Câu trả lời các nội dung ôn thi - Triết học Mác - Lênin | Đại học Tôn Đức Thắng

V.I.)Lênin (1870 - 1924) đã đấu tranh, phê phán không khoan nhượng đối với mọi kẻ thù, bảovệ và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác trong giai đoạn chủ nghĩa đế quốc. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!

Câu trả lời các nội dung ôn thi Triết học Mac-lenin (KHI CHÉP DÔ BÀI NHỚ TÓM LƯỢC ĐƯỢC
THÌ TÓM)
CHƯƠNG 1:
Câu 1:A) Trình bày được quaá trình hình thành phát triể của Triết học Mác
Lênin
a) Giai đoạn C.Mác - Ph.Ăngghen (1848 - 1895)
-Các Mác (1818 - 1883), Ph.Ăngghen (1820 - 1895) đều là người Đức. Từ năm 1844, hai ông bắt
đầu gặp nhau, sớm thống nhất tưởng hoạt động chính trị. Hai ông cùng nhau phát hiện ra
sức mạnh to lớn của giai cấp công nhân và chuyển biến từ chủ nghĩa duy tâm sang chủ nghĩa duy
vật, từ tinh thần dân chủ sang lập trường cách mạng.
- Tháng 2 - 1848, tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản do hai ông dự thảo được Đồng
minh những người cộng sản thông qua công bố Luân Đôn. Hai ông đã viết nhiều tác phẩm
hình thành ba bộ phận cấu thành chủ nghĩa Mác là triết học, kinh tế chính trị học và chủ nghĩa xã
hội khoa học. Hai ông còn tham gia sáng lập lãnh tụ của Quốc tế I (1863 - 1876), đặt nền
tảng cho sự ra đời phong trào công nhân quốc tế.
-Năm 1889, Ph.Ăngghen thành lập Quốc tế II, mở ra thời kỳ phát triển rộng của phong trào. Sau
khi Ph.Ăngghen mất, Quốc tế II dần dần bị phân liệt phá sản năm 1914.
-Bằng hoạt động lý luận, sáng lập học thuyết mang tên mình, Mác - Ăngghen đã đưa phong trào
công nhân từ tự phát thành phong trào tự giác và phát triển mạnh mẽ.
b) Giai đoạn (V.l.Lênin) phát triển chủ nghĩa Mác (1895 -1924)
-(V.I.)Lênin (1870 - 1924) đã đấu tranh, phê phán không khoan nhượng đối với mọi kẻ thù, bảo
vệ và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác trong giai đoạn chủ nghĩa đế quốc. Người phân tích sâu
sắc những mâu thuẫn nội tại của chủ nghĩa đế quốc và khẳng định cách mạng vô sản có thể nổ ra
thắng lợi ở một vài nước, thậm chí một nước bản kém phát triển. Cách mạng sản
phong trào giải phóng dân tộc có mối quan hệ khăng khít với nhau. Muốn cho cách mạng vô sản
thắng lợi tất yếu phải xây dựng một đảng kiểu mới của giai cấp công nhân. Đảng đó phải được tổ
chức chặt chẽ theo chủ nghĩa Mác.
-Qua lãnh đạo thắng lợi cuộc Cách mạng hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga năm 1917 thực
tiễn xây dựng chủ nghĩa hội nước Nga Liên (1917 - 1924), V.I. Lênin đã phát triển
những vấn đề lý luận mới. Đó là lý luận nhà nước và cách mạng, xây dựng chính quyền Xô viết;
phát triển kinh tế, khoa học - kỹ thuật, phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng quan hệ sản xuất
mới; công nghiệp hoá, điện khí hoá toàn quốc; thực hiện dân chủ hội chủ nghĩa...
-V.I. Lênin đã bổ sung, phát triển chủ nghĩa Mác thành chủ nghĩa Mác - Lênin. Chủ nghĩa Mác -
Lênin là một hệ thống lý luận thống nhất,khí lý luận của giai cấp vô sản và các dân tộc bị áp
bức trên toàn thế giới.
B) những nội dung cơ bản của Triết học Mác-Leenin về vấn đề cơ bản của triết học (
SGK trang 11 12 mục 2)
HOẶC TRẢ LỜI : Câu hỏi Vấn đề cơ bản của triết học?
Đáp. Câu trả lời gồm ba ý lớn
1) Khái niệm vấn đề cơ bản của triết học. Khởi điểm lý luận của bất kỳ học thuyết triết học
nào đều là vấn đề về mối quan hệ giữa tư duy với tồn tại; giữa cái tinh thần với cái vật chất; giữa
cái chủ quan với cái khách quan.
Vấn đề cơ bản của triết học có đặc điểm
a) Đó là vấn đề rộng nhất, chung nhất đóng vai trò nền tảng, định hướng để giải quyết những vấn
đề khác.
b) Nếu không giải quyết được vấn đề này thì không có cơ sở để giải quyết các vấn đề khác, ít
chung hơn của triết học.
c) Giải quyết vấn đề này như thế nào thể hiện thế giới quan của các nhà triết học và thế giới quan
đó là cơ sở tạo ra phương hướng nghiên cứu và giải quyết những vấn đề còn lại của triết học.
2) Định nghĩa. Theo Ph.Ăngghen, “Vấn đề cơ bản lớn của mọi triết học, đặc biệt là của triết học
hiện đại, là vấn đề quan hệ giữa tư duy và tồn tại”.
3) Hai nội dung (hai mặt) vấn đề cơ bản của triết học.
a) Mặt thứ nhất(mặt bản thể luận) vấn đề cơ bản của triết học giải quyết mối quan hệ giữa ý
thức với vật chất. Cái gì sinh ra và quy định cái gì- thế giới vật chất sinh ra và quy định thế giới
tinh thần; hoặc ngược lại, thế giới tinh thần sinh ra và quy định thế giới vật chất- đó là mặt thứ
nhất vấn đề cơ bản của triết học. Giải quyết mặt thứ nhất vấn đề cơ bản của triết học như thế nào
là cơ sở duy nhất phân chia các nhà triết học và các học thuyết của họ thành hai trường phái đối
lập nhau là chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm triết học; phân chia các nhà triết học và các
học thuyết của họ thành triết học nhất nguyên (còn gọi là nhất nguyên luận) và triết học nhị
nguyên (còn gọi là nhị nguyên luận).
b) Mặt thứ hai (mặt nhận thức luận) vấn đề cơ bản của triết học giải quyết mối quan hệ giữa
khách thể với chủ thể nhận thức, tức trả lời câu hỏi liệu con người có khả năng nhận thức được
thế giới (hiện thực khách quan) hay không? Giải quyết mặt thứ hai vấn đề cơ bản của triết học
như thế nào là cơ sở phân chia các nhà triết học và các học thuyết của họ thành phái khả tri (có
thể biết về thế giới), bất khả tri (không thể biết về thế giới) và hoài nghi luận (hoài nghi bản chất
nhận thức của con người về thế giới).
C) Nội dung căn bản của phép biện chứng duy vật và chủ nghĩa duy vật lịch sử ( hoặc skg
tr 12)
Chủ nghĩa duy vật lịch sử khẳng định tồn tại xã hội quyết định ý thức xã Nội dung cơ bản:
hội.Cốt lõi là , theo đó, trong các quan hệ xã hội, các học thuyết hình thái kinh tế-xã hội quan hệ
sản xuất kiến là cơ sở hiện thực của mỗi xã hội nhất định, cấu trúc hạ tầng, trên đó xây dựng lên
trúc thượng tầng chính trị pháp luật ý thức xã hội: , và các hình thái khác, với những thiết chế của
chúng. Mỗi hệ thống quan hệ sản xuất của một xã hội nhất định, phụ thuộc vào tính chất và trình
độ phát triển của các .Các lực lượng sản xuất luôn luôn phát triển không lực lượng sản xuất
ngừng, đến một giai đoạn nhất định sẽ mâu thuẫn với những quan hệ sản xuất cũ đã lỗi thời và
đòi hỏi phải thay đổi các quan hệ sản xuất ấy bằng những quan hệ sản xuất mới, tiến bộ hơn.
Trong xã hội có , sự thay đổi ấy được thực hiện bằng .Một khi cơ sở hạ giai cấp cách mạng xã hội
tầng đã thay đổi, thì toàn bộ cấu trúc thượng tầng sớm muộn cũng thay đổi theo. Hình thái kinh
tế - xã hội cũ được thay thế bằng một hình thái kinh tế - xã hội mới tiến bộ hơn. Như vậy, lịch sử
loài người là lịch sử thay thế của những hình thái kinh tế - xã hội khác nhau.Chủ nghĩa duy vật
lịch sử nhằm phát hiện ra những quy luật chung nhất của sự vận động phát triển của lịch sử, là
nguyên nhân dẫn đến sự thay thế các hình thái kinh tế - xã hội thấp đến trình độ cao hơn, vận
động theo hình xoáy ốc và đỉnh cao của nó là xã hội cộng sản chủ nghĩa, một xã hội công bằng,
tiến bộ, văn minh.
Nội dung:
*Chủ nghĩa duy vật biện chứng : bao gồm hai nguyên lý cơ bản là nguyên lý về mối liên hệ
phổ biến và nguyên lý về sự phát triển. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến thể hiện qua sáu cặp
phạm trù Cái chung và cái riêng Bản chất và hiện tượng Nội dung và hình được sử dụng là , ,
thức, , , .Nguyên lý về sự Tất nhiên và ngẫu nhiên Nguyên nhân và kết quả Khả năng và hiện thực
phát triển bao gồm: Quy luật mâu thuẫn, quy luật lượng - chất và quy luật phủ định. Trong đó:
-Quy luật mâu thuẫn chỉ ra nguồn gốc của sự phát triển
-Quy luật lượng - chất chỉ ra cách thức, hình thức của sự phát triển
-Quy luật phủ định chỉ ra khuynh hướng của sự phát triển.
Ba quy luật cơ bản này còn có ý nghĩa trong nhận thức và hành động. Những kết luận về mặt
phương pháp luận của nó luôn được coi là "kim chỉ nam" cho hoạt động cách mạng của những
người cộng sản.Theo Các Mác: Dưới dạng hợp lý của nó, phép biện chứng chỉ đem lại sự giận
dữ và kinh hoàng cho giai cấp tư sản và bọn tư tưởng gia giao điếu của chúng mà thôi, vì trong
quan niệm tích cực về cái đang tồn tại, phép biện chứng cũng bao hàm cả quan niệm, sự phủ
định cái đang tồn tại đó, về sự diệt vong tất yếu của nó, vì mỗi hình thái đều được phép biện
chứng xét trong sự vận động, tức xét cả mặt nhất thời của hình thái đó;… vì phép biện chứng
không khuất phục trước một cái gì cả, và về thực chất thì nó có tính chất phê phán và cách
mạng
.
[1]
Câu 2 A) Sơ sánh sự khác biệt giữa quan điểm duy vật và duy tâm trong việc giải
quyết vấn đề cơ bản của triết học
- Triết học là hệ thống tri thức lý luận chung nhất của con người về thế giới, về bản thân con
người và vị trí của con người trong thế giới đó.Triết học đã ra đời và phát triển trên hai ngàn
năm. Ở mỗi thời kỳ lịch sử khác nhau, triết học có đối tượng nghiên cứu khác nhau; song tổng
kết toàn bộ lịch sử triết học, Ph.Ăngghen đã khái quát: "Vấn đề cơ bản lớn của mọi triết học, đặc
biệt là của triết học hiện đại, là mối quan hệ giữa tư duy và tồn tại", giữa ý thức và vật chất, giữa
con người và giới tự nhiên.
-Vấn đề cơ bản của triết học có hai mặt. Thứ nhất, giữa ý thức và vật chất: cái nào có trước, cái
nào có sau? Cái nào quyết định cái nào? Thứ hai, con người có khả năng nhận thức được thế giới
hay không?
-Việc giải quyết mặi thứ nhất trong vấn đề cơ bản của triết học đã chia triết học thành hai trường
phái lớn:Chủ nghĩa duy vật chủ nghĩa duy tâm. Việc giải quyết mặt thứ hai trong vấn đề
bản của triết học chia quan điểm về nhận thức thành hai phái: Khả tri luận - phái bao hàm những
quan điếm thừa nhận khả năng nhận thức của con người - bất khả tri luận - phái bao hàm
những quan điểm phủ nhận khả năng đó.Đối với việc giải quyết mặt thứ nhất trong vấn đề cơ bản
của triết học, những người cho rằng bản chất thế giới là vật chất; vật chất là tính thứ nhất, ý thức
tính thứ hai; vật chất cái trước quyết định ý thức, được gọi các nhà duy vật; học
thuyết của họ hợp thành các môn phái khác nhau của chủ nghĩa duy vật. Ngược lại, những người
cho rằng: bản chất thế giới là ý thức; ý thức là tính thứ nhất, vật chất là tính thứ hai; ý thức quyết
định vật chất, được gọi các nhà duy tâm; học thuyết của họ hợp thành những môn phái khác
nhau của chủ nghĩa duy tâm.Chủ nghĩa duy tâm có nguồn gốc nhận thức và nguồn gốc xã hội, đó
là: sự xem xét phiến diện, tuyệt đối hóa, thần thánh hóa một mặt, một đặc tính nào đó của quá
trình nhận thức và thường gắn với lợi ích của các giai cấp, tầng lớp áp bức, bóc lột nhân dân lao
động. Chú nghĩa duy tâm tôn giáo cũng thường có mối liên hệ mật thiết với nhau, nương tựa
vào nhau để cùng tồn tại phát triển.
-Trong lịch sử, chủ nghĩa duy tâm có hai hình thức cơ bản là chủ nghĩa duy tâm chủ quan và chủ
nghĩa duy tâm khách quan. Chủ nghĩa duy tâm chủ quan thừa nhận tính thứ nhất của ý thức con
người. Trong khi phủ nhận sự tồn tại khách quan của hiện thực, chủ nghĩa duy tâm chủ quan
khẳng định mọi sự vật, hiện tượng chỉ "phức hợp những cảm giảc" của nhân. Chủ nghĩa
duy tâm khách quan cũng thừa nhận tinh thứ nhất của tinh thần, ý thức nhưng tinh thần, ý thức
ấy là tinh thần khách quan, ý thức khách quan có trước, tồn tại độc lập với giới tự nhiên, với con
người thể hiện dưới nhiều tên gọi khác nhau, như: niệm tuyệt đối", "tinh thần tuyệt đối"
hay "lý tính thế giới", v.v.
-Đối lập với chủ nghĩa duy tâm, quá trình ra đời phát triển của chủ nghĩa duy vật nguồn
gốc từ thực tiễn sự phát triển của khoa học. Chính qua thực tiễn khái quát hóa thức của
nhân loại trong nhiều lĩnh vực, chủ nghĩa duy vật thể hiện là hệ thống tri thức lý luận chung nhất
gắn với lợi ích của các lực lượng hội tiến bộ, định hướng cho các lực lượng này trong hoạt
động nhận thức thực tiễn.
B) Phân tích quan điểm của triết học Mác-Leenin trong việc giải quyết vấn đề
bản của triết học ( nên xem kỉ câu trả lời hợp câu hỏi không, coi chừng lạc đề).. thấy cũng oke
-Ăngghen định nghĩa vấn đề bản của triết học như sau: Vấn đề bản lớn của mọi Triết
học, đặc biệt là Triết học hiện đại, là vấn đề quan hệ giữa tư duy với tồn tại”
+ Trên thực tế những hiện tượng chúng ta gặp hàng ngày hoặc là hiện tượng vật chất tồn tại bên
ngoài ý thức của chúng ta, hoặc là hiện tượng tinh thần tồn tại trong ý thức của chúng ta, không
có bất kỳ hiện tượng nào nằm ngoài hai lĩnh vực ấy. + Bất kỳ trường phái triết học nào cũng phải
đề cập và giải quyết mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, giữa tồn tại và tư duy. + Kết quả và thái
độ của việc giải quyết vấn đề đó quyết định sự hình thành thế giới quan và phương pháp luận của
nhà nghiên cứu, xác định bản chất của các trường phái triết học đó, cụ thể:
* Căn cứ vào cách trả lời câu hỏi thứ nhất để chúng ta biết được hệ thống triết học này, nhà triết
học này duy vật hay duy tâm, họ triết học nhất nguyên hay nhị nguyên.
* Căn cứ vào cách trả lời câu hỏi thứ hai để chúng ta biết được nhà triết học đó theo thuyết khả
tri hay bất khả tri.+ Đây là vấn đề chung, nó mãi mãi tồn tại cùng con người và xã hội loài người.
CÂU 3) Phân tích thực chất và ý nghĩa cuộc cách mạng trong triết hoc do C.Mác và
Angghen thực hiện
-Thực chất của cuộc cách mạng trong lịch sử triết học do C.Mác thực hiện là ở chỗ, khắc phục sự
tách rời giữa thế giới quan duy vậtphương pháp biện chứng để tạo nên sự thống nhất hữu
giữa chủ nghĩa duy vật phương pháp biện chứng; sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật lịch sử; đưa
triết học trở thành công cụ nhận thức và cải tạo thế giới; thiết lập mối liên minh giữa triết học
các khoa học cụ thể. Trong thời đại ngày nay, cuộc cách mạng đó vẫn giữ nguyên ý nghĩa to lớn
của nó trong việc phát triển triết học Mác - Lênin, bởi nó là một hệ thống mở, gắn bó hữu cơ với
thực tiễn cách mạng của quần chúng nhân dân, với các khoa học cụ thể.
1. Sự ra đời của triết học Mác vào những năm 40 của thế kỷ XIX đã được thừa nhận là một cuộc
cách mạng trong lịch sử triết học. Cuộc cách mạng này đã đưa triết học nhân loại từ thời kỳ chủ
yếu là “giải thích thế giới” sang thời kỳ không chỉ “giải thích thế giới”, mà còn “cải tạo thế giới”.
ràng là, với sự ra đời của triết học Mác, lịch sử triết học của nhân loại đã chuyển sang một
thời kỳ mới về chất. Thực chất của cuộc cách mạng này được thể hiện ở những điểm cơ bản sau:
-Thứ nhất, khắc phục sự tách rời giữa thế giới quan duy vậtphương pháp biện chứng trong
lịch sử triết học trước đó, C.Mác đã tạo nên sự thống nhất hữu không thể tách rời giữa chủ
nghĩa duy vật phương pháp biện chứng - đó là chủ nghĩa duy vật biện chứng. , sángThứ hai
tạo ra chủ nghĩa duy vật lịch sử biểu hiện đại nhất của cuộc cách mạng trong triết học do
C.Mác thực hiện. , với sự sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vậtThứ ba
lịch sử, C.Mác đã khắc phục được sự đối lập giữa triết học với hoạt động thực tiễn của con
người. Trên sở đó, triết học của ông đã trở thành công cụ nhận thức cải tạo thế giới của
nhân loại tiến bộ. với việc sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật biện chứng chủ nghĩa duy Thứ tư,
vật lịch sử, C.Mác đã khắc phục được sự đối lập giữa triết học với các khoa học cụ thể.
2. Kể từ khi triết học Mác ra đời cho đến nay, thực tiễn đã có nhiều đổi thay, nhưng triết học Mác
vẫn giữ nguyên ý nghĩa luận cũng như giá trị thực tiễn trong thời đại ngày nay. thể nói,
cuộc cách mạng trong triết học do C.Mác thực hiện vào những năm 40 của thế kỷ XIX vẫn gi
nguyên ý nghĩa to lớn trong việc phát triển triết học Mác - Lênin thời đại ngày nay. Điều này
thể hiện ở chỗ:
-Một là, với tinh thần của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chúng ta phải thấy rằng, triết học Mác -
Lênin một hệ thống mở chứ không phải hệ thống khép kín; đòi hỏi luôn phải được bổ
sung, hoàn thiện, phát triển. Đối với phương pháp biện chứng duy vật, không bất biến.
Bản thân C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin không bao giờ tự coiluận của các ông“bất khả
xâm phạm”, khép kín, chân tuyệt đích cuối cùng. Trái lại, các nhà kinh điển của chủ
nghĩa Mác - Lênin luôn đòi hỏi những người cộng sản sau này phải biết vận dụng sáng tạo những
nguyên lýbản của triết học Mác - Lênin sao cho phù hợp với điều kiện thực tiễn và phải biết
bổ sung, hoàn thiện, phát triển chúng sự ra đời của triết học Mác gắn chặt chẽ với.-Hai ,
thực tiễn phong trào công nhân những năm 30 - 40 của thế kỷ XIX. Bản thân triết học Mác cũng
gắn bó hữuvới thực tiễn cách mạng của quần chúng nhân dân. Chính C.Mác, trong quá trình
sáng tạo triết học, đã khắc phục sự đối lập giữa triết học với hoạt động thực tiễn của con người.
Bởi vậy, bổ sung, hoàn thiện, phát triển triết học Mác - Lênin phải theo hướng gắn với thực
tiễn, bảo đảm sự thống nhất giữa triết học với thực tiễn. Thực tiễn luôn vận động, biến đổi
phát triển, do vậy, nhận thức của con người cũng luôn cần được bổ sung, hoàn thiện và phát triển
cho phù hợp với thực tiễn đó ngay từ khi mới ra đời, triết học Mác đã gắn hữu cơ với.-Ba là,
các khoa học cụ thể. Do vậy, ngày nay, với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ,
triết học Mác - Lênin không thể không được bổ sung, hoàn thiện, phát triển luận của mình.
