẽ bộc lộ những bất thường về tâm lý ở các giai đoạn
tiếp theo: Từ cộng sinh, ái kỉ, dần dần trẻ tách ra khỏi mẹ, giảm dần tình trạng khép kín.
Trong giai đoạn này, bất kì một sự chia tách nào trong quan hệ mẹ - con (hoặc trẻ với
người chăm sóc chính) cũng đều gây ra lo hãi cho trẻ. Sự tách dần bản thân khỏi người
mẹ: Trẻ dần dần hình thành được cái Tôi , lúc đầu còn mờ nhạt, sau rõ dần, trong một
khía cạnh nào đó, đây cũng là sự tiếp nối sau cộng sinh. Nếu có tác động xấu ở giai đoạn
này có thể dẫn tới việc rối loạn sự hình thành cái Tôi. Có thể nói sự kiện chia tách mẹ con
sớm, ứng với từng giai đoạn, sẽ gây lo hãi, làm rối loạn sự hình thành cái Tôi ở trẻ.
Winnicott, bác sĩ nhi khoa, nhà tâm thần học, tâm lý học người Anh cũng cho rằng con
đường tất yếu để làm người, làm chủ thể phải phát xuất từ quan hệ Mẹ Con. Người Mẹ là
bài học đầu tiên và cơ bản nhất, cho phép đứa con kiến dựng một nhân cách vững mạnh.
Chính người Mẹ tạo điều kiện thuận lợi cho đứa con chuyển hóa từ từ, trên con đường
thành nhân, phát triển khoẻ mạnh cả về thể chất lẫn tâm lý. Tác giả Đặng Hoàng Minh đã
chỉ ra rằng: quan hệ gắn bó mẹ con có vai hò đặc biệt như lá chắn, phòng tránh những bất
lợi, đồng thời, thúc đẩy, điều chỉnh các kích thích cho phù hợp. Nó là cái nôi tâm lý cho
phát triển cảm xúc, cho hình thành cái tôi, hình thành và phát triển nhân cách của trẻ. Tùy
vào cách gắn bó, nuôi dưỡng của người mẹ mà đứa trẻ phát huy được tiềm năng, nhận
thức về thế giới bên ngoài hay là sự khép mình lại. Trẻ phân biệt được cái gì nên và cái gì
không nên... Thiếu sự gắn bó mẹ con, thiếu nuôi dưỡng sẽ tạo nên sự lo âu, sợ hãi, cản trở
sự phát triển của trẻ, đặc biệt trong ba năm đầu đời, Sự gắn bó mẹ - con tạo ra cảm giác
an toàn (thỏa mãn nhu cầu an toàn) ở trẻ nhỏ, giúp trẻ yên tâm trong việc khám phá và
giao tiếp với môi trường xung quanh. An toàn là trạng thái tâm lý ở trẻ, được sinh ra khi
người mẹ và những người thân xung quanh thoả mãn được các nhu cầu như dinh dưỡng,
gắn bó với irẻ, ôm ấp yêu thương trẻ, trò chuyện thân thiện với trẻ,... mang lại cho trẻ
cảm giác bình yên, thoải mái. Đây là chỗ dựa vững chắc, giúp trẻ đi vào khám phá thế
giới đồ vật thế giới tự nhiên một cách tự tin, phát triển hài hoà các chức năng tâm lý như:
chú ý, tri giác, tưởng tượng, tư duy, trí nhớ,... giúp trẻ thích nghi nhanh, họp lý với những
thay đổi của môi trường tự nhiên và xã hội. Neu không có sự an toàn thì sự phát triển về
tâm lý, nhân cách của trẻ sẽ gặp phải rất nhiều bất ổn. Đứa trẻ sẽ bị cảm giác lo lắng, bất
an chi phối, nó dễ cáu gắt và khóc lóc rất nhiều. Nhiều trẻ em do không được thoả mãn
nhu cầu an toàn này mà giai đoạn sau rất dễ có những rối nhiễu tâm lý như trầm cảm, lo
âu,... Sự gắn bó mẹ - con là tiền đề quan trọng cho nhu cầu giao tiếp của trẻ với những
người xung quanh. Ngay từ cuối tháng thứ nhất, trẻ đã biết “hóng chuyện”, phản ứng khi
được người lớn “hỏi chuyện” như cười, khua chân khua tay,... Sang tháng thứ hai, xuất
hiện sự mỉm cười ở bé khi thấy một ai đó đến bên. Bé tỏ ra vui mừng khi ai đến với nó
tỏ ra buồn bã khi họ bỏ đi, rồi lại đưa mắt tìm chơi với người khác. Cứ như vậy quan hệ
giao tiếp của trẻ dần hình thành và phát triển. Đây cũng là tiền đề thuận lợi để hình thành
và phát triển ngôn ngữ cho trẻ sau này. Giao tiếp trực tiếp với người mẹ có ảnh hưởng
mạnh mẽ đến sựphát triển xúc cảm, tình cảm của trẻ. Từ nhu cầu tiếp xúc da thịt với
người mẹ đến giao tiếp thực sự với những người xung quanh, khi mà trẻ đã có những
phương thức giao tiếp là một bước phát triển rõ rệt từ tuổi sơ sinh đến tuổi hài nhi. Trong
giao tiếp với mẹ, trẻ tiếp nhận được những sắc thái xúc cảm khác nhau của người mẹ, rồi
dần dần trẻ cũng thể hiện được những xúc cảm khác nhau của mình. Giao tiếp trực tiếp
với người mẹ là một bước đệm quan trọng cho giai đoạn sau đó. Cùng với giao tiếp trực
tiếp với người mẹ, dần dần ở trẻ xuất hiện nhu cầu sờ mó, cầm nắm các đồ vật. Từ đó nhu
cầu giao tiếp trực tiếp sẽ nhường chỗ cho giao tiếp với đồ vật, tức là giao tiếp với người
mẹ để tiếp xúc với đồ vật. Lúc này người mẹ trở thành khâu trung gian giữa trẻ và đồ vật.
Sự giao tiếp này dàn dần trở thành hoạt động phối hợp giữa người mẹ và trẻ nhỏ. Người
mẹ lúc này có vai trò dẫn dắt đứa trẻ đến với thế giới đồ vật và hướng dẫn nó biết hành
động với các đồ vật đơn giản. Nhờ hoạt động phối hợp với người lớn nói chung và người
mẹ nói riêng, ở trẻ nảy sinh khả năng bắt chước hành động của người lớn. Khả năng này
là điều kiện quan trọng để tiếp thu những điều dạy dỗ của người lớn, mở rộng vốn kinh
nghiệm của trẻ. Khả năng bắt chước những hành động của người lớn được phát triển
mạnh trong suốt thời kỳ hài nhi. Đến cuối tuổi này thì sự bắt chước tăng lên rõ rệt (chải
tóc giống mẹ, đọc sách giống bố, cách biểu lộ các cảm xúc qua nét mặt...). Chính vì vậy,
nếu thiếu hụt mối quan hệ gắn bó mẹ con, sẽ để lại những hậu quả nghiêm trọng ở trẻ,
như :Trẻ dần dần tách khỏi những liên hệ xung quanh; cụ thể là, trẻ tự cô lập, tránh tiếp
xúc xã hội, thụ động, thu mình lại, có ánh nhìn xa xăm, thờ ơ, không quan tâm giao tiếp
xã hội. Trẻ không nhận thấy sự khác nhau trong ứng xử giữa người thân và người lạ: hoặc
trẻ bộc lộ những nhu cầu khát khao về tiếp xúc, vồ vập những người mà trẻ không quen
biết hoặc thờ ơ với tất cả; đặc biệt là biểu hiện không muốn gần mẹ, không muốn ôm,
hôn mẹ, không muốn nhìn vào mắt mẹ và không nói. Trẻ ứng xử tương tự như vậy với
người khác. Hành vi của trẻ hiếu động quá mức hoặc có tính hiếu chiến. Trẻ dễ bị kích
thích bằng hành vi dập khuôn, chơi có nét định hình, về thể chất, trẻ có những biểu hiện
như khó ngủ, từ chối ăn, chậm phát triển tâm vận động, dễ bị nhiễm khuẩn. Ngôn ngữ
của trẻ kém phát triển và có những dấu hiệu chậm phát triển trí tuệ so với những đứa trẻ
cùng tuổi. Khi ở cùng bạn trang lứa, trẻ thường sẽ bị hoảng loạn và rối loạn ứng xử, khó
khăn trong tạo lập các mối quan hệ gần gũi và có xu hướng tách biệt xã hội.
5. Khái niệm và các kiểu gắn bó mẹ-con
Có thể hiểu, gắn bó mẹ con là moi quan hệ thân thiết về mặt thể chất và tâm lý; trên cơ sở
tình yêu thương bao dung của người mẹ, đứa trẻ cảm nhận được sự an toàn đểphát triển
cân bằng về mặt tâm -sinh lý và xã hội.. Gắn bó mẹ con là sự kết nổi tâm lý bền vững, là
sự ràng buộc cảm xúc sâu sắc và lâu dài giữa mẹ và trẻ, giúp trẻphát triển hình ảnh tích
cực về bản thân và hình thành các cảm giác an toàn trong quá trình phát triển tổng thể.
Dựa trên cách đáp ứng của cả mẹ và con thì có 4 kiểu gắn bó mẹ - con cơ bản: Kiểu 1 cả
mẹ và con đều phát ra các tín hiệu gắn bó, Kiểu 2: tín hiệu phát ra từ mẹ mạnh nhưng từ
con yếu, Kiểu 3: Tín hiệu phát ra từ mẹ thì yếu nhưng từ con thì mạnh: Kiểu 4: tín hiệu
phát ra từ mẹ và con đều yếu.
Các giai đoạn gắn bó của trẻ
John Bowlby chia các giai đoạn gắn bó của trẻ thành 4 giai đoạn.
