Câu hỏi tự luận và đáp án môn Kinh tế chính trị | Đại Học Hà Nội

Câu hỏi tự luận và đáp án môn Kinh tế chính trị | Đại Học Hà Nội được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!

BTVN KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC – LÊNIN
1. Phân tích lịch sử ra đời và bản chất của tiền tệ? Cho vd minh họa
2. Phân tích các chức năng của tiền tệ theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lê nin? Chức năng nào
là quan trọng nhất
3. Việc xuất hiện của tiền giấy thuận tiện cho việc thực hiện chức năng nào? Vì sao các chuyên gia
kinh tế đưa ra lời khuyên: "Nên cất trữ của cải bằng vàng"
4. sao vàng được chọn làm đơn vị tiền tệ? Hãy giải thích sự xuất hiện của tiền giấy trong lưu
thông và tác động của nó.
BÀI LÀM
1. Lịch sử ra đời của tiền tệ:
Hàng hóa sự thống nhất của cả hai thuộc tính: giá trị sử dụng giá trị. Ta có thể nhận biết
trực tiếp được bằng các giác quan hình thái tự nhiên của hàng hóa, tuy nhiên, hình thái
hội của hàng hóa hay giá trị của không được tạo nên bởi nguyên tử vật chất nào nên con
người không thể sờ thấy cũng như nhìn thấy được giá trị của nó. Chính giá trị của hàng hóa
trừu tượng nên giá trị của chúng chỉ được bộc lộ qua quá trình trao đổi hàng hóa thông qua
các sự phát triển các hình thái giá trị của chúng.
Sự phát triển các hình thái giá trị trong nền kinh tế hàng hóa được biểu hiện thông qua 4 hình
thái cụ thể sau đây:
- Hình thái giá trị giản đơn hay ngẫu nhiên:
Đây hình thái ban đầu (hình thái phôi thai) của giá trị, xuất hiện trong giai đoạn khai
của trao đổi hàng hóa, khi trao đổi mang tính chất ngẫu nhiên, con người trao đổi trực tiếp vật
này lấy vật khác.
Ví dụ: 1m vải = 10kg thóc
Giá trị của vải ở ví dụ trên được biểu hiện ở thóc. Thóc được dùng làm phương tiện biểu thị giá
trị của vải. Với thuộc tính tự nhiên của mình, thóc trở thành hiện thân giá trị của vải. Sở dĩ như
vậy vì bản thân thóc cũng có giá trị.
1m vải nếu như đứng một mình thì không thể biểu hiện được giá trị của bản thân nó. Muốn biết
được giá trị của 1m vải đó cần phải đem so sánh với một hàng hóa khác, mà ở đây là 10kg thóc,
do đó hình thái giá trị của 1m vải đây , còn 10kg thóc không biểu hiệnhình thái tương đối
giá trị của nó được. Trong mối quan hệ với vải thì thóc chỉ là biểu hiện giá trị của vải nên nó là
hình thái ngang giá của giá trị của vải. Nếu thóc muốn biểu hiện giá trị của mình, thì phải đảo
ngược phương trình lại, là 10kg thóc = 1m vải
? Giản đơn là gì? Ngẫu nhiên là gì?
Giản đơn: Tham gia trao đổi chỉ 2 loại hàng hóa, vật thứ nhất (1m vải) đóng vai trò vật
trao đổi, vật thứ 2 là vật ngang giá.
Ngẫu nhiên: Vì tỉ lệ trao đổi chưa cố định, căn cứ vào nhu cầu.
- Hình thái giá trị đầy đủ hay mở rộng:
Khi lực lượng sản xuất phát triển hơn, sau phân công lao động hội lần thứ nhất, chăn nuôi
tách khỏi trồng trọt, trao đổi trở nên thường xuyên hơn, một hàng hóa này thể quan hệ
với nhiều hàng hóa khác. Tương ứng với giai đoạn này là hình thái giá trị đầy đủ hay mở rộng.
Ví dụ: 1m vải = 10kg thóc, =2 con gà, = 0,1 chỉ vàng
Đây sự mở rộng hình thái giá trị giản đơn hay ngẫu nhiên. Trong dụ trên, giá trị của 1m
vải được biểu hiện ở 10kg thóc, hoặc 2 con gà, hoặc 0,1 chỉ vàng. Như vậy, hình thái vật ngang
giá đã được mở rộng ra nhiều hàng hóa khác nhau. Tuy nhiên vẫn trao đổi trực tiếp, tỷ lệ
trao đổi chưa cố định.
- Hình thái chung của giá trị:
Với sự phát triển cao hơn nữa của lực lượng sản xuất phân công lao động hội, hàng hóa
được đưa ra trao đổi thường xuyên, đa dạng nhiều hơn về thể loại. Nhu cầu trao đổi do đó
trở nên phức tạp hơn, dụ như người vải muốn đổi thóc nhưng người thóc lại không
nhu cầu đổi vải lại cần thứ khác. Do đó, việc trao đổi trực tiếp đã không còn thích hợp
gây trở ngại cho quá trình trao đổi. Trong tình hình đó, người ta phải đi đường vòng, mang
hàng hóa của mình đổi lấy thứ hàng hóa được nhiều người ưa chuộng hơn, rồi đem hàng hóa đó
đổi lấy thứ hàng hóa mình cần. Khi vật trung gian trong trao đổi được cố định lại thứ
hàng hóa được nhiều người ưa chuộng, thì hình thái chung của giá trị xuất hiện.
Ví dụ: 10 kg thóc - 2 con gà – 0,1 chỉ vàng = 1m vải
đây, tất cả hàng hóa đều biểu hiện giá trị của mình cùng một thứ hàng hóa đóng vai trò
vật ngang giá chung. Tuy nhiên, vật ngang giá chung chưa ổn định ở một loại hàng hóa nào bởi
mỗi địa phương khác nhau thì hàng hóa được đem ra làm vật ngang giá chung cũng sẽ khác
nhau.
? Hình thái chung: Lấy một hàng hóa làm môi giới cho trao đổi hàng hóa.
- Hình thái tiền tệ:
Khi lực lượng sản xuất phân công lao động hội phát triển hơn nữa, sản xuất hàng hóa
thị trường ngày càng mở rộng, thì tình trạng nhiều vật ngang giá chung làm cho trao đổi
giữa các địa phương vấp phải nhiều khó khăn, do đó dẫn đến đòi hỏi khách quan phải hình
thành vật ngang giá chung thống nhất. Khi vật ngang giá chung được cố định lạimột vật độc
tôn và phổ biến thì xuất hiện hình thái tiền tệ của giá trị.
