Chánh tổng gì? Bản chất đặc điểm của
pháp luật phong kiến?
1. Khái niệm về chánh tổng:
Chánh tổng chức danh người đứng đầu một tổng, đơn vị hành chính dưới
cấp huyện, gồm một số xã.
Chánh tổng từ thời nhà Lê, dưới triều đại Tây 7 Sơn được lập lại, nhưng
lại bị bãi bỏ ới thời vua Gia Long. Đến thời Minh Mạng, đơn vị hành chính
cấp tổng được thành lập lại đặt lại chức danh chánh tổng. Chánh tổng
viên quan thuộc cấp huyện, giữ vai trò trung gian giữa cấp huyện cấp xã,
trách nhiệm truyền những mệnh lệnh của chính quyền cấp trên xuống cấp
trong phạm vi một tổng giám sát việc thực hiện những mệnh lệnh đó.
Thời Pháp thuộc, chánh tổng phó tổng được xếp trong ngạch nhân viên
hành chính, được hưởng lương xếp hạng bậc. Trước năm 1887, chánh
tổng phó tổng do chính phủ thực dân lựa chọn, chỉ định. Sau năm 1887,
chánh tổng được tuyển chọn thông qua thi tuyển. Từ năm 1908, chánh tổng
được tuyển lựa thông qua bầu cử cử tri những người thuộc các thành
phần chức quyền, tài sản, bằng cấp thống đốc người quyền
quyết định cuối cùng trong việc tuyển chọn. Bắc Kỳ Trung Kỳ, chánh
tổng được tuyển lựa qua bầu cử người thay mặt cho tổng về mặt nh
chính pháp để giao thiệp với cấp trên.
2. Sự ra đời sở kinh tế - hội của pháp luật phong kiến:
Chế độ phong kiến được hình thành bằng việc phân phong đất đai của n
vua cho các chư hầu theo các đẳng cấp của họ sở cho sở cho sự tồn tại
cho sự bền vững của một hội với sự phân chia đẳng cấp giữa các bộ phận
dân xư. sở kinh tế đó gắn liền với một kết cấu hội khá phức tạp bao
gồm hai giai cấp chính giai cấp địa chủ phong kiến giai cấp nông dân.
Giai cấp địa chủ phong kiến một lực lượng chiếm số ít trong hội nhưng
lại những người nắm giữ hầu hết ruộng đất liệu sản xuất quan trọng
nhất trong phương thức sản xuất phong kiến nên cũng giai cấp thống tr
trong hội cả về kinh tế, chính tr cũng vậy thống tri cả về tưởng
đồng thời là giai cấp bóc lột. Ngược lại, giai cấp nông dân lực lượng lao
động sản xuất chính, chiếm số đông trong hội nhưng không liệu
sản xuất nên phụ thuộc vào giai cấp địa chủ bị giai cấp này bóc lột. Do đặc
điểm này mâu thuẫn chính trong hội phong kiến chủ yếu nằm trong
quan hệ giữa hai giai cấp này. Điều đó được phản ánh một cách đậm nét
trong nội dung của pháp luật. Tuy nhiên, sự bóc lột của địa chủ đối với nông
dân đã một tính chất khác so với chủ lệ. Do đó sự bóc lột gián
tiếp thông qua phương thức phát canh, thu tô chứ không còn bóc lột trực tiếp
sức lao động trong chế độ chiếm hữu lệ nữa, quan hệ giữa hai giai cấp
bóc lột bị bóc lột đã được cải thiện mức độ nhất định. Bên cạnh đó ,
hội phong kiến còn khá phức tạp bởi kết cấu bao gồm nhiều bộ phận dân
khác nhau ảnh hưởng đến pháp luật. dân thành thị cũng đã xuất hiện
ngày càng trở nên đông đức ng với sự hình thành các độ th với hoạt động
chủ yếu thương nghiệp thủ công nghiệp, đặc biệt thời cuối của chế
độ phong kiến. phương Đông, ngoài các bộ phận dân kể trên, trong
hội còn tồn tại tầng lớp kẻ một dạng tri thức o thời đó hầu như không
tham gia vào các hoạt động lao động sản xuất nhưng vị trí đáng kể trong
hội ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động xây dựng pháp luật cũng như
nội dung của pháp luật khi nhà nước phong kiến tuyển mộ quan lại theo lối
khoa cử. Khác với hội chiếm hữu nô lệ trước đó gắn với chế độ đa thần
giáo, đa số các hội phong kiến đã sự thống nhất bản về giáo thành
chế độ quốc giáo, người đứng đầu n nước cũng thể trở thành giáo
chủ lớn nhất hoặc sự liên kết chặt chẽ với giới tăng lữ của tôn giáo thống
trị. Nhờ đó thể tăng cường uy tín của mình trong đời sống tinh thần của
dân cư, củng cố địa vị thống trị trong hội về mặt tưởng. Đây cũng là một
sở củng cố cho sự kết hợp chặt chẽ giữa vương quyền với thần quyền,
ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống hội cũng như đến nội dung của pháp luật.