Tìm kiếm 0-3 tháng: Với giới hạn của các cơ quan thụ cảm, sự gắn bó của trẻ chưa hướng
đến đối tượng cụ thể, chưa tỏ ra khó chịu khi người lạ bế m. Trẻ tỏ ra thích nghe giọng
nói của con người hơn là những âm thanh khác, thích nghe giọng nói của mẹ hơn là của
người khác. Đến 2 tháng tuổi, trẻ bắt đầu biết thể hiện nhu cầu gắn bó qua những giao
tiếp bằng mắt.
Thiết lập 3-6 tháng: Biết cười đáp lại những giọng nói và sự tiếp xúc cơ thể từ bất kì ai để
duy trì sự tương tác, nhưng những phản ứng này đã trở nên chọn lọc hơn, nhạy với người
nuôi dưỡng hơn là với người lạ. Trẻ bắt đầu biết phân biệt người quen với người lạ. Trẻ
chưa biểu hiện rõ rệt cảm giác lo âu khi phải tạm xa mẹ
Đỉnh cao 6 - 24 tháng: Phân biệt được cha mẹ với người lạ và thể hiện sự gắn bó rất chọn
lọc. Nhu cầu được gần gũi mẹ rất lớn. Các biểu hiện của mong muốn này được trẻ bộc lộ
rõ và chủ động hơn. Xuất hiện sự lo âu rõ rệt khi phải xa cách mẹ. Khi đó, nếu người lạ
xuất hiện, trẻ sẽ biểu hiện những phản ứng rất mạnh và bột phát
Duy trì 2- >3 tuổi: Thích ứng được với việc xa mẹ tạm thời và sự xuất hiện của người lạ.
Cảm giác được an toàn của trẻ ổn định hơn. Đối tượng và mục tiêu gắn bó được mở rộng
ra.
Trong những tháng tuổi đầu đời, đứa trẻ hình thành một mối quan hệ tiềm tàng với người
Mẹ. Được sự hỗ trợ và chăm sóc từ phía người Mẹ bởi những năng lực cơ thể của trẻ
chưa đủ để nó có thể “vắng mẹ”, từ sự phụ thuộc về vật chất trẻ cũng chịu sự thu hút đặc
biệt từ phía người Mẹ về mặt tình thần, nó có xu hướng bắt chước những gì mà người Mẹ
làm, thể hiện cảm xúc tương đương với cảm xúc của người Mẹ. Cùng với đó là sự cuốn
hút mạnh mẽ của tình cảm người Mẹ dành cho đứa Con.
Trong giai đoạn này sự bộc lộ nhu cầu của trẻ chủ yếu thông qua tiếng khóc, đây là 1 đặc
điểm người phụ huynh cần chú ý khi chăm sóc trẻ, không nên ép trẻ nín khóc, hoặc vội
vàng thoả mãn nhu cầu khi trẻ khóc. Cần dành thời gian lắng nghe và hiểu nhu cầu của
trẻ qua những đặc điểm khác nhau của tiếng khóc: Khóc đói, khóc ngủ, khóc do gặp nguy
hiểm, khóc ăn vạ…
Trẻ nhỏ tới 1 tuổi sợi dây gắn kết Mẹ - Con đạt trạng thái tối đa, đứa trẻ sẽ bộc lộ những
lo âu nếu đột ngột bị cách ly khỏi Mẹ hoặc thể hiện sự sung sướng khi được nhìn thấy
Mẹ, được Mẹ yêu thương. Đứa trẻ tìm cách duy trì cảm giác hạnh phúc khi được ở bên
Mẹ và tránh tối đa các trạng thái đau khổ hoặc lo âu. Thực tế chúng ta thường thấy giai
đoạn này có những em bé suốt ngày bám chân Mẹ, mẹ đi là khóc, mẹ về là cười, cực kỳ
phụ thuộc cảm xúc vào người Mẹ.
Có một lưu ý ở đây như sau: Để thiết lập được một sự gắn bó An toàn trong giai đoạn
Duy trì (2 – 3 tuổi) phụ huynh cần chú ý một thuật ngữ đó là “ Chơi vui vẻ dưới chân
người Mẹ”. Tức là phải luyện tập được cho đứa trẻ nhận thức được rằng: Trẻ hoàn toàn
thể chơi một mình ở một khoảng cách an toàn so với mẹ, nhưng khi trẻ cần nó có thể
quay trở lại và tìm thấy Mẹ mình ở đó.
Nghĩa là chuẩn bị cho trẻ tâm thế hoạt động độc lập nhưng không cảm thấy bị bỏ mặc và
thiếu an toàn. Một số trò chơi, kỹ thuật tâm lý có thể giúp được trẻ như:
- Trò chơi ú oà: Mục đích cho trẻ nhận ra rằng, khuôn
mặt mẹ hoặc đồ vật vẫn ở đây chỉ là nó bị che đi thôi
- Trò chơi tìm vật trong chăn- Trò chơi trốn tìm với Mẹ. -
Trò chơi Nhà mẹ nhà Con
...........
Khi trẻ bắt đầu lên 2 tuổi sự nhận thức về cái tôi của trẻ rõ ràng hơn, con đã bắt đầu biết
sử dụng một số cụm từ như: Của con, của Mẹ, cho Con, cho Mẹ, Con biết… trẻ nhận ra
bản ngã của mình giữa xã hội, nhận ra người khác. Có sự phân biệt rõ ràng giữa Người
thân và người lạ. Trẻ đã chấp nhận sự có mặt của người lạ trong cuộc sống của mình. Vì
thế mà sợi dây gắn bó Mẹ - Con bắt đầu lỏng lẻo. Đây là giai đoạn mà chúng ta đưa trẻ
vào Mầm non để con có những sự làm quen và hoà nhập với bạn bè, Thầy cô, tạo bước
đà cho việc trẻ chuyển mình sang giai đoạn đứa trẻ xã hội (3 – 5).
Một số đặc điểm để nhận diện một mối quan hệ Mẹ - Con là an toàn hay không?
Dựa trên nền tảng thuyết gắn bó của John Bowlby, Mary Ainsworth đã tiến hành các thực
nghiệm gọi là “tình huống kì lạ” trên các trẻ từ 12-18 tháng tuổi và phân loại sự gắn
thành 3 dạng. Kết quả được rút ra từ sự quan sát biểu hiện cảm xúc của trẻ khi m rời
khỏi phòng và khi mẹ quay trở lại. Các dạng gắn bó trong quan hệ mẹ-con theo Mary
Ainsworth.
- Bền chặt:
+ Biểu hiện khi mẹ rời khỏi phòng: Khóc, lo lắng
+ Biểu hiện khi mẹ quay về phòng: Nhanh chóng vui vẻ trở lại
- Chống đối

Preview text:

Câu 1: Kiến thức Tâm Lý Học phát triển có ý nghĩa như thế nào với ngành CTXH?
- Tâm lý học phát triển là nghiên cứu khoa học về cách thức và lý do tại sao con
người thay đổi trong suốt cuộc đời của họ.
- Cho chúng ta hiểu biết về tâm lý, cảm xúc và hành vi của từng giai đoạn độ tuổi.
- Có kiến thức về tâm lý của từng giai đoạn độ tuổi để hổ trợ thân chủ ở các giai
đoạn độ tuổi khác nhau.
- Biết được các đặc điểm tâm lý, đặc điểm thể chất, ngôn ngữ, giao tiếp, các mối
quan hệ tình cảm của từng giai đoạn lứa tuổi.
- Nhận biết được các hành vi bất thường từ các hành vi tâm ly cảm xúc của từng lứa tuổi khác nhau.
Câu 2: Quan điểm của tác giả D. Levinson về các nhiệm vụ cơ bản của người trưởng thành
1. Ba nhiệm vụ của người trưởng thành
- Theo Đanien Levinson sự trưởng thành của cá nhân trong giai đoạn 17 - 33 tuổi.
Đó chính là giai đoạn giải quyết các xung đột tuổi vị thành niên đi tìm vị trí của
mình trong xã hội của người trưởng thành, hình thành các khuôn mẫu ứng xử ổn
định. Giai đoạn 17 - 33 tuổi theo Lavinson, được chia thành 3 giai đoạn nhỏ:
• Giai đoạn chuyển tiếp sang tuổi trưởng thành (Khoảng từ 17 - 20 tuổi)
• Giai đoạn thâm nhập vào thế giới người lớn (Khoảng từ 22 – 28 tuổi)
• Giai đoạn chuyển qua tuổi 30 (từ 28 – 33 tuổi)
- Những khủng hoảng phát triển diễn ra trong trường hợp cá nhân gặp khó khăn ở
giai đoạn nào đó trong 3 giai đoạn trên.
2. Bốn nhiệm vụ phát triển của người trưởng thành
- Theo như Levinson, cho rằng tuổi trưởng thành là một giai đoạn quan trọng và con
người cần thực hiện những nhiệm vụ có ảnh hưởng lớn, lâu dài và quyết định tới
toàn bộ hoạt động sống ở các giai đoạn sau của cuộc đời con người. Vì vậy để đạt
được độ trưởng thành chân thực, theo LeVinSon phải giải quyết bốn nhiệm vụ phát triển:
2.1. Xác định khát vọng
- Xác định khát vọng là xác định các mục tiêu, nhiệm vụ mà mình cần hướng tới.
Nó giúpchúng ta có sự hứng thú, hào hứng và quyết tâm thực hiện mục tiêu của mình đã đặt ra.
- Xác định khác vọng của mỗi người là khác nhau. Ví dụ người muốn làm ca sĩ,
diễn viên, người thì mong muốn mình có một gia đình thật hạnh phúc, người thì
muốn có khả năng ngoại ngữ tốt,…
- Thông qua việc khát vọng thì con người tìm thấy sự hứng thú động cơ để cố gắng
học tập và có ý chí trong công việc cũng như cuộc sống.
2.2. Tìm kiếm người hướng dẫn
- Sự giúp đỡ của những người có kinh nghiệm có thể đóng vai trò quan trọng trên
con đường theo đuổi khát vọng của các bạn trẻ. Họ có thể truyền đạt các kiến thức
và kinh nghiệm của mình cho các bạn trẻ, làm cho các bạn trẻ cảm thấy tự tin, chia
sẻ và tán đồng để thực hiện ước mơ của mình.