Ví dụ: 10kg thóc – 1m vải – 2 con gà…. = 0,1 chỉ vàng (Vàng trở thành tiền tệ)
Lúc đầu nhiều kim loại đóng vai trò tiền tệ, nhưng về sau được cố định lại kim loại quý:
vàng, bạc cuối cùng vàng. Sở bạc vàng đóng vai trò tiền tệ do những ưu điểm
như: thuần nhất về chất, dễ chia nhỏ, không hỏng, với một lượng thể tích nhỏ nhưng
giá trị lớn. Tiền tệ xuất hiện là kết quả phát triển lâu dài của sản xuấttrao đổi hàng hóa. Khi
tiền tệ ra đời thì thế giới hàng hóa được phân thành 2 cực: một bên các hàng hóa thông
thường, một bên là hàng hóa (vàng) đóng vai trò tiền tệ. Đến đây giá trị của hàng hóa đã có một
phương tiện biểu hiện thống nhất. Tỷ lệ trao đổi được cố định lại.
Chế độ vàng và bạc mang hình thái giá trị: chế độ song kim
Chế độ vàng độc tôn mang hình thái giá trị: chế độ bản vị vàng
*Bản chất của tiền tệ:
Tiền tệ một hình thái giá trị của hàng hóa, sản phẩm của quá trình phát triển sản xuất
trao đổi hàng hóa. Các nhà kinh tế trước C.Mác giải thích tiền tệ từ hình thái phát triển cao nhất
của nó, bởi vậy đã không làm rõ được bản chất của tiền tệ. Trái lại, C.Mác nghiên cứu tiền tệ từ
lịch sử phát triển của sản xuất trao đổi hàng hóa, từ sự phát triển của các hình thái giá trị
hàng hóa, do đó đã tìm thấy nguồn gốc và bản chất của tiền tệ.
Như vậy, tiền tệ, về bản chất, một loại hàng hóa đặc biệt được tách ra làm vật ngang giá
chung thống nhất cho các hàng hóa khác, nó thể hiện lao động xã hội và biểu hiện quan hệ giữa
những người sản xuất hàng hóa. Bản chất của tiền tệ còn được thể hiện qua các chức năng của
nó.
*Cô chữa:
Khi tiền tệ ra đời, thế giới hàng hóa được chia thành 2 cực: tất cả hàng hóa thông thường
hàng hóa mang hình thái tiền tệ.
Tư cách thứ 1: Hàng hóa thông thường (2 thuộc tính: giá trị sử dụng và thời gian lao động)
cách thứ 2: Hàng hóa đặc biệt (2 thuộc tính: giá trị sử dụng (dùng để đo lường giá trị của
hàng hóa khác và
2. Chức năng của tiền tệ:
Theo C.Mác, tiền tệ có 5 chức năng sau đây:
a. Thước đo giá trị: (Chức năng quan trọng nhất)
Tiền tệ dùng để biểu hiện và đo lường giá trị của các hàng hóa. Muốn đo lường giá trị của
các hàng hóa, bản thân tiền tệ cũng phải có giá trị. Vì vậy, tiền tệ làm chức năng thước đo
giá trị phải là tiền vàng.
Để đo lường giá trị hàng hóa không cần thiết phải tiền mặt chỉ cần so sánh với
lượng vàng nào đó trong tưởng tượng. Sở thể làm được như vậy giữa giá trị của
vàng và giá trị của hàng hóa trong thực tế đã một tỷ lệ nhất định. sở của tỷ lệ đó
thời gian lao động xã hội cần thiết hao phí để sản xuất ra hàng hóa đó.
Giá trị của hàng hóa được biểu hiện bằng tiền gọi . Hay nói cách khác,giá cả hàng hóa
giá cả là hình thức biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hóa.
Giá cả hàng hóa chịu ảnh hưởng của các nhân tố sau đây: Giá trị hàng hóa, giá trị của tiền,
quan hệ cung-cầu về hàng hóa
Nhưng giá trị hàng hóa nội dung của giá cả, nên trong ba nhân tố nêu trên thì giá trị
vẫn là nhân tố quyết định giá cả.
Để tiền làm được chức năng thước đo giá trị thì bản thân tiền tệ cũng phải được quy định
một đơn vị tiền tệ nhất định làm tiêu chuẩn đo lường giá cả của hàng hóa. Đơn vị đó
một trọng lượng nhất định của kim loại làm tiền tệ. mỗi nước, đơn vị tiền tệ này có tên
gọi khác nhau. Đơn vị tiền tệ các phần chia nhỏ của tiêu chuẩn giá cả. Tác dụng
của tiền khi dùng làm tiêu chuẩn giá cả không giống với tác dụng của khi dùng làm
thước đo giá trị. Khi tiền tệthước đo giá trị, nó đo lường giá trị của các hàng hóa khác,
khi tiền tệ là tiêu chuẩn giá cả, tiền tệ đo lường bản thân kim loại dùng làm tiền tệ.
b. Phương tiện lưu thông:
Tiền làm môi giới trong quá trình trao đổi hàng hóa. Để làm chức năng lưu thông hàng
hóa đòi hỏi phải tiền mặt. Trao đổi hàng hóa lấy tiền làm môi giới gọi lưu thông
hàng hóa.
Công thức lưu thông hàng hóa là: H T H, khi tiền làm môi giới trong trao đổi hàng
hóa đã làm cho hành vi bán hành vi mua có thể tách rời nhau về cả thời gian không
gian. Sự không nhất trí giữa mua và bán chứa đựng mầm mống của khủng hoảng kinh tế.
Ở mỗi thời kỳ nhất định, lưu thông hàng hóa bao giờ cũng đòi hỏi một lượng tiền cần thiết
cho sự lưu thông, số lượng tiền này được xác định bởi quy luật chung của lưu thông tiền
tệ.
Quá trình hình thành tiền giấy: Ban đầu tiền tệ xuất hiện dưới hình thức vàng thoi, bạc
nén. Dần dần được thay thế bằng tiền đúc. Trong quá trình lưu thông, tiền đúc bị hao
mòn dần và mất đi một phần giá trị của nó. Nhưng nó vẫn được xã hội chấp nhận như tiền
đúc đủ giá trị.
Như vậy, giá trị thực của tiền tách rời giá trị danh nghĩa của nó, Sởcó tình trạng này
tiền làm phương tiện lưu thông chỉ đóng vai trò trong chốc lát. Người ta đổi hàng lấy tiền
rồi lại dùng để mua hàng mình cần. Làm phương tiện lưu thông, tiền không nhất
thiết phải có đủ giá trị.
Lơi dụng tình hình đó, khi đúc tiền, nhà nước tìm cách giảm bớt hàm lượng kim loại của
đơn vị tiền tệ. Giá trị thực của tiền đúc ngày càng thấp so với giá trị danh nghĩa của nó.