Pháp luật phong kiến được hình thành từ các phong tục, tập quán đã tồn tại
trong đời sống hội bởi sự thừa nhận của nhà nước cùng với sự kế thừa
những bộ phận của pháp luật chủ còn phù hợp với điều kiện hội phong
kiến. Đây là quá trình xảy ra một cách khá chậm chạp cùng với sự chuyển
biến của chế độ chiếm hữu lệ sang chế độ phong kiến do ảnh hưởng bền
vũng của chế độ công chế độ chiếm hữu lệ.
3. Bản chất của pháp luật phong kiến:
Dưới góc độ giai cấp, pháp luật phong kiến hệ thống các quy phạm pháp
luật do nhà nước ban hành nhằm hợp pháp hóa ý chí của giai cấp địa chủ
phong kiến buộc hội phải tuân theo. Bằng cách đặt ra các quy phạm
mới hoặc thừa nhận những quy phạm trước đó lợi cho giai cấp mình, giai
cấp địa chủ phong kiến đã xác lập, một trật tự hội điều chỉnh các quan
hệ hội đó . các giai đoạn khác nhau trong lịch sử phát triển của chế độ
phong kiến , pháp luật cũng manh những màu sắc khác nhau nhưng nhìn
chung thì luôn được giai cấp địa chủ phong kiến sử dụng như thứ công
cụ hữu hiệu nhất để thực hiện mưu đồ thống trị của chúng trên hầu hết các
lĩnh vực của đời sống hội.
Về chính trị, pháp luật phong kiến khẳng định vị trí thống trị của địa chủ phong
kiến gắn liền với một hội đẳng cấp với vai trò tối thượng của người đứng
đầu nhà nước .Trật tự hội được xác lập tính chất bền vứng quan
hệ chặt chẽ với chế độ cha quyền con nối. Về kinh tế, pháp luật bảo vệ cho
quan hệ sản xuất phong kiến gắn liền với sự chiếm hữu nhân của địa ch
phong kiến về ruộng đất bóc lột nông dân thông qua hình thức phát canh,
thu tô. Về tưởng pháp luật phong kiến thường sử dụng giáo của tôn giáo
thống trị trong hội thừa nhận địa vị thống trị của lực lượng cầm quyền
như một đặc ân chúa trời trao cho, thậm chí nhà vua còn được gọi
thiên tử - người thay trời tr dân. Nội dung giai cấp của pháp luật phong kiến
cũng những thay đổi nhất định do sự chuyển biến của đối sách lực lượng,
đặc biệt giữa hai thời kỳ phân quyền cát cứ trung ương tập quyền. Tuy
nhiên vẫn thể khẳng định pháp luật phong kiến sự thể hiện tập trung ý
chí của giai cấp địa ch phong kiến công cụ để giai cấp này thông qua nhà
nước để thực hiện sự chuyên chính đối với giai cấp nông dân những tầng
lớp những tầng lớp hội khác. Tuy nhiên xét một cách công bằng thì sự
đóng góp đáng kể trong lịch sử tồn tại phát triển của hội loài người,
pháp luật phong kiến cũng thuộc tính hội của nó. Pháp luật phong kiến
ra đời không chỉ thực hiện bảo vệ lợi ích cho giai cấp địa chủ phong kiến
còn để thiết lập duy trì trật tự hội, bảo vệ lợi ích của các tầng lớp
dân khác. Pháp luật phong kiến nhiều quy định bảo vệ cho đời sống
hội, cho hoạt động sản xuất. Chẳng hạn Việt Nam, Bộ luật Hồng Đức bảo
vệ quyền làm dân tự do, chống nạn hóa bằng việc cấm bán hoàng nam
làm lệ, bảo vệ những người nghèo khổ không nơi nương tựa, bảo vệ sản
xuất nông nghiệp, trật tự an ninh hội, chống sự hiếp, quấy nhiễu của
cường hào, quan lại. cả những đạo luật còn nghiêng về bảo vệ cho
thường dân.Tuy nhiên, nhìn chung pháp luật phong kiến công cụ thống trị
của nhà nước phong kiến, chủ yếu thể hiện ý chí của giai cấp địa chủ phong
kiến nhằm bảo vệ trật tự hội phong kiến. Điều này được thể hiện hơn
trong các đặc điểm của nó.