- Ông cũng cho rằng người trưởng thành phải là những người thành công trong sự
nghiệp hoặc có nhiều kiến thức, kinh nghiệm. Bên cạnh đó người trưởng thành
không những chỉ tìm người dẫn đường trên con đường sự nghiệp mà còn có thể là
những vấn đề khác trong lĩnh vực hôn nhân, tình yêu, gia đình… những vấn đề trong cuộc sống.
2.3. Xây dựng công danh, sự nghiệp
- Theo LeVinSon ông cho rằng muốn biến những ước mơ, khát vọng đã xác định ở
nhiệmvụ đầu tiên. Đây là nhiệm vụ vô cùng quan trọng bao trùm cả toàn bộ thời
kỳ đầu của con đường sự nghiệp, khi bạn còn trẻ còn đang cố gắng xây dựng một
kế hoạch nghề nghiệp nhất định.
- Để thực hiện những ước mơ, khát vọng thì người trưởng thành phải cố gắng rất
nhiều vàcó thể gặp thất bại, đắng cay thì mới có được sự thành công trong sự
nghiệp cũng như trong cuộc sống.
- Tuy nhiên có thể nói đây là một nhiệm vụ có tính chất quyết định đến cuộc sống
sau nàycủa người trưởng thành.
2.4. Xác lập mối quan hệ thân tình
- Theo ông LeVinSon thì mối thân tình không phải chỉ bắt đầu bằng và cũng không
nhất thiết là phải kết thúc bằng sự kết hôn.
Câu 3: Biểu hiện, nguyên nhân và biện pháp ứng xử của người lớn với khủng hoảng 3 tuổi
- Khủng hoảng tuổi lên 3 là biểu hiện cho sự chuyển giao từ giai đoạn ấu nhi (0 - 3
tuổi) sang giai đoạn mẫu giáo (3 – 6 tuổi). 1. Biểu hiện
- Thường có hành vi trong khá buồn bả, hay có những hành vi chống đối, ương
ngạnh, bướng bỉnh, ăn vạ, nói tục và nổi loạn. 2. Nguyên nhân
- Khủng hoảng, đó là một phần tự nhiên trong quá trình phát triển tâm lý của con
người trong cuộc đời. Khi đứa trẻ lên 3 tuổi, trẻ nhận thức được mình là một cá
nhân độc lập, có những quyền lực nhất định. Các phản ứng, hành vi tiêu cực trở
nên trầm trọng hơn thường là do mô hình độc đoán trong gia đình. Nó làm hạn chế
quyền tự chủ và sáng kiến của đứa trẻ. Việc thực thi các điều cấm và hình phạt
thường xuyên và không đầy đủ cũng như sự bảo vệ quá mức trong giáo dục,
không liên hết mối quan hệ hoặc không nhất quán trong nội quy hoặc tấm gương
giáo dục cũng sẽ làm cho cuộc khủng hoảng ở trẻ trở nên dữ dội hơn.
3. Cách khắc phục và biện pháp xử lý
- Tạo cơ hội để trẻ được nói, đưa ra ý kiến và được làm một số hoạt động trong
phạm vi nào đó (cho trẻ được tự chon quần áo, tự lấy bát đũa…) - Tránh
mối quan hệ độc đoán, bảo vệ quá mức.
- Nhận thức được nguyện vọng độc lập của đứa trẻ, khả năng hiện tại và các khó khăn của trẻ.
- Sử dụng một vài kỹ thuật, chiến thuật trong các hoạt động vui chơi để giao tiếp với trẻ.\
- Giải thích các quy tắc, chuẩn mực về hành vi với những hình thức đơn giãn, dễ hiểu.
- Nhấn mạnh những việc nên làm và không nên làm, thay vì “cấm”.
- Thỏa hiệp trong một số tình huống gay gắt, cho trẻ có quyền được tự do lựa chọn.
- Đừng chỉ trích những thất bại, lỗi lầm của bé.
- Hỗ trợ, giúp đỡ các bé khi các bé gặp các khó khăn.
- Hãy là một tấm gương, một hình mẫu tốt cho các bé noi theo.
Câu 4: Biểu hiện, nguyên nhân của khủng hoảng 1 tuổi. Cha mẹ cần ứng xử với trẻ như
thế nào ở thời điểm này. Biểu hiện:
+ Dễ cáu gắt, bực bội, khóc lóc thường xuyên
- Đây là đặc điểm nổi bật nhất mẹ dễ nhận ra. Bé dễ dàng nổi cáu nếu không được
chiều theo ý mình. Những cơn cáu giận của bé có thể từ khóc lóc, gào thét đến
đánh người khác hoặc ném, pha đồ đạc.
- Nhiều khi mẹ có thể thấy bé phản ứng nhạy cảm đến độ có thể đoán được mẹ sẽ
không cho bé làm việc gì hoặc không đưa cho bé món đồ mà bé đang nghĩ tới. + Biếng ăn cà khóc đêm
- Giai đoạn này bé ăn không ngon miệng, ăn ít hơn và có vẻ kén ăn hơn. Việc mãi
mê khám phá thế giới xung quanh để trải nghiệm những kỹ năng mới học được
cũng khiến bé lơ là mất việc cần việc ăn uống.
- Bước qua 1 tuổi, hầu như các bé đều khó ngủ, ít ngủ hơn trong cả giấc ngày và giấc đêm.
- Bé quá mệt và buồn ngủ khi ngày không ngủ đủ giấc. Với những em bé chưa có
khả năng tự ngủ, tình trạng này càng khó khăn hơn khi bé không tự dỗ mình đi vào giấc ngủ.
- Thêm vào đó, các hoạt động, những biến động trong ngày cũng khiến bé gặp các
giấc mơ khiến bé sợ hãi và căng thẳng.
+ Bé bám mẹ hoặc người chăm sóc nhiều hơn
- Khi bé chưa định nghĩa được sự vật, sự việc mới mẻ xung quanh mình, nhận thức
nhạy cảm của bé lập tức báo động cho bé về cảm giác nguy hiểm và sự an toằn
- Ở giai đoạn này trong nhận thức của bé, bé và mẹ vẫn là một chỉnh thể không tách
rời. Bé chỉ an tâm khi được ở bên mẹ, được mẹ an ủi, vỗ về. Việc bé bám mẹ cũng
giống như bám vào một con thuyền vững chãi để ra khơi khám phá thế giới.
- Có những em bé cảm thấy cần phải bám chặt trên người mẹ, càng chặt càng tốt.
Cũng có những em bé chỉ cần mẹ vẫn ở trong tầm mắt bé để thỉnh thoảng bé được
trở lại ôm mẹ và sạc lại năng lượng. + Tâm trạng thay đổi thất thường
- Em bé đang vui vẻ bỗng chỉ một thay đổi nhỏ cũng khiến bé trở nên cáu giận. Bé
cũng bắt đầu thể hiện nỗi lo lắng, sợ hãi trước một sự vật, sự việc nào đó, chẳng
hạn sự xuất hiện của một món đồ chơi mới hay một thay đổi trong trình tự đi tắm
mà bé vẫn quen thuộc. Hoặc mẹ cũng có thể nhận thấy bé dễ tủi thân, hay òa khóc nức nở hơn.
Khủng hoảng tuổi lên 1 bắt đầu khi nào và kéo dài bao lâu?
- Sau khi sinh nhật 1 tuổi, bé bắt đầu ý thức được sự thay đổi của thế giới xung
quanh cũng như những xáo trộn diễn ra trong cơ thể. Cuộc khủng hoảng bắt đầu
và thường kéo dài từ 3-6 tuần tùy theo tính cách của bé.
Khủng hoảng tuổi lên 1 và những lưu ý dành cho mẹ
+ Mẹ lên lịch trình sinh hoạt phù hợp và nhất quán
- Dù bất cứ độ tuổi nào, bé luôn cần được ăn uống và nghỉ ngơi đều đặn để giữ tình
trạng sức khỏe và tinh thần tốt nhất. Nhờ vậy, mức ddộ bực bội, cáu gắt của bé cũng giảm đi.
- Trong lịch hoạt động hàng ngày, mẹ cố gắng sắp xếp để khuyến khích bé được vận
động, nhất là vui chơi khám phá ngoài thiên nhiên. Vận động tích cực và sự gần
gũi thiên nhiên không chỉ giúp bé tăng cường nhận thức mà còn giúp bé giải tỏa
những cằng thẳng bức bối.
+ Mẹ tạo môi trường thân thiện cho bé
- Mẹ hãy sắp xếp đồ đạc trong nhà để phù hợp với sự phát triển của bé trong từng
thời kỳ nhằm tạo cơ hội cho bé thảo sức khám phá môi trường xung quanh trong
giới hạn an toàn. Từ đó, mẹ khuyến khích bé tự làm những việc trong khả năng
của bé để phục vụ nhu cầu cá nhân như tập đánh răng, giúp mẹ lấy đồ, tự lấy sách
và đồ chơi trên giá kệ…
+ Mẹ lưu ý cách xử lý khi có vấn đề xảy ra
- Bước 1: Ghi nhận vấn đề, không phán xét đánh giá. Vì sự phán xét của mẹ, dựa
trên kinh nghiệm và cả những trải nghiệm cá nhân tích cực hoặc không tích cực
của mẹ, sẽ làm ảnh hưởng tới sự quan sát, nhìn nhận vấn đề của bé
- Bước 2: Gợi ý giải pháp với bé: Bé vẫn đang trong giai đoạn định nghĩa mọi việc
trong thế giới mới nên mẹ từ tốn giải thích từng giải pháp để bé lắng nghe và hiểu ngôn ngữ.
- Bước 3: Đồng hành thực hiện cùng bé. Mẹ làm mẫu và thực hiện cùng với bé. Mẹ
hãy kiên nhẫn đồng hành cùng với bé, để bé thấy mọi vấn đề đều có giải pháp, cứ
từ tốn quan sát và thực hiện.