Thực tiễn đó dẫn đến sự ra đời của tiền giấy. Bản thân tiền giấy không có giá trị mà chỉ
ký hiệu của giá trị, do đó việc in tiền giấy phải tuân theo quy luật lưu thông tiền giấy.
c. Phương tiện cất trữ
Làm phương tiện cất trữ, tức là tiền được rút khỏi lưu thông đi vào cất trữ.
Sở dĩ tiền làm được chức năng này là vì: tiền là đại biểu cho của cải xã hội dưới hình thái
giá trị, nên cất trữ tiền là một hình thức cất trữ của cải.
Để làm chức năng phương tiện cất trữ, tiền phải đủ giá trị, tức tiền vàng, bạc. Chức
năng cất trữ làm cho tiền trong lưu thông thích ứng một cách tự phát với nhu cầu tiền cần
thiết cho lưu thông. Nếu sản xuất tăng, lượng hàng hóa nhiều thì tiền cất trữ được đưa vào
lưu thông. Ngược lại nếu sản xuất giảm, lượng hàng hóa lại ít thì một phần tiền rút khỏi
lưu thông đi vào cất trữ.
d. Phương tiện thanh toán:
Làm phương tiện thanh toán, tiền được dùng để trả nợ, nộp thuế, trả tiền mua chịu hàng,
Làm phương tiện thanh toán có thể bằng tiền mặt, séc, chuyển khoản, thẻ tín dụngKhi
sản xuất và trao đổi hàng hóa phát triển đến một trình độ nào đó tất yếu nảy sinh việc mua
bán chịu. Trong việc mua bán chịu người mua trở thành con nợ, ngườin trở thành chủ
nợ, đến kỳ thanh toán, nếu một khâu nào đó không thanh toán được sẽ gây khó khăn cho
các khâu khác, phá vỡ hệ thống, khả năng khủng hoảng kinh tế tăng lên.
e. Tiền tệ thế giới:
Khi quan hệ buôn bán giữa các quốc gia với nhau xuất hiện, thì tiền tệ làm chức năng tiền
tệ thế giới, nghĩa thanh toán quốc tế. Làm chức năng tiền tệ thế giới phải tiền vàng
hoặc tiền tín dụng được thừa nhận thanh toán quốc tế. Việc đổi tiền của một quốc gia này
thành tiền của một quốc gia khác được tiến hành theo tỷ giá hối đoái đó giá cả đồng
tiền của một quốc gia này so với đồng tiền của quốc gia khác.
Chức năng quan trọng nhất của tiền tệ thể nói . Sở mục đíchphương tiện trao đổi
hình thành cũng như tồn tại của tiền tệ để phục vụ cho nhu cầu trao đổi hàng hóa trong
bối cảnh sản xuất cũng như phân công lao động hội phát triển nhanh chóng.vậy nếu
chức năng làm phương tiện trao đổi này không còn, tiền tệ cũng sẽ biến mất.
*Cô chữa: Chức năng quan trọng nhất: quan trọng nhất. Vì nó đóng vai tròThước đo giá trị
làm vật dụng để đo giá trị cho các hàng hóa khác.
Yếu tố quyết định giá cả hàng hóa: Giá trị
Yếu tố thứ 2: quan hệ cung cầu của hàng hóa
Yếu tố thứ 3: giá trị của tiền
Đơn vị đo lường của tiền vàng: Khối lượng
3. Việc xuất hiện của tiền giấy thuận tiện cho việc thực hiện chức năng nào?
Với sự xuất hiện của tiền giấy trong bối cảnh hội với quá trình sản xuất phân công lao
động hội phát triển nhanh chóng đã làm thuận tiện hơn cho việc thực hiện chức năng lưu
thông của tiền tệ.
Vàng bạc làm cho quá trình trao đổi rất khó khăn, dễ gặp nhiều trở ngại như cướp biển,…
Mục đích của việc đưa tiền (tiền giấy)o lưu thông trong hội để tiền làm vật trung gian
giúp cho sự trao đổi hàng hóa của mọi người cho nhau được dễ ng, nhanh chóng thuận
tiện thông qua các hoạt động mua bán trên thị trường, và qua đó sẽ giúp cho sự hoạt động, tăng
trưởng và của nền .phát triển kinh tế
*Vì sao các chuyên gia kinh tế đưa ra lời khuyên: "Nên cất trữ của cải bằng vàng"?
Ban đầu tiền tệ xuất hiện dưới hình thức vàng thoi, bạc nén. Dần dần được thay thế bằng
tiền đúc. Trong quá trình lưu thông, tiền đúc bị hao mòn dần mất đi một phần giá trị của nó.
Nhưng nó vẫn được xã hội chấp nhận như tiền đúc đủ giá trị.
Như vậy, giá trị thực của tiền tách rời giá trị danh nghĩa của nó, Sở tình trạng này tiền
làm phương tiện lưu thông chỉ đóng vai trò trong chốc lát. Người ta đổi hàng lấy tiền rồi lại
dùng để mua hàng mình cần. Làm phương tiện lưu thông, tiền không nhất thiết phải
đủ giá trị.
Lơi dụng tình hình đó, khi đúc tiền, nhà nước tìm cách giảm bớt hàm lượng kim loại của đơn vị
tiền tệ. Giá trị thực của tiền đúc ngày càng thấp so với giá trị danh nghĩa của nó. Thực tiễn đó
dẫn đến sự ra đời của tiền giấy. Bản thân tiền giấy không có giá trị mà chỉ là ký hiệu của giá trị,
do đó việc in tiền giấy phải tuân theo quy luật lưu thông tiền giấy.
Như vậy, có thể thấy rằng tiền giấy không thực hiện được chức năng phương tiện cất trữ vì bản
thân không mang giá trị giống như vàng (hay bạc)
*Cô chữa:
Tiền giấy xuất hiện trong lưu thôngdo nền sx hàng hóa ngày càng phát triển, trong khi vàng
trở nên ngày càng khan hiếm vậy việc sử dụng vàng làm chức năng thước đo giá trị cho
những hàng hóa có giá trị nhỏ gặp nhiều khó khăn. Để giải quyết khó khăn này, người ta đưa ra
tiền giấy, và tiền kim loại có giá trị nhỏ hơn vàng vào trong lưu thông. Tuy nhiên tiền được làm
bằng các loại kim loại có những nhược điểm so với tiền giấy: khó lưu giữ, cho nên việc in tiền
giấy sẽ thuận tiện cho chức năng lưu thông.