Ph.Ăngghen đã từng nhấn mạnh: “Mỗi lần có một phát minh mang ý nghĩa thời đại ngay cả trong
lĩnh vực khoa học lịch sử - tự nhiên thì chủ nghĩa duy vật lại không tránh khỏi thay đổi hình thức
của nó; từ khi bản thân lịch sử cũng được giải thích theo quan điểm duy vật chủ nghĩa thì
đây, cũng mở ra một con đường phát triển mới”
Như vậy, thể khẳng định lại rằng, hơn một thế kỷ rưỡi đã trôi qua, kể từ khi cuộc cách mạng
trong triết học được C.Mác thực hiện, ý nghĩa của cuộc cách mạng này vẫn giữ nguyên tính thời
sự và tính thực tiễn cho việc phát triển triết học Mác - Lênin trong thời đại hiện nay.
Câu 4 ) Vì sao triết học do Mác và Angghen sáng lập lại có tên là triết học Mác-Lenin
-Triết học Marx-Lenin (phiên âm tiếng Việt: Triết học Mác - Lenin) hay học thuyết Marx-
Lenin là một trong ba bộ phận cấu thành của , được , sáng lậpchủ nghĩa Marx-Lenin Marx Engels
vào giữa thế kỷ thứ XIX, sau đó được các nhà macxit khác phát triển thêm. Lenin Triết
học Marx-Lenin ra đời vào những năm 40 thế kỉ XIX được phát triển gắn chặt với những
thành tựu khoa học thực tiễn trong phong trào cách mạng công nhân. Sự ra đời của triết học
Marx-Lenin là một cuộc cách mạng thực sự trong lịch sửtưởng loài người, trong lịch sử triết
học.
-Triết học Marx-Lenin hình thành dựa trên hệ thống quan điểm của Marx, Engels và được Lenin
bổ sung sau này. Trong đó Engels đã phát triển triết học Marx, thông qua việc khái quát các
thành tựu khoa học và phê phán các lý thuyết triết học duy tâm, siêu hình và cả những quan niệm
duy vật tầm thường những người muốn trở thành những người Mác-xít. Với những tác phẩm
chủ yếu của mình như: , , Chống Duyring Biện chứng của tự nhiên Nguồn gốc của gia đình, của
chế độ hữu nhà nước Lut vich Phoi bách sự cáo chung của triết học cổ điển Đức, ,
Engels đã trình bày học thuyết Mác nói chung và triết học Mác nói riêng dưới dạng một hệ thống
lý luận. Ngoài ra những ý kiến bổ sung, giải thích của Engels sau khi Mác qua đời đối với một số
luận điểm của ông trước đây cũng có ý nghĩa rất quan trọng trong việc phát triển học thuyết Mác.
[1]
Sau khi Mác và Angghen qua đời, Lenin là người bảo vệ bổ sung phát triển và tận dụng sáng tạo
chủ nghĩa Mác. Chủ nghĩa Lenin hình thành và phát triển trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa
duy tâm, xét lại giáo điều; sự tiếp tục giai đoạn mới trong lịch sử chủ nghĩa Mác để
giải quyết những vấn đề cách mạng sản trong giai đoạn chủ nghĩa đế quốc bước đầu xây
dựng chủ nghĩa xã hội. Lenin cũng chú ý đến việc chống chủ nghĩa giáo điều khi vận dụng chủ
nghĩa Mác nếu không muốn lạc hậu so với cuộc sống. Di sản kinh điển của V.I.Lenin trở thành
cơ sở cho việc nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn của các đảng cộng sản. Thiên tài về
luận thực tiễn của Lenin trong việc kế thừa, bảo vệ phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác
được những người cộng sản đánh giá cao. Họ đặt tên cho chủ nghĩa của mìnhchủ nghĩa Mác-
Lênin.
HOẶC TRẢ LỜI THẾ NÀY cho đầy đủ (TÙY THEO THỜI GIAN PHÂN BỔ TRẢ LỜI
CÁC CÂU HỎI LỰA CHỌN CHÉP CÁI TRÊN HAY DƯỚI) : Câu hỏi 4. Tại sao
chúng ta gọi chủ nghĩa Mác chủ nghĩa Mác-Lênin? Đáp. Sau khi C.Mác Ph.Ăngghen
qua đời, V.I.Lênin là người bảo vệ, bổ sung, phát triển và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác. Chủ
nghĩa Lênin hình thành phát triển trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm, xét lại
giáo điều; là sự tiếp tục và là giai đoạn mới trong lịch sử chủ nghĩa Mác để giải quyết những vấn
đề cách mạng vô sản trong giai đoạn chủ nghĩa đế quốc và bước đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội.
1) Nhu cầu bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác. a) Những năm cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX,
chủ nghĩa tư bản đã bước sang giai đoạn chủ nghĩa đế quốc. Bản chất bóc lột và thống trị của chủ
nghĩa tư bản ngày càng tinh vi, tàn bạo hơn; mâu thuẫn đặc thù vốn có của chủ nghĩa tư bản ngày
càng bộc lộ sâu sắc mà điển hình là mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản. b) Những
năm cuối thế kỷ XIX, bước sang thế kỷ XX, có những phát minh vật lý mang tính vạch thời đại,
làm đảo lộn căn bản quan niệm ngàn đời về vật chất. Đây hội để chủ nghĩa duy tâm tấn
công chủ nghĩa Mác; một số nhà khoa học tự nhiên rơi vào tình trạng khủng hoảng về thế giới
quan, gây ảnh hưởng trực tiếp đến nhận thức hành động của phong trào cách mạng. c) Chủ
nghĩa Mác đã được truyền vào nước Nga; nhưng những trào lưu như chủ nghĩa kinh nghiệm
phê phán, chủ nghĩa thực dụng, chủ nghĩa xét lại v.v đã nhân danh đổi mới chủ nghĩa Mác để
xuyên tạc phủ nhận chủ nghĩa đó. Trong bối cảnh như vậy, nhu cầu khách quan về việc khái
quát những thành tựu khoa học tự nhiên để rút ra những kết luận về thế giới quan phương
pháp luận triết học cho các khoa học chuyên ngành; đấu tranh chống lại những trào lưu tư tưởng
phản động và phát triển chủ nghĩa Mác đã được thực tiễn nước Nga đặt ra. Hoạt động lý luận của
V.I.Lênin nhằm đáp ứng nhu cầu lịch sử đó. 2) Quá trình V.I.Lênin bảo vệ và phát triển chủ nghĩa
Mác được chia thành ba thời kỳ, tương ứng với ba nhu cầu khách quan của thực tiễn nước Nga.
a) Trong thời kỳ 1893-1907, V.I.Lênin tập trung phê phán tính duy tâm của phái “dân túy” về
những vấn đề lịch sử-xã hội chỉ ra rằng, qua việc xóa nhòa ranh giới giữa phép biện chứng
duy vật với phép biện chứng duy tâm của Hêghen, phái dân túy đã xuyên tạc chủ nghĩa Mác.
V.I.Lênin cũng phát triển quan điểm của chủ nghĩa Mác về các hình thức đấu tranh giai cấp của
giai cấp sản trước khi giành được chính quyền; trong đó các vấn đề về đấu tranh kinh tế,
chính trị, tư tưởng được đề cập nét; ông cũng phát triển chủ nghĩa Mác về những vấn đề như
phương pháp cách mạng; nhân tố chủ quan yếu tố khách quan; vai trò của quần chúng nhân
dân; của các đảng chính trị trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa. b) Trong thời kỳ 1907-1917,
V.I.Lênin viết tác phẩm Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán (1909)- tác phẩm
khái quát từ góc độ triết học những thành tựu mới nhất của khoa học tự nhiên để bảo vệ tiếp
tục phát triển chủ nghĩa Mác; phê phán triết học duy tâm chủ quan đang chống lại chủ nghĩa duy
vật nói chung và chủ nghĩa duy vật biện chứng nói riêng. Trong tác phẩm, vấn đề cơ bản của triết
học phạm trù vật chất ý nghĩa hệ tưởng phương pháp luận hết sức to lớn. Bảo vệ
phát triển chủ nghĩa Mác về nhận thức, V.I.Lênin cũng chỉ ra sự thống nhất bên trong, không tách
rời của chủ nghĩa duy vật biện chứng với chủ nghĩa duy vật lịch sử; sự thống nhất của những
luận giải duy vật về tự nhiên, về hội, về con người duy của nó. Trong tác phẩm Bút
triết học (1914-1916), V.I.Lênin tiếp tục khai thác hạt nhân hợp của triết học Hêghen để làm
phong phú thêm phép biện chứng duy vật, đặc biệt luận về sự thống nhất giữa các mặt đối
lập. Năm 1917, V.I.Lênin viết tác phẩm Nhà nước và cách mạng bàn về vấn đề nhà nước chuyên
chính sản, bạo lực cách mạng vai trò của đảng công nhân con đường xây dựng chủ
nghĩa xã hội; đưa ratưởng về nhà nước Xôviết, coi đó hình thức của chuyên chính sản;
vạch ra những nhiệm vụ chính trị kinh tế nhà nước đó phải thực hiện chỉ ra những
nguồn gốc vật chất của chủ nghĩa hội được tạo ra do sự phát triển của chủ nghĩa bản. c)
Thời kỳ 1917-1924. Thắng lợi của cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười (Nga) năm 1917 mở
ra thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Sự kiện này làm nẩy sinh những nhu
cầu mới về lý luận mà sinh thời C.Mác và Ph.Ăngghen chưa thể hiện; V.I.Lênin tiếp tục tổng kết
thực tiễn để đáp ứng nhu cầu đó bằng các tác phẩmcác nội dung chính của chúng cho rằng
việc thực hiện kiểm tra, kiểm soát toàn dân; tổ chức thi đua xã hội chủ nghĩa là những điều kiện
cần thiết để chuyển sang xây dựng "chủ nghĩa hội kế hoạch". V.I.Lênin cũng chỉ ra rằng,
nguyên tắc tập trung dân chủ là cơ sở của công cuộc xây dựng kinh tế; xây dựng nhà nước xã hội
chủ nghĩa. Ông nhấn mạnh tính lâu dài của thời kỳ quá độ, không tránh khỏi phải đi qua những
nấc thang trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. V.I.Lênin khẳng định vai trò kinh tế hàng hóa
trong điều kiện nền sản xuất hàng hoá nhỏ đang chiếm ưu thế trong công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội. Nhận thấy sự quan liêu đã bắt đầu xuất hiện trong nhà nước công nông non trẻ, ông
đề nghị những người cộng sản cần thường xuyên chống ba kẻ thù chính là sự kiêu ngạo, ít học và
tham nhũng. V.I.Lênin cũng chú ý đến việc chống chủ nghĩa giáo điều khi vận dụng chủ nghĩa
Mác nếu không muốn lạc hậu so với cuộc sống. Di sản kinh điển của V.I.Lênin trở thành sở
cho việc nghiên cứu những vấn đề luận thực tiễn của các đảng cộng sản. Thiên tài về
luận và thực tiễn của V.I. Lênin trong việc kế thừa, bảo vệ phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác
được những người cộng sản đánh giá cao. Họ đặt tên cho chủ nghĩa của mìnhchủ nghĩa Mác-
Lênin.
Câu 5 ) Đối tượng phương pháp nghiên cứu của triết học Mác-Lenin
- Đối tượng của triết học được hiểu là những mối liên hệ chung nhất của hiện thực khách quan,
hoặc nhũng sự vật được con người tưởng tượng ra được phản ánh trong các phạm trù, khái
niệm của triết học. Ngoài ra Đối tượng nghiên cứu của triết học còn được hiểu là những mối liên
hệ chung nhất của thế giới vật chất cả bản chất, mối liên hệ giữa thế giới vật chất với nhũng
sự vật hiện tượng do con người tưởng tượng ra như Thượng đế, thế giới thần thánh, thần linh v.v.
-Triết học Mác xác định đối tượng nghiên cứu của triết học là: Tiếp tục giải quyết vấn đề về mối
quan hệ giữa tư duy và tồn tại, giữa ý thức và vật chất trẽn lập trường duy vật; nghiên cứu những
quy luật chung nhất của tự nhiên, hội duy, từ đó định hướng cho hoạt động nhận thức,
hoạt động thực tiễn của con người.
-Phương pháp nghiên cứu của triết học:Mỗi khoa học đều khách thể đối tượng nghiên
cứu của nó, nên chúng đều có phương pháp nghiên cứu nhất định.
- Trước hết, đạo đức học cũng như các khoa học khác, phải lấy từ phương pháp duy vật biện
chứng phương pháp duy vật lịch sử làm phương pháp nghiên cứu của mình. Nghĩa là, trong
quá trình tìm hiểu, nghiên cứu đạo đức học, phải vận dụng triệt để, nhất quán những nguyên lý,
qui luật của triết học Mác - Lênin, đặc biệt phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật lịch sử
mới khắc phục được những hạn chế, những sai lầm của đạo đức học trước Mác. Đó là những sai
lầm cực đoan của chủ nghĩa kinh nghiệm, chủ nghĩa duy lý, duy tâm thần học. Đạo đức học
môn khoa học hội thế nghiên cứu phải đặt trong mối quan hệ biện chứng với những
thành tựu của các bộ môn khoa học xã hội khác như: Luật học, Mỹ học, Chính trị học, đặc biệt là
giáo dục học, tâm lý học. Bởi vì các môn đó vừa là phương thức thực hiện những chức năng thực
hành đạo đức, vừa là ngọn nguồn, bộ phận của đạo đức học.
- Hai là, phương pháp lịch sử, so sánh.Đạo đức học là một phạm trù lịch sử, phát sinh, tồn
tại, phát triển trong từng giai đoạn lịch sử hội nhất định. Do đó, quan niệm về đạo đức trong
lịch sử phải được xem như những nấc thang giá trị nhất định của xã hội loài người. Nó luôn luôn
bị phủ định, lọc bỏ, kế thừa để phát triển không ngừng với sự tiến bộ xã hội nói chung. Mỗi hiện
tượng đạo đức hiện thực cội nguồn từ sở của quá khứ, của một nền truyền thống lịch sử,
đồng thời đạo đức hiện tại là tiền đề để phát triển trong tương lai, như là một quá trình phủ định
biện chứng. thế phương pháp lịch sử, so sánh giúp ta thấy được cái logic bản chất của hiện
tượng đạo đức.Tiếp tục cụ thể hoá tưởng của Mác về tính quy định của sở kinh tế đối
với ý thức xã hội nói chung và đạo đức nói riêng, Ănghen đã luận chững cho bản chất xã hội của
đạo đức bằng cách chỉ ra tính thời đại, tính dân tộc và tính giai cấp của đạo đức.
Câu 6) Khái quát vai trò thế giới quan phương pháp luận của triết học Mác-Lenin đối
với thực tiễn cách mạng VN đối với bản thân sinh viên ( NÊN VIẾT PHẦN DƯỚI
CÙNG)
ĐỐI VỚI THỰC TIỄN CÁCH MẠNG VIỆT NAM
Vai trò thế giới quan của triết học* Tồn tại trong mối quan hệ với thế giới xung quanh,
muốn hay không con người cũng phải nhận thức thế giới và nhận thức bản thân mình. Những tri
thức này cùng với niềm tin vào nó dần dần hình thành nên thế giới quan.* Thế giới quan là nhân
tố định hướng cho quá trình hoạt động sống của con người. Thế giới quan như một “thấu kính”
qua đó con người xác định mục đích, ý nghĩa cuộc sống và lựa chọn cách thức đạt mục đích đó.*
Trình độ phát triển của thế giới quan tiêu chí quan trọng về sự trưởng thành của mỗi nhân
cũng như mỗi cộng đồng nhất định.* Triết học ra đời với tư cách là hạt nhân lý luận của thế giới
quan, làm cho thế giới quan phát triển như một quá trình tự giác dựa trên sự tổng kết kinh
nghiệm thực tiễn và tri thức do các khoa học đưa lại. Đó là chức năng thế giới quan của triết học.
+ Chủ nghĩa duy vật chủ nghĩa duy tâmcơ sở luận của hai thế giới quan bản đối lập
nhau. Chính vì vậy chúng đóng vai trò là nền tảng thế giới quan của các hệ tư tưởng đối lập.Cuộc
đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật chủ nghĩa duym trong triết học biểu hiện bằng cách này
hay cách khác cuộc đấu tranh giữa những giai cấp, những lực lượng xã hội đối lập nhau.Do vậy:
+ Thế giới quan đúng đắn là tiền đề để xác lập nhân sinh quan tích cực giúp cho con người sáng
tạo trong hoạt động.+ Thế giới quan sai lầm làm cho con người sống thụ động hoặc sai lệch trong
hoạt động. + Việc nghiên cứu triết học giúp ta định hướng hoàn thiện thế giới quan.
Vai trò phương pháp luận của triết học:Phương pháp luận luận về phương pháp; hệ
thống quan điểm tính nguyên tắc chỉ đạo việc tìm tòi, xây dựng, lựa chọn vận dụng các
phương pháp.* Triết học thực hiện chức năng phương pháp luận chung nhất+ Tri thức triết học là
hệ thống tri thức chung nhất về thế giới vai trò con người trong thế giới, nghiên cứu các qui
luật chung nhất chi phối cả tự nhiên, xã hội và tư duy.+ Mỗi luận điểm triết học đồng thời là một
nguyên tắc trong việc xác định phương pháp, luận về phương pháp.Việc nghiên cứu triết
học giúp ta được phương pháp luận chung nhất, trở nên năng động sáng tạo trong hoạt động
phù hợp với xu thế phát triển chung
ĐỐI VỚI BẢN THÂN SINH VIÊN ( đổi chữ học viên, con người thành sinh viên)
-Đối với người học, cần thống nhất giữa luận thực tiễn trong học tập, tiếp thu tri thức
luận chính trị. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Học tập chủ nghĩa Mác - Lênin học tập cái
tinh thần xử trí mọi việc, đối với mọi người đối với bản thân mình; học tập những chân lý
phổ biến của chủ nghĩa Mác - Lênin để áp dụng một cách sáng tạo vào hoàn cảnh thực tiễn
nước ta. Học để mà làm. Lý luận đi đôi với thực tiễn”
Vai trò của thế giới quan
-Thứ nhất, thế giới quan duy vật biện chứng giúp cho học viên nâng cao năng lực nhận thức;
vận dụng sáng tạo đường lối, chính sách của Đảng Nhà nước trong việc đề ra chủ trương,
chính sách phù hợp với yêu cầu phát triển địa phương, đơn vị. , thế giới quan duy vật-Thứ hai
biện chứng giúp cho học viên được niềm tin vào sự tất thắng của chủ nghĩa hội, tin vào
đường lối chính trị của Đảng, tin vào quần chúng nhân dân. , thế giới quan duy vật biện-Thứ ba
chứng giúp cho học viên nâng cao năng lực tổng kết thực tiễn, đúc rút bài học kinh nghiệm, định
hướng cho hoạt động nhận thức hoạt động thực tiễn tiếp theo. thế giới quan duy vật-thứ ,
biện chứng giúp cho học viên trau dồi và nâng cao phẩm chất đạo đức cách mạng.
*Tóm lại, thế giới quan duy vật biện chứng vai trò cùng to lớn, tác động đến mọi hoạt
động nhận thức và thực tiễn của học viên. Để mỗi người cán bộ thực sự lực lượng của Đảng, của
Nhà nước và Nhân dân, luôn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao trong mọi tình huống, đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, đòi hỏi người học viên phải không ngừng ra sức
phấn đấu học tập, rèn luyện để
*Vaitròcủaphươngphápluận
-Với tư cách là hệ thống tri thức lý luận chung nhất của con người về thế giới, về vị trí, vai trò
của con người trong thế giới đó, triết học đóng vai trò là hạt nhân lý luận của thế giới quan. Triết
học giữ vai trò định hướng cho quá trình củng cố phát triển thế giới quan của mỗi nhân,
mỗi cộng đồng trong lịch sử. Trang bị thế giới quan đúng đắn mới chỉ một mặt của triết học
Mác - Lênin.( -Với cách hệ thống tri thức chung nhất của con người về thế giới vai trò
của con người trong thế giới đó, triết học )thực hiện chức năng phương pháp luận chung nhất.
Phương pháp luận của triết học Mác - Lênin đã góp phần quan trọng chỉ đạo, định hướng cho
con người trong nhận thức và hoạt động thực tiễn.
Bổsungthêmphầnđốivớisinhviên:
Khái lược về vai trò (chức năng) thế giới quan và phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật
biện chứng?Đáp án.Chủ nghĩa duy vật biện chứng nhiều chức năng, nhưng bản nhất
chức năng thế giới quan duy vật biện chứng và chức năng phương pháp luận biện chứng duy vật
của nhận thức khoa học thực tiễn cách mạng.