+ Mẹ lưu ý cách nói chuyện: Luôn báo trước cho bé về sự việc sắp xảy ra
- Lúc này bé càng nhạy cảm với sự thay đổi. Mẹ chú ý luôn giới thiệu trước với bé
những điều sắp xảy ra với bản thân bé. Hành động này không chỉ tăng nhận thức
và chuẩn bị tâm lý cho bé mà còn hỗ trợ bé xây dựng niềm tin và cảm giác an toàn về thế giới xung quanh.
- Giai đoạn này, nhu cầu có mẹ và nỗi sợ bị bỏ rơi cũng là vấn đề rất nhạy cảm với
bé. Nếu mẹ phải vắng mặt, mẹ hãy nói với bé rằng tạm thời mẹ cần phải rời khỏi
phòng và mẹ sẽ quay lại. Cho dù bé vẫn sẽ khóc nhưng mẹ cần nói và rời đi dứt
khoát, tránh kéo dài thời gian tạm biệt. Dần dần bé sẽ hiểu mọi thứ vẫn ổn khi mẹ
không có ở đó một lúc và an tâm rồi mẹ sẽ quay trở lại. Ban đầu mẹ chỉ rời đi
khoảng vài phút và trở lại ngay, khi bé bắt đầu hiểu mẹ có thể tăng dần thời gian
vắng mặt. Mẹ cũng có thể tập luyện trước cho bé về sự vắng mặt bằng trò chơi trốn tìm.
+ Mẹ hãy chấp nhận những nỗi sợ vô lý của bé
- Trong hành trình trải nghiệm thế giới xung quanh, bé có thể gặp những sự vật, sự
việc mà bé chưa mà bé chưa hiểu rõ cũng như khám phá ra những mối nguy hiểm
mới. Trong khi bé chưa có khả năng diễn đạt những gì mình vừa tìm ra. Mẹ hãy
thể hiện cho bé thấy mẹ cũng hiểu cảm giác lo sợ của bé, công nhận nỗi sợ của bé
và nhẹ nhàng giải thích cho bé hiểu bằng ngôn từ đơn giản nhất có thể. Chỉ bằng
cách đó, nỗi sợ của bé mới từ từ biến mất.
- Cuối cùng mẹ cần nhớ mỗi cuộc khủng hoảng lại đánh dấu một chặng đường phát
triển mới. Chỉ khi mẹ thấu hiểu và kiên nhẫn đồng hành cùng con, khủng hoảng sẽ
luôn là những ngày tháng đáng nhớ bởi sự gắn kết giữa mẹ và con trong giai đoạn
phát triển vàng con cần có mẹ nhất.
Câu 5: Những khó khăn tâm lý của tuổi thiếu niên (12-17 tuổi). Cha mẹ cần nên ứng xử
như thế nào để giúp các em vượt qua các khó khăn đó.
Nhân cách chưa ổn định là khó khăn của tuổi thiếu niên
Thường các cảm xúc của con người bị chia phối bới rất nhiều tác động môi trường xung
quanh và sự thay đổi trong cơ thể, khiến trẻ luôn cảm thấy khó chịu, dễ nóng giận, dễ tủi
thân. Do vậy trẻ cũng vô cùng rất nhạy cảm với các cảm xúc khác nhau. Cảm xúc bất thường
Sự không ổn định tâm trạng, cảm xúc thất thường của trẻ một phần liên quan đến quá
trình chín muồi tình dục cũng như những cải tổ sinh lý trong cơ thể. Và một số các yếu tố
khác thuộc về nhân cách và môi trường xung quanh.
Chưa ổn định về mặt nhận thức các chuẩn mực đạo đức
Trẻ chưa có hệ thống chuẩn mực đạo đức bền vững. Và việc chưa ổn định về cảm xúc,
nhận thức, về chuẩn mực đạo đức nên khi các con tham gia với một nhóm bạn thì trẻ dễ
dàng vì nhóm (vì giá trị nhóm). Đôi khi vì nhóm dẫn đến vi phạm pháp luật, vi phạm các
chuẩn mực hành vi đạo đức.
Chưa ổn định về mặt tự đánh giá
Một điểm nữa đó là ở tuổi thiếu niên trẻ chưa biết tự đánh giá. vì ở độ tuổi này, “cái tôi”
của trẻ còn rất bấp bênh và chưa gắn kết với nhau một cách hòa hợp, ổn định. Nên việc tự
đánh giá mình của trẻ phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Đây cũng là giai đoạn nhạy cảm để
hình thành nên cá tính riêng cho trẻ, cần phải để trẻ tự sáng tạo, tự thử thách bản thân với
những điều kiện khác nhau thì trẻ mới trở nên mạnh mẽ và tự tin hơn.
Mâu thuẫn trong tính cách và xu hướng
Đây cũng là một biểu hiện nổi bật của thiếu niên. Các em vừa muốn được thừa nhận và
được những người khác tôn trọng. Đồng thời lại tỏ ra bất cần và làm bộ không cần che
giấu những nét cá tính phản diện của mình. Tính cách không nhất quán của trẻ được thể
hiện ở các tình huống khác nhau: -Lúc rụt rè, nhút nhát
-Lúc lại thô lỗ, suồng sã -Lúc đa cảm, đa sầu
-Lúc lại vô tình, nhẫn tâm
-Tâm hồn lúc mở rộng, lúc hẹp hòi ích kỷ
* Cha mẹ cần ứng xử như thế nào để giúp để giúp các em vượt qua khó khăn đó
Nguyên nhân làm nảy sinh vấn đề này là gì?
Một trong số đó là trẻ muốn tự khảng định và được nổi bật. Trẻ muốn thể hiện cái Tôi và
có tính riêng của mình. Dẫn đến sự chống đối những chuẩn mực quy tắc xã hội chung
đang tồn tại xung quanh trẻ. Sự không ổn định về mặt nhận cách, dễn bị ảnh hưởng bởi
các tác động bên ngoài. Đặc biệt là hành vi bắt chước và a dua.
Bên cạnh đó, sự cô đơn, cảm giác không có ai hiểu mình trong gia đình và trường hộc là
những yếu tố dẫn đến việc thiếu niên gia nhập vào nhóm bạn bè xấu và dễ bị lợi dụng.
Bị làm dụng tình dục và có thai ngoài ý muốn là một trong những khó khăn gây ảnh
hưởng lớn nhất đến sự phát triển của trẻ sau này: Lạm dụng tình dục
Hiện nay, có rất nhiều trẻ bị lam dụng tình dục (bị buộc phải quan hệ tình dục khi không
đồng ý). Tuy nhiên những trường hợp được thông báo công khai chỉ là một phần nhỏ của
số các vụ việc xảy ra trên thực tế.
Việc thực hiện hành vi lạm dụng tình dục có thể diễn ra trong một thời gian dài và được
che giấu bởi kẻ thực hiện và nạn nhân. Đôi khi ngay cả cha mẹ của nạn nhân cũng không
hề hay biết chuyện gì đã xảy ra với con mình. Trong một số trường hợp thậm chí cha mẹ
không tin những điều con nói hoặc nếu có cũng không có biện pháp thích hợp để bảo vệ con mình. Có thai ngoài ý muốn
Việc có thai ngoài ý muốn xảy ra khi trẻ có quan hệ tình dục sớm thường xảy ra với
những trẻ sống tự do, không tìm thấy được sự “Yêu thương” từ cuộc sống gia đình cũng
như các mối quan hệ bạn bè. Nhiều trẻ có lối sống buông thả, vô trách nhiệm và có thái
độ thờ ơ trước cuộc sống, thiếu hiểu biết về sự thụ thai và thiếu hụt thông tin về tình dục
an toàn, các biện pháp tránh thai.
Nguyên nhân chủ yếu của việc có thai ngoài ý muốn là thiếu hiểu biết về sự thụ thai, thiết
hụt thông tin về tình dục an toàn, không sử dụng các biệc pháp tránh thai. Do vậy, khi có
thai ngoài ý muốn các em thường vô cùng hoang mang và lo sợ. Uống rượu bia
Bia rượu có tác động ức chế hệ thần kinh trung ương như thuốc ngủ hoặc thuốc an thần.
Nhiều trẻ ở độ tuổi thiếu niên có hình dung việc uống rượu bia như là biểu tượng của sự
trưởng thành và sự chín chắc về mặt xã hội, do đó có xu hướng sử dụng rượu bia nhằm thể hiện bản thân.
Ngoài ra một số em do có vấn để tâm lý như: khủng hoảng đồng nhất, cảm giác khồn trọn
vẹn về nhân cách, không có mục đích hoặc là luôn có xu hướng tìm kiếm cảm giác và
kinh nghiệm lạ. Hoặc tính tự trọng, sự am hiểu xã hội thấm cũng dẫn đến việc uống rượu
bia bừa bãi của nhiều trẻ. Vi phạm pháp luật
Ở đổ tuổi này trẻ rất dễ có những hành vi vi phạm pháp luật. không chỉ do thiếu thốn hay
do sống ở những môi trường tồi tệ mà đa số là không có kỹ năng và có thái độ chống đối
xã hội. Nhiều khi trẻ không có khả năng tự kiềm chế cơn tức giận hoặc không tìm ra lối
thoát cho sự thất vọng. Một số hành vi vi phạm pháp luật là bị bạn bè xấu rủ rê và có
những trải nghiệm mạnh. Các phương tiện truyền thông cũng ảnh hưởng đến sự phát triển
bạo lực và hành vi vi phạm pháp luật, chẳng hạn như phim ảnh đánh nhau, trộm cướp,…
bị sao chép một cách mù quáng. Tự tử
Do tâm lý chưa ổn định, dễ nhay cảm, thiếu nhận thức mà nhiểu trẻ dễ bị trầm cảm dẫn
đến tự tử. Có rất nhiều nguyên nhân có thể khiến trẻ có hành vi này.
-Trẻ đã có ý định tự tử từ trước
-Trầm cảm do những trải nghiệm tồi tệ về việc bị bỏ rơi hoặc bị đánh mất lòng tin.
– Bị lạm dụng tình dụng hoặc bị đe dọa.
-Mâu thuẫn, xung đột lâu dài với các mối quan hệ với cha mẹ, bạn bè, thầy cô.
-Nghĩ đến một tương lai tồi tệ.
