



















Preview text:
lOMoAR cPSD| 61631027
CỤM 2: TỘI PHẠM VÀ CẤU THÀNH TỘI PHẠM II. PHẦN BÀI TẬP Bài tập 1:
A trộm cắp tài sản của B trị giá 70 triệu đồng. Hành vi của A cấu thành tội trộm cắp tài sản theo
khoản 2 Điều 173BLHS và bị Tòa án tuyên phạt 2 năm tù giam.
Anh (chị) hãy xác định:
1. Căn cứ vào Điều 9 BLHS thì loại tội phạm mà A thực hiện là loại tội gì? Tại sao?
Căn cứ vào khoản 2 Điều 9 BLHS thì loại tội phạm mà A thực hiện là tội phạm nghiêm trọng.
Theo khoản 2 Điều 173 BLHS: “2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt
tù từ 02 năm đến 07 năm: a) Có tổ chức;
b) Có tính chất chuyên nghiệp;
c) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;
d) Dùng thủ đoạn xảo quyệt, nguy hiểm;
đ) Hành hung để tẩu thoát;
e) Trộm cắp tài sản trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng nhưng thuộc một trong
các trường hợp quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 1 Điều này;
g) Tái phạm nguy hiểm.”
A thực hiện hành vi trộm cắp tài sản của B trị giá 70 triệu động, hành vi của A đã cấu thành tội
trộm cắp theo điểm e khoản 2 Điều 173 BLHS 2015 theo khung hình phạt thì A có thể bị phạt tù từ 02
năm đến 07 năm. Mà quy định tại khoản 2 Điều 9 BLHS: “2. Tội phạm nghiêm trọng là tội phạm có
tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này
quy định đối với tội ấy là từ trên 03 năm đến 07 năm tù;”. Để xác định loại tội phạm theo Điều 9
BLHS 2015 phải dựa vào mức hình phạt cao nhất của khung hình phạt được quy định trong luật,
không dựa vào mức hình phạt mà Tòa án tuyên trên thực tế nên khung hình phạt cao nhất của A là
07 năm tức là tội phạm nghiêm trọng. 2.
Tội trộm cắp tài sản là tội phạm có cấu thành tội phạm (CTTP) vật chất hay CTTP hình thức? Tại sao?
Tội trộm cắp tài sản là tội phạm có cấu thành tội phạm vật chất.
Khoản 1 Điều 173 BLHS quy định về tội trộm cắp tài sản như sau: lOMoAR cPSD| 61631027
“1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000
đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo
không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm”.
Theo điều luật trên thì mặt khách quan của qui định hành vi gồm “người nào trộm cắp tài sản của
người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng”, hậu quả
là “bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm” và quan hệ nhân
quả là tội phạm có cấu thành vật chất. 3.
Hành vi phạm tội của A thuộc trường hợp CTTP cơ bản, CTTP tăng nặng hay CTTP
giảm nhẹ? Tại sao?
Vì theo khoản 1 Điều 173 là CTTP cơ bản (vì chỉ bao gồm dấu hiệu định tội). Tức là nếu A trộm
cắp tài sản của B trị giá từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng thì hành vi của A sẽ thuộc
trường hợp CTTP cơ bản. Tuy nhiên, hành vi của A lại cấu thành tội trộm cắp tài sản theo điểm e
khoản 2 Điều 173 BLHS, ngoài ra còn có các tình tiết tăng nặng là “chiếm đoạt tài sản có giá trị từ
năm mươi triệu đồng đến một trăm triệu đồng” (cụ thể là 70 triệu đồng). Điều này phản ánh mức độ
nguy hiểm tăng lên rõ rệt so với trường hợp trộm cắp tài sản quy định tại khoản 1 Điều 173 BLHS 2015.
Những dấu hiệu có thêm trong trường hợp tăng CTTP tăng nặng đối với hành vi của A cho phép
chuyển khung hình phạt được áp dụng từ khung bình thường (mức cao nhất là 03 năm – theo khoản 1
Điều 178 BLHS 2015) lên khung tăng nặng (mức cao nhất là 07 năm – theo khoản 2 Điều 178
BLHS 2015). Do đó, hành vi phạm tội của A thuộc trường hợp cấu thành tội phạm tăng nặng. Bài tập 6:
A 15 tuổi 6 tháng đã thực hiện hành vi được quy định tại khoản 3 Điều 260 BLHS. Hãy xác
định A có phải chịu TNHS về hành vi của mình hay không.
(Biết rằng tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ (Điều 260 BLHS) được
thực hiện với lỗi vô ý).
Căn cứ khoản 3 Điều 260 BLHS 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 về vi phạm quy định về
tham gia giao thông đường bộ như sau:
“3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm: a)
Làm chết 03 người trở lên;
b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 03 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn
thương cơ thể của những người này 201% trở lên;
c) Gây thiệt hại về tài sản 1.500.000.000 đồng trở lên.” Trả lời: lOMoAR cPSD| 61631027
Đây được xác định là tội phạm rất nghiêm trọng, và phải chịu xử phạt theo pháp luật.
Tuy nhiên trong trường hợp này, A đã vô ý phạm tội, phạm tội ngoài ý muốn, tức là :
“1. Người phạm tội tuy thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội
nhưng cho rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được;
2. Người phạm tội không thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã
hội, mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước hậu quả đó.” (được quy định tại Điều 11 BLHS).
Và A tuy là người có năng lực trách nhiệm hình sự (có năng lực nhận thức và điều khiển hành vi
của mình). Tuy nhiên A chỉ mới 15 tuổi 6 tháng, (chưa đủ 16 tuổi) và không thuộc các trường hợp
được quy định tại Điều 12 BLHS về tuổi chịu trách nhiệm hình sự:
“1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm, trừ những tội
phạm mà Bộ luật này có quy định khác.
2. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm
trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một trong các điều 123, 134, 141, 142, 143, 144,
150, 151, 168, 169, 170, 171, 173, 178, 248, 249, 250, 251, 252, 265, 266, 286, 287, 289, 290, 299,
303 và 304 của Bộ luật này.”
Vì thế, A không phải chịu trách nhiệm hình sự do không đủ tuổi, được quy định theo BLHS 2015,
sửa đổi bổ sung năm 2017. Nhưng A phải chịu bồi thường thiệt hại theo các quy định tại BLDS 2015. Bài tập 7:
A là bác sĩ đa khoa có mở phòng mạch riêng. Trong lúc khám bệnh A đã kê toa thuốc cho
bé Hoài Trung (3 tuổi) theo toa của người lớn. Do sơ suất, A không kiểm tra toa thuốc trước khi
trao cho người nhà của bé Trung. Người nhà của bé Trung đến tiệm thuốc do H đứng bán.
H bán thuốc theo toa của A mặc dù trên toa thuốc có ghi tuổi của bệnh nhân là 3 tuổi. Bé
Trung do uống thuốc quá liều nên bị tử vong.
Anh (chị) hãy xác định:
1. Đối tượng tác động của hành vi phạm tội của A là gì?
Đối tượng tác động của tội phạm là những phần trong khách thể của tội phạm mà khi tác động đến
nó người phạm tội gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho khách thể.
Đối tượng tác động của tội phạm bao gồm các dạng sau đây:
- Con người đối với tội phạm xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự;
- Các vật thể như tài sản, phương tiện thuộc quyền sở hữu hợp pháp của con người;
- Sự hoạt động bình thường của cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội.