Tác động của việc xuất hiện tiền giấy trong lưu thông: Tiền giấy đưa vào lưu thông mang lại
nhiều lợi ích cho sản xuất trao đổi: giải quyết được việc khan hiếm kim loại trong lưu
thông, trao đổi trở nên thuận tiện hơn, dễ dàng trong in ấn, vận chuyển, cất giữ.
Hạn chế tiền giấy: Bản thân tiền giấy ko giá trị, chỉ hiệu của gtri đc nhà nước phát
hành buộc xh phải chấp nhận. Bởi vậy khi phát hành vượt quá ghạn cần thiết sẽ sinh ra lạm
phát.
Để giữ giá trị của tiền giấy thì các nước đã đưa ra lượng vàng cố định (giá trị vàng đấy gọi
hàm kim lượng)
“Nên cất giữ của cải bằng vàng” (Tiền vàng khan hiếm, giá trị nội tại của vàng lớn)
(Khẳng định này nhấn mạnh của tiền) chức năng phương tiện cất trữ
Thực hiện chức năng này mang lại lợi ích: cất giữ được của cải để phục vụ các hoạt động trao
đổi trong tương lai
4. Vì sao vàng được chọn làm đơn vị tiền tệ?
Xã hội càng phát triển yêu cầu sản xuất trao đổi hàng hóa ngày càng cao, việc trao đổi hàng hóa
không chỉ diễn ra trong một địa phương, một quốc gia nữa đã phát triển giữa các quốc gia
với nhau, hình thức hàng hóa tiền tệ càng ngày càng tỏ ra không thuận tiện trong việc di
chuyển. Vì vậy phải tìm một vật ngang giá chung thuận tiện và dễ di chuyển, trao đổi hơn.
Cùng với sự phân công lao động xã hội lớn lần thứ hai, thủ công nghiệp tách khỏi nông nghiệp,
hình thức tiền tệ chuyển dần sang các kim loại, kim lọai dùng làm tiền dưới dạng thỏi (tiền
đúc).
Ban đầu Bạc được lựa chọn làm nguyên liệu đúc tiền. Nhưng cuối thời kỳ này, hình thức tiền tệ
đã được cố định vàng. Bởi vàng nhiều đặc tính ưu việt hơn các hàng hoá khác lúc bấy
giờ trong việc thực hiện các chức năng của tiền tệ. Đó là:
- Tính đồng nhất của vàng rất cao. Điều đó rất thuận lợi trong việc đo lường, biểu hiện giá cả
của các hàng hoá trong quá trình trao đổi. Vàng được lựa chọn bởi sự tinh khiết, không bị
biến đổi theo thời gian, dễ dàng phân biệt, thẩm định nhờ màu đặc trưng, độ dẻo, âm thanh
khi va chạm, khối lượng riêng lớn; vàng một vật phẩm các nhà buôn lựa chọn làm
thước đo giá trị - nó đã được chọn từ xa xưa là một dạng tiền và vật cất trữ của cải.
- Dễ phân chia không làm ảnh hưởng đến giá trị vốn của nó. Đây đặc điểm các
loại tài sản khác không có được. Với tính dẻo của vàng, nó có thể đúc thành tiền, đúc thành
nén, thành thỏi…để dùng trong trao đổi hay dự trữ. nếu sau khi chia tách, người ta
muốn thì thể dễ dàng nấu chảy để đúc lại thành thỏi. Điều đó ý nghĩa quan trọng
trong công việc biểu hiện giá cả lưu thông hàng hoá trên thị trường. Bởi lẽ, thị trường
hàng hoá rất đa dạng và giá cả rất khác nhau
- Dễ mang theo bởi một thể tích nhỏ trọng lượng nhỏ của vàng thể đại diện cho giá
trị một khối lượng hàng hoá lớn.
Thuận tiện trong việc thực hiện chức năng dự trữ giá trị của tiền tệ như:
- Dễ phân biệt: Khối lượng riêng lớn của vàng (19,3 g/cm³) nghĩa những thủ đoạn pha
vàng với các kim loại khác để thêm khối lượng đều bị dễ dàng phát hiện (câu chuyện
“Eureka” nổi tiếng của nhà bác học Ác-si-mét). một số kim loại nặng hơn vàng. Trong
số các kim loại tương đối phổ biến thì chỉ osmium (22,6 g/cm³), iridium (22,4 g/cm³),
bạch kim (21,45 g/cm³), volfram (19,35 g/cm³) là nặng hơn vàng. Thế nhưng chúng đều đắt
hơn vàng còn volfram thì giá gần bằng vàng. Hợp kim của vàng và volfram thì khó chế tạo
và không hiệu quả.
- Ổn định về lượng sẵn có: Lượng vàng mà con người có được không thay đổi đột biến trong
nhiều thế kỷ; lượng vàng bổ sung nhờ khai mỏ là nhỏ và dự tính được. Phần lớn vàng được
tàng cất trong kho, quỹ, két dạng “chức năng” củavật lưu trữ giá trị. Nhu cầu vàng
cho mục đích khác chỉ trang sức, răng giả đồ điện tử thôi. Việc sử dụng vàng làm
đồ trang sức các vật trang trí khác có thể coi cùng chức năng lưu trữ giá trị bởi thuộc
tính thẩm của nó. Hai ứng dụng còn lại chỉ chiếm một phần rất nhỏ so với lượng vàng
được tàng trữ dưới dạng thỏi, nén; bên cạnh đó, nhu cầu vàng trong lĩnh vực nha khoa đang
giảm xuống nhờ việc sử dụng các vật liệu trông giống răng thật. Ngoài vàng ra, bất kỳ vật
phẩm nào khác đều có thể biến đổi giá trị khi cung và cầu thay đổi.
- Giá trị nội tại không bị biến động: Không giống các hàng hóa khác, hầu hết mọi nơi giá
trị của vàng là như nhau và đều rất có giá trị. Điều này giúp cho việc mua bán trao đổi hàng
hóa thuận tiện hơn rất nhiều so với những vật trung gian trước đây.
Hãy giải thích sự xuất hiện của tiền giấy trong lưu thông và tác động của nó:
(Câu 3)
*Cô chữa:
Nguyên nhân lạm phát: Việc phát hành tiền giấy vượt quá giới hạn cần thiết
Vì sao hàm kim lượng của đồng Dollar không thay đổi mà giá cả của đồng Dollar lại thay đổi?