Cha mẹ có thể phòng ngừa hoạt động nguy cơ của con mình bằng cách xây dựng bầu
không khí tâm lý gia đình vui vẻ, hòa thuận và chia sẻ lẫn nhau; chọn lựa phong cach
giáo dục phù hợp, tôn trọng con cái; phát triển tính tự trọng, sự am hiểu của con, phối
hợp với các cán bộ làm công tác xã hội và giáo viên áp dụng những biện pháp phòng
ngừa; trường hợp bất đắc dĩ phải chuyển ocn mình đến môi trường an toàn hơn để tránh
ảnh hường của nhóm bạn xấu.
Nhìn chung, tuổi thiếu niên là giai đoạn lứa tuổi chín muồi tính dục và trưởng thành dần
về tâm lý. Trẻ không muốn cha mẹ đi sâu, kiểm soát nhiều lĩnh vực cuộc sống của mình,
và dễ xung đột với người lớn nếu bị xâm phạm những quyền này. Tuy nhiên trẻ rất cần sự
chỉ bảo, hỗ trợ, động viên. Chính vì vậy, người lớn cần có cách ứng xử phù hợp để giúp
các em phát triển và vượt qua những khó khăn của giai đoạn lứa tuổi này.
Câu 6: Những thay đổi về hoạt động của trẻ 6 đến 11 tuổi. Những yếu tố ảnh hưởng đến
kết quả học tập của trẻ 6 – 11 tuổi.
PHÁT TRIỂN TÂM LÝ CỦA TRẺ 6 ĐẾN 11 TUỔI
Từ lúc sinh đến lúc chết, con người luôn lớn lên về mặt thể chất, cảm xúc, tâm trí, tinh
thần… Tuy nhiên, chính trong thời thơ ấu mà sự tăng trưởng xảy ra nhanh nhất- chỉ trong
vài năm đầu đời, chúng ta trở thành một em bé hoàn toàn độc lập, rồi thành một trẻ chạy
lon ton thích khám phá, rồi đến một trẻ thích đặt câu hỏi, đến một trẻ vị thành niên có ý
thức và người thanh niên đầy tự tin.
Theo định nghĩa, sự phát triển của trẻ là tiến trình tăng trưởng thể chất, tâm trí và cảm
xúc từ lúc mới sinh đến 18 tuổi đối với trẻ em.
Khi làm việc với trẻ em, chúng ta cần hiểu về sự phát triển của trẻ vì: •
Trẻ có nhu cầu khác nhau tùy giai đoạn phát triển •
Chúng ta nói và tương tác với trẻ khác nhau tùy theo tuổi của trẻ •
Nếu có điều gì làm cho trẻ bị tổn thương ở một giai đoạn nào đó (như bị lạm dụng hoặc
cha mẹ tử vong) thì sẽ ảnh hưởng xấu đến sự phát triển của trẻ. I. Những thay đổi về cơ thể và hoạt động:
1. Đặc điểm cơ thể: Có những thay đổi cơ bản về những đặc điểm giải phẫu tâm lý cụ thể như:
- Bộ xương phát triển, đặt biệt là cột sống.
- Các dây chằng, cơ bắp được tăng cường.
- Sự cốt hóa ở các ngón tay hoàn thiện.
- Cơ tim phát triển mạnh ở tuổi 10 – 11.
- Trọng lượng não phát triển bằng người lớn, đặt biệt thùy trán phát triển mạnh.
- Có sự cân bằng hơn trong hoạt động của 2 quá trình hưng phấn và ức chế.
Tóm lại, lứa ở lứa tuổi nhi đồng đang có sự hoàn thiện về cơ thể. Đây là tiền đề vật chất
quan trọng cho những hoạt động mới ở trẻ.
2. Những thay đổi về hoạt động:
Hoạt động học tập là hoạt động chủ đạo và là bước ngoặc lớn trong sự phát triển của lứa tuổi nhi đồng.
a) Những đòi hỏi của hoạt động học tập với trẻ:
- Phát triển trí tuệ để tiếp thu kĩ năng, kĩ xảo.
- Năng lực, ý chí để thực hiện những yêu cầu của hoạt động học tập.
- Thích ứng với những tình huống xã hội mới ở lớp học.b) Những khó khăn của hoạt
động học tập đối với trẻ:
- Khó khăn liên quan đến việc thay đổi chế độ sinh hoạt.
- Khó khăn liên quan đến việc thay đổi môi trường hoạt động.
- Khó khăn liên quan đến việc giảm sút hứng thú học tập.
II. Đặc điểm phát triển tâm lý của tuổi nhi đồng:
Những cấu tạo tâm lý mới chủ yếu do hoạt động học tập mang lại và được hình thành dần
dần với chính quá trình hình thành của quá trình hoạt động học tập.
1. Sự phát triển của quá trình nhận thức:
a) Sự phát triển của tri giác
- Đầu lớp 1 trẻ chưa biết phân tích có hệ thống những thuộc tính và phẩm chất của các đối tượng tri giác.
- Trình độ tri giác phát triển nhờ vào những hành động học tập có mục đích, có kế hoạch.
- Ở trẻ lớp 4, lớp 5 tính tổng thể của tri giác dần dần nhường chỗ cho tri giác chính xác.
b) Sự phát triển của sự tập trung
- Trẻ lớp 2, lớp 3 biết chú ý vào tài liệu học tập cũng như vào việc hoàn thành các nhiệm vụ học tập.
- Đến lớp 4. lớp 5 trẻ còn biết phân phối chú ý với những dạng hoạt động khác nhau.
- Tính chủ định của chú ý, tri giác là những nét tâm lý mới của trẻ lứa tuổi này. c) Sự phát triển của trí nhớ
- Ghi nhớ có chủ định được hình thành và phát triển dần trong quá trình học tập và được
hình thành rõ nét ở trẻ lớp 3.
- Hai hình thức ghi nhớ chủ định và ghi nhớ không chủ định tồn tại song song, chuyển hóa, bổ sung cho nhau.
- Ở những năm cuối của giai đoạn này, trí nhớ có sự tham gia tích cực của ngôn ngữ. d)
Sự phát triển của tưởng tượng
- Chủ yếu là phát triển tưởng tượng tái tạo cụ thể như sau:
+ Lớp 1 – 2, tưởng tượng còn nghèo nàn có khi chưa phù hợp với đối tượng.
+ Lớp 3, trẻ bắt đầu hình dung được một cách trọn vẹn, đầy đủ hơn với trạng thái trung gian của nó.
+ Đến cuối cấp, tưởng tượng của trẻ phát triển theo xu hướng rút gọn và khái quát hơn.
Đặc điểm này được phát triển song song với ghi nhớ có ý nghĩa.
- Điểm khác nhau căn bản về tưởng tượng của trẻ mẫu giáo và trẻ nhi đồng là: trẻ nhi
đồng ý thức rõ rệt về tính thuần túy, qui ước về những điều tưởng tượng của mình.
- Tưởng tượng sáng tạo bắt đầu hình thành ở thời gian cuối của giai đoạn. e) Sự phát triển của tư duy
- Giai đoạn 1 ( 6 – 7 ): Tư duy trực quan hành động chiếm ưu thế.
+ Trẻ học chủ yếu bằng phương pháp phân tích, so sánh, đối chiếu dựa trên các đối tượng
hoặc những hình ảnh trực quan.
+ Những khái quát của trẻ về sự vật hiện tượng ở giai đoạn này chủ yếu dựa vào những
dấu hiệu cụ thể nằm trên bề mặt của đối tượng hoặc những dấu hiệu thuộc công dụng và chức năng.
+ Tư duy còn chịu ảnh hưởng nhiều bởi yếu tố tổng thể.
+ Tư duy phân tích bằng đầu hình thành nhưng còn yếu. -
Giai đoạn 2 ( 8 – 12 tuổi ): Tư duy trực quan hình tượng
+ Trẻ nắm được các mối quan hệ của khái niệm.
+ Những thao tác về tư duy như phân loại, phân hạng tính toán, không gian, thời gian,..
được hình thành và phát triển mạnh.
- Đến cuối giai đoạn 2, tư duy ngôn ngữ bắt đầu hình thành.
Theo lý thuyết phát triển trí tuệ của Piaget, thì đây được gọi là giai đoạn “vận dụng năng
lực tư duy cụ thể (concrete operational stage) với hai đặc điểm nổi bật là trẻ am hiểu
nguyên lý bảo tồn và khái niệm nghịch đảo. Tuy nhiên năng lực tư duy của trẻ còn bị hạn
chế bởi sự ràn buộc với những thật tại vật chất cụ thể. Trẻ gặp khó khăn trong tư duy trừu tượng.
2. Sự phát triển của cảm xúc, ý chí:
- Đời sống cảm xúc, tình cảm khá phong phú, đa dạng và cơ bản mang tính tích cực.
- Tính kiềm chế và tự giác được tăng cường.
- Trạng thái cảm xúc ổn định. Đặc biệt tâm trạng sáng khoái, vui tươi thường bền vững, lâu dài.
3. Sự phát triển nhân cách của học sinh nhỏ:
- Chủ yếu diễn ra và bị chi phối bởi hoạt động chủ đạo là hoạt động học tâp.
+ Trẻ tự điều khiển mình tuân theo những điều “cần phải” chứ không phải theo ý muốn chủ quan.
+ Nhờ có tính chủ định đối với mọi hành vi, trẻ dần dần nắm được những chuẩn mực đạo
đức, những qui tắc hành vi.
+ Nét đặc trưng của những mối quan hệ qua lại giữa trẻ là chúng dựa vào sự giống nhau
về hoàn cảnh sống hay những hứng thú ngẫu nhiên.
+ Cuối tuổi này, hành vi, lời đánh giá của bạn bè có ý nghĩa rất lớn trong việc nhìn nhận
và đánh giá bản thân của trẻ làm cơ sở cho tính tự đáng giá ở trẻ.
+ Hình ảnh của người lớn đặc biệt là của giáo viên có ý nghĩa rất to lớn trong việc giáo dục cho trẻ.