1) Thế giới quan hệ thống những nguyên tắc, quan điểm, niềm tin về thế giới; về bản thân
con người, về cuộc sống vị trí của con người trong thế giới ấy. Vai trò bản của thế giới
quan sự định hướng hoạt động và quan hệ giữa cá nhân, giai cấp, tập đoàn người, của hội
nói chung đốivớihiệnthực.Hệ thống các quan niệm triết học, kinh tế chính trị-xã hội sở
khoa học của thế giới quan duy vật biện chứng và thế giới quan duy vật biện chứng trước hết thể
hiện ởch giải quyết vấn đề bản của triết học; theo đó vật chất trướcquy định ý thức
(duy vật), nhưng ý thức tồn tại độc lập tương đối và tác động trở lại vật chất (biện chứng). Trong
lĩnh vực kinh tế, thế giới quan duy vật biện chứng thể hiện chỗ lực lượng sản xuất (cái thứ
nhất) quy định ý quan hệ sản xuất (cái thứ hai), sở hạ tầng (cái thứ nhất) quy định kiến trúc
thượng tầng (cái thứ hai); nhưng cái thứ hai luôn tồn tại độc lập tương đối và tác động trở lại cái
thứ nhất. Trong lĩnh vực xã hội, tồn tại xã hội (cái thứ nhất) quy định ý thức xã hội (cái thứ hai);
nhưng ý thức xã hội tồn tại độc lập tương đối và tác động trực tiếp hay gián tiếp trở lại tồn tại
hội.
2) Phương pháp luận là hệ thống những quan điểm, những nguyên tắc xuất phát chỉ đạo chủ thể
trong việc xác định phương pháp cũng như trong việc xác định phạm vi, khả năng áp dụng chúng
một cách hợp lý, có hiệu quả tối đa. Phương pháp luận là lý luận về phương pháp, là khoa học về
phương pháp. Nhiệm vụ của phương pháp luận giải quyết những vấn đề như phương pháp
gì? Bản chất, nội dung, hình thức của phương pháp ra sao? Phân loại phương pháp cần dựa vào
những tiêu chí gì? Vai trò của phương pháp trong hoạt động nhận thức hoạt động thực tiễn?
v.v.
-Chức năng (CÓ THỂ VAI TRÒ LUÔN) phương pháp luận biện chứng duy vật thể hiện ở
hệ thống các nguyên tắc, phương pháp tổ chức và xây dựng hoạt động lý luận và hoạt động thực
tiễn, đồng thời cũng chính học thuyết về hệ thống đó phương pháp luận chung nhất của
các khoa học chuyên ngành. Phương pháp luận biện chứng duy vật sự thống nhất biện chứng
giữa các phương pháp luận bộ môn, phương pháp luận chung đã được cụ thể hoá trong các lĩnh
vực của hoạt động nhận thứchoạt động thực tiễn. Với tư cách là hệ thống tri thức chung nhất
về thế giới về vai trò, vị trí của con người trong thế giới đó cùng với việc nghiên cứu những
quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy, chủ nghĩa duy vật biện chứng thực hiện chức
năng phương pháp luận chung nhất. Mỗi luận điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng đồng thời
là một nguyên tắc trong việc xác định, lý luận về phương pháp. Những chức năng trên tạo ra khả
năng cải tạo thế giới của chủ nghĩa duy vật biện chứng, trthành công cụ hữu hiệu trong hoạt
động chinh phục tự nhiên sự nghiệp giải phóng con người.
Thế giới quan duy vật biện chứng phương pháp luận biện chứng duy vật triết họcsở
luận nền tảng của chủ nghĩa Mác-Lênin. Nắm vững chúng chẳng những điều kiện tiên quyết
để nghiên cứu toàn bộ hệ thống lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin, mà còn là cơ sở để vận dụng sáng
tạo phát triển chúng vào hoạt động nhận thức; giải thích, nhận thức giải quyết những vấn
đề cấp bách của thực tiễn đất nước thời đại đặt ra.
Câu hỏi 6. Mục đích và yêu cầu của việc học tập, nghiên cứu môn học Những nguyên lý
bản củachủnghĩaMác-Lênin?Đáp án. Học tập, nghiên cứu môn học Những nguyên bản
của chủ nghĩa Mác-Lênin cần phải theo phương pháp gắn những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa
Mác-Lênin với thực tiễn đất nước thời đại;
Học tập, nghiên cứu môn học Những nguyêncơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin cần phải hiểu
đúng tinh thần, thực chất của nó; tránh bệnh kinh viện, giáo điều trong học tập, nghiên cứu
vận dụng các nguyên đó trong thực tiễn;
Học tập, nghiên cứu môn học mỗi nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin trong mối quan hệ
với các nguyên lý khác; mỗi bộ phậnluận cấu thành này phải gắn kết với các bộ phận lý luận
cấu thành còn lại để thấy sự thống nhất của các bộ phận đó trong chủ nghĩa Mác-Lênin; đồng
thời cũng nên nhận thức các nguyên đó trong tiến trình phát triển của lịch sử tưởng nhân
loại.
CHƯƠNG 2
Câu 1) A) Vị trí vai trò của phạm trù vật chất trong lịch sử triết học(Chắc lọc trước khi
chép)
*PHẠM TRÙ VẬT CHẤT : phạm trù vật chất một trong những phạm trù bản của triết
học duy vật. Việc nhận thức đúng đắn nội dung của phạm trù này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng
để khẳng định tính chất khoa học, đúng đắn của quan điểm duy vật biện chứng về thế giới.
-Việc khám phá bản chất cấu trúc của sự tồn tại của thế giới xung quanh ta, trước hết
thế giới những vật thể hữu hình, từ xưa tới nay, luôn luôn vấn đề được quan tâm hàng đầu
trong lịch sử nhận thức của nhân loại. Hầu hết các trường phái triết học đều bằng cách này hay
bằng cách khác giải quyết vấn đề này. bởi vậy trong triết học, phạm trù vật chất xuất hiện.
-Vật chất với tính cách là phạm trù triết học ra đời trong triết học Hy Lạp ở thời kỳ cổ đại. Ngay
từ lúc mới xuất hiện, xung quanh phạm trù này đã diễn ra cuộc đấu tranh không khoan nhượng
giữa chủ nghĩa duy vậtchủ nghĩa duy tâm. Cũng với sự tiến triển của tri thức loài người, đến
nay nội dung của phạm trù này đã trải qua những biến đổi sâu sắc.Theo quan điểm của chủ nghĩa
duy tâm thì thực thể của thế giới, sở của mọi tồn tại một bản nguyên tinh thần nào đó. Đó
thể “ý chí của Thượng đế”, “ý niệm tuyệt đối”, hoặcnhững quan hệ tính chất siêu
nhiên… Còn trong quan niệm của chủ nghĩa duy vật thì thực thể của thế giới vật chất, cái tồn
tại một cách vĩnh cửu, tạo nên mọi sự vật hiện tượng cùng với những thuộc tính của chúng.
*Vị trí VAI TRÒ PHẠM TRÙ : Phạm trù là khái niệm hàm chứa chung nhất, khó xác định
trong khuôn khổ một thuyết nói riêng hay ngành khoa học nào đó nói chung. Phạm trù được
xem là thành phần kết cấu củađồ phạm trù xác định quy trình tư duy. Mỗi phạm trù nhờ khả
năng giải mã cũng là yếu tố lưu giữ trạng thái quy trình. Phạm trù được dùng trong việc hệ thống
hóa kiến thức qua quá trình nhận thức, trong đó chúng đóng vai trò ấn định tên cho đề mục.
Cùng với những định nghĩa trên phạm trù còn được công nhận trong sự hình thành siêu ngôn ngữ
mà thành phần của nó là các định nghĩa "lớp kiến thức". Phạm trù là đơn vị đặc biệt bảo đảm quá
trình chuyển dịch kiến thức ( ) trong nghiên cứu liên ngành. Phạm trù ghi giữknowledge transfer
các lớp kiến thức, các giai đoạn các yếu tố của quá trình nhận thức, thế thuộc về hệ
thống quản kiến thức. Phạm trù cho phép liên hệ bất cứ kiến thức nào với triết học và ngược
lại, liên hệ triết học đến bất kỳ lĩnh vực kiến thức nào. Tuy có sự chú ý đáng kể đối với phạm trù
nhưng ứng dụng chúng vào quá trình nhận biết thế giới vẫn diễn ra mức cảm tính .
[3]
B) QUAN điểm của CNDV trước C.Mác về vật chất : nội dung quan điểm; những thành
tựu và hạn chế ( chắc lọc lại) *Quan điểm của các nhà duy vật thời cổ đại
-Vào thời cổ đại ở Hy Lạp, các nhà triết học duy vật đều cho có một nguyên thể vật chất đầu tiên
là cơ sở thế giới. Họ quy vật chất về cơ sở đầu tiên đó. Quan niệm vật chất của các nhà duy vật
cổ đại còn mang tính trực quan, cảm tính, họ đồng nhất vật chất nói chung với những vật thể hữu
hình, cảm tính đang tồn tại thế giới bên ngoài.* Talét coi thực thể của thế giới nước.*
Anaximen coi thực thể đó không khí. Với Hêraclít thực thể đó lửa, còn với Ămpêđôlơ thì
thực thể đó bao gồm cả bốn yếu tố: đất, nước, lửa không khí.* Anaximanđrơ cho rằng, thực
thể của thế giới một bản nguyên không xác định về mặt chất tận về mặt lượng. Bản
nguyên này không thể quan sát được và ông gọi nó là apâyrôn. Sự tương tác giữa các mặt đối lập
vốn trong apâyrôn tạo nên toàn bộ thế giới.* Lơxíp Đêmôcrít thì thực thể của thế giới
nguyên tử. Đó là các phần tử cực kỳ nhỏ, cứng, tuyệt đối không thâm nhập được, không quan sát
được… và nói chung không cảm giác được. Nguyên tử chỉ thể được nhận biết nhờ tư duy.
Đêmôcrít hình dung nguyên tử có nhiều loại: có loại góc cạnh, xấu xí; có loại cong, nhẵn; có loại
tròn, hình cầu… Sự kết hợp hoặc tách rời nguyên tử theo các trật tự khác nhau của không gian sẽ
tạo nên toàn bộ thếgiới.
*Tóm lại: Những quan điểm trên tuy còn thô sơ, nhưng có ưu điểm căn bản là vật chất được
coi sở đầu tiên của mọi sự vật hiện tượng trong thế giới khách quan. Điều này đối lập
với quan điểm duy tâm tôn giáo coi cơ sở đầu tiên của thế giới là tinh thần, ý thức. Học thuyết
nguyên tử một bước phát triển mới trên con đường hình thành phạm trù vật chất trong
triết học, tạo cơ sở triết học mới cho nhận thức khoa học sau này.
Quan điểm của các nhà duy vật thời cận đại : Kế thừa nguyên tử luận cổ đại, các nhà duy vật
thời cận đại tiếp tục coi nguyên tử những phần tử vật chất nhỏ nhất, không phân chia được,
vẫn tách rời chúng một cách siêu hình với vận động không gian và thời gian. Họ chưa thấy được
vận động là thuộc tính cố hữu của vật chất. Các nhà triết học của thời kỳ này còn đồng nhất vật
chất với một thuộc tính nào đó của vật chất như đồng nhất vật chất với khối lượng, năng
lượng.////( tới đây là cũng ổn )
*Quan điểm chủ nghĩa duy vật : Trong triết học, chủ nghĩa duy vật là một hình thức của chủ
nghĩa duy vật ( ) với quan niệm rằng thứ duy nhất thể được thực sự coi physicalism tồn
tại ; rằng, về căn bản, mọi sự vật đều có cấu tạo từ mọi hiện tượng đều vật chất vật chất
kết quả của các tương tác vật chất. Khoa học sử dụng một giả thuyết, đôi khi được gọi thuyết
tự nhiên phương pháp luận quan sát được thiên nhiên, rằng mọi sự kiện trong được giải thích chỉ
bằng các nguyên nhân tự nhiên không cần giả thiết về sự tồn tại hoặc không-tồn tại của
cái . Với vai trò một học thuyết, chủ nghĩa duy vật thuộc về lớp siêu nhiên bản thể học nhất
nguyên. Như vậy, khác với các học thuyết bản thể học dựa trên hay thuyết nhị nguyên thuyết
đa nguyên. Xét các giải thích đặc biệt cho thực tại hiện tượng, chủ nghĩa duy vật đứng ở vị trí đối
lập hoàn toàn với .chủ nghĩa duy tâm
* Theo quan điểm duy vật biện chứng, bản chất của thế giới là vậtQUAN ĐIỂM VỀ nội dung :
chất, thế giới thống nhất tính vật chất của nó. Quan điểm đó bao hàm những nội dung bản
sau đây: chỉ một thế giới duy nhất thế giới vật chất; thế giới vật chất cái - Một là,
trước, tồn tại khách quan, độc lập với ý thức của con người.
-Hai là, thế giới vật chất tồn tại vĩnh viễn, tận, hạn, không được sinh ra không bị mất
đi.
-Ba là, mọi tồn tại của thế giới vật chất đều có mối liên hệ khách quan, thống nhất với nhau, biểu
hiện ở chỗ chúng đều là những dạng cụ thể của vật chất, là những kết cấu vật chất, có nguồn gốc
vật chất, do vật chất sinh ra cùng chịu sự chi phối của những quy luật khách quan phổ biến
của thế giới vật chất. Trong thế giới vật chất không khác ngoài những quá trình vật chất
đang biến đổi và chuyển hoá lẫn nhau,nguồn gốc, nguyên nhân và kết quả của nhau.Bản chất
vật chất tính thống nhất vật chất của thế giới kết luận được rút ra từ việc khái quát những
thành tựu của khoa học, được khoa họccuộc sống hiện thực của con người kiểm nghiệm.
không chỉ định hướng cho con người giải thích vể tính đa dạng của thế giới còn định hướng
cho con người tiếp tục nhận thức về tính đa dạng ấy để thực hiện quá trình cải tạo hợp quy luật.
Quan điểm về hạn chế (có vẽ lạc đề )
Các nhà triết học duy vật trước Mác (trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm ???)
đã hết sức quan tâm giải quyết vấn đề cốt lõi là vật chất. Họ đưa ra những kiến giải khác nhau
về vật chất qua đó đã những đóng góp hết sức quan trọng đối với lịch sử phát triển của
triết học duy vật. Tuy nhiên tất cả họ đều mắc phải hạn chế lớn nhất đã đồng nhất vật chất
với vật thể hoặc một thuộc tính nào đó của vật thể, họ không thấy được sự tồn tại của vật chất
gắn liền với vận động họ không chỉ ra được biểu hiện của vật chất trong đời sống hội
chỉ đến khi triết học Mác xít xuất hiện thì phạm trù vật chất mới được giải quyết một cách khoa
học./.
Câu 2 A) Bối cảnh và nội dung cuộc khủng hoảng về thế giới quan duy vật trong khoa học
những năm cuối thế kỷ thứ XIX đầu TK XX sự ra đời định nghĩa của lenin về vật chất
(chưa biết đáp án)
B) Nội dung và ý nghĩa định nghĩa của lenin về vật chất
-Phân tích nội dung định nghĩa vật chất của Nin. Nêu ý nghĩa phương pháp luận.
Định nghĩa: Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khác quan được đem lại cho
con người trong cám giác được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại phản ánh tồn tại
không lệthuộcvàocảmgiác.
-Phântíchđịnhnghĩa: -Một là : Vật chất là một phạm trù triết học để phân biệt nó với khái niệm
vật chất trong các nhà khoa học cụ thể, vật chất thông thường hàng ngày – có giới hạn có sinh ra
và mất đi còn vật chất trong triết học không tự nó sinh ra không mất đi vô tận vô hạn nó luôn vận
động, chuyển hóa không ngừng từ dạng này sang dạng khác.
-Hai là: Thuộc tính chung của vật chất là thuộc tính” thực tại khách quan”ở bên ngoài và độc lập
vớiýthứcconngười. + Vật chất có vô vàn thuộc tính trong đó thuộc tính thực tại khách quan tức
sự tồn tại bên ngoài và độc lập với ý thức con người là thuộc tính chung nhất vĩnh hằng với mọi
dạng mọiđốitượngvậtchất. + Thuộc tính thực tại khách quan là tiêu chuẩn để phân biệt cái gì
vật chất cái già không phải vật chất trong tự nhiên trong hội. Tất cả cái tồn tại bên
ngoài độc lập với ý thức con người đều những dạng vật chất khác nhau của vật chất.
+ Thuộc tính trên cũng là tiêu chuẩn để khẳng định thế giới vật chất tồn tại thực sự và tồn tại do
chính đó sở đấu tranh chống lại chủ nghĩa duy tâm dưới mọi hình thức.
Vật chất được đem lại cho con người trong cảm giác, được chép lại chụp lại phản ánhkhông
lệ thuộcvàocảmgiác. + Vật chất tồn tại khách quan, nhưng không tồn tại trừu tượng mà là sự tồn
tại hiện thực thông qua các sự vật cụ thể cảm tính. Khi vật chất tác động đến các giác quan của
con người thì gây ra cảm giác con người đem lại cho con người sự nhận thức về chính nó.
+ Vật chất được đem lại cho con người trong cảm giác đó nguồn gốc nguyên nhân của cảm
giác của ý thức, nó trước ý thức tạo nên ý thức. Còn cảm giác hay ý thức chỉ sự ‘chép
lại, chụp lại phản ánh” nósau so với vật chấtràng vật chất tính thứ nhất ý thức tính thứ
2, vật chất quyđịnhýthức.
*Ýnghĩaphươngphápluận:
+ Giải quyết vấn đề cơ bản của triết học theo lập trường duy vật biện chứng trong đó khẳng định
vật chất tính thứ nhất ý thức tính thứ 2, vật chất quyết định ý thức.
+ Là cơ sở khoa học và là vũ khí tư tưởng đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm “thuyết không thể
biết” và khắc phục những hạn chế của chủ nghĩa duy vật siêu hình một cách có hiệu quả, để đảm
bảo sự đứng xững của chủ nghĩa duy vật trước sự phát triển của khoa học tự nhiên.
+ Định nghĩa còn ý nghĩa định hướng cổ cho các nhà khoa học đi sâu nghiên cứu thế
giới vật chất không ngừng làm phong phúsâu sắc tri thức của con người về thế giới vật chất.
+ sở khoa học cho việc xây dựng quan điểm duy vật biện chứng trong lĩnh hội
+ Trang bị thế giới quan duy vật phương pháp luận khoa học mở đường cho các ngành khoa học
cụ thể phát triển đem lại niềm tin cho con người về khả năng nhận thức thế giới.
C) Các phương thức hình thức tồn tại của vật chất: Theo quan điểm của chủ nghĩa duy
vật biện chứng, vận động phương thức tồn tại của vật chất; không gian, thời gian những
hình thức tồn tại của vật chất. - Vận động phương thức tồn tại của vật chất. Ăngghen định
nghĩa: “Vận động hiểu theo nghĩa chung nhất, - tức được hiểu là một phương thức tồn tại của vật
chất, là một thuộc tính cố hưữ của vật chất – thì bao gồm tất cả mọi sự thay đổi và mọi quá trình
diễn ra trong vũ trụ, kể từ sự thay đổi vị trí đơn giản cho đến tư duy”
Theo quan niệm của Ăngghen: vận động không chỉ thuần túy sự thay đổi vị trí trong không
gian “mọi sự thay đổi mọi quá trình diễn ra trong trụ”, vận động “là một phương
thức tồn tại của vật chất, là một thuộc tính cố hữu của vật chất” nên thông qua vận động mà các
dạng cụ thể của vật chất biểu hiện sự tồn tại cụ thể của mình; vận động của vật chất tự thân
vận động; và, sự tồn tại của vật chất luôn gắn liền với vật chất.Dựa trên thành tựu khoa học trong
thời đại mình, Ăngghen đã phân chia vận động thành năm hình thức bản: vận động học,
vận động vật lý, vận động hóa học, vận động sinh học và vận động xã hội.
-Các hình thức vận động nói trên được sắp xếp theo thứ tự từ thấp đến cao tương ứng với trình
dộ kết cấu của vật chất. Các hình thức vận động khác nhau về chất song chúng không tồn tại biệt
lập mà có mối quan hệ mật thiết với nhau, trong đó: hình thức vận động cao xuất hiện trên cơ sở
các hình thức vận động thấp và bao hàm trong nó những hình thức vận động thấp hơn. Trong sự
tồn tại của mình, mỗi sự vật có thể có nhiều hình thức vận động khác nhau song bản thân nó bao
giờ cũng được đặc trưng bởi hình thức vận động cao nhất mà nó có.Bằng việc phân loại các hình
thức vận động bản, Ăngghen đã đặt sở cho việc phân loại, phân ngành, hợp ngành khoa
học. tư tưởng về sự thống nhất nhưng khác nhau về chất của các hình thức vận động cơ bản còn
sở để chống lại khuynh hướng đánh đồng các hình thức vận động hoặc quy hình thức vận
động này vào hình thức vận động khác trong quá trình nhận thức.
Khi khẳng định vận động phương thức tồn tại của vật chất, thuộc tính cố hữu của vật chất;
chủ nghĩa duy vật biện chứng cũ đã khẳng định vận động là vĩnh viễn. Điều này không có nghĩa
chủ nghĩa duy vật biện chứng phủ nhận sự đứng im, cân bằng; song đứng im, cân bằng chỉ
hiện tượng tương đối, tạm thời và thực chất đứng im, cân bằng chỉ là một trạng thái đặc biệt của
vận động.Đứng im tương đối đứng im, cân bằng chỉ xảy ra trong một số quan hệ nhất định
chứ không xảy ra với tất cả mọi quan hệ; đứng im, cân bằng chỉ xảy ra trong một hình thức vận
động chứ không phải xảy ra với tất cả các hình thức vận động. Đứng im tam thời đứng im
không phải là cái tồn tại vĩnh viễn mà chỉ tồn tại trong một thời gian nhất định, chỉ xét trong một
hay một số quan hệ nhất định, ngay trong sự đứng im vẫn diễn ra những quá trình biến đổi nhất
định. Đứng im trạng thái đặc biệt của vận động, đó vận động trong thế cân bằng, ổn định;
vận động chưa làm thay đổi căn bản về chất, về vị trí, hình dáng, kết cấu của sự vật.- Không
gian, thời gian là những hình thức tồn tại của vật chất: -Mọi dạng cụ thể của vật chất đều tồn tại
một vị trí nhất định, một quảng tính nhất định tồn tại trong những mối tương quan nhất
định với những dạng vật chất khác. Những hình thức tồn tại như vậy được gọi là không gian. mặt
khác, sự tồn tại của sự vật còn được thể hiện quá trình biến đổi: nhanh hay chậm, kế tiếp
chuyển hóa,…Những hình thức tồn tại như vậy được gọi là thời gian.