Vậy ở đây đối tượng tác động của hành vi phạm tội của A là bé Hoài Trung. lOMoAR cPSD| 61631027
2. Hành vi của A đã xâm phạm khách thể trực tiếp nào?
Khách thể của tội phạm là một trong bốn yếu tố cấu thành tội phạm và được hiểu là đối tượng bị
tội phạm xâm hại. Luật hình sự coi đối tượng bị tội phạm xâm hại là quan hệ xã hội. Bất cứ tội phạm
nào cũng đều xâm hại một hoặc một số quan hệ xã hội nhất định được Luật hình sự bảo vệ.
Khách thể trực tiếp của tội phạm được hiểu là quan hệ xã hội cụ thể được quy phạm pháp luật hình
sự cụ thể bảo vệ và bị tội phạm cụ thể xâm hại (và sự xâm hại này thể hiện được đầy đủ nhất bản chất
nguy hiểm cho xã hội của tội phạm cụ thể đó).
Vậy ở đây hành vi của A đã xâm phạm khách thể trực tiếp là: Xâm phạm quan hệ về quyền sống,
quyền được tôn trọng và bảo vệ tính mạng; quyền được tôn trọng và bảo vệ sức khỏe.
3. Quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả trong vụ án này thuộc loại nào? Tại sao?
Quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả trong vụ án này thuộc loại quan hệ nhân quả kép trực tiếp.
Quan hệ nhân quả kép trực tiếp là dạng mối quan hệ trong đó có nhiều hành vi trái pháp luật cùng
đóng vai trò là nguyên nhân trực tiếp gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội. Trong tình huống, do hành
vi kê sai toa thuốc người lớn cho cậu bé 3 tuổi và hành vi bán thuốc không kiểm tra kĩ toa thuốc có
ghi tuổi của bệnh nhân đã gây ra hậu quả là bé Trung bị tử vong.
4. Lỗi của A là loại lỗi gì? Tại sao?
Lỗi của A là tội vô ý làm chết người do vi phạm quy tắc nghề nghiệp được quy định tại Điều 129 BLHS 2015.
Xác định yếu tố lỗi trong trường hợp này. Về mặt lý luận, lỗi là thái độ tâm lý bên trong của người
phạm đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội của mình và đối với hậu quả do hành vi đó gây ra.
Một hành vi bị xem là tính có lỗi khi có đủ hai điều kiện:
- Hành vi trái pháp luật hình sự.
- Hành vi đó là kết quả của sự tự lựa chọn và quyết định của người thực hiện hành vi khi
có khả năng và điều kiện để lựa chọn và quyết định xử sự khác không trái pháp luật hình sự.
Trong tình huống này, bác sĩ A đã sơ suất kê toa thuốc người lớn cho bệnh nhân 3 tuổi dẫn đến
bệnh nhân tử vong do dùng thuốc quá liều. Hành vi này của bác sĩ A đầy đủ các điều kiện bị tính là
hành vi có lỗi đồng thời do chủ quan không kiểm tra kĩ càng nên dẫn đến vi phạm quy tắc nghề nghiệp
để lại hậu gây chết người được quy định rõ tại Điều 129 BLHS 2015.
5. H có lỗi trong việc gây ra cái chết của bé Trung không? Nếu có là lỗi gì? Tại sao? lOMoAR cPSD| 61631027
H hoàn toàn có lỗi trong việc gây ra cái chết của bé Trung.
Theo quy định điều kiện đối với người chịu trách nhiệm chuyên môn về dược của cơ sở bán lẻ
thuốc được quy định tại Điều 18 Luật Dược 2016 như sau:
- Người chịu trách nhiệm chuyên môn về dược của nhà thuốc phải có Bằng tốt nghiệp đại
học ngành dược (sau đây gọi là Bằng dược sỹ) và có 02 năm thực hành chuyên môn tại cơ sở
dược phù hợp. Người chịu trách nhiệm chuyên môn về dược của nhà thuốc có thể đồng thời là
người làm công tác dược lâm sàng tại nhà thuốc.
- Người chịu trách nhiệm chuyên môn về dược của quầy thuốc phải có Bằng tốt nghiệp
ngành dược từ trung cấp trở lên và có 18 tháng thực hành chuyên môn tại cơ sở dược phù hợp.
Như vậy để hợp pháp đứng bán tại quầy thuốc, anh H đã có đủ kiến thực chuyên môn đủ để hiểu
toa thuốc mà bác sĩ A kê cho bé Trung là chỉ định dành cho người lớn hay trẻ em. Trong khi đó trong
toa thuốc mà bác sĩ A đã kê có ghi rõ độ tuổi của bệnh nhân là 3 tuổi. Vì vậy, tương tự với bác sĩ A,
lỗi của H là tội vô ý làm chết người do vi phạm quy tắc nghề nghiệp quy định tại Điều 129
BLHS 2015 khi mà H bán thuốc cho người nhà bé Trung mà không kiểm tra kĩ toa thuốc.
Trong trường hợp này xác định lỗi của anh H là lỗi vô ý do cẩu thả. Pháp luật hình sự thường chia
lỗi thành 4 loại: lỗi cố ý trực tiếp, lỗi cố ý trực tiếp, lối vô ý vì quá tự tin, lỗi vô ý do cẩu thả. Theo đó,
lỗi vô ý do cẩu thả là trong trường hợp người phạm tội đã gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội nhưng
do cẩu thả nên không thấy trước được khả năng gây ra hậu quả đó mặc dù được điều kiện khách quan
buộc họ phải thấy trước hoặc có thể thấy trước hậu quả đó.
- Về lý trí: người phạm tội không thấy trước hành vi của mình có thể gây hậu quả nguy hại cho xã hội.
- Về ý chí: người phạm tội khi thực hiện hành vi đáng ra “phải thấy trước và có thể thấy
trước” hậu quả nguy hiểm cho xã hội sẽ xảy ra.
Theo quy định tại Điều 11 Luật Hình sự 2015:
“Điều 11. Vô ý phạm tội.
Vô ý phạm tội là phạm tội trong những trường hợp sau đây:
1. Người phạm tội tuy thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội,
nhưng cho rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được;
2. Người phạm tội không thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã
hội, mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước hậu quả đó.”
Trong trường hợp H đứng bán thuốc mà không đủ các điều kiện về kinh doanh và sử dụng chứng
chỉ hành nghề, giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh thuốc; giấy phép hoạt động về thuốc sẽ bị
xử phạt vi phạm hành chính theo quy định tại Điều 6 Nghị định 93/2011/NĐ-CP quy định về xử phạt
vi phạm hành chính về thuốc, mỹ phẩm và trang thiết bị y tế. lOMoAR cPSD| 61631027 Bài tập 9
Chị Y vừa được công ty thương mại X tuyển vào làm thủ quỹ. Biết rõ việc này, ba tên A,
B, C (đã thành niên và đều là thành phần thất nghiệp, nghiện ngập) đã chặn đường chị Y đòi Y
phải giao nộp cho chúng 5 triệu đồng, nếu không chúng sẽ tố cáo hành vi tham ô mà chị Y đã
thực hiện trước đây ở một cơ quan nhà nước. Lo sợ bị mất việc làm, chị Y đã tự ý lấy số tiền 5
triệu trong công quỹ của công ty X và giao cho bọn chúng. Vụ việc bị phát hiện.