- Ảnh hưởng của hoạt động lao động
+ Những công việc tự phục vụ bản thân và giúp đỡ gia đình đã làm hình thành những kỹ
năng lao động, kỹ năng vạch kế hoạch, mục tiêu cho hành động và tạo điều kiện cho
những rung cảm, tình cảm tốt đẹp đối với lao động.
- Ảnh hưởng của hoạt động đội nhóm: Dưới ảnh hưởng của tiêu chuẩn, nội qui, quyền lợi
chung của tập thể trẻ phát triển được: + Tính tự lập. + Tình cảm trách nhiệm.
+ Mối quan tâm, đồng cảm với người khác.
+ Rèn luyện kĩ năng giao tiếp. ð Phát huy tính tích cực xã hội, điều kiện hình thành
nhân cách mang đậm nét xã hội nơi trẻ.
Theo thuyết phát triển tâm lý xã hội của Erikson, thì giai đoạn này được gọi là giai đoạn
“chuyên cần – ngược lại – tụt hậu”. Cụ thể là tình trạng phát triển TLXH thành công đặc
trưng bởi ngày càng tăng thêm khả năng vượt qua mọi yêu cầu, các yêu cầu có thể là các
tương tác xã hội hay kĩ năng học vấn. Ngược lại rắc rối trong giai đoạn này khiến trẻ có
cảm giác thất bại và thua sút.
4. Sự phát triển về giới tính:
- Định dạng giới tính (Gender Identity): Khoảng 6 – 7 tuổi, khi tính giữ lại (tính bảo thủ)
có thể trở thành nhận thức, thì khi đó trẻ có sự hằng đinh về giới (Gender constancy).
Trẻ có ý tưởng giới tính là vĩnh viễn không thay đổi được. Trẻ cũng ghi nhận rằng các
cơ quan sinh dục là yếu tố quan trọng để xác định giới tính.
- Vai trò giới (Gender role):
+ Ngoài việc hiểu biết các định dạng giới tính, trẻ cũng có biêu hiện ưa thích việc tham
gia vào các hành vi định hình giới tính. Ở giai đoạn tuổi thiếu nhi, các trẻ nam ưa thích
hành vi và thái độ theo kiểu giới tính của mình nhiều hơn, trong khi đó các trẻ nữ lại
chuyển các hoạt động và nét theo kiểu nam nhiều hơn.
+ Học thuyết học tập xã hội (Social learning theory) đã chỉ ra sự ảnh hưởng rất mạnh của
người lớn đối với trẻ trong những biểu hiện trên. - Tính dục (Sexuality):
+ Theo Volbert ở trẻ 6 – 7 tuổi, trẻ không nói về một chức năng tính dục đối với các bộ
phận sinh dục ngoài chuyện “em bé được sinh ra từ đó”.
* Đến 9 tuổi, trẻ bắt đầu liên tưởng sự sinh sản với hoạt động tình dục.
+ Theo Nghiên cứu của Stanfort và Cohen Kenttenis, thì trẻ ở giai đoạn này thường xuất
hiện những hành vi “khám phá” thân thể như: sờ mó bộ phận sinh dục của mình và của
người khác, thủ dâm, cho người khác xem, vẽ hình bộ phận sinh dục và đặc biệt là chơi
trò “bác sĩ” với bạn bè.
+ Đến cuối thời kỳ này, trẻ bắt đầu có dấu hiệu của dậy thì.
Câu 7: Vai trò của hoạt động học tập, nghiên cứu khoa học và hoạt động xã hội đối với sự
phát triển nhận thức, tình cảm, tự đánh giá của lứa tuổi sinh viên (18 – 22 tuổi)
Một số đặc điểm tâm lý cơ bản của sinh viên
Lứa tuổi sinh viên có những nét tâm lý điển hình, đây là thế mạnh của họ so với các lứa
tuổi khác như: tự ý thức cao, có tình cảm nghề nghiệp, có năng lực và tình cảm trí tuệ
phát triển (khao khát đi tìm cái mới, thích tìm tòi, khám phá), có nhu cầu, khát vọng
thành đạt, nhiều mơ ước và thích trải nghiệm, dám đối mặt với thử thách.
Sinh viên là một nhóm xã hội đặc biệt, đang tiếp thu những kiến thức, kỹ năng chuyên
môn ở các trường cao đẳng, đại học để chuẩn bị cho hoạt động nghề nghiệp sau khi ra trường.
Mỗi một lứa tuổi khác nhau đều có những đặc điểm tâm lý nổi bật, chịu sự chi phối của
hoạt động chủ đạo. Ở đây, chúng tôi quan tâm đến sinh viên, những người có hoạt động
chủ đạo là học tập để tiếp thu kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo nghề nghiệp ở các trường cao
đẳng, đại học. Một trong những đặc điểm tâm lý quan trọng nhất ở lứa tuổi thanh niên -
sinh viên là sự phát triển tự ý thức. Nhờ có tự ý thức phát triển, sinh viên có những hiểu
biết, thái độ, có khả năng đánh giá bản thân để chủ động điều chỉnh sự phát triển bản thân
theo hướng phù hợp với xu thế xã hội. Chẳng hạn sinh viên đang học ở các trường cao
đẳng, đại học sư phạm, họ nhận thức rõ ràng về những năng lực, phẩm chất của mình,
mức độ phù hợp của những đặc điểm đó với yêu cầu của nghề nghiệp, qua đó họ sẽ xác
định rõ ràng mục tiêu học tập, rèn luyện và thể hiện bằng hành động học tập hàng ngày
trong giờ lên lớp, thực tập nghề hay nghiên cứu khoa học. Nhờ khả năng tự đánh giá phát
triển mà sinh viên có thể nhìn nhận, xem xét năng lực học tập của mình, kết quả học tập
cao hay thấp phụ thuộc vào ý thức, thái độ, vào phương pháp học tập của họ.
Ở SV đã bước đầu hình thành thế giới quan để nhìn nhận, đánh giá vấn đề cuộc sống, học
tập, sinh hoạt hàng ngày. Sinh viên là những trí thức tương lai, ở các em sớm nảy sinh
nhu cầu, khát vọng thành đạt. Học tập ở đại học là cơ hội tốt để SV được trải nghiệm bản
thân, vì thế, sinh viên rất thích khám phá, tìm tòi cái mới, đồng thời, họ thích bộc lộ
những thế mạnh của bản thân, thích học hỏi, trau dồi, trang bị vốn sống, hiểu biết cho
mình, dám đối mặt với thử thách để khẳng định mình.
Một đặc điểm tâm lý nổi bật nữa ở lứa tuổi này là tình cảm ổn định của sinh viên, trong
đó phải đề cập đến tình cảm nghề nghiệp - một động lực giúp họ học tập một cách chăm
chỉ, sáng tạo, khi họ thực sự yêu thích và đam mê với nghề lựa chọn. Sinh viên là lứa tuổi
đạt đến độ phát triển sung mãn của đời người. Họ là lớp người giàu nghị lực, giàu ước
mơ và hoài bão. Tuy nhiên, do quy luật phát triển không đồng đều về mặt tâm lý, do
những điều kiện, hoàn cảnh sống và cách thức giáo dục khác nhau, không phải bất cứ
sinh viên nào cũng được phát triển tối ưu, độ chín muồi trong suy nghĩ và hành động còn
hạn chế. Điều này phụ thuộc rất nhiều vào tính tích cực hoạt động của bản thân mỗi sinh
viên. Bên cạnh đó, sự quan tâm đúng mực của gia đình, phương pháp giáo dục phù hợp
từ nhà trường sẽ góp phần phát huy ưu điểm và khắc phục những hạn chế về mặt tâm lý
của SV. Bên cạnh những mặt tích cực trên đây, mặc dù là những người có trình độ nhất
định, sinh viên không tránh khỏi những hạn chế chung của lứa tuổi thanh niên. Đó là sự
thiếu chín chắn trong suy nghĩ, hành động, đặc biệt, trong việc tiếp thu, học hỏi những cái
mới. Ngày nay, trong xu thế mở cửa, hội nhập quốc tế, trong điều kiện phát triển công
nghệ thông tin, nền văn hoá của chúng ta có nhiều điều kiện giao lưu, tiếp xúc với các
nền văn hoá trên thế giới, kể cả văn hoá phương Đông và phương Tây. Việc học tập, tiếp
thu những tinh hoa, văn hoá của các nền văn hoá khác là cần thiết. Tuy nhiên, do đặc
điểm nhạy cảm, ham thích những điều mới lạ kết hợp với sự bồng bột, thiếu kinh nghiệm
của thanh niên, do đó, sinh viên dễ dàng tiếp nhận cả những nét văn hoá không phù hợp
với chuẩn mực xã hội, với truyền thống tốt đẹp của dân tộc và không có lợi cho bản thân họ.
Lứa tuổi sinh viên có những nét tâm lý điển hình, đây là thế mạnh của họ so với các lứa
tuổi khác như: tự ý thức cao, có tình cảm nghề nghiệp, có năng lực và tình cảm trí tuệ
phát triển (khao khát đi tìm cái mới, thích tìm tòi, khám phá), có nhu cầu, khát vọng
thành đạt, nhiều mơ ước và thích trải nghiệm, dám đối mặt với thử thách. Song, do hạn
chế của kinh nghiệm sống, sinh viên cũng có hạn chế trong việc chọn lọc, tiếp thu cái
mới. Những yếu tố tâm lý này có tác động chi phối hoạt động học tập, rèn luyện và phấn đấu của sinh viên.
Câu 7: Sự lo âu và các giai đoạn thích nghi với cái chết ở người sắp mất. Những người
chăm sóc nên ứng xử với người sắp mất như thế nào? * Sự lo âu
Hướng về quá khứ: để giải tỏa những nỗi buồn trong cuộc số ng, người cao tuổi thường
tìm lại bạn bè cũ, thích ôn lại chuyện cũ, viết hồi ký, tái hiện kinh nghiệm sống...