4. Đặc điểm của pháp luật phong kiến:
4.1. Pháp luật phong kiến củng cố bảo vệ trật tự hội phong kiến:
Trật tự hội phong kiến trật tự thứ bậc của các đẳng cấp trong hội
quan hệ vua tôi. Mỗi đẳng cấp vị t hội riêng gắn liền với các lợi ích
kinh tế, chính trị nhất định theo thứ bậc đã được xác định từ trước, trong đó
vua được coi thiên t quyền lực bao trùm thiên hạ dưới vua các
chư hầu cũng đất đai quyền lực mức độ khác nhau. Pháp luật
những quy định rất ràng các đặc quyền tương ứng với đẳng cấp hội đó.
Về mặt kinh tế vua quyền đặt ra thuế hoặc giao tiếp cho các chư hầu
quyền thu thuế trong c lãnh địa được phong tạo ra các nguồn thu cho nhà
nước thực chất của nhà vua. Các lãnh chúa châu Âu còn cả
quyền tịch thu tài sản, quyền thu tiền phạt, quyền đúc tiền,... Pháp luật quy
định các biện pháp trói buộc người nông dân o ruộng đất, duy trì bảo vệ
cho quan hệ sản xuất phong kiến.
Về mặt chính trị pháp luật xác định các đẳng cấp khác nhau trong hội cùng
các biện pháp trừng trị rất khắc nghiệt đối với những hành vi xâm phạm đến
địa vụ của các thế lực quý tộc hay trật tự hội phong kiến.
4.2. Pháp luật phong kiến chịu ảnh hưởng sâu sắc của tôn giáo đạo đức
phong kiến:
Nhiều quy định của pháp luật phong kiến sự thể chế của các tưởng tôn
giáo trực tiếp các tín điều tôn giáo. Bên cạnh nội dung các quy định của
pháp luật, trong chế độ phong kiến nhất phương Tây h thống tòa án
giáo hội tồn tại ng với tòa án của triều đình cũng chức năng xét xử
những chủ yếu t xử đối với những người bị coi đạo thường
chống lại các tưởng tôn giáo. Bên cạnh sự ảnh hưởng của tôn giáo, pháp
luật phong kiến còn mang đậm những dấu ấn của đạo đức phong kiến. Trật
tự của hội phong kiến do giai cấp thống trị xây dựng nên do vậy quan
niệm về cái tốt, cái xấu, về lẽ sống, về sự công bằng cũng do chúng quan
niệm thành chuẩn mực mà con người phải theo. Đạo đức của giai cấp thống
trị được thể chế hóa thành pháp luật.

Preview text:

Chánh tổng là gì? Bản chất và đặc điểm của pháp luật phong kiến?
1. Khái niệm về chánh tổng:
Chánh tổng là chức danh người đứng đầu một tổng, đơn vị hành chính dưới
cấp huyện, gồm một số xã.
Chánh tổng có từ thời nhà Lê, dưới triều đại Tây 7 Sơn được lập lại, nhưng
lại bị bãi bỏ dưới thời vua Gia Long. Đến thời Minh Mạng, đơn vị hành chính
cấp tổng được thành lập lại và đặt lại chức danh chánh tổng. Chánh tổng là
viên quan thuộc cấp huyện, giữ vai trò trung gian giữa cấp huyện và cấp xã,
có trách nhiệm truyền những mệnh lệnh của chính quyền cấp trên xuống cấp
xã trong phạm vi một tổng và giám sát việc thực hiện những mệnh lệnh đó.
Thời kì Pháp thuộc, chánh tổng và phó tổng được xếp trong ngạch nhân viên
hành chính, được hưởng lương và xếp hạng bậc. Trước năm 1887, chánh
tổng và phó tổng do chính phủ thực dân lựa chọn, chỉ định. Sau năm 1887,
chánh tổng được tuyển chọn thông qua thi tuyển. Từ năm 1908, chánh tổng
được tuyển lựa thông qua bầu cử mà cử tri là những người thuộc các thành
phần có chức quyền, có tài sản, có bằng cấp và thống đốc là người có quyền
quyết định cuối cùng trong việc tuyển chọn. Ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ, chánh
tổng được tuyển lựa qua bầu cử và là người thay mặt cho tổng về mặt hành
chính và pháp lí để giao thiệp với cấp trên.
2. Sự ra đời và cơ sở kinh tế - xã hội của pháp luật phong kiến:
Chế độ phong kiến được hình thành bằng việc phân phong đất đai của nhà
vua cho các chư hầu theo các đẳng cấp của họ là cơ sở cho sở cho sự tồn tại
cho sự bền vững của một xã hội với sự phân chia đẳng cấp giữa các bộ phận
dân xư. Cơ sở kinh tế đó gắn liền với một kết cấu xã hội khá phức tạp bao
gồm hai giai cấp chính là giai cấp địa chủ phong kiến và giai cấp nông dân.
Giai cấp địa chủ phong kiến là một lực lượng chiếm số ít trong xã hội nhưng
lại là những người nắm giữ hầu hết ruộng đất tư liệu sản xuất quan trọng
nhất trong phương thức sản xuất phong kiến nên cũng là giai cấp thống trị
trong xã hội cả về kinh tế, chính trị và cũng vì vậy mà thống tri cả về tư tưởng
và đồng thời là giai cấp bóc lột. Ngược lại, giai cấp nông dân là lực lượng lao
động sản xuất chính, chiếm số đông trong xã hội nhưng vì không có tư liệu
sản xuất nên phụ thuộc vào giai cấp địa chủ và bị giai cấp này bóc lột. Do đặc
điểm này mà mâu thuẫn chính trong xã hội phong kiến chủ yếu nằm trong
quan hệ giữa hai giai cấp này. Điều đó được phản ánh một cách đậm nét
trong nội dung của pháp luật. Tuy nhiên, sự bóc lột của địa chủ đối với nông
dân đã có một tính chất khác so với chủ nô và nô lệ. Do đó là sự bóc lột gián
tiếp thông qua phương thức phát canh, thu tô chứ không còn bóc lột trực tiếp
sức lao động trong chế độ chiếm hữu nô lệ nữa, quan hệ giữa hai giai cấp
bóc lột và bị bóc lột đã được cải thiện ở mức độ nhất định. Bên cạnh đó , xã
hội phong kiến còn khá phức tạp bởi kết cấu bao gồm nhiều bộ phận dân cư
khác nhau ảnh hưởng đến pháp luật. Cư dân thành thị cũng đã xuất hiện và
ngày càng trở nên đông đức cùng với sự hình thành các độ thị với hoạt động
chủ yếu là thương nghiệp và thủ công nghiệp, đặc biệt là thời kì cuối của chế
độ phong kiến. Ở phương Đông, ngoài các bộ phận dân cư kể trên, trong xã
hội còn tồn tại tầng lớp kẻ sĩ một dạng tri thức vào thời đó và hầu như không
tham gia vào các hoạt động lao động sản xuất nhưng có vị trí đáng kể trong
xã hội và có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động xây dựng pháp luật cũng như
nội dung của pháp luật khi nhà nước phong kiến tuyển mộ quan lại theo lối
khoa cử. Khác với xã hội chiếm hữu nô lệ trước đó gắn với chế độ đa thần
giáo, đa số các xã hội phong kiến đã có sự thống nhất cơ bản về giáo thành
chế độ quốc giáo, người đứng đầu nhà nước cũng có có thể trở thành giáo
chủ lớn nhất hoặc có sự liên kết chặt chẽ với giới tăng lữ của tôn giáo thống
trị. Nhờ đó có thể tăng cường uy tín của mình trong đời sống tinh thần của
dân cư, củng cố địa vị thống trị trong xã hội về mặt tư tưởng. Đây cũng là một
cơ sở củng cố cho sự kết hợp chặt chẽ giữa vương quyền với thần quyền,
ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống xã hội cũng như đến nội dung của pháp luật.