-Ăngghen viết: “Các hình thức bản của mọi tồn tại không gian thời gian; tồn tại ngoài
thời gian thì cũng hết sức như tồn tại ngoài không gian”. Như vậy, vật chất, không gian,
thời gian không tách rời nhau; không vật chất tồn tại ngoài không gian thời gian; cũng
không có không gian, thời gian tồn tại ngoài vật chất vận động. những hình thức tồn tại của
vật chất, không tách khỏi vật chất nên không gian, thời gian có những tính chất chung như những
tính chất của vật chất, đó là tính khách quan, tính vĩnh cửu, tính vô tận và vô hạn.
-Ngoài ra, không gian thuộc tính ba chiều còn thời gian chỉ một chiều. tính ba chiều của
không gian và một chiều của thời gian biểu hiện hình thức tồn tại về quảng tính và quá trình diễn
biến của vật chất vận động.
D) quan điểm của triêt học Mác-Lenin về tính thống nhất vật chất của thế giới
Câu hỏi. Tính thống nhất vật chất của thế giới?
Đáp án. Vấn đề tính thống nhất của thế giới luôn gắn liền với cách giải quyết vấn đề cơ bản của
triết học. Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định bản chất của thế giớivật chất; các sự vật,
hiện tượng thống nhất với nhau tính vật chất. Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định bản
chất của thế giới là vật chất; các sự vật, hiện tượng thống nhất với nhau ở tính vật chất. Điều này
được thểhiệnở , hiện tượng của thế giới đều có tính vật chất là tồn tại khách quan,1) Mọi sự vật
độc lập vớiýthứccủaconngười. , hiện tượng trong thế giới đều những dạng cụ2) Mọi sự vật
thể của vật chất; chúng đều mang đặc tính chung của vật chất (tồn tại vĩnh viễn, nghĩa không
bao giờ trở về số0,khôngmấtđi); đều được sinh ra từ vật chất thức chẳng hạn).
3) Thế giới vật chất tồn tại vĩnh viễn tận. Trong thế giới đó không khác ngoài vật
chất đang vận động, biến đổi chuyển hoá theo những quy luật khách quan chung của mình.
4) Tính thống nhất vật chất của thế giới thể hiện ở sự tồn tại của thế giới thông qua giớicơ,
giới hữu cơ trong bức tranh tổng thể về thế giới duy nhất; giữa chúng có sự liên hệ tác động qua
lại, chuyển hoá lẫn nhau, vận động và phát triển. Các quá trình đó cho phép thấy đầy đủ sự thống
nhất vật chất của thế giới trong các hình thức giai đoạn phát triển, từ hạt cơ bản đến phân tử,
từ phân tử đến các thể sống, từ các thể sống đến con người hội loài người.
-Quan điểm về bản chất vật chất tính thống nhất vật chất của thế giới của chủ nghĩa duy vật
biện chứng không chỉ định hướng trong việc giải thích về tính phong phú, đa dạng của thế giới,
mà còn định hướng nhận thức về tính phong phú, đa dạng ấy trong quá trình hoạt động cải tạo tự
nhiên hợp quy luật.
Câu 3) QUAN điểm của triết học Mác -Lenin về nguồn gốc, bản chất của ý thức
Câuhỏi:Nguồngốccủaýthức?
Đáp. Câutrảlờicóhaiýlớn:
1) Nguồn gốc tự nhiên của ý thức (não người + sự phản ánh)
a) Não người sản phẩm quá trình tiến hoá lâu dài của thế giới vật chất, từ tới hữu cơ,
chất sống (thực vật động vật) rồi đến con người- sinh vật-xã hội. tổ chức vật chất cấu
trúc tinh vi; chỉ khoảng 370g nhưngtới 14-15 tỷ tế bào thần kinh liên hệ với nhau với các
giác quan tạo ra mối liên hệ thu, nhận đa dạng để não người điều khiển hoạt động của cơ thể đối
với thế giới bên ngoài. Hoạt động ý thức của con người diễn ra trên sở hoạt động của thần
kinh não bộ; bộ não càng hoàn thiện hoạt động thần kinh càng hiệu quả, ý thức của con người
càng phong phú và sâu sắc. Điều này lý giải tại sao quá trình tiến hóa của loài người cũng là quá
trình phát triển năng lực của nhận thức, của tư duy và tại sao đời sống tinh thần của con người bị
rối loạn khi não bị tổn thương.
b) Sự phản ánh của vật chất là một trong những nguồn gốc tự nhiên của ý thức. Mọi hình thức
vật chất đều thuộc tính phản ánh phản ánh phát triển từ hình thức thấp lên hình thức cao-
tùy thuộc vào kết cấu của tổ chức vật chất.
-Phản ánh sự tái tạo lại những đặc điểm, tính chất của dạng vật chất này (dưới dạng đã thay
đổi) trong một dạng vật chất khác. Quá trình phản ánh bao hàm quá trình thông tin, cái được
phản ánh (tác động) những sự vật, hiện tượng cụ thể của vật chất, còn cái phản ánh (nhận tác
động) cái chứa đựng thông tin về những sự vật, hiện tượng đó. Các hình thức phản ánh. +)
Phản ánh của giới vô cơ (gồm phản ánh vật lý và phản ánh hoá học) là những phản ánh thụ động,
không định hướng không lựa chọn. +) Phản ánh của thực vật tính kích thích +) Phản ánh
của động vật đã có định hướng, lựa chọn để nhờ đó mà động vật thích nghi với môi trường sống.
Trong phản ánh của động vật phản xạ không điều kiện (bản năng); phản xạ điều kiện (tác
động thường xuyên) ở động vật có thần kinh trung ương tạo nên tâm lý. Hình thức phản ánh cao
nhất (phản ánh năng động, sáng tạo) làý thức của con người, đặc trưng cho một dạng vật chất có
tổ chức cao là não người. Tóm lại, sự phát triển của các hình thức phản ánh gắn liền với các trình
độ tổ chức vật chất khác nhau ý thức nảy sinh từ các hình thức phản ánh đó.
Quan điểm trên của triết học của chủ nghĩa Mác-Lênin về ý thức chống lại quan điểm của chủ
nghĩa duy tâm tách rời ý thức khỏi hoạt động của não người, thần bí hoá ý thức; đồng thời chống
lại quan điểm của chủ nghĩa duy vật tầm thường cho rằng não tiết ra ý thức tương tự như gan tiết
ra mật.
2) Nguồn gốc hội của ý thức (lao động + ngôn ngữ)
a) Lao động hoạt động có mục đích, có tính lịch sử-xã hội của con người nhằm tạo ra của cải
để tồn tại phát triển; đồng thời lao động cũng tạo ra đời sống tinh thần hơn thế nữa, lao
động giúp con người hoàn thiện chính mình. Sự hoàn thiện của đôi tay, việc biết chế tạo công cụ
lao động làm cho ý thức không ngừng phát triển, tạo sở cho con người nhận thức những tính
chất mới của giới tự nhiên; dẫn đến năng lực duy trừu tượng, khả năng phán đoán, suy luận
dần được hình thành phát triển.
b) Trong quá trình lao động con người liên kết với nhau, tạo thành các mối quan hệ hội tất
yếu các mối quan hệ của các thành viên của hội không ngừng được củng cố và phát triển
dẫn đến nhu cầu cần thiết “phải trao đổi với nhau điều đấy” nên ngôn ngữ xuất hiện. Ngôn
ngữ ra đời trthành “cái vỏ vật chất của ý thức”, thành phương tiện thể hiện ý thức. Nhờ ngôn
ngữ, con người khái quát hoá, trừu tượng hoá những kinh nghiệm để truyền lại cho nhau. Ngôn
ngữ sản phẩm của lao động, đến lượt nó, ngôn ngữ lại thúc đẩy lao động phát triển.
-Như vậy, bộ não người cùng với thế giới vật chất tác động lên bộ não đó là nguồn gốc tự nhiên
của ý thức với quan điểm như vậy về ý thức, chủ nghĩa duy vật biện chứng chống lại quan
điểm của chủ nghĩa duy tâm tách rời ý thức ra khỏi hoạt động của bộ não, thần hoá ý thức;
đồng thời chống lại quan điểm của chủ nghĩa duy vật tầm thường cho rằng não tiết ra ý thức
tương tự như gan tiết ra mật.
Câuhỏi.Bảnchấtcủaýthức?
Đápán. Bản chất của ý thức thể hiện qua bốn điểm
Điểm xuất phát để hiểu bản chất của ý thức sthừa nhận ý thức sự phản ánh, hình ảnh
tinh thần về sự vật, hiện tượng khách quan. Ý thức thuộc phạm vi chủ quan, không tính vật
chất, chỉ hình ảnh phi cảm tính của các sự vật, hiện tượng cảm tính được phản ánh. Bản
chất của ý thức thể hiện sự phản ánh năng động, sáng tạo thế giới khách quan vào bộ não
người; hình ảnh chủ quan về thế giới khách quan.
1) Ý thức hình ảnh chủ quan về thế giới khách quan bởi hình ảnh ấy tuy bị thế giới khách
quan quy định cả về nội dung lẫn hình thức thể hiện; nhưng thế giới ấy không còn y nguyên như
vốn có, đã bị cái chủ quan của con người cải biến thông qua tâm tư, tình cảm, nguyện
vọng, nhu cầu v.v. Ý thức “chẳng qua chỉ vật chất được đem chuyển vào trong đầu óc con
người được cải biến đi trong đó”. thể nói, ý thức phản ánh hiện thực, còn ngôn ngữ thì
diễn đạt hiện thực và nói lên tư tưởng. Các tư tưởng đó được tín hiệu hoá trong một dạng cụ thể
của vật chất- là ngôn ngữ- cái mà con người có thể cảm giác được. Không có ngôn ngữ thì ý thức
không thể hình thành tồn tại được.
2) Ý thức sự phản ánh năng động, sáng tạo, thể hiện ở chỗ, ý thức phản ánh thế giới có chọn
lọc- tùy thuộc vào mục đích của chủ thể nhận thức. Sự phản ánh đó nhằm nắm bắt bản chất, quy
luật vận động phát triển của sự vật, hiện tượng; khả năng vượt trước (dự báo) của ý thức tạo
nên sự lường trước những tình huống sẽ gây tác động tốt, xấu lên kết quả của hoạt động mà con
người đang hướng tới. Có được dự báo đó, con người điều chỉnh chương trình của mình sao cho
phù hợp với dự kiến xu hướng phát triển của sự vật, hiện tượng; xây dựng các mô hình lý tưởng,
đề ra phương pháp thực hiện phù hợp nhằm đạt kết quả tối ưu. Như vậy, ý thức không chỉ phản
ánh thế giới khách quan, còn tạo ra thế giới khách quan.
3) Ý thức là một hiện tượng xã hội và mang bản chất xã hội. Sự ra đời và tồn tại của ý thức gắn
liền với hoạt động thực tiễn; chịu schi phối không chỉ của các quy luật sinh học, chủ yếu
còn của các quy luật xã hội; do nhu cầu giao tiếp xã hội và các điều kiện sinh hoạt hiện thực của
xã hội quy định. Với tính năng động, ý thức đã sáng tạo lại hiện thực theo nhu cầu của bản thân
và thực tiễn xã hội. Ở các thời đại khác nhau, thậm chí ở cùng một thời đại, sự phản ánh (ý thức)
về cùng một sự vật, hiện tượng có sự khác nhau- theo các điều kiện vật chất và tinh thần mà chủ
thể nhận thức phụ thuộc.
4) thể nói quá trình ý thức gồm các giai đoạn.
a) Trao đổi thông tin hai chiều giữa chủ thể với khách thể phản ánh; định hướng và chọn lọc các
thông tin cần thiết.
b) Mô hình hoá đối tượng trong duy dạng hình ảnh tinh thần, tức sáng tạo lại khách thể
phản ánh theo cách hoá sự vật, hiện tượng vật chất thành ý tưởng tinh thần phi vật chất.
c) Chuyển hình từ duy ra hiện thực, tức quá trình hiện thực hoá tưởng, thông qua
hoạt động thực tiễn biến các ý tưởng tinh thần phi vật chất trong duy thành các sự vật, hiện
tượng vật chất ngoài hiện thực. Trong giai đoạn này, con người lựa chọn phương pháp, công cụ
tác động vào hiện thực khách quan nhằm thực hiện mục đích của mình.
Câu 4 ) A)Quan điểm của triết học MacLenin về mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức
-Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức: Theo duy tâm thì ý thức quyết định vật chất
Theo duy vật thì vật chất quyết định ý thức Theo chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa xã hội
khoa học nên trong nhận thức của chúng ta phải vật chất quyết định ý thức. Cái nhìn khách
quan, tức nhìn từ nhiều khía cạnh của cùng một sự vật hiện tượng. Thường thì con người rất
chủ quan ! Giữa vật chất ý thức mối quan hệ biện chứng, thể hiện qua vai trò quyết định
của vật chất đối với ý thức tính độc lập tương đối, sự tác động trở lại của ý thức đối với vật
chất. Sách Giải Người thầy của bạn http://sachgiai.com 6 - Vật chất (xét đến cùng) cái
trước, nó sinh ra và quyết định đối với ý thức. Vật chất tồn tại khách quan, độc lập với ý thức và
là nguồn gốc sinh ra ý thức (não người là dạng vật chất có tổ chức cao, là cơ quan phản ánh hình
thành ý thức, ý thức tồn tại phụ thuộc vào hoạt động thần kinh của bộ não). Trong quá trình phản
ánh thế giới khách quan, ý thức sự phản ánh thế giới vật chất đó vào con người. Thế giới
khách quan nguồn gốc của ý thức, quyết định nội dung của ý thức. Ý thức bắt nguồn từ một
thuộc tính của vật chất, đó một thuộc tính phản ánh phát triển thành, ý thức ra đời kết quả
phát triển lâu dài của thuộc tính phản ánh của vật chất. Điều kiện quyết định cho sự ra đời của ý
thức những tiền đề nguồn gốc hội, ý thức ra đời cùng với quá trình hình thành bộ óc con
nguời nhờ lao động, ngôn ngữ và những quan hệ xã hội, ý thức sản phẩm của sự phát triển
hội. Do vậy, vật chất quyết định sự phát triển của ý thức, quyết định tính phong phú, đa dạng,
nhiều vẻ của ý thức. - Ý thức do vật chất sinh ra quyết định nhưng sau khi ra đời ý thức
tính độc lập tương đối nên sự tác động trở lại to lớn đối với vật chất thông qua hoạt động
thực tiễn của con người. Nói tới vai trò của ý thức tức là nói đến vai trò của con ngườiý thức
ý thức của con người, bản thân của ý thức tự không làm thay đổi hiện thực.Mác
nói :“..lực lượng vật chất chỉ thể bị đánh bại bởi lực lượng vật chất..” Ý thức tác động trở lại
vật chất theo hai hướng: Ý thức, tưởng thể quyết định làm sao con người hoạt động đúng
thành công khi phản ánh đúng sâu sắc thế giới khách quan, sẽ thúc đẩy thế giới vật
chất phát triển nhanh đó sở quan trọng cho việc xác định mục tiêu, phương hướng
biện pháp chính xác. Ngược lại ý thức, tư tưởng thể làm cho con người hoạt động sai thất
bại khi con người phản ánh sai thế giới khách quan, nó sẽ kìm hãm sự phát triển của thế giới vật
chất. VD: Aristôt đưa ra thuyết “địa tâm” coi trái đất là trung tâm của vũ trụ đã làm kìm hãm sự
phát triển của thế giới vật chất. vậy con người phải phát huy vai trò sáng tạo của thế giới
khách quan. Tuy nhiên sở để phát huy tính năng động chủ quan của ý thức việc thừa nhận
tính khách quan của vật chất, thừa nhận quy luật tự nhiên của hội. Nếu như thế giới vật chất
với những thuộc tính, quy luật của nó tồn tại khách quan không phụ thuộc vào ý thức con người
thì trong hoạt động thực tiễn phải xuất phát từ thực tế khách quan, lấy thực tế khách quan làm
căn cứ cho hoạt động của mình. - Biểu hiện của mới quan hệ giữa vật chất ý thức trong đời
sống hội quan hệ giữa tồn tại hội ý thức hội, trong đó tồn tại hội quyết định ý
thức xã hội và ý thức xã hội có tính độc lập tương đối tác động trở lại xã hội. ngoài ra, mối quan
hệ giữa vật chất và ý thức còn là cơ sở để xem xét các mối quan hệ khác như củ thể và khách thể,
lý luận và tực tiễn, điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan.
B) Phân tích khái quát các ý nghia phương pháp luận rút ra từ mối quan hệ biện chứng
giữa vật chất và ý thức
-Ý nghĩa phương pháp luận: Vì vật chất quyết định ý thức nên trong hoạt động thực tiễn chúng
ta phải xuất phát từ hiện thực khách quan, tôn trọngtuân theo quy luật khách quan. Vì ý thức
tác động trở lại vật chất nên trong hoạt động thực tiễn chúng ta phải chú ý giáo dục và nâng cao
nhận thức cho con người. Mác nói: “Cố nhiên khí phê phán không thể thay thế sự phê phán
bằng vũ khí, lực lượng vật chất chỉthể bị đánh bại bởi lực lượng vật chất, nhưng lý luận một
khi thâm nhập được vào quần chúng thì sẽ trở thành lực lượng vật chất”. Chống quan điểm duy ý
chí: V.I.Lênin đã nhiều lần nhấn mạnh không được lấy ý muốn chủ quan của mình làm chính
sách, không được lấy tình cảm làm điểm xuất phát cho chiến lược cách mạng. Nếu chỉ xuất phát
từ ý muốn chủ quan, nếu lấy ý chí áp đặt cho thực tế, lấy ảo tưởng thay cho hiện thực thì sẽ mắc
phải bệnh duy ý chí. Bệnh chủ quan duy ý chí là do sự yếu kém về trình độ nhận thức nói chung
sự hạn chế trong quá trình áp dụng luận vào thực tiễn nói riêng. Do đó, Lênin đã gọi căn
bệnh này "là sự mù quáng chủ quan", sai lầm tự phát dẫn đến rơi vào chủ nghĩa duy tâm một
cách không tự giác. Về lý luận, bệnh chủ quan duy ý chínhiều biến thể phức tạp và trở thành
mầm mống cho nhiều căn bệnh mới trong nhận thức. Song vẫn khả năng được ngăn ngừa
loại bỏ
C) vận dụng các ý nghĩa phương pháp luận này vào việc học tập, nghiên cứu của bản thân
sinh viên (CHÉM)
CÂU 5) Khái quát nội dụng, ý nghĩa phương pháp luận hai nguyên cơ bản của phép biện chứng
duy vật. Nghiên cứu các nguyên lý này, yêu cầu sinh viên vận dụng nó ...trong học tập, cuộc sống...
-Nội dung Hai nguyên lý của phép biện chứng duy vật là hai cơ bản và đóng vainguyên lý
trò trong phép của khi xem xét, kiến giảixương sống duy vật biện chứng triết học Mác - Lênin
sự vật, hiện tượng. Phép biện chứng duy vật được xây dựng trên sở một hệ thống những
nguyên lý, những bản, những quy luật phổ biến phản ánh hiện thực kháchphạm trù
quan.Trong hệ thống đó nguyên về mối liên hệ phổ biến nguyên về sự phát triển hai
nguyên lý khái quát nhất. Hai nguyên lý cơ bản gồm:
Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến là nguyên tắc lý luận xem xét sự vật, hiện tượng khách quan
tồn tại trong mối liên hệ, ràng buộc lẫn nhau tác động, ảnh hưởng lẫn nhau giữa các sự vật, hiện
tượng hay giữa các mặt của một sự vật, của một hiện tượng trong thế giới. Nguyên này biểu
hiện thông qua 06 cặp phạm trù cơ bản.
Nguyên về sự phát triển nguyên tắc luận trong đó khi xem xét sự vật, hiện tượng
khách quan phải luôn đặt chúng vào quá trình luôn luôn ( tiếnvận động phát triển vận động
lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn của sự vật).
Nguyên lý này biểu hiện thông qua ba quy luật cơ bản
Ph.Ăng-ghen :định nghĩa
Phép biện chứng chẳng qua chỉ môn về những quy luật phổ biến của sựkhoa học
vận động và sự phát triển của tự nhiên, của xã hội loài người và của tư duy
Ăng-ghen
[1]
và:
| 1/41

Preview text:

Câu trả lời các nội dung ôn thi Triết học Mac-lenin (KHI CHÉP DÔ BÀI NHỚ TÓM LƯỢC ĐƯỢC GÌ THÌ TÓM) CHƯƠNG 1:
Câu 1:A) Trình bày được quaá trình hình thành và phát triể của Triết học Mác – Lênin a)
Giai đoạn C.Mác - Ph.Ăngghen (1848 - 1895)
-Các Mác (1818 - 1883), Ph.Ăngghen (1820 - 1895) đều là người Đức. Từ năm 1844, hai ông bắt
đầu gặp nhau, sớm thống nhất tư tưởng và hoạt động chính trị. Hai ông cùng nhau phát hiện ra
sức mạnh to lớn của giai cấp công nhân và chuyển biến từ chủ nghĩa duy tâm sang chủ nghĩa duy
vật, từ tinh thần dân chủ sang lập trường cách mạng.