Chuyển từ trạng thái “tích cực” sang trạng thái “tiêu cực”: người cao tuổi chuyển từ trạng
thái lao động sang trạng thái nghỉ ngơi nên họ chưa thích nghi được dễ gặp phải “hội chứng về hưu”
Biểu hiện sự cô đơn, mong được quan tâm chăm sóc nhiều hơn từ những người thân trong gia đình
Cảm thấy bất lực và tủi thân: đa số sinh hoạt và kinh tế đều phụ thuộc vào con cháu nên
họ thường cảm thấ y tủi thân Nói nhiề u hoặc bị trầ m cảm: vì muốn truyền đạt kinh
nghiệm sống cho con cháu nên người cao tuổi thường bảo thủ, can thiệp vào cuộc sống riêng tư của con cháu
Sợ đối mặt với cái chết: có những trường hợp chuẩn bị sẵn cho cái chết của mình và cũng
có một số trường hợp không chấp nhận, lãnh tránh
5 giai đoạn thích nghi với ý nghĩa về cái chết: Phủ nhận, giận dữ, mặc cả, trầm uất và tiếp
nhận. Dưới đây là mô tả tóm tắt các giai đoạn đó.
• Trong giai đoạn phủ nhận, con người bác bỏ khả năng chết và đi tìm những ý kiến và
những triển vọng thuận lợi nhất.
• Khi con người nhận thức được rằng họ trên thực tế sẽ chết, sự kích thích, phẫn nộ
vàlòng đố kỵ bao bọc lấy họ. Đó là giai đoạn giận dữ. Con người cảm thấy mình bị lừa
dối bởi lẽ các kế hoạch và khát vọng của họ không khi nào được thực hiện.
• Ở giai đoạn mặc cả, con người có thể tranh thủ thời gian, đưa ra những lời hứa hẹn
vàcầu nguyện Chúa Trời của mình, trò chuyện với các bác sĩ, y tá hoặc với những người
khác lấy cớ trì hoãn bản án, giải thoát khỏi đau đớn và khổ ải. • Nếu mặc cả không đem
lại kết quả, còn thời gian trôi đi thì sự bất lực và vô vọng bao quanh họ. Đến lúc này
con người đang trong giai đoạn trầm uất và khóc than không những về những tổn thất
thực sự mà không lâu nữa phải chia ly với gia đình mình và bạn bè.
• Trong giai đoạn tiếp nhận thực tế cận kề cái chết và bình tĩnh chờ đợi nó.
Có nhiều yếu tố tác động đến sự phản ứng của con người đó là: bản sắc văn hoá, tính
cách cá nhân, tôn giáo, triết lý cá nhân, độ dài và tính chất của bệnh tật. Một số người ở
trong giai đoạn giận dữ hoặc trầm cảm cho đến khi chết, số người khác chờ chết như là
sự giải thoát khỏi nỗi đau đớn. Mỗi con người chờ đón cái chết theo cách của mình, vì
vậy trong những trường hợp đó họ không phải ép buộc vào các giai đoạn thích nghi nhất định.
5. Tác động của mối quan hệ gắn bó mẹ-con
Vai trò của gắn bó mẹ con đối với sự phát triển cảm xúc của trẻ Cần khẳng định rằng sự
gắn bó với mẹ có vai trò đặc biệt quan trọng trong sự phát triển tâm lý của trẻ. Nếu thiếu
sự gắn bó mẹ - con, quá trình phát triển của trẻ sẽ gặp nhiều khó khăn. Anna Freud (năm
1941) cho thấy các tuyến đường chủ yếu của sự phát triển tâm lý của trẻ: từ lệ thuộc đến
tự chủ về cảm xúc và có những quan hệ với đối tượng như người lớn. Các tuyến đường
này gồm nhiều giai đoạn, trong đó, hai giai đoạn đầu tiên là hai giai đoạn mà nếu sự gắn
bó mẹ con không được đảm bảo sẽ bộc lộ những bất thường về tâm lý ở các giai đoạn
tiếp theo: Từ cộng sinh, ái kỉ, dần dần trẻ tách ra khỏi mẹ, giảm dần tình trạng khép kín.
Trong giai đoạn này, bất kì một sự chia tách nào trong quan hệ mẹ - con (hoặc trẻ với
người chăm sóc chính) cũng đều gây ra lo hãi cho trẻ. Sự tách dần bản thân khỏi người
mẹ: Trẻ dần dần hình thành được cái Tôi , lúc đầu còn mờ nhạt, sau rõ dần, trong một
khía cạnh nào đó, đây cũng là sự tiếp nối sau cộng sinh. Nếu có tác động xấu ở giai đoạn
này có thể dẫn tới việc rối loạn sự hình thành cái Tôi. Có thể nói sự kiện chia tách mẹ con
sớm, ứng với từng giai đoạn, sẽ gây lo hãi, làm rối loạn sự hình thành cái Tôi ở trẻ.
Winnicott, bác sĩ nhi khoa, nhà tâm thần học, tâm lý học người Anh cũng cho rằng con
đường tất yếu để làm người, làm chủ thể phải phát xuất từ quan hệ Mẹ Con. Người Mẹ là
bài học đầu tiên và cơ bản nhất, cho phép đứa con kiến dựng một nhân cách vững mạnh.
Chính người Mẹ tạo điều kiện thuận lợi cho đứa con chuyển hóa từ từ, trên con đường
thành nhân, phát triển khoẻ mạnh cả về thể chất lẫn tâm lý. Tác giả Đặng Hoàng Minh đã
chỉ ra rằng: quan hệ gắn bó mẹ con có vai hò đặc biệt như lá chắn, phòng tránh những bất
lợi, đồng thời, thúc đẩy, điều chỉnh các kích thích cho phù hợp. Nó là cái nôi tâm lý cho
phát triển cảm xúc, cho hình thành cái tôi, hình thành và phát triển nhân cách của trẻ. Tùy
vào cách gắn bó, nuôi dưỡng của người mẹ mà đứa trẻ phát huy được tiềm năng, nhận
thức về thế giới bên ngoài hay là sự khép mình lại. Trẻ phân biệt được cái gì nên và cái gì
không nên... Thiếu sự gắn bó mẹ con, thiếu nuôi dưỡng sẽ tạo nên sự lo âu, sợ hãi, cản trở
sự phát triển của trẻ, đặc biệt trong ba năm đầu đời, Sự gắn bó mẹ - con tạo ra cảm giác
an toàn (thỏa mãn nhu cầu an toàn) ở trẻ nhỏ, giúp trẻ yên tâm trong việc khám phá và
giao tiếp với môi trường xung quanh. An toàn là trạng thái tâm lý ở trẻ, được sinh ra khi
người mẹ và những người thân xung quanh thoả mãn được các nhu cầu như dinh dưỡng,
gắn bó với irẻ, ôm ấp yêu thương trẻ, trò chuyện thân thiện với trẻ,... mang lại cho trẻ
cảm giác bình yên, thoải mái. Đây là chỗ dựa vững chắc, giúp trẻ đi vào khám phá thế
giới đồ vật thế giới tự nhiên một cách tự tin, phát triển hài hoà các chức năng tâm lý như:
chú ý, tri giác, tưởng tượng, tư duy, trí nhớ,... giúp trẻ thích nghi nhanh, họp lý với những
thay đổi của môi trường tự nhiên và xã hội. Neu không có sự an toàn thì sự phát triển về
tâm lý, nhân cách của trẻ sẽ gặp phải rất nhiều bất ổn. Đứa trẻ sẽ bị cảm giác lo lắng, bất
an chi phối, nó dễ cáu gắt và khóc lóc rất nhiều. Nhiều trẻ em do không được thoả mãn
nhu cầu an toàn này mà giai đoạn sau rất dễ có những rối nhiễu tâm lý như trầm cảm, lo
âu,... Sự gắn bó mẹ - con là tiền đề quan trọng cho nhu cầu giao tiếp của trẻ với những
người xung quanh. Ngay từ cuối tháng thứ nhất, trẻ đã biết “hóng chuyện”, phản ứng khi
được người lớn “hỏi chuyện” như cười, khua chân khua tay,... Sang tháng thứ hai, xuất
hiện sự mỉm cười ở bé khi thấy một ai đó đến bên. Bé tỏ ra vui mừng khi ai đến với nó và
tỏ ra buồn bã khi họ bỏ đi, rồi lại đưa mắt tìm chơi với người khác. Cứ như vậy quan hệ
giao tiếp của trẻ dần hình thành và phát triển. Đây cũng là tiền đề thuận lợi để hình thành
và phát triển ngôn ngữ cho trẻ sau này. Giao tiếp trực tiếp với người mẹ có ảnh hưởng
mạnh mẽ đến sựphát triển xúc cảm, tình cảm của trẻ. Từ nhu cầu tiếp xúc da thịt với
người mẹ đến giao tiếp thực sự với những người xung quanh, khi mà trẻ đã có những
phương thức giao tiếp là một bước phát triển rõ rệt từ tuổi sơ sinh đến tuổi hài nhi. Trong
giao tiếp với mẹ, trẻ tiếp nhận được những sắc thái xúc cảm khác nhau của người mẹ, rồi
dần dần trẻ cũng thể hiện được những xúc cảm khác nhau của mình. Giao tiếp trực tiếp
với người mẹ là một bước đệm quan trọng cho giai đoạn sau đó. Cùng với giao tiếp trực
tiếp với người mẹ, dần dần ở trẻ xuất hiện nhu cầu sờ mó, cầm nắm các đồ vật. Từ đó nhu
cầu giao tiếp trực tiếp sẽ nhường chỗ cho giao tiếp với đồ vật, tức là giao tiếp với người
mẹ để tiếp xúc với đồ vật. Lúc này người mẹ trở thành khâu trung gian giữa trẻ và đồ vật.