Pháp luật phong kiến được hình thành từ các phong tục, tập quán đã tồn tại
trong đời sống xã hội bởi sự thừa nhận của nhà nước cùng với sự kế thừa
những bộ phận của pháp luật chủ nô còn phù hợp với điều kiện xã hội phong
kiến. Đây là quá trình xảy ra một cách khá chậm chạp cùng với sự chuyển
biến của chế độ chiếm hữu nô lệ sang chế độ phong kiến do ảnh hưởng bền
vũng của chế độ công xã và chế độ chiếm hữu nô lệ.
3. Bản chất của pháp luật phong kiến:
Dưới góc độ giai cấp, pháp luật phong kiến là hệ thống các quy phạm pháp
luật do nhà nước ban hành nhằm hợp pháp hóa ý chí của giai cấp địa chủ
phong kiến và buộc xã hội phải tuân theo. Bằng cách đặt ra các quy phạm
mới hoặc thừa nhận những quy phạm trước đó có lợi cho giai cấp mình, giai
cấp địa chủ phong kiến đã xác lập, một trật tự xã hội và điều chỉnh các quan
hệ xã hội đó . Ở các giai đoạn khác nhau trong lịch sử phát triển của chế độ
phong kiến , pháp luật cũng manh những màu sắc khác nhau nhưng nhìn
chung thì nó luôn được giai cấp địa chủ phong kiến sử dụng như là thứ công
cụ hữu hiệu nhất để thực hiện mưu đồ thống trị của chúng trên hầu hết các
lĩnh vực của đời sống xã hội.
Về chính trị, pháp luật phong kiến khẳng định vị trí thống trị của địa chủ phong
kiến gắn liền với một xã hội đẳng cấp với vai trò tối thượng của người đứng
đầu nhà nước .Trật tự xã hội được xác lập có tính chất bền vứng và có quan
hệ chặt chẽ với chế độ cha quyền con nối. Về kinh tế, pháp luật bảo vệ cho
quan hệ sản xuất phong kiến gắn liền với sự chiếm hữu tư nhân của địa chủ
phong kiến về ruộng đất và bóc lột nông dân thông qua hình thức phát canh,
thu tô. Về tư tưởng pháp luật phong kiến thường sử dụng giáo lý của tôn giáo
thống trị trong xã hội và thừa nhận địa vị thống trị của lực lượng cầm quyền
như là một đặc ân mà chúa trời trao cho, thậm chí nhà vua còn được gọi là
thiên tử - người thay trời trị dân. Nội dung giai cấp của pháp luật phong kiến
cũng có những thay đổi nhất định do sự chuyển biến của đối sách lực lượng,
đặc biệt giữa hai thời kỳ phân quyền cát cứ và trung ương tập quyền. Tuy
nhiên vẫn có thể khẳng định pháp luật phong kiến là sự thể hiện tập trung ý
chí của giai cấp địa chủ phong kiến là công cụ để giai cấp này thông qua nhà
nước để thực hiện sự chuyên chính đối với giai cấp nông dân và những tầng
lớp và những tầng lớp xã hội khác. Tuy nhiên xét một cách công bằng thì sự
đóng góp đáng kể trong lịch sử tồn tại và phát triển của xã hội loài người,
pháp luật phong kiến cũng có thuộc tính xã hội của nó. Pháp luật phong kiến
ra đời không chỉ thực hiện và bảo vệ lợi ích cho giai cấp địa chủ phong kiến
mà nó còn để thiết lập và duy trì trật tự xã hội, bảo vệ lợi ích của các tầng lớp
dân cư khác. Pháp luật phong kiến có nhiều quy định bảo vệ cho đời sống xã
hội, cho hoạt động sản xuất. Chẳng hạn ở Việt Nam, Bộ luật Hồng Đức bảo
vệ quyền làm dân tự do, chống nạn nô tì hóa bằng việc cấm bán hoàng nam
làm nô lệ, bảo vệ những người nghèo khổ không nơi nương tựa, bảo vệ sản
xuất nông nghiệp, trật tự an ninh xã hội, chống sự hà hiếp, quấy nhiễu của
cường hào, quan lại. Có cả những đạo luật còn nghiêng về bảo vệ cho
thường dân.Tuy nhiên, nhìn chung pháp luật phong kiến là công cụ thống trị
của nhà nước phong kiến, chủ yếu thể hiện ý chí của giai cấp địa chủ phong
kiến nhằm bảo vệ trật tự xã hội phong kiến. Điều này được thể hiện rõ hơn
trong các đặc điểm của nó.