- Tháng 2 - 1848, tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản do hai ông dự thảo được Đồng
minh những người cộng sản thông qua và công bố ở Luân Đôn. Hai ông đã viết nhiều tác phẩm
hình thành ba bộ phận cấu thành chủ nghĩa Mác là triết học, kinh tế chính trị học và chủ nghĩa xã
hội khoa học. Hai ông còn tham gia sáng lập và là lãnh tụ của Quốc tế I (1863 - 1876), đặt nền
tảng cho sự ra đời phong trào công nhân quốc tế.
-Năm 1889, Ph.Ăngghen thành lập Quốc tế II, mở ra thời kỳ phát triển rộng của phong trào. Sau
khi Ph.Ăngghen mất, Quốc tế II dần dần bị phân liệt và phá sản năm 1914.
-Bằng hoạt động lý luận, sáng lập học thuyết mang tên mình, Mác - Ăngghen đã đưa phong trào
công nhân từ tự phát thành phong trào tự giác và phát triển mạnh mẽ.
b) Giai đoạn (V.l.Lênin) phát triển chủ nghĩa Mác (1895 -1924)
-(V.I.)Lênin (1870 - 1924) đã đấu tranh, phê phán không khoan nhượng đối với mọi kẻ thù, bảo
vệ và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác trong giai đoạn chủ nghĩa đế quốc. Người phân tích sâu
sắc những mâu thuẫn nội tại của chủ nghĩa đế quốc và khẳng định cách mạng vô sản có thể nổ ra
và thắng lợi ở một vài nước, thậm chí ở một nước tư bản kém phát triển. Cách mạng vô sản và
phong trào giải phóng dân tộc có mối quan hệ khăng khít với nhau. Muốn cho cách mạng vô sản
thắng lợi tất yếu phải xây dựng một đảng kiểu mới của giai cấp công nhân. Đảng đó phải được tổ chức chặt chẽ và theo chủ nghĩa Mác.
-Qua lãnh đạo thắng lợi cuộc Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga năm 1917 và thực
tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước Nga và Liên Xô (1917 - 1924), V.I. Lênin đã phát triển
những vấn đề lý luận mới. Đó là lý luận nhà nước và cách mạng, xây dựng chính quyền Xô viết;
phát triển kinh tế, khoa học - kỹ thuật, phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng quan hệ sản xuất
mới; công nghiệp hoá, điện khí hoá toàn quốc; thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa...
-V.I. Lênin đã bổ sung, phát triển chủ nghĩa Mác thành chủ nghĩa Mác - Lênin. Chủ nghĩa Mác -
Lênin là một hệ thống lý luận thống nhất, vũ khí lý luận của giai cấp vô sản và các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới.
B) những nội dung cơ bản của Triết học Mác-Leenin về vấn đề cơ bản của triết học ( SGK trang 11 12 mục 2)
HOẶC TRẢ LỜI : Câu hỏi Vấn đề cơ bản của triết học?
Đáp. Câu trả lời gồm ba ý lớn
1) Khái niệm vấn đề cơ bản của triết học.
Khởi điểm lý luận của bất kỳ học thuyết triết học
nào đều là vấn đề về mối quan hệ giữa tư duy với tồn tại; giữa cái tinh thần với cái vật chất; giữa
cái chủ quan với cái khách quan.
Vấn đề cơ bản của triết học có đặc điểm
a) Đó là vấn đề rộng nhất, chung nhất đóng vai trò nền tảng, định hướng để giải quyết những vấn đề khác.
b) Nếu không giải quyết được vấn đề này thì không có cơ sở để giải quyết các vấn đề khác, ít
chung hơn của triết học.
c) Giải quyết vấn đề này như thế nào thể hiện thế giới quan của các nhà triết học và thế giới quan
đó là cơ sở tạo ra phương hướng nghiên cứu và giải quyết những vấn đề còn lại của triết học.
2) Định nghĩa. Theo Ph.Ăngghen, “Vấn đề cơ bản lớn của mọi triết học, đặc biệt là của triết học
hiện đại, là vấn đề quan hệ giữa tư duy và tồn tại”.
3) Hai nội dung (hai mặt) vấn đề cơ bản của triết học.
a) Mặt thứ nhất(mặt bản thể luận) vấn đề cơ bản của triết học giải quyết mối quan hệ giữa ý
thức với vật chất. Cái gì sinh ra và quy định cái gì- thế giới vật chất sinh ra và quy định thế giới
tinh thần; hoặc ngược lại, thế giới tinh thần sinh ra và quy định thế giới vật chất- đó là mặt thứ
nhất vấn đề cơ bản của triết học. Giải quyết mặt thứ nhất vấn đề cơ bản của triết học như thế nào
là cơ sở duy nhất phân chia các nhà triết học và các học thuyết của họ thành hai trường phái đối
lập nhau là chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm triết học; phân chia các nhà triết học và các
học thuyết của họ thành triết học nhất nguyên (còn gọi là nhất nguyên luận) và triết học nhị
nguyên (còn gọi là nhị nguyên luận).
b) Mặt thứ hai (mặt nhận thức luận) vấn đề cơ bản của triết học giải quyết mối quan hệ giữa
khách thể với chủ thể nhận thức, tức trả lời câu hỏi liệu con người có khả năng nhận thức được
thế giới (hiện thực khách quan) hay không? Giải quyết mặt thứ hai vấn đề cơ bản của triết học
như thế nào là cơ sở phân chia các nhà triết học và các học thuyết của họ thành phái khả tri (có
thể biết về thế giới), bất khả tri (không thể biết về thế giới) và hoài nghi luận (hoài nghi bản chất
nhận thức của con người về thế giới).
C) Nội dung căn bản của phép biện chứng duy vật và chủ nghĩa duy vật lịch sử ( hoặc skg tr 12)
Nội dung cơ bản:Chủ nghĩa duy vật lịch sử khẳng định tồn tại xã hội quyết định ý thức xã
hội.Cốt lõi là học thuyết hình thái kinh tế-xã hội, theo đó, trong các quan hệ xã hội, các quan hệ
sản xuất là cơ sở hiện thực của mỗi xã hội nhất định, cấu trúc hạ tầng, trên đó xây dựng lên kiến
trúc thượng tầng: chính trị pháp luật , ý thức xã hội và các hình thái
khác, với những thiết chế của
chúng. Mỗi hệ thống quan hệ sản xuất của một xã hội nhất định, phụ thuộc vào tính chất và trình
độ phát triển của các lực lượng sản xuất.Các lực lượng sản xuất luôn luôn phát triển không
ngừng, đến một giai đoạn nhất định sẽ mâu thuẫn với những quan hệ sản xuất cũ đã lỗi thời và
đòi hỏi phải thay đổi các quan hệ sản xuất ấy bằng những quan hệ sản xuất mới, tiến bộ hơn.
Trong xã hội có giai cấp, sự thay đổi ấy được thực hiện bằng cách mạng xã hội.Một khi cơ sở hạ
tầng đã thay đổi, thì toàn bộ cấu trúc thượng tầng sớm muộn cũng thay đổi theo. Hình thái kinh
tế - xã hội cũ được thay thế bằng một hình thái kinh tế - xã hội mới tiến bộ hơn. Như vậy, lịch sử
loài người là lịch sử thay thế của những hình thái kinh tế - xã hội khác nhau.Chủ nghĩa duy vật
lịch sử nhằm phát hiện ra những quy luật chung nhất của sự vận động phát triển của lịch sử, là
nguyên nhân dẫn đến sự thay thế các hình thái kinh tế - xã hội thấp đến trình độ cao hơn, vận
động theo hình xoáy ốc và đỉnh cao của nó là xã hội cộng sản chủ nghĩa, một xã hội công bằng, tiến bộ, văn minh. Nội dung:
*Chủ nghĩa duy vật biện chứng
: bao gồm hai nguyên lý cơ bản là nguyên lý về mối liên hệ
phổ biến và nguyên lý về sự phát triển. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến thể hiện qua sáu cặp
phạm trù được sử dụng là Cái chung và cái riêng Bản chất và hiện tượng , Nội dung và hình ,
thức, Tất nhiên và ngẫu nhiên, Nguyên nhân và kết quả, .Nguyên lý về sự Khả năng và hiện thực
phát triển bao gồm: Quy luật mâu thuẫn, quy luật lượng - chất và quy luật phủ định. Trong đó:
-Quy luật mâu thuẫn chỉ ra nguồn gốc của sự phát triển
-Quy luật lượng - chất chỉ ra cách thức, hình thức của sự phát triển
-Quy luật phủ định chỉ ra khuynh hướng của sự phát triển.
Ba quy luật cơ bản này còn có ý nghĩa trong nhận thức và hành động. Những kết luận về mặt
phương pháp luận của nó luôn được coi là "kim chỉ nam" cho hoạt động cách mạng của những
người cộng sản.Theo Các Mác: Dưới dạng hợp lý của nó, phép biện chứng chỉ đem lại sự giận
dữ và kinh hoàng cho giai cấp tư sản và bọn tư tưởng gia giao điếu của chúng mà thôi, vì trong
quan niệm tích cực về cái đang tồn tại, phép biện chứng cũng bao hàm cả quan niệm, sự phủ
định cái đang tồn tại đó, về sự diệt vong tất yếu của nó, vì mỗi hình thái đều được phép biện
chứng xét trong sự vận động, tức xét cả mặt nhất thời của hình thái đó;… vì phép biện chứng
không khuất phục trước một cái gì cả, và về thực chất thì nó có tính chất phê phán và cách mạng.[1]
Câu 2 A) Sơ sánh sự khác biệt giữa quan điểm duy vật và duy tâm trong việc giải
quyết vấn đề cơ bản của triết học
- Triết học là hệ thống tri thức lý luận chung nhất của con người về thế giới, về bản thân con
người và vị trí của con người trong thế giới đó.Triết học đã ra đời và phát triển trên hai ngàn
năm. Ở mỗi thời kỳ lịch sử khác nhau, triết học có đối tượng nghiên cứu khác nhau; song tổng
kết toàn bộ lịch sử triết học, Ph.Ăngghen đã khái quát: "Vấn đề cơ bản lớn của mọi triết học, đặc
biệt là của triết học hiện đại, là mối quan hệ giữa tư duy và tồn tại", giữa ý thức và vật chất, giữa
con người và giới tự nhiên.
-Vấn đề cơ bản của triết học có hai mặt. Thứ nhất, giữa ý thức và vật chất: cái nào có trước, cái
nào có sau? Cái nào quyết định cái nào? Thứ hai, con người có khả năng nhận thức được thế giới hay không?
-Việc giải quyết mặi thứ nhất trong vấn đề cơ bản của triết học đã chia triết học thành hai trường
phái lớn:Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm. Việc giải quyết mặt thứ hai trong vấn đề cơ
bản của triết học chia quan điểm về nhận thức thành hai phái: Khả tri luận - phái bao hàm những
quan điếm thừa nhận khả năng nhận thức của con người - và bất khả tri luận - phái bao hàm
những quan điểm phủ nhận khả năng đó.Đối với việc giải quyết mặt thứ nhất trong vấn đề cơ bản
của triết học, những người cho rằng bản chất thế giới là vật chất; vật chất là tính thứ nhất, ý thức
là tính thứ hai; vật chất là cái có trước và quyết định ý thức, được gọi là các nhà duy vật; học
thuyết của họ hợp thành các môn phái khác nhau của chủ nghĩa duy vật. Ngược lại, những người
cho rằng: bản chất thế giới là ý thức; ý thức là tính thứ nhất, vật chất là tính thứ hai; ý thức quyết
định vật chất, được gọi là các nhà duy tâm; học thuyết của họ hợp thành những môn phái khác
nhau của chủ nghĩa duy tâm.Chủ nghĩa duy tâm có nguồn gốc nhận thức và nguồn gốc xã hội, đó
là: sự xem xét phiến diện, tuyệt đối hóa, thần thánh hóa một mặt, một đặc tính nào đó của quá
trình nhận thức và thường gắn với lợi ích của các giai cấp, tầng lớp áp bức, bóc lột nhân dân lao
động. Chú nghĩa duy tâm và tôn giáo cũng thường có mối liên hệ mật thiết với nhau, nương tựa vào nhau để cùng tồn tại và phát triển.
-Trong lịch sử, chủ nghĩa duy tâm có hai hình thức cơ bản là chủ nghĩa duy tâm chủ quan và chủ
nghĩa duy tâm khách quan. Chủ nghĩa duy tâm chủ quan thừa nhận tính thứ nhất của ý thức con
người. Trong khi phủ nhận sự tồn tại khách quan của hiện thực, chủ nghĩa duy tâm chủ quan
khẳng định mọi sự vật, hiện tượng chỉ là "phức hợp những cảm giảc" của cá nhân. Chủ nghĩa
duy tâm khách quan cũng thừa nhận tinh thứ nhất của tinh thần, ý thức nhưng tinh thần, ý thức
ấy là tinh thần khách quan, ý thức khách quan có trước, tồn tại độc
lập với giới tự nhiên, với con
người và thể hiện dưới nhiều tên gọi khác nhau, như: "ý niệm tuyệt đối", "tinh thần tuyệt đối" hay "lý tính thế giới", v.v.
-Đối lập với chủ nghĩa duy tâm, quá trình ra đời và phát triển của chủ nghĩa duy vật có nguồn
gốc từ thực tiễn và sự phát triển của khoa học. Chính qua thực tiễn và khái quát hóa thức của
nhân loại trong nhiều lĩnh vực, chủ nghĩa duy vật thể hiện là hệ thống tri thức lý luận chung nhất
gắn với lợi ích của các lực lượng xã hội tiến bộ, định hướng cho các lực lượng này trong hoạt động nhận thức và thực tiễn.
B) Phân tích quan điểm của triết học Mác-Leenin trong việc giải quyết vấn đề cơ
bản của triết học ( nên xem kỉ câu trả lời có hợp câu hỏi không, coi chừng lạc đề).. thấy cũng oke
-Ăngghen định nghĩa vấn đề cơ bản của triết học như sau: “Vấn đề cơ bản lớn của mọi Triết
học, đặc biệt là Triết học hiện đại, là vấn đề quan hệ giữa tư duy với tồn tại”

+ Trên thực tế những hiện tượng chúng ta gặp hàng ngày hoặc là hiện tượng vật chất tồn tại bên
ngoài ý thức của chúng ta, hoặc là hiện tượng tinh thần tồn tại trong ý thức của chúng ta, không
có bất kỳ hiện tượng nào nằm ngoài hai lĩnh vực ấy. + Bất kỳ trường phái triết học nào cũng phải
đề cập và giải quyết mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, giữa tồn tại và tư duy. + Kết quả và thái
độ của việc giải quyết vấn đề đó quyết định sự hình thành thế giới quan và phương pháp luận của
nhà nghiên cứu, xác định bản chất của các trường phái triết học đó, cụ thể:
* Căn cứ vào cách trả lời câu hỏi thứ nhất để chúng ta biết được hệ thống triết học này, nhà triết
học này là duy vật hay là duy tâm, họ là triết học nhất nguyên hay nhị nguyên.
* Căn cứ vào cách trả lời câu hỏi thứ hai để chúng ta biết được nhà triết học đó theo thuyết khả
tri hay bất khả tri.+ Đây là vấn đề chung, nó mãi mãi tồn tại cùng con người và xã hội loài người.
CÂU 3) Phân tích thực chất và ý nghĩa cuộc cách mạng trong triết hoc do C.Mác và Angghen thực hiện
-Thực chất của cuộc cách mạng trong lịch sử triết học do C.Mác thực hiện là ở chỗ, khắc phục sự
tách rời giữa thế giới quan duy vật và phương pháp biện chứng để tạo nên sự thống nhất hữu cơ
giữa chủ nghĩa duy vật và phương pháp biện chứng; sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật lịch sử; đưa
triết học trở thành công cụ nhận thức và cải tạo thế giới; thiết lập mối liên minh giữa triết học và
các khoa học cụ thể. Trong thời đại ngày nay, cuộc cách mạng đó vẫn giữ nguyên ý nghĩa to lớn
của nó trong việc phát triển triết học Mác - Lênin, bởi nó là một hệ thống mở, gắn bó hữu cơ với
thực tiễn cách mạng của quần chúng nhân dân, với các khoa học cụ thể.
1. Sự ra đời của triết học Mác vào những năm 40 của thế kỷ XIX đã được thừa nhận là một cuộc
cách mạng trong lịch sử triết học. Cuộc cách mạng này đã đưa triết học nhân loại từ thời kỳ chủ
yếu là “giải thích thế giới” sang thời kỳ không chỉ “giải thích thế giới”, mà còn “cải tạo thế giới”.
Rõ ràng là, với sự ra đời của triết học Mác, lịch sử triết học của nhân loại đã chuyển sang một
thời kỳ mới về chất. Thực chất của cuộc cách mạng này được thể hiện ở những điểm cơ bản sau:
-Thứ nhất, khắc phục sự tách rời giữa thế giới quan duy vật và phương pháp biện chứng trong
lịch sử triết học trước đó, C.Mác đã tạo nên sự thống nhất hữu cơ không thể tách rời giữa chủ
nghĩa duy vật và phương pháp biện chứng - đó là chủ nghĩa duy vật biện chứng.
Thứ , hai sáng
tạo ra chủ nghĩa duy vật lịch sử là biểu hiện vĩ đại nhất của cuộc cách mạng trong triết học do
C.Mác thực hiện.
Thứ ba, với sự sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật
lịch sử, C.Mác đã khắc phục được sự đối lập giữa triết học với hoạt động thực tiễn của con
người. Trên cơ sở đó, triết học của ông đã trở thành công cụ nhận thức và cải tạo thế giới của
nhân loại tiến bộ.
Thứ tư, với việc sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy
vật lịch sử, C.Mác đã khắc phục được sự đối lập giữa triết học với các khoa học cụ thể.

2. Kể từ khi triết học Mác ra đời cho đến nay, thực tiễn đã có nhiều đổi thay, nhưng triết học Mác
vẫn giữ nguyên ý nghĩa lý luận cũng như giá trị thực tiễn trong thời đại ngày nay. Có thể nói,
cuộc cách mạng trong triết học do C.Mác thực hiện vào những năm 40 của thế kỷ XIX vẫn giữ
nguyên ý nghĩa to lớn trong việc phát triển triết học Mác - Lênin ở thời đại ngày nay.
Điều này thể hiện ở chỗ:
-Một là, với tinh thần của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chúng ta phải thấy rằng, triết học Mác -
Lênin là một hệ thống mở chứ không phải là hệ thống khép kín; nó đòi hỏi luôn phải được bổ
sung, hoàn thiện, phát triển. Đối với phương pháp biện chứng duy vật, không có gì là bất biến.
Bản thân C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin không bao giờ tự coi lý luận của các ông là “bất khả
xâm phạm”, là khép kín, là chân lý tuyệt đích cuối cùng. Trái lại, các nhà kinh điển của chủ
nghĩa Mác - Lênin luôn đòi hỏi những người cộng sản sau này phải biết vận dụng sáng tạo những
nguyên lý cơ bản của triết học Mác - Lênin sao cho phù hợp với điều kiện thực tiễn và phải biết
bổ sung, hoàn thiện, phát triển chúng.-Hai là, sự ra đời của triết học Mác gắn bó chặt chẽ với
thực tiễn phong trào công nhân những năm 30 - 40 của thế kỷ XIX. Bản thân triết học Mác cũng
gắn bó hữu cơ với thực tiễn cách mạng của quần chúng nhân dân. Chính C.Mác, trong quá trình
sáng tạo triết học, đã khắc phục sự đối lập giữa triết học với hoạt động thực tiễn của con người.
Bởi vậy, bổ sung, hoàn thiện, phát triển triết học Mác - Lênin phải theo hướng gắn bó với thực
tiễn, bảo đảm sự thống nhất giữa triết học với thực tiễn. Thực tiễn luôn vận động, biến đổi và
phát triển, do vậy, nhận thức của con người cũng luôn cần được bổ sung, hoàn thiện và phát triển
cho phù hợp với thực tiễn đó.-Ba là, ngay từ khi mới ra đời, triết học Mác đã gắn bó hữu cơ với
các khoa học cụ thể. Do vậy, ngày nay, với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ,
triết học Mác - Lênin không thể không được bổ sung, hoàn thiện, phát triển lý luận của mình.
Ph.Ăngghen đã từng nhấn mạnh: “Mỗi lần có một phát minh mang ý nghĩa thời đại ngay cả trong
lĩnh vực khoa học lịch sử - tự nhiên thì chủ nghĩa duy vật lại không tránh khỏi thay đổi hình thức
của nó; và từ khi bản thân lịch sử cũng được giải thích theo quan điểm duy vật chủ nghĩa thì ở
đây, cũng mở ra một con đường phát triển mới”
Như vậy, có thể khẳng định lại rằng, hơn một thế kỷ rưỡi đã trôi qua, kể từ khi cuộc cách mạng
trong triết học được C.Mác thực hiện, ý nghĩa của cuộc cách mạng này vẫn giữ nguyên tính thời
sự và tính thực tiễn cho việc phát triển triết học Mác - Lênin trong thời đại hiện nay.