Khi thực hiện chức năng thước đo giá trị,
Khi thực hiện chức năng
Khi thực hiện chức năng
Phụ thuộc vào quy luật cung – cầu (3h55)
| 1/9

Preview text:

BTVN KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC – LÊNIN
1. Phân tích lịch sử ra đời và bản chất của tiền tệ? Cho vd minh họa
2. Phân tích các chức năng của tiền tệ theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lê nin? Chức năng nào là quan trọng nhất
3. Việc xuất hiện của tiền giấy thuận tiện cho việc thực hiện chức năng nào? Vì sao các chuyên gia
kinh tế đưa ra lời khuyên: "Nên cất trữ của cải bằng vàng"
4. Vì sao vàng được chọn làm đơn vị tiền tệ? Hãy giải thích sự xuất hiện của tiền giấy trong lưu
thông và tác động của nó. BÀI LÀM
1. Lịch sử ra đời của tiền tệ:
Hàng hóa là sự thống nhất của cả hai thuộc tính: giá trị sử dụng và giá trị. Ta có thể nhận biết
trực tiếp được bằng các giác quan hình thái tự nhiên của hàng hóa, tuy nhiên, vì hình thái xã
hội của hàng hóa hay giá trị của nó không được tạo nên bởi nguyên tử vật chất nào nên con
người không thể sờ thấy cũng như nhìn thấy được giá trị của nó. Chính vì giá trị của hàng hóa
là trừu tượng nên giá trị của chúng chỉ được bộc lộ qua quá trình trao đổi hàng hóa thông qua
các sự phát triển các hình thái giá trị của chúng.
Sự phát triển các hình thái giá trị trong nền kinh tế hàng hóa được biểu hiện thông qua 4 hình thái cụ thể sau đây:
- Hình thái giá trị giản đơn hay ngẫu nhiên:
Đây là hình thái ban đầu (hình thái phôi thai) của giá trị, nó xuất hiện trong giai đoạn sơ khai
của trao đổi hàng hóa, khi trao đổi mang tính chất ngẫu nhiên, con người trao đổi trực tiếp vật này lấy vật khác.
Ví dụ: 1m vải = 10kg thóc
Giá trị của vải ở ví dụ trên được biểu hiện ở thóc. Thóc được dùng làm phương tiện biểu thị giá
trị của vải. Với thuộc tính tự nhiên của mình, thóc trở thành hiện thân giá trị của vải. Sở dĩ như
vậy vì bản thân thóc cũng có giá trị.
1m vải nếu như đứng một mình thì không thể biểu hiện được giá trị của bản thân nó. Muốn biết
được giá trị của 1m vải đó cần phải đem so sánh với một hàng hóa khác, mà ở đây là 10kg thóc,
do đó hình thái giá trị của 1m vải ở đây là hình thái tương đối, còn 10kg thóc không biểu hiện
giá trị của nó được. Trong mối quan hệ với vải thì thóc chỉ là biểu hiện giá trị của vải nên nó là
hình thái ngang giá của giá trị của vải. Nếu thóc muốn biểu hiện giá trị của mình, thì phải đảo
ngược phương trình lại, là 10kg thóc = 1m vải
? Giản đơn là gì? Ngẫu nhiên là gì?
Giản đơn: Tham gia trao đổi chỉ có 2 loại hàng hóa, vật thứ nhất (1m vải) đóng vai trò là vật
trao đổi, vật thứ 2 là vật ngang giá.
Ngẫu nhiên: Vì tỉ lệ trao đổi chưa cố định, căn cứ vào nhu cầu.
- Hình thái giá trị đầy đủ hay mở rộng:
Khi lực lượng sản xuất phát triển hơn, sau phân công lao động xã hội lần thứ nhất, chăn nuôi
tách khỏi trồng trọt, trao đổi trở nên thường xuyên hơn, một hàng hóa này có thể có quan hệ
với nhiều hàng hóa khác. Tương ứng với giai đoạn này là hình thái giá trị đầy đủ hay mở rộng.
Ví dụ: 1m vải = 10kg thóc, =2 con gà, = 0,1 chỉ vàng
Đây là sự mở rộng hình thái giá trị giản đơn hay ngẫu nhiên. Trong ví dụ trên, giá trị của 1m
vải được biểu hiện ở 10kg thóc, hoặc 2 con gà, hoặc 0,1 chỉ vàng. Như vậy, hình thái vật ngang
giá đã được mở rộng ra ở nhiều hàng hóa khác nhau. Tuy nhiên vẫn là trao đổi trực tiếp, tỷ lệ
trao đổi chưa cố định.
- Hình thái chung của giá trị:
Với sự phát triển cao hơn nữa của lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội, hàng hóa
được đưa ra trao đổi thường xuyên, đa dạng và nhiều hơn về thể loại. Nhu cầu trao đổi do đó
trở nên phức tạp hơn, ví dụ như người có vải muốn đổi thóc nhưng người có thóc lại không có
nhu cầu đổi vải mà lại cần thứ khác. Do đó, việc trao đổi trực tiếp đã không còn thích hợp và
gây trở ngại cho quá trình trao đổi. Trong tình hình đó, người ta phải đi đường vòng, mang
hàng hóa của mình đổi lấy thứ hàng hóa được nhiều người ưa chuộng hơn, rồi đem hàng hóa đó
đổi lấy thứ hàng hóa mà mình cần. Khi vật trung gian trong trao đổi được cố định lại ở thứ
hàng hóa được nhiều người ưa chuộng, thì hình thái chung của giá trị xuất hiện.
Ví dụ: 10 kg thóc - 2 con gà – 0,1 chỉ vàng = 1m vải
Ở đây, tất cả hàng hóa đều biểu hiện giá trị của mình ở cùng một thứ hàng hóa đóng vai trò là
vật ngang giá chung. Tuy nhiên, vật ngang giá chung chưa ổn định ở một loại hàng hóa nào bởi
mỗi địa phương khác nhau thì hàng hóa được đem ra làm vật ngang giá chung cũng sẽ khác nhau.
? Hình thái chung: Lấy một hàng hóa làm môi giới cho trao đổi hàng hóa. - Hình thái tiền tệ:
Khi lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội phát triển hơn nữa, sản xuất hàng hóa và
thị trường ngày càng mở rộng, thì tình trạng có nhiều vật ngang giá chung làm cho trao đổi
giữa các địa phương vấp phải nhiều khó khăn, do đó dẫn đến đòi hỏi khách quan phải hình
thành vật ngang giá chung thống nhất. Khi vật ngang giá chung được cố định lại ở một vật độc
tôn và phổ biến thì xuất hiện hình thái tiền tệ của giá trị.