4. Đặc điểm của pháp luật phong kiến:
4.1. Pháp luật phong kiến củng cố và bảo vệ trật tự xã hội phong kiến:

Trật tự xã hội phong kiến là trật tự thứ bậc của các đẳng cấp trong xã hội và
quan hệ vua tôi. Mỗi đẳng cấp có vị trí xã hội riêng gắn liền với các lợi ích
kinh tế, chính trị nhất định theo thứ bậc đã được xác định từ trước, trong đó
vua được coi là thiên tử có quyền lực bao trùm thiên hạ và dưới vua có các
chư hầu cũng có đất đai và quyền lực ở mức độ khác nhau. Pháp luật có
những quy định rất rõ ràng các đặc quyền tương ứng với đẳng cấp xã hội đó.
Về mặt kinh tế vua có quyền đặt ra thuế hoặc giao tiếp cho các chư hầu có
quyền thu thuế trong các lãnh địa được phong tạo ra các nguồn thu cho nhà
nước mà thực chất là của nhà vua. Các lãnh chúa ở châu Âu còn có cả
quyền tịch thu tài sản, quyền thu tiền phạt, quyền đúc tiền,. . Pháp luật quy
định các biện pháp trói buộc người nông dân vào ruộng đất, duy trì và bảo vệ
cho quan hệ sản xuất phong kiến.
Về mặt chính trị pháp luật xác định các đẳng cấp khác nhau trong xã hội cùng
các biện pháp trừng trị rất khắc nghiệt đối với những hành vi xâm phạm đến
địa vụ của các thế lực quý tộc hay trật tự xã hội phong kiến.
4.2. Pháp luật phong kiến chịu ảnh hưởng sâu sắc của tôn giáo và đạo đức phong kiến:
Nhiều quy định của pháp luật phong kiến là sự thể chế của các tư tưởng tôn
giáo mà trực tiếp là các tín điều tôn giáo. Bên cạnh nội dung các quy định của
pháp luật, trong chế độ phong kiến nhất là ở phương Tây có hệ thống tòa án
giáo hội tồn tại cùng với tòa án của triều đình cũng có chức năng xét xử
những chủ yếu là xét xử đối với những người bị coi là tà đạo và thường
chống lại các tư tưởng tôn giáo. Bên cạnh sự ảnh hưởng của tôn giáo, pháp
luật phong kiến còn mang đậm những dấu ấn của đạo đức phong kiến. Trật
tự của xã hội phong kiến do giai cấp thống trị xây dựng nên do vậy mà quan
niệm về cái tốt, cái xấu, về lẽ sống, về sự công bằng cũng do chúng quan
niệm thành chuẩn mực mà con người phải theo. Đạo đức của giai cấp thống
trị được thể chế hóa thành pháp luật.
Document Outline

  • Chánh tổng là gì? Bản chất và đặc điểm của pháp lu
    • 1. Khái niệm về chánh tổng:
    • 2. Sự ra đời và cơ sở kinh tế - xã hội của pháp lu
    • 3. Bản chất của pháp luật phong kiến:
    • 4. Đặc điểm của pháp luật phong kiến:
      • 4.1. Pháp luật phong kiến củng cố và bảo vệ trật t
      • 4.2. Pháp luật phong kiến chịu ảnh hưởng sâu sắc c