Câu 4 ) Vì sao triết học do Mác và Angghen sáng lập lại có tên là triết học Mác-Lenin
-Triết học Marx-Lenin (phiên âm tiếng Việt: Triết học Mác - Lenin) hay học thuyết Marx-
Lenin là một trong ba bộ phận cấu thành của chủ nghĩa Marx-Lenin, được , Marx sáng Engels lập
vào giữa thế kỷ thứ XIX, sau đó được Lenin và các nhà macxit khác phát triển thêm. Triết
học Marx-Lenin ra đời vào những năm 40 thế kỉ XIX và được phát triển gắn chặt với những
thành tựu khoa học và thực tiễn trong phong trào cách mạng công nhân. Sự ra đời của triết học
Marx-Lenin là một cuộc cách mạng thực sự trong lịch sử tư tưởng loài người, trong lịch sử triết học.
-Triết học Marx-Lenin hình thành dựa trên hệ thống quan điểm của Marx, Engels và được Lenin
bổ sung sau này. Trong đó Engels đã phát triển triết học Marx, thông qua việc khái quát các
thành tựu khoa học và phê phán các lý thuyết triết học duy tâm, siêu hình và cả những quan niệm
duy vật tầm thường ở những người muốn trở thành những người Mác-xít. Với những tác phẩm
chủ yếu của mình như: Chống Duyring, Biện chứng của tự ,
nhiên Nguồn gốc của gia đình, của
chế độ tư hữu và nhà nước Lut ,
vich Phoi bách và sự cáo chung của triết học cổ điển Đức,
Engels đã trình bày học thuyết Mác nói chung và triết học Mác nói riêng dưới dạng một hệ thống
lý luận. Ngoài ra những ý kiến bổ sung, giải thích của Engels sau khi Mác qua đời đối với một số
luận điểm của ông trước đây cũng có ý nghĩa rất quan trọng trong việc phát triển học thuyết Mác. [1]
Sau khi Mác và Angghen qua đời, Lenin là người bảo vệ bổ sung phát triển và tận dụng sáng tạo
chủ nghĩa Mác. Chủ nghĩa Lenin hình thành và phát triển trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa
duy tâm, xét lại và giáo điều; là sự tiếp tục và là giai đoạn mới trong lịch sử chủ nghĩa Mác để
giải quyết những vấn đề cách mạng vô sản trong giai đoạn chủ nghĩa đế quốc và bước đầu xây
dựng chủ nghĩa xã hội. Lenin cũng chú ý đến việc chống chủ nghĩa giáo điều khi vận dụng chủ
nghĩa Mác nếu không muốn lạc hậu so với cuộc sống. Di sản kinh điển của V.I.Lenin trở thành
cơ sở cho việc nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn của các đảng cộng sản. Thiên tài về
lý luận và thực tiễn của Lenin trong việc kế thừa, bảo vệ và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác
được những người cộng sản đánh giá cao. Họ đặt tên cho chủ nghĩa của mình là chủ nghĩa Mác- Lênin.
HOẶC TRẢ LỜI THẾ NÀY cho đầy đủ (TÙY THEO THỜI GIAN PHÂN BỔ TRẢ LỜI
CÁC CÂU HỎI MÀ LỰA CHỌN CHÉP CÁI TRÊN HAY DƯỚI) : Câu hỏi 4. Tại sao
chúng ta gọi chủ nghĩa Mác là chủ nghĩa Mác-Lênin? Đáp.
Sau khi C.Mác và Ph.Ăngghen
qua đời, V.I.Lênin là người bảo vệ, bổ sung, phát triển và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác. Chủ
nghĩa Lênin hình thành và phát triển trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm, xét lại và
giáo điều; là sự tiếp tục và là giai đoạn mới trong lịch sử chủ nghĩa Mác để giải quyết những vấn
đề cách mạng vô sản trong giai đoạn chủ nghĩa đế quốc và bước đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội.
1) Nhu cầu bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác. a) Những năm cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX,
chủ nghĩa tư bản đã bước sang giai đoạn chủ nghĩa đế quốc. Bản chất bóc lột và thống trị của chủ
nghĩa tư bản ngày càng tinh vi, tàn bạo hơn; mâu thuẫn đặc thù vốn có của chủ nghĩa tư bản ngày
càng bộc lộ sâu sắc mà điển hình là mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản. b) Những
năm cuối thế kỷ XIX, bước sang thế kỷ XX, có những phát minh vật lý mang tính vạch thời đại,
làm đảo lộn căn bản quan niệm ngàn đời về vật chất. Đây là cơ hội để chủ nghĩa duy tâm tấn
công chủ nghĩa Mác; một số nhà khoa học tự nhiên rơi vào tình trạng khủng hoảng về thế giới
quan, gây ảnh hưởng trực tiếp đến nhận thức và hành động của phong trào cách mạng. c) Chủ
nghĩa Mác đã được truyền bá vào nước Nga; nhưng những trào lưu như chủ nghĩa kinh nghiệm
phê phán, chủ nghĩa thực dụng, chủ nghĩa xét lại v.v đã nhân danh đổi mới chủ nghĩa Mác để
xuyên tạc và phủ nhận chủ nghĩa đó. Trong bối cảnh như vậy, nhu cầu khách quan về việc khái
quát những thành tựu khoa học tự nhiên để rút ra những kết luận về thế giới quan và phương
pháp luận triết học cho các khoa học chuyên ngành; đấu tranh chống lại những trào lưu tư tưởng
phản động và phát triển chủ nghĩa Mác đã được thực tiễn nước Nga đặt ra. Hoạt động lý luận của
V.I.Lênin nhằm đáp ứng nhu cầu lịch sử đó. 2) Quá trình V.I.Lênin bảo vệ và phát triển chủ nghĩa
Mác được chia thành ba thời kỳ, tương ứng với ba nhu cầu khách quan của thực tiễn nước Nga.
a) Trong thời kỳ 1893-1907, V.I.Lênin tập trung phê phán tính duy tâm của phái “dân túy” về
những vấn đề lịch sử-xã hội và chỉ ra rằng, qua việc xóa nhòa ranh giới giữa phép biện chứng
duy vật với phép biện chứng duy tâm của Hêghen, phái dân túy đã xuyên tạc chủ nghĩa Mác.
V.I.Lênin cũng phát triển quan điểm của chủ nghĩa Mác về các hình thức đấu tranh giai cấp của
giai cấp vô sản trước khi giành được chính quyền; trong đó các vấn đề về đấu tranh kinh tế,
chính trị, tư tưởng được đề cập rõ nét; ông cũng phát triển chủ nghĩa Mác về những vấn đề như
phương pháp cách mạng; nhân tố chủ quan và yếu tố khách quan; vai trò của quần chúng nhân
dân; của các đảng chính trị trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa. b) Trong thời kỳ 1907-1917,
V.I.Lênin viết tác phẩm Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán (1909)- tác phẩm
khái quát từ góc độ triết học những thành tựu mới nhất của khoa học tự nhiên để bảo vệ và tiếp
tục phát triển chủ nghĩa Mác; phê phán triết học duy tâm chủ quan đang chống lại chủ nghĩa duy
vật nói chung và chủ nghĩa duy vật biện chứng nói riêng. Trong tác phẩm, vấn đề cơ bản của triết
học và phạm trù vật chất có ý nghĩa hệ tư tưởng và phương pháp luận hết sức to lớn. Bảo vệ và
phát triển chủ nghĩa Mác về nhận thức, V.I.Lênin cũng chỉ ra sự thống nhất bên trong, không tách
rời của chủ nghĩa duy vật biện chứng với chủ nghĩa duy vật lịch sử; sự thống nhất của những
luận giải duy vật về tự nhiên, về xã hội, về con người và tư duy của nó. Trong tác phẩm Bút ký
triết học (1914-1916), V.I.Lênin tiếp tục khai thác hạt nhân hợp lý của triết học Hêghen để làm
phong phú thêm phép biện chứng duy vật, đặc biệt là lý luận về sự thống nhất giữa các mặt đối
lập. Năm 1917, V.I.Lênin viết tác phẩm Nhà nước và cách mạng bàn về vấn đề nhà nước chuyên
chính vô sản, bạo lực cách mạng và vai trò của đảng công nhân và con đường xây dựng chủ
nghĩa xã hội; đưa ra tư tưởng về nhà nước Xôviết, coi đó là hình thức của chuyên chính vô sản;
vạch ra những nhiệm vụ chính trị và kinh tế mà nhà nước đó phải thực hiện và chỉ ra những
nguồn gốc vật chất của chủ nghĩa xã hội được tạo ra do sự phát triển của chủ nghĩa tư bản. c)
Thời kỳ 1917-1924. Thắng lợi của cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười (Nga) năm 1917 mở
ra thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Sự kiện này làm nẩy sinh những nhu
cầu mới về lý luận mà sinh thời C.Mác và Ph.Ăngghen chưa thể hiện; V.I.Lênin tiếp tục tổng kết
thực tiễn để đáp ứng nhu cầu đó bằng các tác phẩm mà các nội dung chính của chúng cho rằng
việc thực hiện kiểm tra, kiểm soát toàn dân; tổ chức thi đua xã hội chủ nghĩa là những điều kiện
cần thiết để chuyển sang xây dựng "chủ nghĩa xã hội kế hoạch". V.I.Lênin cũng chỉ ra rằng,
nguyên tắc tập trung dân chủ là cơ sở của công cuộc xây dựng kinh tế; xây dựng nhà nước xã hội
chủ nghĩa. Ông nhấn mạnh tính lâu dài của thời kỳ quá độ, không tránh khỏi phải đi qua những
nấc thang trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. V.I.Lênin khẳng định vai trò kinh tế hàng hóa
trong điều kiện nền sản xuất hàng hoá nhỏ đang chiếm ưu thế trong công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội. Nhận thấy sự quan liêu đã bắt đầu xuất hiện trong nhà nước công nông non trẻ, ông
đề nghị những người cộng sản cần thường xuyên chống ba kẻ thù chính là sự kiêu ngạo, ít học và
tham nhũng. V.I.Lênin cũng chú ý đến việc chống chủ nghĩa giáo điều khi vận dụng chủ nghĩa
Mác nếu không muốn lạc hậu so với cuộc sống. Di sản kinh điển của V.I.Lênin trở thành cơ sở
cho việc nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn của các đảng cộng sản. Thiên tài về lý
luận và thực tiễn của V.I. Lênin trong việc kế thừa, bảo vệ và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác
được những người cộng sản đánh giá cao. Họ đặt tên cho chủ nghĩa của mình là chủ nghĩa Mác- Lênin.
Câu 5 ) Đối tượng và phương pháp nghiên cứu của triết học Mác-Lenin
- Đối tượng của triết học
được hiểu là những mối liên hệ chung nhất của hiện thực khách quan,
hoặc nhũng sự vật được con người tưởng tượng ra và được phản ánh trong các phạm trù, khái
niệm của triết học. Ngoài ra Đối tượng nghiên cứu của triết học còn được hiểu là những mối liên
hệ chung nhất của thế giới vật chất và cả bản chất, mối liên hệ giữa thế giới vật chất với nhũng
sự vật hiện tượng do con người tưởng tượng ra như Thượng đế, thế giới thần thánh, thần linh v.v.
-Triết học Mác xác định đối tượng nghiên cứu của triết học là: Tiếp tục giải quyết vấn đề về mối
quan hệ giữa tư duy và tồn tại, giữa ý thức và vật chất trẽn lập trường duy vật; nghiên cứu những
quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy, từ đó định hướng cho hoạt động nhận thức,
hoạt động thực tiễn của con người.
-Phương pháp nghiên cứu của triết học:Mỗi khoa học đều có khách thể và đối tượng nghiên
cứu của nó, nên chúng đều có phương pháp nghiên cứu nhất định.
- Trước hết, đạo đức học cũng như các khoa học khác, phải lấy từ phương pháp duy vật biện
chứng và phương pháp duy vật lịch sử làm phương pháp nghiên cứu của mình. Nghĩa là, trong
quá trình tìm hiểu, nghiên cứu đạo đức học, phải vận dụng triệt để, nhất quán những nguyên lý,
qui luật của triết học Mác - Lênin, đặc biệt là phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật lịch sử
mới khắc phục được những hạn chế, những sai lầm của đạo đức học trước Mác. Đó là những sai
lầm cực đoan của chủ nghĩa kinh nghiệm, chủ nghĩa duy lý, duy tâm thần học. Đạo đức học là
môn khoa học xã hội vì thế nghiên cứu nó phải đặt trong mối quan hệ biện chứng với những
thành tựu của các bộ môn khoa học xã hội khác như: Luật học, Mỹ học, Chính trị học, đặc biệt là
giáo dục học, tâm lý học. Bởi vì các môn đó vừa là phương thức thực hiện những chức năng thực
hành đạo đức, vừa là ngọn nguồn, bộ phận của đạo đức học.
- Hai là, phương pháp lịch sử, so sánh.Đạo đức học là một phạm trù lịch sử, nó phát sinh, tồn
tại, phát triển trong từng giai đoạn lịch sử xã hội nhất định. Do đó, quan niệm về đạo đức trong
lịch sử phải được xem như những nấc thang giá trị nhất định của xã hội loài người. Nó luôn luôn
bị phủ định, lọc bỏ, kế thừa để phát triển không ngừng với sự tiến bộ xã hội nói chung. Mỗi hiện
tượng đạo đức hiện thực có cội nguồn từ cơ sở của quá khứ, của một nền truyền thống lịch sử,
đồng thời đạo đức hiện tại là tiền đề để phát triển trong tương lai, như là một quá trình phủ định
biện chứng. Vì thế phương pháp lịch sử, so sánh giúp ta thấy được cái logic bản chất của hiện
tượng đạo đức.Tiếp tục và cụ thể hoá tư tưởng của Mác về tính quy định của cơ sở kinh tế đối
với ý thức xã hội nói chung và đạo đức nói riêng, Ănghen đã luận chững cho bản chất xã hội của
đạo đức bằng cách chỉ ra tính thời đại, tính dân tộc và tính giai cấp của đạo đức.
Câu 6) Khái quát vai trò thế giới quan và phương pháp luận của triết học Mác-Lenin đối
với thực tiễn cách mạng VN và đối với bản thân sinh viên ( NÊN VIẾT PHẦN Ở DƯỚI CÙNG)

ĐỐI VỚI THỰC TIỄN CÁCH MẠNG VIỆT NAM
Vai trò thế giới quan của triết học* Tồn tại trong mối quan hệ với thế giới xung quanh, dù
muốn hay không con người cũng phải nhận thức thế giới và nhận thức bản thân mình. Những tri
thức này cùng với niềm tin vào nó dần dần hình thành nên thế giới quan.* Thế giới quan là nhân
tố định hướng cho quá trình hoạt động sống của con người. Thế giới quan như một “thấu kính”
qua đó con người xác định mục đích, ý nghĩa cuộc sống và lựa chọn cách thức đạt mục đích đó.*
Trình độ phát triển của thế giới quan là tiêu chí quan trọng về sự trưởng thành của mỗi cá nhân
cũng như mỗi cộng đồng nhất định.* Triết học ra đời với tư cách là hạt nhân lý luận của thế giới
quan, làm cho thế giới quan phát triển như một quá trình tự giác dựa trên sự tổng kết kinh
nghiệm thực tiễn và tri thức do các khoa học đưa lại. Đó là chức năng thế giới quan của triết học.
+ Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm là cơ sở lý luận của hai thế giới quan cơ bản đối lập
nhau. Chính vì vậy chúng đóng vai trò là nền tảng thế giới quan của các hệ tư tưởng đối lập.Cuộc
đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm trong triết học biểu hiện bằng cách này
hay cách khác cuộc đấu tranh giữa những giai cấp, những lực lượng xã hội đối lập nhau.Do vậy:
+ Thế giới quan đúng đắn là tiền đề để xác lập nhân sinh quan tích cực giúp cho con người sáng
tạo trong hoạt động.+ Thế giới quan sai lầm làm cho con người sống thụ động hoặc sai lệch trong
hoạt động. + Việc nghiên cứu triết học giúp ta định hướng hoàn thiện thế giới quan.
Vai trò phương pháp luận của triết học:Phương pháp luận là lý luận về phương pháp; là hệ
thống quan điểm có tính nguyên tắc chỉ đạo việc tìm tòi, xây dựng, lựa chọn và vận dụng các
phương pháp.* Triết học thực hiện chức năng phương pháp luận chung nhất+ Tri thức triết học là
hệ thống tri thức chung nhất về thế giới và vai trò con người trong thế giới, nghiên cứu các qui
luật chung nhất chi phối cả tự nhiên, xã hội và tư duy.+ Mỗi luận điểm triết học đồng thời là một
nguyên tắc trong việc xác định phương pháp, là lý luận về phương pháp.Việc nghiên cứu triết
học giúp ta có được phương pháp luận chung nhất, trở nên năng động sáng tạo trong hoạt động
phù hợp với xu thế phát triển chung
ĐỐI VỚI BẢN THÂN SINH VIÊN ( đổi chữ học viên, con người thành sinh viên)
-
Đối với người học, cần thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong học tập, tiếp thu tri thức lý
luận chính trị. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Học tập chủ nghĩa Mác - Lênin là học tập cái
tinh thần xử trí mọi việc, đối với mọi người và đối với bản thân mình; là học tập những chân lý
phổ biến của chủ nghĩa Mác - Lênin để áp dụng một cách sáng tạo vào hoàn cảnh thực tiễn ở
nước ta. Học để mà làm. Lý luận đi đôi với thực tiễn” Vai trò của thế giới quan
-Thứ nhất, thế giới quan duy vật biện chứng giúp cho học viên nâng cao năng lực nhận thức;
vận dụng sáng tạo đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước trong việc đề ra chủ trương,
chính sách phù hợp với yêu cầu phát triển ở địa phương, đơn vị.-Thứ ,
hai thế giới quan duy vật
biện chứng giúp cho học viên có được niềm tin vào sự tất thắng của chủ nghĩa xã hội, tin vào
đường lối chính trị của Đảng, tin vào quần chúng nhân dân.-Thứ ba, thế giới quan duy vật biện
chứng giúp cho học viên nâng cao năng lực tổng kết thực tiễn, đúc rút bài học kinh nghiệm, định
hướng cho hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn tiếp theo.-thứ tư ,thế giới quan duy vật
biện chứng giúp cho học viên trau dồi và nâng cao phẩm chất đạo đức cách mạng.
*Tóm lại, thế giới quan duy vật biện chứng có vai trò vô cùng to lớn, tác động đến mọi hoạt
động nhận thức và thực tiễn của học viên. Để mỗi người cán bộ thực sự lực lượng của Đảng, của
Nhà nước và Nhân dân, luôn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao trong mọi tình huống, đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, đòi hỏi người học viên phải không ngừng ra sức
phấn đấu học tập, rèn luyện để
*Vaitròcủaphươngphápluận
-Với tư cách là hệ thống tri thức lý
luận chung nhất của con người về thế giới, về vị trí, vai trò
của con người trong thế giới đó, triết học đóng vai trò là hạt nhân lý luận của thế giới quan. Triết
học giữ vai trò định hướng cho quá trình củng cố và phát triển thế giới quan của mỗi cá nhân,
mỗi cộng đồng trong lịch sử. Trang bị thế giới quan đúng đắn mới chỉ là một mặt của triết học
Mác - Lênin.( -Với tư cách là hệ thống tri thức chung nhất của con người về thế giới và vai trò
của con người trong thế giới đó, triết học )thực hiện chức năng phương pháp luận chung nhất.
Phương pháp luận của triết học Mác - Lênin đã góp phần quan trọng chỉ đạo, định hướng cho
con người trong nhận thức và hoạt động thực tiễn.
Bổsungthêmphầnđốivớisinhviên:
Khái lược về vai trò (chức năng) thế giới quan và phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật
biện chứng?Đáp án
.Chủ nghĩa duy vật biện chứng có nhiều chức năng, nhưng cơ bản nhất là
chức năng thế giới quan duy vật biện chứng và chức năng phương pháp luận biện chứng duy vật
của nhận thức khoa học
và thực tiễn cách mạng.
1) Thế giới quan là hệ thống những nguyên tắc, quan điểm, niềm tin về thế giới; về bản thân
con người, về cuộc sống và vị trí của con người trong thế giới ấy. Vai trò cơ bản của thế giới
quan là sự định hướng hoạt động và quan hệ giữa cá nhân, giai cấp, tập đoàn người, của xã hội
nói chung đốivớihiệnthực.Hệ thống các quan niệm triết học, kinh tế và chính trị-xã hội là cơ sở
khoa học của thế giới quan duy vật biện chứng và thế giới quan duy vật biện chứng trước hết thể
hiện ở cách giải quyết vấn đề cơ bản của triết học; theo đó vật chất có trước và quy định ý thức
(duy vật), nhưng ý thức tồn tại độc lập tương đối và tác động trở lại vật chất (biện chứng). Trong
lĩnh vực kinh tế, thế giới quan duy vật biện chứng thể hiện ở chỗ lực lượng sản xuất (cái thứ
nhất) quy định ý quan hệ sản xuất (cái thứ hai), cơ sở hạ tầng (cái thứ nhất) quy định kiến trúc
thượng tầng (cái thứ hai); nhưng cái thứ hai luôn tồn tại độc lập tương đối và tác động trở lại cái
thứ nhất. Trong lĩnh vực xã hội, tồn tại xã hội (cái thứ nhất) quy định ý thức xã hội (cái thứ hai);
nhưng ý thức xã hội tồn tại độc lập tương đối và tác động trực tiếp hay gián tiếp trở lại tồn tại xã hội.