Ví dụ: 10kg thóc – 1m vải – 2 con gà…. = 0,1 chỉ vàng (Vàng trở thành tiền tệ)
Lúc đầu có nhiều kim loại đóng vai trò tiền tệ, nhưng về sau được cố định lại ở kim loại quý:
vàng, bạc và cuối cùng là vàng. Sở dĩ bạc và vàng đóng vai trò tiền tệ là do những ưu điểm
như: thuần nhất về chất, dễ chia nhỏ, không hư hỏng, với một lượng và thể tích nhỏ nhưng có
giá trị lớn. Tiền tệ xuất hiện là kết quả phát triển lâu dài của sản xuất và trao đổi hàng hóa. Khi
tiền tệ ra đời thì thế giới hàng hóa được phân thành 2 cực: một bên là các hàng hóa thông
thường, một bên là hàng hóa (vàng) đóng vai trò tiền tệ. Đến đây giá trị của hàng hóa đã có một
phương tiện biểu hiện thống nhất. Tỷ lệ trao đổi được cố định lại.
Chế độ vàng và bạc mang hình thái giá trị: chế độ song kim
Chế độ vàng độc tôn mang hình thái giá trị: chế độ bản vị vàng
*Bản chất của tiền tệ:
Tiền tệ là một hình thái giá trị của hàng hóa, là sản phẩm của quá trình phát triển sản xuất và
trao đổi hàng hóa. Các nhà kinh tế trước C.Mác giải thích tiền tệ từ hình thái phát triển cao nhất
của nó, bởi vậy đã không làm rõ được bản chất của tiền tệ. Trái lại, C.Mác nghiên cứu tiền tệ từ
lịch sử phát triển của sản xuất và trao đổi hàng hóa, từ sự phát triển của các hình thái giá trị
hàng hóa, do đó đã tìm thấy nguồn gốc và bản chất của tiền tệ.
Như vậy, tiền tệ, về bản chất, là một loại hàng hóa đặc biệt được tách ra làm vật ngang giá
chung thống nhất cho các hàng hóa khác, nó thể hiện lao động xã hội và biểu hiện quan hệ giữa
những người sản xuất hàng hóa. Bản chất của tiền tệ còn được thể hiện qua các chức năng của nó. *Cô chữa:
Khi tiền tệ ra đời, thế giới hàng hóa được chia thành 2 cực: tất cả hàng hóa thông thường và
hàng hóa mang hình thái tiền tệ.
Tư cách thứ 1: Hàng hóa thông thường (2 thuộc tính: giá trị sử dụng và thời gian lao động)
Tư cách thứ 2: Hàng hóa đặc biệt (2 thuộc tính: giá trị sử dụng (dùng để đo lường giá trị của hàng hóa khác và
2. Chức năng của tiền tệ:
Theo C.Mác, tiền tệ có 5 chức năng sau đây:
a. Thước đo giá trị: (Chức năng quan trọng nhất)
Tiền tệ dùng để biểu hiện và đo lường giá trị của các hàng hóa. Muốn đo lường giá trị của
các hàng hóa, bản thân tiền tệ cũng phải có giá trị. Vì vậy, tiền tệ làm chức năng thước đo
giá trị phải là tiền vàng.
Để đo lường giá trị hàng hóa không cần thiết phải là tiền mặt mà chỉ cần so sánh với
lượng vàng nào đó trong tưởng tượng. Sở dĩ có thể làm được như vậy vì giữa giá trị của
vàng và giá trị của hàng hóa trong thực tế đã có một tỷ lệ nhất định. Cơ sở của tỷ lệ đó là
thời gian lao động xã hội cần thiết hao phí để sản xuất ra hàng hóa đó.
Giá trị của hàng hóa được biểu hiện bằng tiền gọi là giá cả hàng .
hóa Hay nói cách khác,
giá cả là hình thức biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hóa.
Giá cả hàng hóa chịu ảnh hưởng của các nhân tố sau đây: Giá trị hàng hóa, giá trị của tiền,
quan hệ cung-cầu về hàng hóa
Nhưng vì giá trị hàng hóa là nội dung của giá cả, nên trong ba nhân tố nêu trên thì giá trị
vẫn là nhân tố quyết định giá cả.
Để tiền làm được chức năng thước đo giá trị thì bản thân tiền tệ cũng phải được quy định
một đơn vị tiền tệ nhất định làm tiêu chuẩn đo lường giá cả của hàng hóa. Đơn vị đó là
một trọng lượng nhất định của kim loại làm tiền tệ. Ở mỗi nước, đơn vị tiền tệ này có tên
gọi khác nhau. Đơn vị tiền tệ và các phần chia nhỏ của nó là tiêu chuẩn giá cả. Tác dụng
của tiền khi dùng làm tiêu chuẩn giá cả không giống với tác dụng của nó khi dùng làm
thước đo giá trị. Khi tiền tệ là thước đo giá trị, nó đo lường giá trị của các hàng hóa khác,
khi tiền tệ là tiêu chuẩn giá cả, tiền tệ đo lường bản thân kim loại dùng làm tiền tệ.
b. Phương tiện lưu thông:
Tiền làm môi giới trong quá trình trao đổi hàng hóa. Để làm chức năng lưu thông hàng
hóa đòi hỏi phải có tiền mặt. Trao đổi hàng hóa lấy tiền làm môi giới gọi là lưu thông hàng hóa.
Công thức lưu thông hàng hóa là: H – T – H, khi tiền làm môi giới trong trao đổi hàng
hóa đã làm cho hành vi bán và hành vi mua có thể tách rời nhau về cả thời gian và không
gian. Sự không nhất trí giữa mua và bán chứa đựng mầm mống của khủng hoảng kinh tế.
Ở mỗi thời kỳ nhất định, lưu thông hàng hóa bao giờ cũng đòi hỏi một lượng tiền cần thiết
cho sự lưu thông, số lượng tiền này được xác định bởi quy luật chung của lưu thông tiền tệ.
Quá trình hình thành tiền giấy: Ban đầu tiền tệ xuất hiện dưới hình thức vàng thoi, bạc
nén. Dần dần nó được thay thế bằng tiền đúc. Trong quá trình lưu thông, tiền đúc bị hao
mòn dần và mất đi một phần giá trị của nó. Nhưng nó vẫn được xã hội chấp nhận như tiền đúc đủ giá trị.
Như vậy, giá trị thực của tiền tách rời giá trị danh nghĩa của nó, Sở dĩ có tình trạng này vì
tiền làm phương tiện lưu thông chỉ đóng vai trò trong chốc lát. Người ta đổi hàng lấy tiền
rồi lại dùng nó để mua hàng mà mình cần. Làm phương tiện lưu thông, tiền không nhất
thiết phải có đủ giá trị.
Lơi dụng tình hình đó, khi đúc tiền, nhà nước tìm cách giảm bớt hàm lượng kim loại của
đơn vị tiền tệ. Giá trị thực của tiền đúc ngày càng thấp so với giá trị danh nghĩa của nó.