Anh (chị) hãy xác định: chị Y có được coi là bị cưỡng bức không? Nếu có thì là loại cưỡng
bức gì và có ảnh hưởng như thế nào đến trách nhiệm hình sự của Y. Trả lời:
Chị Y được coi là bị cưỡng bức và đó là loại cưỡng bức về tinh thần.
Cưỡng bức tinh thần là trường hợp dùng lời nói hoặc bằng cách khác đe dọa, uy hiếp tinh thần,
tác động đến ý chí của người khác, nhằm buộc họ phải làm hoặc không được làm một việc gì đó. Cụ
thể trong tình huống này thì chị Y bị ba đối tượng tên A, B, C chặn đường và đòi chị phải giao nộp 5
triệu đồng cho chúng nếu không sẽ tố cáo hành vi tham ô trước đó của chị. Căn cứ theo khoản 1 Điều
170 BLHS quy định về tội cưỡng đoạt tài sản, theo đó có thể thấy chị Y đã bị A, B, C uy hiếp về tinh
thần nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản. Vì vậy, trong trường hợp này chị Y được coi là bị cưỡng bức về mặt tinh thần.
Theo điểm k khoản 1 Điều 51 BLHS 2015 sửa đổi bổ sung 2017 quy định về các tình tiết giảm
nhẹ TNHS do phạm tội vì bị người khác đe dọa hoặc cưỡng bức. Nhưng theo quan điểm của nhóm
em thì trong trường hợp này thì việc chị Y bị cưỡng bức về tinh thần không thuộc tình tiết giảm nhẹ
TNHS theo quy định tại Điều 54 bởi vì các căn cứ sau:
Thứ nhất, chị Y bị ba đối tượng tên A, B, C chặn đường và đòi chị phải giao nộp 5 triệu đồng
cho chúng. Chúng không cần biết khoản tiền lấy tiền ở đâu và cũng không ép chị Y phải lấy số tiền
đó từ công quỹ của công ty X. Chị Y có thể xử lý tình huống đó bằng cách lấy số tiền 5 triệu đồng từ
tiền cá nhân của chị hoặc vay mượn từ người khác. Chị còn nhiều cách xử lý hơn là việc vi phạm ăn
cắp tiền công quỹ của công ty.
Thứ hai, do chị Y đã thực hiện hành vi tham ô ở một cơ quan nhà nước trước đây nên mới lo
sợ sự đe dọa của A, B, C từ đó mới có lí do để A, B, C uy hiếp chị. Giả sử chị ý thức được hành vi
trước đây của chị là trái pháp luật và có thái độ ăn năn thì chị nên đi tự thú về hành vi của mình, và có
ý thức khắc phục hậu quả về hành vi của mình. Bài tập 10:
A có nhiệm vụ quản lý và bảo vệ khu rừng của nông trường X. B đã nhiều lần vào khu
rừng trên để chặt trộm cây bạch đàn. Một buổi A bắt quả tang B đang chặt trộm bạch đàn. A
buộc B phải về trụ sở của nông trường để xử lý theo quy định. B xin tha nhưng A không chấp
nhận. Trên đường trở về trụ sở nông trường, lợi dụng trời tối và đoạn đường khó đi, B đã dùng
rìu chặt cây chém hai nhát vào đầu A làm A té quỵ, B tiếp tục chém nhiều nhát vào vùng ngực lOMoAR cPSD| 61631027
và mặt của A. Khi thấy A nằm bất động B xách rìu đi về phía rừng. Một lúc sau có người phát
hiện và A đã được cứu sống. Giấy chứng thương ghi nhận A bị thương tật với tỷ lệ 65%.
Biết rằng hành vi của B cấu thành 2 tội: tội giết người (Điều 123 BLHS) và tội trộm cắp tài sản
(Điều 173 BLHS). Anh (chị) hãy xác định: Trả lời
1. Đối tượng tác động và khách thể của tội phạm do B thực hiện.
Đối với “tội trộm cắp tài sản” thì đối tượng tác động của tội phạm do B thực hiện là tài sản bị
trộm cắp (cây bạch đàn). Khách thể của tội phạm do B thực hiện là đã xâm phạm quyền sở hữu cây
bạch đàn của nông trường X.
Đối với “tội giết người” thì đối tượng tác động của tội phạm do B thực hiện là con người (cụ
thể là A). Khách thể của tội phạm do B thực hiện là đã xâm phạm đến quyền sống, quyền được bảo
đảm an toàn về tính mạng, sức khỏe, thân thể của A.
2. Công cụ phạm tội trong vụ án này là gì? Dấu hiệu công cụ phạm tội có phải là dấu hiệu định
tội của các tội phạm trên hay không?Tại sao?
Công cụ phạm tội trong vụ án này là rìu chặt cây thực hiện cả hai hành vi phạm tội là chặt trộm
cây bạch đàn trong khu rừng của nông trường X và gây thương tích cho anh A.
Dấu hiệu công cụ phạm tội không phải là dấu hiệu định tội của các tội phạm trên.Vì trong tội
giết người quy định tại Điều 123 và tội trộm cắp tài sản quy định tại Điều 173 của Bộ luật Hình sự
2015 đều không quy định công cụ phạm tội. Cây rìu trong trường hợp này không được coi là dấu hiệu
định tội mà nó chỉ là công cụ B sử dụng để tác động đến đối tượng tác động.
3. Loại hậu quả do hành vi phạm tội của B gây ra?
Hành vi phạm tội của B gây ra 2 loại hậu quả: thiệt hại về vật chất và thiệt hại về thể chất. Cụ
thể đối với tội giết người thì hậu quả gây ra thuộc về thiệt hại về thể chất. Còn với tội trộm cắp tài sản
thì hậu quả là thiệt hại về vật chất.
4. Lỗi của B trong việc gây thương tích cho A? Tại sao?
Lỗi của B trong việc gây thương tích cho A là lỗi cố ý trực tiếp.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 10 Bộ Luật Hình sự 2015 quy định về lỗi cố ý trực tiếp như
sau: “Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của
hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra”. -
Về mặt lý trí: nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước
hậu quả sẽ xảy ra của hành vi đó. Cụ thể đối với việc B dùng rìu chặt cây để chém vào đầu anh
A thì chắc chắn tiên lượng được rằng sẽ gây ra thương tích cho đối phương. -
Về mặt ý chí: mong muốn hậu quả xảy ra. Mong muốn hậu quả xảy ra với chủ
đích để đạt được mục đích phạm tội của mình. lOMoAR cPSD| 61631027
Trong trường hợp này, đối với hành vi chặt trộm rừng thì hậu quả xảy ra là chiếm đoạt được tài
sản của người khác thì mục đích của anh B đã đạt được. Tuy nhiên với trường hợp anh B muốn trộm
rừng mà phải đánh anh B thì hành vi đánh người, cố ý gây thương tích mặc dù không nhằm tới mục
đích đó là gián tiếp đi qua hậu quả đó để đạt được mục đích phạm tội. Cho nên cũng được coi là lỗi
cố ý trực tiếp cho dù mục đích của B là trộm cây rừng và nói cũng được coi là mong muốn vì hậu quả
nạn nhân bị thương tích hoặc chết là phương tiện cần thiết để đạt đợc mục đích phạm tội ban đầu của anh B là trộm tài sản. Bài tập 11:
Do mâu thuẫn với mẹ ruột mình (bà Liêu), sau một hồi cãi vã với mẹ, Trung liền mang
can nhựa đi mua 3 lít xăng đem về nhà. Lúc này cháu Thảo (con gái Trung) đang ngủ trên
giường, chị Xuân (vợ Trung) đang bế đứa con gái 2 tuổi là cháu Vy. Thấy Trung tay cầm can
xăng với thái độ rất hung hăng, chị Xuân liền can ngăn, nhưng Trung gạt chị Xuân ra, vừa quát:
“Tao đốt nhà rồi trả cho bà Liêu”, vừa tưới xăng lên nền nhà và vách nhà bằng gỗ. Chị Xuân
một tay bế con, một tay giặt can xăng trên tay Trung. Tức thì Trung bật quẹt, lửa bùng cháy.
Sau đó, hàng xóm đến can ngăn và dập lửa.
Kết quả là cháu Vy bị bỏng nặng và chết ngay sau đó. Chị Xuân và Trung cũng bị bỏng nhưng
thoát chết (chị Xuân bị bỏng nặng với tỷ lệ thương tật là 41%). Một phần vách nhà và tài sản
trong nhà (gồm giường, tủ, bàn ghế) bị cháy, thiệt hại về tài sản là 10 triệu đồng. Trả lời
1. Đối tượng tác động của hành vi phạm tội của Trung là gì?
Đối tượng tác động của hành vi phạm tội của Trung là con người (tính mạng của cháu Thảo,
chị Xuân và cháu Vy), các đối tượng vật chất (tài sản trong nhà như giường, tủ, bàn ghế,…).
2. Hành vi của Trung đã xâm phạm khách thể trực tiếp nào?
Hành vi này xâm phạm khách thể trực tiếp là quyền sở hữu tài sản và quyền được bảo vệ tính
mạng, sức khỏe của bé Vy và chị Xuân. -
Tính mạng của cháu Vy (con Trung): cháu Vy bị bỏng nặng và chết ngay sau đó. -
Sức khỏe của chị Xuân (vợ Trung): Chị Xuân bỏng nặng với tỉ lệ 41%. -
Thiệt hại về tài sản là nhà và tài sản trong nhà (gồm giường, tủ, bàn ghế): tài sản bị cháy
thiệt hại 10 triệu đồng.
3. Xét hình thức thể hiện, hành vi phạm tội của Trung thuộc loại nào?
Xét về hình thức thể hiện, hành vi phạm tội của Trung thuộc loại hành vi phạm tội thực hiện
bằng hành động của cá nhân, tổ chức gây thiệt hại nghiêm trọng xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp
của chủ thể khác, gây rối loạn trật tự xã hội.
4. Loại hậu quả do hành vi phạm tội của Trung gây ra là gì? Mức độ thiệt hại của mỗi loại hậu
quả là như thế nào?
Loại hậu quả và mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội của Trung là: lOMoAR cPSD| 61631027 -
Thiệt hại về vật chất: một phần vách nhà và tài sản trong nhà (gồm giường, tủ, bàn ghế) bị
cháy, thiệt hại về tài sản là 10 triệu đồng -
Thiệt hại về thể chất: bé Vy bị bỏng nặng và chết ngay sau đó; Chị Xuân và Trung cũng
bị bỏng nhưng thoát chết (chị Xuân bị bỏng nặng với tỷ lệ thương tật là 41%).
5. Dạng quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả của tội phạm trong vụ án này? Tại sao?
Đây là dạng quan hệ nhân quả đơn trực tiếp. Do hành vi phóng hỏa trong tình trạng kích động
trái pháp luật của anh Trung gây nên hậu quả thiệt hại về tài sản và tính mạng của bé Vy, sức khỏe của chị Xuân.
6. Lỗi của Trung đối với từng loại thiệt hại trong vụ án trên? Tại sao?
Lỗi của Trung đối với thiệt hại về tài sản là lỗi cố ý trực tiếp tiếp theo quy định tại khoản 1
Điều 10 BLHS 2015 vì khi thực hiện hành vi Trung nhận thức rõ hành vi đốt nhà của mình là nguy
hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi là nhà bị cháy và mong muốn hậu quả đó xảy ra.
Lỗi của Trung đối với thiệt hại về thể chất là lỗi cố ý gian tiếp khoản 2 Điều 10 BLHS 2015 vì
Trung nhận thức rõ hành vi đốt nhà của mình có thể gây nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả
của hành vi đó là chị Xuân và bé Vy có thể bị bỏng hoặc chết có thể sẽ xảy ra, tuy không mong muốn
nhưng vẫn có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra. Bài tập 12
Ngày 14/2, khi đang đi xe máy trên đường thì A phát hiện chị X có đeo sợi dây chuyền
trên cổ nên A nảy sinh ý định chiếm đoạt. A chạy xe đến gần chị X và nhanh tay giật sợi dây
chuyền trên cổ chị X rồi bỏ chạy. Do bị giật bất ngờ nên chị X bị mất thăng bằng, té đập đầu
xuống đất dẫn đến chấn thương sọ não và tử vong. (Biết rằng: Hành vi cướp giật tài sản nêu
trên thuộc trường hợp được quy định tại Khoản 4 Điều 171 BLHS). Anh (chị) hãy xác định: Trả lời
1. Đối tượng tác động của hành vi phạm tội do A thực hiện?
Đối tượng tác động của hành vi phạm tội do A thực hiện là chị X và sợi dây chuyền của chị X.
2. Hành vi của A đã xâm phạm đến khách thể trực tiếp nào?
Hành vi của A đã xâm phạm đến khách thể trực tiếp là: quyền sở hữu, quản lý đối với tài sản
và quyền được tôn trọng và bảo vệ sức khỏe, tính mạng của công dân.
3. Loại hậu quả của hành vi phạm tội do A thực hiện?
Hành vi cướp giật tài sản của A còn gây ra hậu quả chết người nên loại hậu quả mà hành vi
phạm tội của A gây nên là thiệt hại về thể chất (cụ thể là tính mạng chị B) và thiệt hại về vật chất
(chiếc dây chuyền của chị B). lOMoAR cPSD| 61631027
4. Thái độ tâm lý đối với hành vi cướp giật tài sản và gây ra cái chết cho nạn nhân của A trong
vụ án này có phải trường hợp “hỗn hợp lỗi” hay không? Tại sao?
Lỗi là thái độ tâm lý của một người đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội của mình và đối với
hậu quả do hành vi đó gây ra thể hiện dưới hình thức cố ý hay vô ý.
Trường hợp “hỗn hợp lỗi” là trường hợp trong CTTP tăng nặng có hai loại lỗi (cố ý và vô ý)
được quy định đối với những tình tiết khách quan khác nhau của mặt khách quản. “Hỗn hợp lỗi” xảy
ra đối với người phạm tội có lỗi cố ý trực tiếp đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội của mình và có
lỗi vô ý đối với hậu quả của hành vi đó. Trong tình huống này, thái độ tâm lý đối với hành vi cướp
giật tài sản và gây ra cái chết cho nạn nhân X của A trong vụ án này là trường hợp “hỗn hợp lỗi”. Vì
sự việc A muốn chiếm đoạt tài sản của chị X (sợi dây chuyền) là do lỗi cố ý trực tiếp của A gây ra dẫn
đến hậu quả là việc chị X thiệt mạng là lỗi vô ý, chứ mục đích của A không phải là làm chị X mất mạng. Bài tập 14
Trong một lần đi chơi, A (học sinh lớp 9 Trường THCS T) nảy sinh tình cảm với B, cô nữ
sinh lớp 8 của một trường khác. Trong thời gian quen nhau, nhiều lần nghe B kể X là người yêu
cũ của B hay nhắn tin với cô để mong nối lại tình cảm. Do ghen tuông, A quyết định tìm X đánh
dằn mặt. Trước khi đi, A chuẩn bị một con dao nhọn. Đến trước cổng trường của bạn gái, do
không biết mặt của X nên khi thấy một nam sinh lớp 10 cùng B đi ngang qua, A nghĩ là X nên
xông vào đánh và rút dao đâm hai nhát ngay tim làm nạn nhân chết tại chỗ. Tuy nhiên nạn nhân
không phải là X.(Biết rằng hành vi của A cấu thành tội giết người tại Khoản 2 Điều 123
BLHS).Anh (chị) hãy xác định: Trả lời
1. Đối tượng tác động và khách thể bị xâm phạm trong vụ án trên;Đối
tượng tác động: Nam sinh lớp 10.
Khách thể bị xâm phạm: Quyền sống, quyền được tôn trọng và bảo vệ tính mạng của nam sinh lớp 10 đó.
2. Trong trường hợp trên có sai lầm thực tế hay không? Nếu có thì đólà
sai lầm nào? Tại sao?
Trong vụ án trên có sai lầm thực tế. Đó là sai lầm về đối tượng. Vì A đã nhầm đối tượng khi
thực hiện hành vi giết người, cụ thể là A đã nhầm (nghĩ) nam sinh lớp 10 đi cùng B là X và thực hiện
hành vi phạm tội với đối tượng là nam sinh đó. Sai lầm về đối tượng là một dạng của sai lầm thực tế.
3. Quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả của tội phạm trong vụ án
này thuộc dạng nào? Tại sao? lOMoAR cPSD| 61631027
Quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả của tội phạm trong vụ án này thuộc dạng nhân quả
đơn trực tiếp. Vì một hành vi “đánh và rút dao đâm hai nhát ngay tim” của A là nguyên nhân trực tiếp
gây nên hậu quả là “nạn nhân chết tại chỗ”. Bài tập 16:
Vì muốn giết người có bất đồng với mình A đã nghiên cứu lịch và nơi sinh hoạt của B. A
quan sát thấy trên giường B thường nằm có người đang ngủ. A lẻn vào nhà dùng dao găm đâm
nhiều nhát liên tiếp, nhưng không thấy B phản ứng. Giám định pháp y xác định B đã chết trước
đó vì một cơn đau tim.
Anh (chị) hãy xác định: Đây là loại sai lầm nào? A có phải chịu trách nhiệm hình sự về
hành vi của mình hay không? Tại sao? Trả lời
- A đã có sự sai lầm về khách thể, cụ thể A vốn định xâm phạm đến khách thể là tính
mạng của B, nhưng do B đã chết trước đó nên lúc này khách thể mà A xâm phạm không còn là tính mạng của B nữa.
- A vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi của mình.
Vì theo lý thuyết về sai lầm và ảnh hưởng của sai lầm đến trách nhiệm hình sự.
Trong tình huống trên, A đã có sự sai lầm về khách thể, cụ thể A vốn định xâm phạm đến khách thể là
tính mạng của B, nhưng do B đã chết trước đó nên lúc này khách thể mà A xâm phạm không còn là
tính mạng của B nữa. Tuy nhiên A vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội của mình. lOMoAR cPSD| 61631027
CỤM 3: CÁC CHẾ ĐỊNH LIÊN QUAN ĐẾN TỘI PHẠM PHẦN II. BÀI TẬP.
Bài tập 2: Trường, Hiếu, Ngọc là những đối tượng lưu manh chuyên nghiệp. Biết nhà ông Bằng
có nhiều tiền do trúng xổ số, bọn chúng bàn cách lấy trộm. Theo kế hoạch Hiếu và Ngọc đã tẩm
thuốc độc vào thức ăn giết chết hai con chó nhà ông Bằng.
Tối hôm đó, Trường, Hiếu, Ngọc mang dụng cụ đến phục kích ở sau vườn nhà ông Bằng.
Vì nhà đông người nên chúng rút lui. Tối hôm đó, theo hẹn Trường, Hiếu đến điểm phục kích còn
Ngọc thì không đến. Không thấy Ngọc đến, Hiếu đã đến nhà Khiêm rủ Khiêm tham gia.
Đến nửa đêm khi gia đình ông Bằng ngủ say. Hiếu đứng ngoài canh gác, Trường và Khiêm
vào cạy tủ. Nghe tiếng động ông Bằng thức dậy. Bị lộ, cả bọn bỏ chạy, sau đó bị dân phòng bắt được.
Anh (chị) hãy xác định:
1. Trong vụ án trên có động phạm không? Nếu có hãy xác định vai trò của mỗi người trong động phạm.
Giả sử Trường, Hiếu, Ngọc là những đối tượng đủ năng lực trách nhiệm hình sự, đủ độ tuổi
chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật Hình sự. Vụ án trên có đồng phạm vì do có nhiều
người cố ý cùng thực hiện hành vi trộm cướp tài sản và hành vi của người này liên kết chặt chẽ với
hành vi của người kia, những hành vi này phải kiên kết, bổ trợ cho nhau. Căn cứ vào khoản 1 Điều
17 của BLHS 2015: “1. Đồng phạm là trường hợp có hai người trở lên cố ý cùng thực hiện một tội phạm.”
Vai trò của mỗi người trong đồng phạm căn cứ khoản 3 Điều 17 của BLHS 2015: “3. Người
đồng phạm bao gồm người tổ chức, người thực hành, người xúi giục, người giúp sức.
Người thực hành là người trực tiếp thực hiện tội phạm.
Người tổ chức là người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy việc thực hiện tội phạm.
Người xúi giục là người kích động, dụ dỗ, thúc đẩy người khác thực hiện tội phạm.
Người giúp sức là người tạo điều kiện tinh thần hoặc vật chất cho việc thực hiện tội phạm.”
Cụ thể, trong tình huống trên thì lần lượt đồng phạm là: -
Người tổ chức: Trường, Hiếu, Ngọc là người chủ mưu,lên kế hoạch, bàn bạc lấy trộm nhà ông Bằng. -
Người thực hành: Trường, Hiếu là người trực tiếp thực hiện hành vi tội phạm. -
Người xúi giục: Hiếu là người kích động, dụ dỗ anh Khiêm tham gia, thực hiện thành vi phạm tội. lOMoAR cPSD| 61631027 -
Người giúp sức: Ngọc, Hiếu là người tạo điều kiện tinh thần, vật chất cho người thực
hiện phạm tội thông qua việc tẩm thuốc giết chết con chó nhà ông Bằng và canh gác để việc phạm tội diễn ra.
2. Xét về dấu hiệu chủ quan, hình thức đồng phạm trong vụ án này là loại nào?
Phân loại các loại đồng phạm theo ý thức chủ quan bao gồm: -
Đồng phạm có thông mưu trước: Là hình thức đồng phạm trong đó giữa những
người đồng phạm đã có sự thoả thuận, bàn bạc trước về tội phạm cùng thực hiện. -
Đồng phạm không có thông mưu trước: Là hình thức đồng phạm trong đó giữa
những người đồng phạm không có sự thoả thuận, bàn bạc trước về tội phạm cùng thực hiện.
Xét về dấu hiệu chủ quan, hình thức đồng phạm trong vụ án này là đồng phạm có thông mưu
trước vì Trường, Hiếu, Ngọc đã bàn bạc lên kế hoạch phạm tội cụ thể trước khi hành động.
3. Xét về dấu hiệu khách quan, hình thức đồng phạm trong vụ án này là loại nào?
Phân loại theo dấu hiệu khách quan: -
Đồng phạm đơn giản: Là hình thức đồng phạm trong đó những người cùng tham
gia vào vụ đồng phạm đều với vai trò là người thực hành. -
Đồng phạm phức tạp: Là hình thức đồng phạm trong đó có một hoặc một số
người là người thực hành còn lại những người khác với vai trò là người tổ chức hoặc người
xúi giục hoặc người giúp sức.
Xét về dấu hiệu khách quan, hình thức đồng phạm trong vụ án này là đồng phạm phức tạp vì
trong vụ án này có cả người tổ chức (Trường, Hiếu, Ngọc), người giúp sức (Ngọc, Hiếu), người thực
hành (Trường, Hiếu) và người xúi giục (Hiếu).
4. Những người phạm tội trên đang ở giai đoạn nào?
Những người phạm tội trên đang ở giai đoạn phạm tội chưa thành, vì người phạm tội đã thực
hiện một phần hành vi trong mặt khách qua trong cấu thành tội phạm nhưng chưa thực hiện đến cùng
do bị phát hiện, chưa có hậu quả ông Bằng mất tài sản.
5. Ngọc có được coi là tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội không? Tại sao? Nếu:
a. Ngọc không đến vì lo sợ bị phát hiện lOMoAR cPSD| 61631027
Ngọc được coi là tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội. Vì theo Điều 16 BLHS 2015 quy
định: “Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội là tự mình không thực hiện tội phạm đến cùng, tuy
không có gì ngăn cản”. Ở đây nếu Ngọc không đến tham gia vì bị sợ phát hiện thì Ngọc được coi là
tự ý chấm dứt việc phạm tội vì việc Ngọc tự mình không thực hiện hành vi trộm cắp tài sản của ông
Bằng cùng Trường và Hiếu mà không có điều gì ngăn cản Ngọc.
b. Ngọc không đến vì bị bệnh phải đi cấp cứu ở bệnh viện.
Ngọc không được coi là tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội. Vì theo Điều 16 BLHS 2015
quy định: “Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội là tự mình không thực hiện tội phạm đến cùng,
tuy không có gì ngăn cản”. Ở đây nếu Ngọc không đến tham gia vì bị bệnh phải đi cấp cứu ở bệnh
viện thì Ngọc không được coi là tự ý chấm dứt việc phạm tội vì việc Ngọc đã không tự mình dừng thực
hiện hành vi trộm cắp tài sản của ông Bằng cùng Trường và Hiếu bởi vì Ngọc phải đi cấp cứu nên
không thể đến thực hiện hành vi phạm tội của mình.
6. Tình huống trên có phải là trường hợp phạm tội có tổ chức không? Tại sao?
Tình huống trên là phạm tội có tổ chức căn cứ vào khoản 2 Điều 17 BLHS quy định: “Phạm
tội có tổ chức là hình thức đồng phạm có sự câu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm”.
Bởi vì trong tình huống trên đã có sự câu kết chặt chẽ: -
Về phương diện khách quan: có sự phân công nhiệm vụ tương đối rõ ràng giữa các
đồng phạm (Hiếu đứng canh cửa, Trường và Khiêm vào cạy tủ). -
Về phương diện chủ quan: có sự liên kết với nhau, hỗ trợ nhau trong việc thực hiện tội phạm.
Bài tập 4: Vì mâu thuẫn cá nhân, A lên kế hoạch giết B sau khi nghiên cứu lịch sinh hoạt của B.
Lựa chọn địa điểm và thời gian thích hợp, A quyết định ra tay. B trên đường trở về nhà sau khi
khi đi chơi với bạn gái về vào lúc 22h thì A canh sẵn ở vị trí lựa chọn và bắn vào B. Do trời tối,
ánh sáng đèn phố không đủ sáng nên B không trúng đạn. Sau phát bắn không thành đó, A mang
súng về không muốn giết B nữa.
Anh (chị) hãy xác định: 1.
Hành vi của A có đủ điều kiện về tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội giết người không? -
Cơ sở pháp lý: Điều 16 BLHS 2015: “Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội là tự mình
không thực hiện tội phạm đến cùng, tuy không có gì ngăn cản.” lOMoAR cPSD| 61631027
Theo Điều luật quy định “tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tộ” là sự tự nguyện từ bỏ việc
thực hiện đến cùng hành vi phạm tội mà người thực hiện hành vi đã bắt đầu mặc dù họ biết là có khả
năng làm việc đó và không có gì ngăn cản họ. Sự tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội chỉ được
thừa nhận khi có những điều kiện sau đây: -
Hành vi chấm dứt việc phạm tội phải xảy ra ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội hoặc
phạm tội chưa đạt chưa hoàn thành. -
Hành vi chấm dứt phạm tội phải tự ý tự nguyện (dừng lại không phải do trở ngại
khách quan) và dứt khoát (chấm dứt một cách triệt để, từ bỏ hẳn ý định phạm tội).
Trong tình huống trên thì A có khả năng thực hiện hành vi phạm tội đến cùng, tức là giết B.
Mặc dù chưa hoàn thành và chưa đạt tới kết quả mà A mong muốn ban đầu, nhưng A tự nguyện và dứt
khoát dừng lại (“Sau phát bắn không thành đó, A mang súng về không muốn giết B nữa”), không hề
có yếu tố nào ngăn cản.
Vì vậy, A có đủ điều kiện về tự ý nửa chừng chấm dứt việc tội phạm giết người. 2.
A có phải chịu trách nhiệm hình sự vì tội giết người không? (biết rằng hành vi giết người
được quy định tại Điều 123 BLHS).
Theo quy định tại Điều 123 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 có thể nhận
thấy rằng giết người là hành vi trái pháp luật cố ý làm chết người. Hành vi làm chết người được hiểu
là hành vi có khả năng gây ra cái chết cho con người, chấm dứt sự sống của họ. Hậu quả của hành vi
trái luật này là hậu quả chết người. Tội giết người chỉ được coi là tội phạm hoàn thành khi có hậu quả
chết người. Nếu hậu quả chết người không xảy ra vì nguyên nhân khách quan thì hành vi phạm tội
được coi là tội giết người chưa đạt (khi có lỗi cố ý trực tiếp) hoặc là tội cố ý gây thương tích (khi có
lỗi cố ý gián tiếp). Mục đích và động cơ phạm tội không là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm
tội giết người và được quy định là tình tiết định khung tăng nặng hình phạt.
Mặt khác, theo quy định tại Điều 15 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017 quy định về
hành vi phạm tội chưa đạt như sau "Phạm tội chưa đạt là cố ý thực hiện tội phạm nhưng không thực
hiện được đến cùng vì những nguyên nhân ngoài ý muốn của người phạm tội."
Như vậy trong tình huống này tuy hậu quả chết người chưa xảy ra nhưng A đã lên kế hoạch,
nghiên cứu lịch trình sinh hoạt của B, xác định rõ thời gian địa điểm cụ thể để thực hiện hành vi cùng
với hung khí là súng nhằm mục đích là giết B.
Do đó, theo quan điểm của nhóm em, hành vi của A đã phạm tội giết người chưa đạt.
3. A có phải chịu trách nhiệm hình sự về tội sử dụng vũ khí trái phép không? (biết rằng hành vi
sử dụng trái phép vũ khí quân dụng được quy định tại Điều 304 BLHS 2015). lOMoAR cPSD| 61631027
Phân tích điều 304 BLHS 2015, ta thấy:
- Chủ thể của tội phạm:
Những người có đủ năng lực TNHS và đạt độ tuổi theo luật định. Theo quy định tại Điều 12,
người từ 14 đến16 tuổi chỉ phải chịu TNHS về tội phạm này khi có các tình tiết quy định tại khoản 2,
khoản 3, khoản 4 Điều 304 BLHS năm 2015.
- Mặt chủ quan của tội phạm:
Tội phạm được thực hiện dưới hình thức lỗi cố ý với động cơ mục đích khác nhau.
- Khách thể của tội phạm:
Xâm phạm an toàn xã hội bằng việc vi phạm quy định của Nhà nước về sản xuất, quản lý vũ
khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự
- Mặt khách quan của tội phạm:
Tội phạm thể hiện ở các loại hành vi phạm tội phạm sau: Tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử
dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự. Hành vi sử
dụng trái phép vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự là kích hoạt các tính năng của vũ khí
quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự khi không được phép của cơ quan có thẩm quyền.
Vũ khí quân dụng là vũ khí được chế tạo, sản xuất bảo đảm tiêu chuẩn kỹ thuật, thiết kế của
nhà sản xuất hợp pháp, được trang bị cho lực lượng vũ trang nhân dân và các lực lượng khác theo quy định.
Theo dữ liệu trong tình huống này, không nêu rõ súng mà A sử dụng có nguồn gốc từ đâu. Do
đó, chưa đủ căn cứ để xác định A có vi phạm điều 304 BLHS 2015 về tội sử dụng trái phép vũ khí quân dụng. Bài tập 6:
A và B cùng thống nhất rủ nhau đi dọc phố tìm cơ hội để trộm cắp xe gắn máy. Nhân lúc
ông C để xe bên lề đường vào mua báo, A và B dùng khóa vạn năng nhanh chóng mở khóa để
lấy xe của ông C thì bị bắt giữ. (Biết rằng hành vi này được quy định tại khoản 1 Điều 173 BLHS).
Anh (chị) hãy xác định: 1.
Hành vi phạm tội của A, B thực hiện ở giai đoạn nào?
Theo trong tình huống, nhân lúc ông C để xe bên lề đường vào mua báo, A và B dùng khóa vạn
năng nhanh chóng mở khóa để lấy xe của ông C thì bị bắt giữ. Hành vi của A và B là cố ý thực hiện lOMoAR cPSD| 61631027
tội phạm nhưng không thực hiện được đến cùng do bị phát hiện và bắt giữ ( nguyên nhân ngoài ý
muốn của người phạm tội).
Như vậy, theo quy định tại Điều 15 BLHS 2015, hành vi phạm tội của A và B thực hiện ở giai
đoạn phạm tội chưa đạt. 2.
Nếu A (17 tuổi), B (15 tuổi) thì A và B có đồng phạm hay không? Tại sao?
Theo Điều 12 BLHS 2015 quy định về độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự như sau:
“1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm, trừ những tội
phạm mà Bộ luật này có quy định khác.
Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm
trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một trong các điều 123, 134, 141, 142, 143, 144,
150, 151, 168, 169, 170, 171, 173, 178, 248, 249, 250, 251, 252, 265, 266, 286, 287, 289, 290, 299,
303 và 304 của Bộ luật này.” -
Như vậy, trường hợp của A (17 tuổi) sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự với hành
vi phạm tội trộm cắp tài sản.
Theo khoản 1 Điều 17 BLHS 2015, A và B cùng cố ý thực hiện một tội phạm thì gọi là đồng
phạm. Đồng thời tại khoản 3 điều này, A trực tiếp thực hiện tội phạm nên trong trường hợp này A là người thực hành. -
Còn đối với B (15 tuổi), theo quy định tại khoản 2 Điều 12 BLHS 2015 như trên
thì phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng
trong các điều luật quy định tại khoản 2 Điều 12 đã nêu trên. Ở đây, B phạm tội trộm cắp tài
sản theo quy định tại Điều 173 BLHS 2015.
Điều 9 BLHS 2015 quy định về phân loại tội phạm như sau:
“…c) Tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội rất lớn mà
mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là từ trên 07 năm tù đến 15 năm tù;
d) Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội đặc biệt
lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là từ trên 15 năm tù
đến 20 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình.”
Trong trường hợp của B để xét loại tội phạm rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng hay không
sẽ phụ thuộc vào giá trị của chiếc xe gắn máy của C theo quy định tại Điều 173 BLHS 2015:
+ Nếu chiếc xe gắn máy A và B trộm cắp có giá trị dưới 50 triệu đồng thì B không phải chịu
trách nhiệm hình sự với hành vi của mình.
+ Nếu chiếc xe gắn máy A và B trộm cắp có giá trị từ 50 triệu đồng đến dưới 500 triệu đồng
sẽ xếp vào loại tội phạm rất nghiêm trọng. -> B phải chịu trách nhiệm hình sự với hành vi trộm cắp tài sản của mình (1).
+ Nếu chiếc xe gắn máy A và B trộm cắp có giá trị từ 500 triệu đồng trở lên sẽ xếp vào loại
tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. -> B phải chịu trách nhiệm hình sự với hành vi trộm cắp tài sản của mình (2). lOMoAR cPSD| 61631027
Nếu hành vi trộm cắp của B thuộc vào trường hợp (1) và (2) thì theo quy định tại khoản 1 và 2
Điều 17 BLHS 2015 B chính là đồng phạm của A trong hành vi trộm cắp tài sản và đồng thời cũng là người thực hành. Bài tập 10.
A, B, C là một nhóm thanh niên có nhiều tiền án, tiền sự. Chúng đã thống nhất kế hoạch
hành động là đột nhập vào nhà của một người để lấy trộm chiếc xe máy trị giá 50 triệu đồng.
Theo sự phân công, A đứng ngoài cảnh giới, trong lúc gia đình chủ nhà ngủ say B và C lẻn vào
lấy chiếc xe máy. B và C bị phát giác, cả gia đình chủ nhà hô hoán đuổi bắt. Cả hai chạy ra cửa
thì bị con trai chủ nhà giữ C lại. Sẵn có dao trong người, C đâm chết anh thanh niên đó.A và B thì chạy thoát.
Biết rằng trong vụ án này có hai tội phạm là tội giết người (Điều 123 BLHS) và tội trộm cắp
tài sản (Điều 173 BLHS); tội giết người quy định dấu hiệu hậu quả chết người là dấu hiệu bắt buộc.
Anh (chị) hãy xác định:
1. Hành vi trộm cắp tài sản trong tình huống trên được thực hiện ở giai đoạn nào?
Trong tình huống trên có đồng phạm trong tội trộm cắp tài sản. Vì do có hai người trở lên cụ thể
là A, B, C cùng cố ý thực hiện hành vi trộm cắp tài sản căn cứ vào Điều 17 của BLHS 2015 quy định:
“Đồng phạm là trường hợp có hai người trở lên cố ý cùng thực hiện một tội phạm.”
Vai trò đồng phạm của người thực hiện phạm tội được căn cứ vào Khoản 3 Điều 17 của BLHS 2015.
Đối với A: Vì A là người tạo điều kiện tinh thần hoặc vật chất cho việc thực hiện tội phạm thông
qua hành vi người đứng canh gác bên ngoài để cho B, C thực hiện hành vi phạm tội nên A đóng vai
trò là người giúp sức.
Đối với B và C: B, C là người trực tiếp thực hiện hành vi phạm tội thông qua hành vi B, C lẻn
vào lấy chiếc xe máy. Vì vậy, B và C có vai trò là người thực hành.
Mức độ trách nghiệm của người thực hiện phạm tội căn cứ vào Điều 15 của BLHS 2015, khoản
4 Điều 17 BLHS 2015, khoản 2 Điều 173 và khoản 3 Điều 57 của BLHS 2015.
Đối với A và B : Do bị chủ nhà phát giác trước khi trộm được xe, nên trộm cắp xe không thành
công, chưa hoàn thành.Vậy nên được xem là phạm tội chưa đạt. Vì vậy, A, B sẽ phải chịu trách nhiệm
hình sự về tội phạm chưa đạt. Căn cứ khoản 2 Điều 173 và khoản 3 Điều 57 BLHS 2015, B phải chịu
trách nhiệm không quá 5 năm 3 tháng tù.
Đối với C: Do bị chủ nhà phát giác trước khi trộm được xe, nên trộm cắp xe không thành công,
chưa hoàn thành.Vậy nên được xem là phạm tội chưa đạt. Vì vậy, C sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự lOMoAR cPSD| 61631027
về tội phạm chưa đạt. Ngoài ra, C đã đâm chết con trai của chủ nhà. Đây là tội phạm đã hoàn thành.
Vì vậy, ngoài chịu trách nhiệm về tội phạm chưa đạt về tội trộm cắp tài sản căn cứ khoản 2 Điều 173
và khoản 3 Điều 57 Bộ Luật Hình sự 2015, B phải chịu trách nhiệm không quá 5 năm 3
tháng tù đồng thời còn phải chịu trách nhiệm về tội giết người được quy định tại Điều 123 BLHS 2015. 2.
Hành vi giết người trong tình huống trên được thực hiện ở giai đoạn nào?
Hành vi trộm cắp tài sản trong tình huống trên được thực hiện ở giai đoạn phạm tội chưa đạt.
Căn cứ Điều 15 BLHS 2015: “Phạm tội chưa đạt là cố ý thực hiện tội phạm nhưng không thực hiện
được đến cùng vì những nguyên nhân ngoài ý muốn của người phạm tội...”
Vì A, B,C cùng cố ý thực hiện hành vi trộm cắp tài sản, nhưng chưa hoàn thành hành vì hành vi
phạm tội vì chủ nhà bị phát giác, chưa thực hiện hoàn thành việc trộm cắp xe máy dẫn đến hành vi
trộm cắp tài sản không thành. 3.
Có đồng phạm trong tội trộm cắp tài sản không? Nếu có thì mỗi người thực hiện
tội phạm với vai trò nào, mức độ trách nhiệm ra sao?
Có đồng phạm trong tội trộm cắp tài sản.
Cơ sở pháp lý: Điều 17 BLHS 2015 sửa đổi bổ sung 2017.
“1. Đồng phạm là trường hợp có hai người trở lên cố ý cùng thực hiện một tội phạm. 2.
Phạm tội có tổ chức là hình thức đồng phạm có sự câu kết chặt chẽ giữa những người
cùng thực hiện tội phạm. 3.
Người đồng phạm bao gồm người tổ chức, người thực hành, người xúi giục, người giúp sức.
Người thực hành là người trực tiếp thực hiện tội phạm.
Người tổ chức là người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy việc thực hiện tội phạm.
Người xúi giục là người kích động, dụ dỗ, thúc đẩy người khác thực hiện tội phạm.
Người giúp sức là người tạo điều kiện tinh thần hoặc vật chất cho việc thực hiện tội phạm. 4.
Người đồng phạm không phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi vượt quá của người thực hành.”
Vì vậy, trong trường hợp này có đồng phạm trong tội trộm cắp tài sản. Vì trước khi đến trộm cắp
tài sản, A, B, C đã thống nhất kế hoạch và cùng nhau thực hiện hành vi trộm cắp. Tức là cùng 1 lúc
có hơn 2 người thực hiện tội phạm thỏa mãn các điều kiện của Luật quy định.
Mỗi người thực hiện tội phạm với vai trò và mức độ trách nhiệm như sau: lOMoAR cPSD| 61631027
- Người thực hành: B và C. Vì B và C là người trực tiếp thực hiện hành vi phạm tội thông qua
hành vi B, C lẻn vào lấy chiếc xe máy.
- Người giúp sức: A. Bởi vì A là người tạo điều kiện tinh thần (đứng ngoài cảnh giới) quan sát,
đảm bảo cho B, C an tâm thực hiện hành vi phạm tội.
4. Có đồng phạm trong tội giết người không? Tại sao?
Theo quy định của pháp luật thì đồng phạm là trường hợp có hai người trở lên cố ý cùng thực hiện một tội phạm.
Tuy nhiên trong trường hợp này, khi bị phát giác, sẵn dao ở trong người C đã đâm chết anh thanh
niên kia mà không có sự trợ giúp của B - người cùng thực hiện hành vi trộm cắp trước đó. Đồng thời,
việc gây thiệt hại về tính mạng trong tình huống cũng không được bàn bạc trước đó nên không thỏa
mãn quy định của Luật đưa ra. Vì vậy, không có đồng phạm tội giết người trong trường hợp này. Bài tập 12.
A đang đi đường thì gặp B - một thanh niên không quen biết, đã say xỉn đòi A cho điếu thuốc lá.
A không chịu và bỏ đi. B cho là A coi thường mình nên đã rút dao giắt ở thắt lưng ra đâm A sượt qua
bờ vai. A bỏ chạy nhưng B vẫn rượt đuổi cùng với con dao găm trên tay. Gặp hẻm cụt, A hết đường
chạy, nên đã quay mặt lại đối diện với B, giằng được dao đâm nhiều nhát vào ngực của B. B chết tại chỗ.
Anh (chị) hãy xác định:
1. Trong tình huống trên quyền phòng vệ có khởi phát không?
Cơ sở pháp lý: Khoản 1 Điều 22 BLHS 2015 sửa đổi bổ sung 2017.
“1. Phòng vệ chính đáng là hành vi của người vì bảo vệ quyền hoặc lợi ích chính đáng của mình,
của người khác hoặc lợi ích của Nhà nước, của cơ quan, tổ chức mà chống trả lại một cách cần thiết
người đang có hành vi xâm phạm các lợi ích nói trên.
Phòng vệ chính đáng không phải là tội phạm.”
Trong tình huống trên quyền phòng vệ có khởi phát, bởi vì căn cứ vào các cơ sở phát sinh quyền phòng vệ sau:
- Việc A rút con dao ra, rượt đuổi theo B là hành vi có sự tấn công nguy hiểm đáng kể và trái với pháp luật.
- Hành vi tấn công của B xâm phạm đến quyền đảm bảo an toàn tính mạng, sức khỏe và thân thể của A.
- Hành vi tấn công của B đang xảy ra và đe dọa đến tính mạng của A ngay tại thời điểm đó.