2) Phương pháp luận là hệ thống những quan điểm, những nguyên tắc xuất phát chỉ đạo chủ thể
trong việc xác định phương pháp cũng như trong việc xác định phạm vi, khả năng áp dụng chúng
một cách hợp lý, có hiệu quả tối đa. Phương pháp luận là lý luận về phương pháp, là khoa học về
phương pháp. Nhiệm vụ của phương pháp luận là giải quyết những vấn đề như phương pháp là
gì? Bản chất, nội dung, hình thức của phương pháp ra sao? Phân loại phương pháp cần dựa vào
những tiêu chí gì? Vai trò của phương pháp trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn? v.v.
-Chức năng (CÓ THỂ LÀ VAI TRÒ LUÔN) phương pháp luận biện chứng duy vật thể hiện ở
hệ thống các nguyên tắc, phương pháp tổ chức và xây dựng hoạt động lý luận và hoạt động thực
tiễn, đồng thời cũng chính là học thuyết về hệ thống đó và là phương pháp luận chung nhất của
các khoa học chuyên ngành. Phương pháp luận biện chứng duy vật là sự thống nhất biện chứng
giữa các phương pháp luận bộ môn, phương pháp luận chung đã được cụ thể hoá trong các lĩnh
vực của hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn. Với tư cách là hệ thống tri thức chung nhất
về thế giới và về vai trò, vị trí của con người trong thế giới đó cùng với việc nghiên cứu những
quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy, chủ nghĩa duy vật biện chứng thực hiện chức
năng phương pháp luận chung nhất. Mỗi luận điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng đồng thời
là một nguyên tắc trong việc xác định, lý luận về phương pháp. Những chức năng trên tạo ra khả
năng cải tạo thế giới của chủ nghĩa duy vật biện chứng, trở thành công cụ hữu hiệu trong hoạt
động chinh phục tự nhiên và sự nghiệp giải phóng con người.
Thế giới quan duy vật biện chứng và phương pháp luận biện chứng duy vật triết học là cơ sở lý
luận nền tảng của chủ nghĩa Mác-Lênin. Nắm vững chúng chẳng những là điều kiện tiên quyết
để nghiên cứu toàn bộ hệ thống lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin, mà còn là cơ sở để vận dụng sáng
tạo và phát triển chúng vào hoạt động nhận thức; giải thích, nhận thức và giải quyết những vấn
đề cấp bách của thực tiễn đất nước và thời đại đặt ra.
Câu hỏi 6. Mục đích và yêu cầu của việc học tập, nghiên cứu môn học Những nguyên lý cơ
bản củachủnghĩaMác-Lênin?Đáp án. Học tập,
nghiên cứu môn học Những nguyên lý cơ bản
của chủ nghĩa Mác-Lênin cần phải theo phương pháp gắn những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin với thực tiễn đất nước và thời đại;
Học tập, nghiên cứu môn học Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin cần phải hiểu
đúng tinh thần, thực chất của nó; tránh bệnh kinh viện, giáo điều trong học tập, nghiên cứu và vận dụng các nguyên lý đó trong thực tiễn;
Học tập, nghiên cứu môn học mỗi nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin trong mối quan hệ
với các nguyên lý khác; mỗi bộ phận lý luận cấu thành này phải gắn kết với các bộ phận lý luận
cấu thành còn lại để thấy sự thống nhất của các bộ phận đó trong chủ nghĩa Mác-Lênin; đồng
thời cũng nên nhận thức các nguyên lý đó trong tiến trình phát triển của lịch sử tư tưởng nhân loại. CHƯƠNG 2
Câu 1) A) Vị trí vai trò của phạm trù vật chất trong lịch sử triết học(Chắc lọc trước khi chép)
*PHẠM TRÙ VẬT CHẤT : p
hạm trù vật chất là một trong những phạm trù cơ bản của triết
học duy vật. Việc nhận thức đúng đắn nội dung của phạm trù này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng
để khẳng định tính chất khoa học, đúng đắn của quan điểm duy vật biện chứng về thế giới.
-Việc khám phá bản chất và cấu trúc của sự tồn tại của thế giới xung quanh ta, mà trước hết là
thế giới những vật thể hữu hình, từ xưa tới nay, luôn luôn là vấn đề được quan tâm hàng đầu
trong lịch sử nhận thức của nhân loại. Hầu hết các trường phái triết học đều bằng cách này hay
bằng cách khác giải quyết vấn đề này. Và bởi vậy trong triết học, phạm trù vật chất xuất hiện.
-Vật chất với tính cách là phạm trù triết học ra đời trong triết học Hy Lạp ở thời kỳ cổ đại. Ngay
từ lúc mới xuất hiện, xung quanh phạm trù này đã diễn ra cuộc đấu tranh không khoan nhượng
giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm. Cũng với sự tiến triển của tri thức loài người, đến
nay nội dung của phạm trù này đã trải qua những biến đổi sâu sắc.Theo quan điểm của chủ nghĩa
duy tâm thì thực thể của thế giới, cơ sở của mọi tồn tại là một bản nguyên tinh thần nào đó. Đó
có thể là “ý chí của Thượng đế”, là “ý niệm tuyệt đối”, hoặc là những quan hệ có tính chất siêu
nhiên… Còn trong quan niệm của chủ nghĩa duy vật thì thực thể của thế giới là vật chất, cái tồn
tại một cách vĩnh cửu, tạo nên mọi sự vật và hiện tượng cùng với những thuộc tính của chúng.
*Vị trí và VAI TRÒ PHẠM TRÙ : Phạm trù là khái niệm hàm chứa chung nhất, khó xác định
trong khuôn khổ một lý thuyết nói riêng hay ngành khoa học nào đó nói chung. Phạm trù được
xem là thành phần kết cấu của sơ đồ phạm trù xác định quy trình tư duy. Mỗi phạm trù nhờ khả
năng giải mã cũng là yếu tố lưu giữ trạng thái quy trình. Phạm trù được dùng trong việc hệ thống
hóa kiến thức qua quá trình nhận thức, trong đó chúng đóng vai trò ấn định tên cho đề mục.
Cùng với những định nghĩa trên phạm trù còn được công nhận trong sự hình thành siêu ngôn ngữ
mà thành phần của nó là các định nghĩa "lớp kiến thức". Phạm trù là đơn vị đặc biệt bảo đảm quá
trình chuyển dịch kiến thức (knowledge )
transfer trong nghiên cứu liên ngành. Phạm trù ghi giữ
các lớp kiến thức, các giai đoạn và các yếu tố của quá trình nhận thức, vì thế nó thuộc về hệ
thống quản lý kiến thức. Phạm trù cho phép liên hệ bất cứ kiến thức nào với triết học và ngược
lại, liên hệ triết học đến bất kỳ lĩnh vực kiến thức nào. Tuy có sự chú ý đáng kể đối với phạm trù
nhưng ứng dụng chúng vào quá trình nhận biết thế giới vẫn diễn ra ở mức cảm tính[3].
B) QUAN điểm của CNDV trước C.Mác về vật chất : nội dung quan điểm; những thành
tựu và hạn chế ( chắc lọc lại) *Quan điểm của các nhà duy vật thời cổ đại

-Vào thời cổ đại ở Hy Lạp, các nhà triết học duy vật đều cho có một nguyên thể vật chất đầu tiên
là cơ sở thế giới. Họ quy vật chất về cơ sở đầu tiên đó. Quan niệm vật chất của các nhà duy vật
cổ đại còn mang tính trực quan, cảm tính, họ đồng nhất vật chất nói chung với những vật thể hữu
hình, cảm tính đang tồn tại ở thế giới bên ngoài.* Talét coi thực thể của thế giới là nước.*
Anaximen coi thực thể đó là không khí. Với Hêraclít thực thể đó là lửa, còn với Ămpêđôlơ thì
thực thể đó bao gồm cả bốn yếu tố: đất, nước, lửa và không khí.* Anaximanđrơ cho rằng, thực
thể của thế giới là một bản nguyên không xác định về mặt chất và vô tận về mặt lượng. Bản
nguyên này không thể quan sát được và ông gọi nó là apâyrôn. Sự tương tác giữa các mặt đối lập
vốn có trong apâyrôn tạo nên toàn bộ thế giới.* Lơxíp và Đêmôcrít thì thực thể của thế giới là
nguyên tử. Đó là các phần tử cực kỳ nhỏ, cứng, tuyệt đối không thâm nhập được, không quan sát
được… và nói chung là không cảm giác được. Nguyên tử chỉ có thể được nhận biết nhờ tư duy.
Đêmôcrít hình dung nguyên tử có nhiều loại: có loại góc cạnh, xấu xí; có loại cong, nhẵn; có loại
tròn, hình cầu… Sự kết hợp hoặc tách rời nguyên tử theo các trật tự khác nhau của không gian sẽ tạo nên toàn bộ thếgiới.
*Tóm lại: Những quan điểm trên tuy còn thô sơ, nhưng có ưu điểm căn bản là vật chất được
coi là cơ sở đầu tiên của mọi sự vật hiện tượng trong thế giới khách quan. Điều này đối lập
với quan điểm duy tâm tôn giáo coi cơ sở đầu tiên của thế giới là tinh thần, ý thức. Học thuyết
nguyên tử là một bước phát triển mới trên con đường hình thành phạm trù vật chất trong
triết học, tạo cơ sở triết học mới cho nhận thức khoa học sau này.
Quan điểm của các nhà duy vật thời cận đại : Kế thừa nguyên tử luận cổ đại, các nhà duy vật
thời cận đại tiếp tục coi nguyên tử là những phần tử vật chất nhỏ nhất, không phân chia được,
vẫn tách rời chúng một cách siêu hình với vận động không gian và thời gian. Họ chưa thấy được
vận động là thuộc tính cố hữu của vật chất. Các nhà triết học của thời kỳ này còn đồng nhất vật
chất với một thuộc tính nào đó của vật chất như đồng nhất vật chất với khối lượng, năng
lượng.////( tới đây là cũng ổn )
*Quan điểm chủ nghĩa duy vật : Trong triết học, chủ nghĩa duy vật là một hình thức của chủ
nghĩa duy vật lý (physicalism) với quan niệm rằng thứ duy nhất có thể được thực sự coi là tồn
tại
là vật chất; rằng, về căn bản, mọi sự vật đều có cấu tạo từ vật chất và mọi hiện tượng đều là
kết quả của các tương tác vật chất. Khoa học sử dụng một giả thuyết, đôi khi được gọi là thuyết
tự nhiên phương pháp luận, rằng mọi sự kiện quan sát được trong thiên nhiên được giải thích chỉ
bằng các nguyên nhân tự nhiên mà không cần giả thiết về sự tồn tại hoặc không-tồn tại của
cái siêu nhiên. Với vai trò một học thuyết, chủ nghĩa duy vật thuộc về lớp bản thể học nhất
nguyên. Như vậy, nó khác với các học thuyết bản thể học dựa trên thuyết nhị nguyên hay thuyết
đa nguyên. Xét các giải thích đặc biệt cho thực tại hiện tượng, chủ nghĩa duy vật đứng ở vị trí đối
lập hoàn toàn với chủ nghĩa duy tâm.
*QUAN ĐIỂM VỀ nội dung : Theo quan điểm duy vật biện chứng, bản chất của thế giới là vật
chất, thế giới thống nhất ở tính vật chất của nó. Quan điểm đó bao hàm những nội dung cơ bản
sau đây: - Một là, chỉ có một thế giới duy nhất là thế giới vật chất; thế giới vật chất là cái có
trước, tồn tại khách quan, độc lập với ý thức của con người.
-Hai là, thế giới vật chất tồn tại vĩnh viễn, vô tận, vô hạn, không được sinh ra và không bị mất đi.
-Ba là, mọi tồn tại của thế giới vật chất đều có mối liên hệ khách quan, thống nhất với nhau, biểu
hiện ở chỗ chúng đều là những dạng cụ thể của vật chất, là những kết cấu vật chất, có nguồn gốc
vật chất, do vật chất sinh ra và cùng chịu sự chi phối của những quy luật khách quan phổ biến
của thế giới vật chất. Trong thế giới vật chất không có gì khác ngoài những quá trình vật chất
đang biến đổi và chuyển hoá lẫn nhau, là nguồn gốc, nguyên nhân và kết quả của nhau.Bản chất
vật chất và tính thống nhất vật chất của thế giới là kết luận được rút ra từ việc khái quát những
thành tựu của khoa học, được khoa học và cuộc sống hiện thực của con người kiểm nghiệm. Nó
không chỉ định hướng cho con người giải thích vể tính đa dạng của thế giới mà còn định hướng
cho con người tiếp tục nhận thức về tính đa dạng ấy để thực hiện quá trình cải tạo hợp quy luật.
Quan điểm về hạn chế (có vẽ lạc đề )
Các nhà triết học duy vật trước Mác (trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm ???)
đã hết sức quan tâm giải quyết vấn đề cốt lõi là vật chất. Họ đưa ra những kiến giải khác nhau
về vật chất và qua đó đã có những đóng góp hết sức quan trọng đối với lịch sử phát triển của
triết học duy vật. Tuy nhiên tất cả họ đều mắc phải hạn chế lớn nhất là đã đồng nhất vật chất
với vật thể hoặc một thuộc tính nào đó của vật thể, họ không thấy được sự tồn tại của vật chất
gắn liền với vận động và họ không chỉ ra được biểu hiện của vật chất trong đời sống xã hội và
chỉ đến khi triết học Mác xít xuất hiện thì phạm trù vật chất mới được giải quyết một cách khoa học./.
Câu 2 A) Bối cảnh và nội dung cuộc khủng hoảng về thế giới quan duy vật trong khoa học
những năm cuối thế kỷ thứ XIX đầu TK XX và sự ra đời định nghĩa của lenin về vật chất (chưa biết đáp án)

B) Nội dung và ý nghĩa định nghĩa của lenin về vật chất
-Phân tích nội dung định nghĩa vật chất của Lê Nin. Nêu ý nghĩa phương pháp luận.
Định nghĩa: Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khác quan được đem lại cho
con người trong cám giác được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại phản ánh và tồn tại không lệthuộcvàocảmgiác.
-Phântíchđịnhnghĩa: -Một là: Vật chất là một phạm trù triết học để phân biệt nó với khái niệm
vật chất trong các nhà khoa học cụ thể, vật chất thông thường hàng ngày – có giới hạn có sinh ra
và mất đi còn vật chất trong triết học không tự nó sinh ra không mất đi vô tận vô hạn nó luôn vận
động, chuyển hóa không ngừng từ dạng này sang dạng khác.
-Hai là: Thuộc tính chung của vật chất là thuộc tính” thực tại khách quan”ở bên ngoài và độc lập
vớiýthứcconngười. + Vật chất có vô vàn thuộc tính trong đó thuộc tính thực tại khách quan tức
sự tồn tại bên ngoài và độc lập với ý thức con người là thuộc tính chung nhất vĩnh hằng với mọi
dạng mọiđốitượngvậtchất. + Thuộc tính thực tại khách quan là tiêu chuẩn để phân biệt cái gì là
vật chất cái già không phải là vật chất trong tự nhiên và trong xã hội. Tất cả cái gì tồn tại bên
ngoài và độc lập với ý thức con người đều là những dạng vật chất khác nhau của vật chất.
+ Thuộc tính trên cũng là tiêu chuẩn để khẳng định thế giới vật chất tồn tại thực sự và tồn tại do
chính nó đó là cơ sở đấu tranh chống lại chủ nghĩa duy tâm dưới mọi hình thức.
Vật chất được đem lại cho con người trong cảm giác, được chép lại chụp lại phản ánh và không
lệ thuộcvàocảmgiác. + Vật chất tồn tại khách quan, nhưng không tồn tại trừu tượng mà là sự tồn
tại hiện thực thông qua các sự vật cụ thể cảm tính. Khi vật chất tác động đến các giác quan của
con người thì gây ra cảm giác ở con người đem lại cho con người sự nhận thức về chính nó.
+ Vật chất được đem lại cho con người trong cảm giác đó là nguồn gốc nguyên nhân của cảm
giác của ý thức, nó có trước ý thức và tạo nên ý thức. Còn cảm giác hay ý thức chỉ là sự ‘chép
lại, chụp lại phản ánh” nó có sau so với vật chất rõ ràng vật chất tính thứ nhất ý thức là tính thứ 2, vật chất quyđịnhýthức.
*Ýnghĩaphươngphápluận:
+ Giải quyết vấn đề cơ bản của triết học theo lập trường duy vật biện chứng trong đó khẳng định
vật chất là tính thứ nhất ý thức là tính thứ 2, vật chất quyết định ý thức.
+ Là cơ sở khoa học và là vũ khí tư tưởng đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm “thuyết không thể
biết” và khắc phục những hạn chế của chủ nghĩa duy vật siêu hình một cách có hiệu quả, để đảm
bảo sự đứng xững của chủ nghĩa duy vật trước sự phát triển của khoa học tự nhiên.
+ Định nghĩa còn có ý nghĩa định hướng và cổ vũ cho các nhà khoa học đi sâu nghiên cứu thế
giới vật chất không ngừng làm phong phú và sâu sắc tri thức của con người về thế giới vật chất.
+ Là cơ sở khoa học cho việc xây dựng quan điểm duy vật biện chứng trong lĩnh xã hội
+ Trang bị thế giới quan duy vật phương pháp luận khoa học mở đường cho các ngành khoa học
cụ thể phát triển đem lại niềm tin cho con người về khả năng nhận thức thế giới.
C) Các phương thức và hình thức tồn tại của vật chất: Theo quan điểm của chủ nghĩa duy
vật biện chứng, vận động là phương thức tồn tại của vật chất; không gian, thời gian là những
hình thức tồn tại của vật chất. -
Vận động là phương thức tồn tại của vật chất. Ăngghen định
nghĩa: “Vận động hiểu theo nghĩa chung nhất, - tức được hiểu là một phương thức tồn tại của vật
chất, là một thuộc tính cố hưữ của vật chất – thì bao gồm tất cả mọi sự thay đổi và mọi quá trình
diễn ra trong vũ trụ, kể từ sự thay đổi vị trí đơn giản cho đến tư duy”
Theo quan niệm của Ăngghen: vận động không chỉ thuần túy là sự thay đổi vị trí trong không
gian mà là “mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ”, vận động “là một phương
thức tồn tại của vật chất, là một thuộc tính cố hữu của vật chất” nên thông qua vận động mà các
dạng cụ thể của vật chất biểu hiện sự tồn tại cụ thể của mình; vận động của vật chất là tự thân
vận động; và, sự tồn tại của vật chất luôn gắn liền với vật chất.Dựa trên thành tựu khoa học trong
thời đại mình, Ăngghen đã phân chia vận động thành năm hình thức cơ bản: vận động cơ học,
vận động vật lý, vận động hóa học, vận động sinh học và vận động xã hội.
-Các hình thức vận động nói trên được sắp xếp theo thứ tự từ thấp đến cao tương ứng với trình
dộ kết cấu của vật chất. Các hình thức vận động khác nhau về chất song chúng không tồn tại biệt
lập mà có mối quan hệ mật thiết với nhau, trong đó: hình thức vận động cao xuất hiện trên cơ sở
các hình thức vận động thấp và bao hàm trong nó những hình thức vận động thấp hơn. Trong sự
tồn tại của mình, mỗi sự vật có thể có nhiều hình thức vận động khác nhau song bản thân nó bao
giờ cũng được đặc trưng bởi hình thức vận động cao nhất mà nó có.Bằng việc phân loại các hình
thức vận động cơ bản, Ăngghen đã đặt cơ sở cho việc phân loại, phân ngành, hợp ngành khoa
học. tư tưởng về sự thống nhất nhưng khác nhau về chất của các hình thức vận động cơ bản còn
là cơ sở để chống lại khuynh hướng đánh đồng các hình thức vận động hoặc quy hình thức vận
động này vào hình thức vận động khác trong quá trình nhận thức.
Khi khẳng định vận động là phương thức tồn tại của vật chất, là thuộc tính cố hữu của vật chất;
chủ nghĩa duy vật biện chứng cũ đã khẳng định vận động là vĩnh viễn. Điều này không có nghĩa
chủ nghĩa duy vật biện chứng phủ nhận sự đứng im, cân bằng; song đứng im, cân bằng chỉ là
hiện tượng tương đối, tạm thời và thực chất đứng im, cân bằng chỉ là một trạng thái đặc biệt của
vận động.Đứng im là tương đối vì đứng im, cân bằng chỉ xảy ra trong một số quan hệ nhất định
chứ không xảy ra với tất cả mọi quan hệ; đứng im, cân bằng chỉ xảy ra trong một hình thức vận
động chứ không phải xảy ra với tất cả các hình thức vận động. Đứng im là tam thời vì đứng im
không phải là cái tồn tại vĩnh viễn mà chỉ tồn tại trong một thời gian nhất định, chỉ xét trong một
hay một số quan hệ nhất định, ngay trong sự đứng im vẫn diễn ra những quá trình biến đổi nhất
định. Đứng im là trạng thái đặc biệt của vận động, đó là vận động trong thế cân bằng, ổn định;
vận động chưa làm thay đổi căn bản về chất, về vị trí, hình dáng, kết cấu của sự vật.- Không
gian, thời gian là những hình thức tồn tại của vật chất: -Mọi dạng cụ thể của vật chất đều tồn tại
ở một vị trí nhất định, có một quảng tính nhất định và tồn tại trong những mối tương quan nhất
định với những dạng vật chất khác. Những hình thức tồn tại như vậy được gọi là không gian. mặt
khác, sự tồn tại của sự vật còn được thể hiện ở quá trình biến đổi: nhanh hay chậm, kế tiếp và
chuyển hóa,…Những hình thức tồn tại như vậy được gọi là thời gian.