Sự giao tiếp này dàn dần trở thành hoạt động phối hợp giữa người mẹ và trẻ nhỏ. Người
mẹ lúc này có vai trò dẫn dắt đứa trẻ đến với thế giới đồ vật và hướng dẫn nó biết hành
động với các đồ vật đơn giản. Nhờ hoạt động phối hợp với người lớn nói chung và người
mẹ nói riêng, ở trẻ nảy sinh khả năng bắt chước hành động của người lớn. Khả năng này
là điều kiện quan trọng để tiếp thu những điều dạy dỗ của người lớn, mở rộng vốn kinh
nghiệm của trẻ. Khả năng bắt chước những hành động của người lớn được phát triển
mạnh trong suốt thời kỳ hài nhi. Đến cuối tuổi này thì sự bắt chước tăng lên rõ rệt (chải
tóc giống mẹ, đọc sách giống bố, cách biểu lộ các cảm xúc qua nét mặt...). Chính vì vậy,
nếu thiếu hụt mối quan hệ gắn bó mẹ con, sẽ để lại những hậu quả nghiêm trọng ở trẻ,
như :Trẻ dần dần tách khỏi những liên hệ xung quanh; cụ thể là, trẻ tự cô lập, tránh tiếp
xúc xã hội, thụ động, thu mình lại, có ánh nhìn xa xăm, thờ ơ, không quan tâm giao tiếp
xã hội. Trẻ không nhận thấy sự khác nhau trong ứng xử giữa người thân và người lạ: hoặc
trẻ bộc lộ những nhu cầu khát khao về tiếp xúc, vồ vập những người mà trẻ không quen
biết hoặc thờ ơ với tất cả; đặc biệt là biểu hiện không muốn gần mẹ, không muốn ôm,
hôn mẹ, không muốn nhìn vào mắt mẹ và không nói. Trẻ ứng xử tương tự như vậy với
người khác. Hành vi của trẻ hiếu động quá mức hoặc có tính hiếu chiến. Trẻ dễ bị kích
thích bằng hành vi dập khuôn, chơi có nét định hình, về thể chất, trẻ có những biểu hiện
như khó ngủ, từ chối ăn, chậm phát triển tâm vận động, dễ bị nhiễm khuẩn. Ngôn ngữ
của trẻ kém phát triển và có những dấu hiệu chậm phát triển trí tuệ so với những đứa trẻ
cùng tuổi. Khi ở cùng bạn trang lứa, trẻ thường sẽ bị hoảng loạn và rối loạn ứng xử, khó
khăn trong tạo lập các mối quan hệ gần gũi và có xu hướng tách biệt xã hội.
5. Khái niệm và các kiểu gắn bó mẹ-con
Có thể hiểu, gắn bó mẹ con là moi quan hệ thân thiết về mặt thể chất và tâm lý; trên cơ sở
tình yêu thương bao dung của người mẹ, đứa trẻ cảm nhận được sự an toàn đểphát triển
cân bằng về mặt tâm -sinh lý và xã hội.. Gắn bó mẹ con là sự kết nổi tâm lý bền vững, là
sự ràng buộc cảm xúc sâu sắc và lâu dài giữa mẹ và trẻ, giúp trẻphát triển hình ảnh tích
cực về bản thân và hình thành các cảm giác an toàn trong quá trình phát triển tổng thể.
Dựa trên cách đáp ứng của cả mẹ và con thì có 4 kiểu gắn bó mẹ - con cơ bản: Kiểu 1 cả
mẹ và con đều phát ra các tín hiệu gắn bó, Kiểu 2: tín hiệu phát ra từ mẹ mạnh nhưng từ
con yếu, Kiểu 3: Tín hiệu phát ra từ mẹ thì yếu nhưng từ con thì mạnh: Kiểu 4: tín hiệu
phát ra từ mẹ và con đều yếu.
Các giai đoạn gắn bó của trẻ
John Bowlby chia các giai đoạn gắn bó của trẻ thành 4 giai đoạn.
Tìm kiếm 0-3 tháng: Với giới hạn của các cơ quan thụ cảm, sự gắn bó của trẻ chưa hướng
đến đối tượng cụ thể, chưa tỏ ra khó chịu khi người lạ bế ẵm. Trẻ tỏ ra thích nghe giọng
nói của con người hơn là những âm thanh khác, thích nghe giọng nói của mẹ hơn là của
người khác. Đến 2 tháng tuổi, trẻ bắt đầu biết thể hiện nhu cầu gắn bó qua những giao tiếp bằng mắt.
Thiết lập 3-6 tháng: Biết cười đáp lại những giọng nói và sự tiếp xúc cơ thể từ bất kì ai để
duy trì sự tương tác, nhưng những phản ứng này đã trở nên chọn lọc hơn, nhạy với người
nuôi dưỡng hơn là với người lạ. Trẻ bắt đầu biết phân biệt người quen với người lạ. Trẻ
chưa biểu hiện rõ rệt cảm giác lo âu khi phải tạm xa mẹ
Đỉnh cao 6 - 24 tháng: Phân biệt được cha mẹ với người lạ và thể hiện sự gắn bó rất chọn
lọc. Nhu cầu được gần gũi mẹ rất lớn. Các biểu hiện của mong muốn này được trẻ bộc lộ
rõ và chủ động hơn. Xuất hiện sự lo âu rõ rệt khi phải xa cách mẹ. Khi đó, nếu người lạ
xuất hiện, trẻ sẽ biểu hiện những phản ứng rất mạnh và bột phát
Duy trì 2- >3 tuổi: Thích ứng được với việc xa mẹ tạm thời và sự xuất hiện của người lạ.
Cảm giác được an toàn của trẻ ổn định hơn. Đối tượng và mục tiêu gắn bó được mở rộng ra.
Trong những tháng tuổi đầu đời, đứa trẻ hình thành một mối quan hệ tiềm tàng với người
Mẹ. Được sự hỗ trợ và chăm sóc từ phía người Mẹ bởi những năng lực cơ thể của trẻ
chưa đủ để nó có thể “vắng mẹ”, từ sự phụ thuộc về vật chất trẻ cũng chịu sự thu hút đặc
biệt từ phía người Mẹ về mặt tình thần, nó có xu hướng bắt chước những gì mà người Mẹ
làm, thể hiện cảm xúc tương đương với cảm xúc của người Mẹ. Cùng với đó là sự cuốn
hút mạnh mẽ của tình cảm người Mẹ dành cho đứa Con.
Trong giai đoạn này sự bộc lộ nhu cầu của trẻ chủ yếu thông qua tiếng khóc, đây là 1 đặc
điểm người phụ huynh cần chú ý khi chăm sóc trẻ, không nên ép trẻ nín khóc, hoặc vội
vàng thoả mãn nhu cầu khi trẻ khóc. Cần dành thời gian lắng nghe và hiểu nhu cầu của
trẻ qua những đặc điểm khác nhau của tiếng khóc: Khóc đói, khóc ngủ, khóc do gặp nguy hiểm, khóc ăn vạ…
Trẻ nhỏ tới 1 tuổi sợi dây gắn kết Mẹ - Con đạt trạng thái tối đa, đứa trẻ sẽ bộc lộ những
lo âu nếu đột ngột bị cách ly khỏi Mẹ hoặc thể hiện sự sung sướng khi được nhìn thấy
Mẹ, được Mẹ yêu thương. Đứa trẻ tìm cách duy trì cảm giác hạnh phúc khi được ở bên
Mẹ và tránh tối đa các trạng thái đau khổ hoặc lo âu. Thực tế chúng ta thường thấy giai
đoạn này có những em bé suốt ngày bám chân Mẹ, mẹ đi là khóc, mẹ về là cười, cực kỳ
phụ thuộc cảm xúc vào người Mẹ.
Có một lưu ý ở đây như sau: Để thiết lập được một sự gắn bó An toàn trong giai đoạn
Duy trì (2 – 3 tuổi) phụ huynh cần chú ý một thuật ngữ đó là “ Chơi vui vẻ dưới chân
người Mẹ”. Tức là phải luyện tập được cho đứa trẻ nhận thức được rằng: Trẻ hoàn toàn
có thể chơi một mình ở một khoảng cách an toàn so với mẹ, nhưng khi trẻ cần nó có thể
quay trở lại và tìm thấy Mẹ mình ở đó.
Nghĩa là chuẩn bị cho trẻ tâm thế hoạt động độc lập nhưng không cảm thấy bị bỏ mặc và
thiếu an toàn. Một số trò chơi, kỹ thuật tâm lý có thể giúp được trẻ như:
- Trò chơi ú oà: Mục đích cho trẻ nhận ra rằng, khuôn
mặt mẹ hoặc đồ vật vẫn ở đây chỉ là nó bị che đi thôi
- Trò chơi tìm vật trong chăn- Trò chơi trốn tìm với Mẹ. - Trò chơi Nhà mẹ nhà Con ...........
Khi trẻ bắt đầu lên 2 tuổi sự nhận thức về cái tôi của trẻ rõ ràng hơn, con đã bắt đầu biết
sử dụng một số cụm từ như: Của con, của Mẹ, cho Con, cho Mẹ, Con biết… trẻ nhận ra
bản ngã của mình giữa xã hội, nhận ra người khác. Có sự phân biệt rõ ràng giữa Người
thân và người lạ. Trẻ đã chấp nhận sự có mặt của người lạ trong cuộc sống của mình. Vì
thế mà sợi dây gắn bó Mẹ - Con bắt đầu lỏng lẻo. Đây là giai đoạn mà chúng ta đưa trẻ
vào Mầm non để con có những sự làm quen và hoà nhập với bạn bè, Thầy cô, tạo bước
đà cho việc trẻ chuyển mình sang giai đoạn đứa trẻ xã hội (3 – 5).
Một số đặc điểm để nhận diện một mối quan hệ Mẹ - Con là an toàn hay không?
Dựa trên nền tảng thuyết gắn bó của John Bowlby, Mary Ainsworth đã tiến hành các thực
nghiệm gọi là “tình huống kì lạ” trên các trẻ từ 12-18 tháng tuổi và phân loại sự gắn bó
thành 3 dạng. Kết quả được rút ra từ sự quan sát biểu hiện cảm xúc của trẻ khi mẹ rời
khỏi phòng và khi mẹ quay trở lại. Các dạng gắn bó trong quan hệ mẹ-con theo Mary Ainsworth. - Bền chặt:
+ Biểu hiện khi mẹ rời khỏi phòng: Khóc, lo lắng
+ Biểu hiện khi mẹ quay về phòng: Nhanh chóng vui vẻ trở lại - Chống đối