Thực tiễn đó dẫn đến sự ra đời của tiền giấy. Bản thân tiền giấy không có giá trị mà chỉ là
ký hiệu của giá trị, do đó việc in tiền giấy phải tuân theo quy luật lưu thông tiền giấy.
c. Phương tiện cất trữ
Làm phương tiện cất trữ, tức là tiền được rút khỏi lưu thông đi vào cất trữ.
Sở dĩ tiền làm được chức năng này là vì: tiền là đại biểu cho của cải xã hội dưới hình thái
giá trị, nên cất trữ tiền là một hình thức cất trữ của cải.
Để làm chức năng phương tiện cất trữ, tiền phải có đủ giá trị, tức là tiền vàng, bạc. Chức
năng cất trữ làm cho tiền trong lưu thông thích ứng một cách tự phát với nhu cầu tiền cần
thiết cho lưu thông. Nếu sản xuất tăng, lượng hàng hóa nhiều thì tiền cất trữ được đưa vào
lưu thông. Ngược lại nếu sản xuất giảm, lượng hàng hóa lại ít thì một phần tiền rút khỏi
lưu thông đi vào cất trữ.
d. Phương tiện thanh toán:
Làm phương tiện thanh toán, tiền được dùng để trả nợ, nộp thuế, trả tiền mua chịu hàng, …
Làm phương tiện thanh toán có thể bằng tiền mặt, séc, chuyển khoản, thẻ tín dụng … Khi
sản xuất và trao đổi hàng hóa phát triển đến một trình độ nào đó tất yếu nảy sinh việc mua
bán chịu. Trong việc mua bán chịu người mua trở thành con nợ, người bán trở thành chủ
nợ, đến kỳ thanh toán, nếu một khâu nào đó không thanh toán được sẽ gây khó khăn cho
các khâu khác, phá vỡ hệ thống, khả năng khủng hoảng kinh tế tăng lên.
e. Tiền tệ thế giới:
Khi quan hệ buôn bán giữa các quốc gia với nhau xuất hiện, thì tiền tệ làm chức năng tiền
tệ thế giới, nghĩa là thanh toán quốc tế. Làm chức năng tiền tệ thế giới phải là tiền vàng
hoặc tiền tín dụng được thừa nhận thanh toán quốc tế. Việc đổi tiền của một quốc gia này
thành tiền của một quốc gia khác được tiến hành theo tỷ giá hối đoái – đó là giá cả đồng
tiền của một quốc gia này so với đồng tiền của quốc gia khác.
Chức năng quan trọng nhất của tiền tệ có thể nói là phương tiện trao đổi. Sở dĩ mục đích
hình thành cũng như tồn tại của tiền tệ là để phục vụ cho nhu cầu trao đổi hàng hóa trong
bối cảnh sản xuất cũng như phân công lao động xã hội phát triển nhanh chóng. Vì vậy nếu
chức năng làm phương tiện trao đổi này không còn, tiền tệ cũng sẽ biến mất.
*Cô chữa: Chức năng quan trọng nhất: Thước đo giá trị là quan trọng nhất. Vì nó đóng vai trò
làm vật dụng để đo giá trị cho các hàng hóa khác.
Yếu tố quyết định giá cả hàng hóa: Giá trị
Yếu tố thứ 2: quan hệ cung cầu của hàng hóa
Yếu tố thứ 3: giá trị của tiền
Đơn vị đo lường của tiền vàng: Khối lượng
3. Việc xuất hiện của tiền giấy thuận tiện cho việc thực hiện chức năng nào?
Với sự xuất hiện của tiền giấy trong bối cảnh xã hội với quá trình sản xuất và phân công lao
động xã hội phát triển nhanh chóng đã làm thuận tiện hơn cho việc thực hiện chức năng lưu thông của tiền tệ.
Vàng bạc làm cho quá trình trao đổi rất khó khăn, dễ gặp nhiều trở ngại như cướp biển,…
Mục đích của việc đưa tiền (tiền giấy) vào lưu thông trong xã hội là để tiền làm vật trung gian
giúp cho sự trao đổi hàng hóa của mọi người cho nhau được dễ dàng, nhanh chóng và thuận
tiện thông qua các hoạt động mua bán trên thị trường, và qua đó sẽ giúp cho sự hoạt động, tăng
trưởng và phát triển của nền kinh tế.
*Vì sao các chuyên gia kinh tế đưa ra lời khuyên: "Nên cất trữ của cải bằng vàng"?
Ban đầu tiền tệ xuất hiện dưới hình thức vàng thoi, bạc nén. Dần dần nó được thay thế bằng
tiền đúc. Trong quá trình lưu thông, tiền đúc bị hao mòn dần và mất đi một phần giá trị của nó.
Nhưng nó vẫn được xã hội chấp nhận như tiền đúc đủ giá trị.
Như vậy, giá trị thực của tiền tách rời giá trị danh nghĩa của nó, Sở dĩ có tình trạng này vì tiền
làm phương tiện lưu thông chỉ đóng vai trò trong chốc lát. Người ta đổi hàng lấy tiền rồi lại
dùng nó để mua hàng mà mình cần. Làm phương tiện lưu thông, tiền không nhất thiết phải có đủ giá trị.
Lơi dụng tình hình đó, khi đúc tiền, nhà nước tìm cách giảm bớt hàm lượng kim loại của đơn vị
tiền tệ. Giá trị thực của tiền đúc ngày càng thấp so với giá trị danh nghĩa của nó. Thực tiễn đó
dẫn đến sự ra đời của tiền giấy. Bản thân tiền giấy không có giá trị mà chỉ là ký hiệu của giá trị,
do đó việc in tiền giấy phải tuân theo quy luật lưu thông tiền giấy.
Như vậy, có thể thấy rằng tiền giấy không thực hiện được chức năng phương tiện cất trữ vì bản
thân không mang giá trị giống như vàng (hay bạc) *Cô chữa:
Tiền giấy xuất hiện trong lưu thông là do nền sx hàng hóa ngày càng phát triển, trong khi vàng
trở nên ngày càng khan hiếm vì vậy việc sử dụng vàng làm chức năng thước đo giá trị cho
những hàng hóa có giá trị nhỏ gặp nhiều khó khăn. Để giải quyết khó khăn này, người ta đưa ra
tiền giấy, và tiền kim loại có giá trị nhỏ hơn vàng vào trong lưu thông. Tuy nhiên tiền được làm
bằng các loại kim loại có những nhược điểm so với tiền giấy: khó lưu giữ, cho nên việc in tiền
giấy sẽ thuận tiện cho chức năng lưu thông.
Tác động của việc xuất hiện tiền giấy trong lưu thông: Tiền giấy đưa vào lưu thông mang lại
nhiều lợi ích cho hđ sản xuất và trao đổi: giải quyết được việc khan hiếm kim loại trong lưu
thông, trao đổi trở nên thuận tiện hơn, dễ dàng trong in ấn, vận chuyển, cất giữ.
Hạn chế tiền giấy: Bản thân tiền giấy ko có giá trị, nó chỉ là ký hiệu của gtri đc nhà nước phát
hành và buộc xh phải chấp nhận. Bởi vậy khi phát hành vượt quá ghạn cần thiết sẽ sinh ra lạm phát.
Để giữ giá trị của tiền giấy thì các nước đã đưa ra lượng vàng cố định (giá trị vàng đấy gọi là hàm kim lượng)
“Nên cất giữ của cải bằng vàng” (Tiền vàng khan hiếm, giá trị nội tại của vàng lớn)
(Khẳng định này nhấn mạnh chức năng phương tiện cất trữ của tiền)
Thực hiện chức năng này mang lại lợi ích: cất giữ được của cải để phục vụ các hoạt động trao đổi trong tương lai
4. Vì sao vàng được chọn làm đơn vị tiền tệ?
Xã hội càng phát triển yêu cầu sản xuất trao đổi hàng hóa ngày càng cao, việc trao đổi hàng hóa
không chỉ diễn ra trong một địa phương, một quốc gia nữa mà đã phát triển giữa các quốc gia
với nhau, hình thức hàng hóa – tiền tệ càng ngày càng tỏ ra không thuận tiện trong việc di
chuyển. Vì vậy phải tìm một vật ngang giá chung thuận tiện và dễ di chuyển, trao đổi hơn.
Cùng với sự phân công lao động xã hội lớn lần thứ hai, thủ công nghiệp tách khỏi nông nghiệp,
hình thức tiền tệ chuyển dần sang các kim loại, kim lọai dùng làm tiền dưới dạng thỏi (tiền đúc).
Ban đầu Bạc được lựa chọn làm nguyên liệu đúc tiền. Nhưng cuối thời kỳ này, hình thức tiền tệ
đã được cố định ở vàng. Bởi vì vàng có nhiều đặc tính ưu việt hơn các hàng hoá khác lúc bấy
giờ trong việc thực hiện các chức năng của tiền tệ. Đó là:
- Tính đồng nhất của vàng rất cao. Điều đó rất thuận lợi trong việc đo lường, biểu hiện giá cả
của các hàng hoá trong quá trình trao đổi. Vàng được lựa chọn bởi sự tinh khiết, không bị
biến đổi theo thời gian, dễ dàng phân biệt, thẩm định nhờ màu đặc trưng, độ dẻo, âm thanh
khi va chạm, khối lượng riêng lớn; vàng là một vật phẩm mà các nhà buôn lựa chọn làm
thước đo giá trị - nó đã được chọn từ xa xưa là một dạng tiền và vật cất trữ của cải.
- Dễ phân chia mà không làm ảnh hưởng đến giá trị vốn có của nó. Đây là đặc điểm mà các
loại tài sản khác không có được. Với tính dẻo của vàng, nó có thể đúc thành tiền, đúc thành
nén, thành thỏi…để dùng trong trao đổi hay dự trữ. Và nếu sau khi chia tách, người ta
muốn thì có thể dễ dàng nấu chảy để đúc nó lại thành thỏi. Điều đó có ý nghĩa quan trọng
trong công việc biểu hiện giá cả và lưu thông hàng hoá trên thị trường. Bởi lẽ, thị trường
hàng hoá rất đa dạng và giá cả rất khác nhau
- Dễ mang theo bởi vì một thể tích nhỏ và trọng lượng nhỏ của vàng có thể đại diện cho giá
trị một khối lượng hàng hoá lớn.
Thuận tiện trong việc thực hiện chức năng dự trữ giá trị của tiền tệ như:
- Dễ phân biệt: Khối lượng riêng lớn của vàng (19,3 g/cm³) có nghĩa là những thủ đoạn pha
vàng với các kim loại khác để có thêm khối lượng đều bị dễ dàng phát hiện (câu chuyện
“Eureka” nổi tiếng của nhà bác học Ác-si-mét). Có một số kim loại nặng hơn vàng. Trong
số các kim loại tương đối phổ biến thì chỉ có osmium (22,6 g/cm³), iridium (22,4 g/cm³),
bạch kim (21,45 g/cm³), volfram (19,35 g/cm³) là nặng hơn vàng. Thế nhưng chúng đều đắt
hơn vàng còn volfram thì giá gần bằng vàng. Hợp kim của vàng và volfram thì khó chế tạo và không hiệu quả.
- Ổn định về lượng sẵn có: Lượng vàng mà con người có được không thay đổi đột biến trong
nhiều thế kỷ; lượng vàng bổ sung nhờ khai mỏ là nhỏ và dự tính được. Phần lớn vàng được
tàng cất trong kho, quỹ, két ở dạng “chức năng” của nó là vật lưu trữ giá trị. Nhu cầu vàng
cho mục đích khác chỉ là trang sức, răng giả và đồ điện tử mà thôi. Việc sử dụng vàng làm
đồ trang sức và các vật trang trí khác có thể coi là cùng chức năng lưu trữ giá trị bởi thuộc
tính thẩm mĩ của nó. Hai ứng dụng còn lại chỉ chiếm một phần rất nhỏ so với lượng vàng
được tàng trữ dưới dạng thỏi, nén; bên cạnh đó, nhu cầu vàng trong lĩnh vực nha khoa đang
giảm xuống nhờ việc sử dụng các vật liệu trông giống răng thật. Ngoài vàng ra, bất kỳ vật
phẩm nào khác đều có thể biến đổi giá trị khi cung và cầu thay đổi.
- Giá trị nội tại không bị biến động: Không giống các hàng hóa khác, hầu hết ở mọi nơi giá
trị của vàng là như nhau và đều rất có giá trị. Điều này giúp cho việc mua bán trao đổi hàng
hóa thuận tiện hơn rất nhiều so với những vật trung gian trước đây.
Hãy giải thích sự xuất hiện của tiền giấy trong lưu thông và tác động của nó: (Câu 3) *Cô chữa:
Nguyên nhân lạm phát: Việc phát hành tiền giấy vượt quá giới hạn cần thiết
Vì sao hàm kim lượng của đồng Dollar không thay đổi mà giá cả của đồng Dollar lại thay đổi?
Khi thực hiện chức năng thước đo giá trị,
Khi thực hiện chức năng
Khi thực hiện chức năng
Phụ thuộc vào quy luật cung – cầu (3h55)