-Ăngghen viết: “Các hình thức cơ bản của mọi tồn tại là không gian và thời gian; tồn tại ngoài
thời gian thì cũng hết sức vô lý như tồn tại ngoài không gian”. Như vậy, vật chất, không gian,
thời gian không tách rời nhau; không có vật chất tồn tại ngoài không gian và thời gian; cũng
không có không gian, thời gian tồn tại ngoài vật chất vận động. Là những hình thức tồn tại của
vật chất, không tách khỏi vật chất nên không gian, thời gian có những tính chất chung như những
tính chất của vật chất, đó là tính khách quan, tính vĩnh cửu, tính vô tận và vô hạn.
-Ngoài ra, không gian có thuộc tính ba chiều còn thời gian chỉ có một chiều. tính ba chiều của
không gian và một chiều của thời gian biểu hiện hình thức tồn tại về quảng tính và quá trình diễn
biến của vật chất vận động.
D) quan điểm của triêt học Mác-Lenin về tính thống nhất vật chất của thế giới
Câu hỏi. Tính thống nhất vật chất của thế giới?
Đáp án.
Vấn đề tính thống nhất của thế giới luôn gắn liền với cách giải quyết vấn đề cơ bản của
triết học. Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định bản chất của thế giới là vật chất; các sự vật,
hiện tượng thống nhất với nhau ở tính vật chất. Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định bản
chất của thế giới là vật chất; các sự vật, hiện tượng thống nhất với nhau ở tính vật chất. Điều này
được thểhiệnở 1) Mọi sự ,
vật hiện tượng của thế giới đều có tính vật chất là tồn tại khách quan,
độc lập vớiýthứccủaconngười. 2) Mọi sự ,
vật hiện tượng trong thế giới đều là những dạng cụ
thể của vật chất; chúng đều mang đặc tính chung của vật chất (tồn tại vĩnh viễn, nghĩa là không
bao giờ trở về số0,khôngmấtđi); đều được sinh ra từ vật chất (ý thức chẳng hạn).
3) Thế giới vật chất tồn tại vĩnh viễn và vô tận. Trong thế giới đó không có gì khác ngoài vật
chất đang vận động, biến đổi và chuyển hoá theo những quy luật khách quan chung của mình.
4) Tính thống nhất vật chất của thế giới thể hiện ở sự tồn tại của thế giới thông qua giới vô cơ,
giới hữu cơ trong bức tranh tổng thể về thế giới duy nhất; giữa chúng có sự liên hệ tác động qua
lại, chuyển hoá lẫn nhau, vận động và phát triển. Các quá trình đó cho phép thấy đầy đủ sự thống
nhất vật chất của thế giới trong các hình thức và giai đoạn phát triển, từ hạt cơ bản đến phân tử,
từ phân tử đến các cơ thể sống, từ các cơ thể sống đến con người và xã hội loài người.
-Quan điểm về bản chất vật chất và tính thống nhất vật chất của thế giới của chủ nghĩa duy vật
biện chứng không chỉ định hướng trong việc giải thích về tính phong phú, đa dạng của thế giới,
mà còn định hướng nhận thức về tính phong phú, đa dạng ấy trong quá trình hoạt động cải tạo tự nhiên hợp quy luật.
Câu 3) QUAN điểm của triết học Mác -Lenin về nguồn gốc, bản chất của ý thức
Câuhỏi:Nguồngốccủaýthức?
Đáp. Câutrảlờicóhaiýlớn:
1) Nguồn gốc tự nhiên
của ý thức (não người + sự phản ánh)
a) Não người là sản phẩm quá trình tiến hoá lâu dài của thế giới vật chất, từ vô cơ tới hữu cơ,
chất sống (thực vật và động vật) rồi đến con người- sinh vật-xã hội. Là tổ chức vật chất có cấu
trúc tinh vi; chỉ khoảng 370g nhưng có tới 14-15 tỷ tế bào thần kinh liên hệ với nhau và với các
giác quan tạo ra mối liên hệ thu, nhận đa dạng để não người điều khiển hoạt động của cơ thể đối
với thế giới bên ngoài. Hoạt động ý thức của con người diễn ra trên cơ sở hoạt động của thần
kinh não bộ; bộ não càng hoàn thiện hoạt động thần kinh càng hiệu quả, ý thức của con người
càng phong phú và sâu sắc. Điều này lý giải tại sao quá trình tiến hóa của loài người cũng là quá
trình phát triển năng lực của nhận thức, của tư duy và tại sao đời sống tinh thần của con người bị rối loạn khi não bị tổn thương.
b) Sự phản ánh của vật chất là một trong những nguồn gốc tự nhiên của ý thức. Mọi hình thức
vật chất đều có thuộc tính phản ánh và phản ánh phát triển từ hình thức thấp lên hình thức cao- tùy thuộc vào kết cấu của tổ chức vật chất.
-Phản ánh là sự tái tạo lại những đặc điểm, tính chất của dạng vật chất này (dưới dạng đã thay
đổi) trong một dạng vật chất khác. Quá trình phản ánh bao hàm quá trình thông tin, cái được
phản ánh (tác động) là những sự vật, hiện tượng cụ thể của vật chất, còn cái phản ánh (nhận tác
động) là cái chứa đựng thông tin về những sự vật, hiện tượng đó. Các hình thức phản ánh. +)
Phản ánh của giới vô cơ (gồm phản ánh vật lý và phản ánh hoá học) là những phản ánh thụ động,
không định hướng và không lựa chọn. +) Phản ánh của thực vật là tính kích thích +) Phản ánh
của động vật đã có định hướng, lựa chọn để nhờ đó mà động vật thích nghi với môi trường sống.
Trong phản ánh của động vật có phản xạ không điều kiện (bản năng); phản xạ có điều kiện (tác
động thường xuyên) ở động vật có thần kinh trung ương tạo nên tâm lý. Hình thức phản ánh cao
nhất (phản ánh năng động, sáng tạo) làý thức của con người, đặc trưng cho một dạng vật chất có
tổ chức cao là não người. Tóm lại, sự phát triển của các hình thức phản ánh gắn liền với các trình
độ tổ chức vật chất khác nhau và ý thức nảy sinh từ các hình thức phản ánh đó.
Quan điểm trên của triết học của chủ nghĩa Mác-Lênin về ý thức chống lại quan điểm của chủ
nghĩa duy tâm tách rời ý thức khỏi hoạt động của não người, thần bí hoá ý thức; đồng thời chống
lại quan điểm của chủ nghĩa duy vật tầm thường cho rằng não tiết ra ý thức tương tự như gan tiết ra mật.
2) Nguồn gốc xã hội của ý thức (lao động + ngôn ngữ)
a) Lao động
là hoạt động có mục đích, có tính lịch sử-xã hội của con người nhằm tạo ra của cải
để tồn tại và phát triển; đồng thời lao động cũng tạo ra đời sống tinh thần và hơn thế nữa, lao
động giúp con người hoàn thiện chính mình. Sự hoàn thiện của đôi tay, việc biết chế tạo công cụ
lao động làm cho ý thức không ngừng phát triển, tạo cơ sở cho con người nhận thức những tính
chất mới của giới tự nhiên; dẫn đến năng lực tư duy trừu tượng, khả năng phán đoán, suy luận dần được hình thành và phát triển.
b) Trong quá trình lao động con người liên kết với nhau, tạo thành các mối quan hệ xã hội tất
yếu và các mối quan hệ của các thành viên của xã hội không ngừng được củng cố và phát triển
dẫn đến nhu cầu cần thiết “phải trao đổi với nhau điều gì đấy” nên ngôn ngữ xuất hiện. Ngôn
ngữ ra đời trở thành “cái vỏ vật chất của ý thức”, thành phương tiện thể hiện ý thức. Nhờ ngôn
ngữ, con người khái quát hoá, trừu tượng hoá những kinh nghiệm để truyền lại cho nhau. Ngôn
ngữ là sản phẩm của lao động, đến lượt nó, ngôn ngữ lại thúc đẩy lao động phát triển.
-Như vậy, bộ não người cùng với thế giới vật chất tác động lên bộ não đó là nguồn gốc tự nhiên
của ý thức và với quan điểm như vậy về ý thức, chủ nghĩa duy vật biện chứng chống lại quan
điểm của chủ nghĩa duy tâm tách rời ý thức ra khỏi hoạt động của bộ não, thần bí hoá ý thức;
đồng thời chống lại quan điểm của chủ nghĩa duy vật tầm thường cho rằng não tiết ra ý thức
tương tự như gan tiết ra mật.
Câuhỏi.Bảnchấtcủaýthức? Đápán.
Bản chất của ý thức thể hiện qua bốn điểm
Điểm xuất phát để hiểu bản chất của ý thức là sự thừa nhận ý thức là sự phản ánh, là hình ảnh
tinh thần về sự vật, hiện tượng khách quan. Ý thức thuộc phạm vi chủ quan, không có tính vật
chất, mà chỉ là hình ảnh phi cảm tính của các sự vật, hiện tượng cảm tính được phản ánh. Bản
chất của ý thức thể hiện ở sự phản ánh năng động, sáng tạo thế giới khách quan vào bộ não
người; là hình ảnh chủ quan về thế giới khách quan.
1) Ý thức là hình ảnh chủ quan về thế giới khách quan bởi hình ảnh ấy tuy bị thế giới khách
quan quy định cả về nội dung lẫn hình thức thể hiện; nhưng thế giới ấy không còn y nguyên như
nó vốn có, mà đã bị cái chủ quan của con người cải biến thông qua tâm tư, tình cảm, nguyện
vọng, nhu cầu v.v. Ý thức “chẳng qua chỉ là vật chất được đem chuyển vào trong đầu óc con
người và được cải biến đi ở trong đó”. Có thể nói, ý thức phản ánh hiện thực, còn ngôn ngữ thì
diễn đạt hiện thực và nói lên tư tưởng. Các tư tưởng đó được tín hiệu hoá trong một dạng cụ thể
của vật chất- là ngôn ngữ- cái mà con người có thể cảm giác được. Không có ngôn ngữ thì ý thức không thể hình thành và tồn tại được.
2) Ý thức là sự phản ánh năng động, sáng tạo, thể hiện ở chỗ, ý thức phản ánh thế giới có chọn
lọc- tùy thuộc vào mục đích của chủ thể nhận thức. Sự phản ánh đó nhằm nắm bắt bản chất, quy
luật vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng; khả năng vượt trước (dự báo) của ý thức tạo
nên sự lường trước những tình huống sẽ gây tác động tốt, xấu lên kết quả của hoạt động mà con
người đang hướng tới. Có được dự báo đó, con người điều chỉnh chương trình của mình sao cho
phù hợp với dự kiến xu hướng phát triển của sự vật, hiện tượng; xây dựng các mô hình lý tưởng,
đề ra phương pháp thực hiện phù hợp nhằm đạt kết quả tối ưu. Như vậy, ý thức không chỉ phản
ánh thế giới khách quan, mà còn tạo ra thế giới khách quan.
3) Ý thức là một hiện tượng xã hội và mang bản chất xã hội. Sự ra đời và tồn tại của ý thức gắn
liền với hoạt động thực tiễn; chịu sự chi phối không chỉ của các quy luật sinh học, mà chủ yếu
còn của các quy luật xã hội; do nhu cầu giao tiếp xã hội và các điều kiện sinh hoạt hiện thực của
xã hội quy định. Với tính năng động, ý thức đã sáng tạo lại hiện thực theo nhu cầu của bản thân
và thực tiễn xã hội. Ở các thời đại khác nhau, thậm chí ở cùng một thời đại, sự phản ánh (ý thức)
về cùng một sự vật, hiện tượng có sự khác nhau- theo các điều kiện vật chất và tinh thần mà chủ thể nhận thức phụ thuộc. 4) Có thể nói
quá trình ý thức gồm các giai đoạn.
a) Trao đổi thông tin hai chiều giữa chủ thể với khách thể phản ánh; định hướng và chọn lọc các thông tin cần thiết.
b) Mô hình hoá đối tượng trong tư duy ở dạng hình ảnh tinh thần, tức là sáng tạo lại khách thể
phản ánh theo cách mã hoá sự vật, hiện tượng vật chất thành ý tưởng tinh thần phi vật chất.
c) Chuyển mô hình từ tư duy ra hiện thực, tức là quá trình hiện thực hoá tư tưởng, thông qua
hoạt động thực tiễn biến các ý tưởng tinh thần phi vật chất trong tư duy thành các sự vật, hiện
tượng vật chất ngoài hiện thực. Trong giai đoạn này, con người lựa chọn phương pháp, công cụ
tác động vào hiện thực khách quan nhằm thực hiện mục đích của mình.
Câu 4 ) A)Quan điểm của triết học MacLenin về mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức
-Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức: Theo duy tâm thì ý thức quyết định vật chất
Theo duy vật thì vật chất quyết định ý thức Theo chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa xã hội
khoa học nên trong nhận thức của chúng ta phải là vật chất quyết định ý thức. Cái nhìn khách
quan, tức là nhìn từ nhiều khía cạnh của cùng một sự vật hiện tượng. Thường thì con người rất
chủ quan ! Giữa vật chất và ý thức có mối quan hệ biện chứng, thể hiện qua vai trò quyết định
của vật chất đối với ý thức và tính độc lập tương đối, sự tác động trở lại của ý thức đối với vật
chất. Sách Giải – Người thầy của bạn http://sachgiai.com 6 - Vật chất (xét đến cùng) là cái có
trước, nó sinh ra và quyết định đối với ý thức. Vật chất tồn tại khách quan, độc lập với ý thức và
là nguồn gốc sinh ra ý thức (não người là dạng vật chất có tổ chức cao, là cơ quan phản ánh hình
thành ý thức, ý thức tồn tại phụ thuộc vào hoạt động thần kinh của bộ não). Trong quá trình phản
ánh thế giới khách quan, ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất đó vào con người. Thế giới
khách quan là nguồn gốc của ý thức, quyết định nội dung của ý thức. Ý thức bắt nguồn từ một
thuộc tính của vật chất, đó là một thuộc tính phản ánh phát triển thành, ý thức ra đời là kết quả
phát triển lâu dài của thuộc tính phản ánh của vật chất. Điều kiện quyết định cho sự ra đời của ý
thức là những tiền đề nguồn gốc xã hội, ý thức ra đời cùng với quá trình hình thành bộ óc con
nguời nhờ lao động, ngôn ngữ và những quan hệ xã hội, ý thức là sản phẩm của sự phát triển xã
hội. Do vậy, vật chất quyết định sự phát triển của ý thức, quyết định tính phong phú, đa dạng,
nhiều vẻ của ý thức. - Ý thức do vật chất sinh ra và quyết định nhưng sau khi ra đời ý thức có
tính độc lập tương đối nên nó có sự tác động trở lại to lớn đối với vật chất thông qua hoạt động
thực tiễn của con người. Nói tới vai trò của ý thức tức là nói đến vai trò của con người vì ý thức
là ý thức của con người, bản thân của ý thức tự nó không làm thay đổi gì hiện thực.Mác
nói :“..lực lượng vật chất chỉ có thể bị đánh bại bởi lực lượng vật chất..” Ý thức tác động trở lại
vật chất theo hai hướng: Ý thức, tư tưởng có thể quyết định làm sao con người hoạt động đúng
và thành công khi nó phản ánh đúng và sâu sắc thế giới khách quan, nó sẽ thúc đẩy thế giới vật
chất phát triển nhanh vì đó là cơ sở quan trọng cho việc xác định mục tiêu, phương hướng và
biện pháp chính xác. Ngược lại ý thức, tư tưởng có thể làm cho con người hoạt động sai và thất
bại khi con người phản ánh sai thế giới khách quan, nó sẽ kìm hãm sự phát triển của thế giới vật
chất. VD: Aristôt đưa ra thuyết “địa tâm” coi trái đất là trung tâm của vũ trụ đã làm kìm hãm sự
phát triển của thế giới vật chất. Vì vậy con người phải phát huy vai trò sáng tạo của thế giới
khách quan. Tuy nhiên cơ sở để phát huy tính năng động chủ quan của ý thức là việc thừa nhận
tính khách quan của vật chất, thừa nhận quy luật tự nhiên của xã hội. Nếu như thế giới vật chất
với những thuộc tính, quy luật của nó tồn tại khách quan không phụ thuộc vào ý thức con người
thì trong hoạt động thực tiễn phải xuất phát từ thực tế khách quan, lấy thực tế khách quan làm
căn cứ cho hoạt động của mình. - Biểu hiện của mới quan hệ giữa vật chất và ý thức trong đời
sống xã hội là quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội, trong đó tồn tại xã hội quyết định ý
thức xã hội và ý thức xã hội có tính độc lập tương đối tác động trở lại xã hội. ngoài ra, mối quan
hệ giữa vật chất và ý thức còn là cơ sở để xem xét các mối quan hệ khác như củ thể và khách thể,
lý luận và tực tiễn, điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan.
B) Phân tích khái quát các ý nghia phương pháp luận rút ra từ mối quan hệ biện chứng
giữa vật chất và ý thức

-Ý nghĩa phương pháp luận: Vì vật chất quyết định ý thức nên trong hoạt động thực tiễn chúng
ta phải xuất phát từ hiện thực khách quan, tôn trọng và tuân theo quy luật khách quan. Vì ý thức
tác động trở lại vật chất nên trong hoạt động thực tiễn chúng ta phải chú ý giáo dục và nâng cao
nhận thức cho con người. Mác nói: “Cố nhiên vũ khí phê phán không thể thay thế sự phê phán
bằng vũ khí, lực lượng vật chất chỉ có thể bị đánh bại bởi lực lượng vật chất, nhưng lý luận một
khi thâm nhập được vào quần chúng thì sẽ trở thành lực lượng vật chất”. Chống quan điểm duy ý
chí: V.I.Lênin đã nhiều lần nhấn mạnh không được lấy ý muốn chủ quan của mình làm chính
sách, không được lấy tình cảm làm điểm xuất phát cho chiến lược cách mạng. Nếu chỉ xuất phát
từ ý muốn chủ quan, nếu lấy ý chí áp đặt cho thực tế, lấy ảo tưởng thay cho hiện thực thì sẽ mắc
phải bệnh duy ý chí. Bệnh chủ quan duy ý chí là do sự yếu kém về trình độ nhận thức nói chung
và sự hạn chế trong quá trình áp dụng lý luận vào thực tiễn nói riêng. Do đó, Lênin đã gọi căn
bệnh này "là sự mù quáng chủ quan", là sai lầm tự phát dẫn đến rơi vào chủ nghĩa duy tâm một
cách không tự giác. Về lý luận, bệnh chủ quan duy ý chí có nhiều biến thể phức tạp và trở thành
mầm mống cho nhiều căn bệnh mới trong nhận thức. Song vẫn có khả năng được ngăn ngừa và loại bỏ
C) vận dụng các ý nghĩa phương pháp luận này vào việc học tập, nghiên cứu của bản thân sinh viên (CHÉM)
CÂU 5) Khái quát nội dụng, ý nghĩa phương pháp luận hai nguyên lý cơ bản của phép biện chứng
duy vật. Nghiên cứu các nguyên lý này, yêu cầu sinh viên vận dụng nó ...trong học tập, cuộc sống...

-Nội dung Hai nguyên lý của phép biện chứng duy vật là hai nguyên lý cơ bản và đóng vai
trò xương sống trong phép duy vật biện chứng của triết học Mác - Lênin khi xem xét, kiến giải
sự vật, hiện tượng. Phép biện chứng duy vật được xây dựng trên cơ sở một hệ thống những
nguyên lý, những phạm trù cơ bản, những quy luật phổ biến phản ánh hiện thực khách
quan.Trong hệ thống đó nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển là hai
nguyên lý khái quát nhất. Hai nguyên lý cơ bản gồm:
Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến là nguyên tắc lý luận xem xét sự vật, hiện tượng khách quan
tồn tại trong mối liên hệ, ràng buộc lẫn nhau tác động, ảnh hưởng lẫn nhau giữa các sự vật, hiện
tượng hay giữa các mặt của một sự vật, của một hiện tượng trong thế giới. Nguyên lý này biểu
hiện thông qua 06 cặp phạm trù cơ bản.
Nguyên lý về sự phát triển là nguyên tắc lý luận mà trong đó khi xem xét sự vật, hiện tượng
khách quan phải luôn đặt chúng vào quá trình luôn luôn vận và động phát triển (vận tiến động
lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn của sự vật).
Nguyên lý này biểu hiện thông qua ba quy luật cơ bản
Ph.Ăng-ghen định nghĩa:
Phép biện chứng chẳng qua chỉ là môn khoa học về những quy luật phổ biến của sự
vận động và sự phát triển của tự nhiên, của xã hội loài người và của tư duy
” — Ăng-ghen [1] và: