Thời Hậu Lê, chế độ Lộc Điền chính thức được
ban hành vào 1477, đời Thánh Tông gồm cả
ruộng thưởng công ruộng lộc như một hình
thức lương bổng qua tức.Vậy chế độ lộc điền
?
1.Chế độ lộc điền gì?
Chế độ lộc điền là chế độ ruộng đất nhà vua ban cấp cho quan lại, người
thân để khai thác, sử dụng, coi đó như món quà, bổng lộc nhà vua ban
tặng.
Chế độ lộc điền được tồn tại từ thời phong kiến, ` song thể hiện nhất trong
luật lệ của triều Lê (từ năm 1428 đến năm 1788). Chế độ lộc điền thực chất
việc nhà vua - với tư cách người đại diện tối cao của nhà nước phong kiến
trung ương đã định ra luật lệ về việc ban cấp ruộng đất cho tầng lớp quan lại
cấp cao những người thân thuộc trong hoàng tộc để hưởng dụng. Lộc
điền một trong những bổng lộc của quan lại (bao gồm: Tuế bổng - tiền
được cấp hàng năm; Thực h - số hộ dân để sai phái, nộp thuế, hoặc cung
cấp mắm muối; Lộc điền - ruộng đất được ban cấp để hưởng dụng). Người
được cấp lộc điền những quan lại cao cấp từ Thân vương đến các quan
hàm tứ phẩm, những người thuộc tầng lớp cao cấp nhất của nhà nước phong
kiến. Căn cứ để được nhà vua ban cấp lộc điền hàm cấp, tước phẩm của
quan lại hoặc lập công được vua ban thưởng, ghi công. Ruộng đất cấp theo
chế độ lộc điền được chia làm 2 loại: loại ruộng đất thế nghiệp loại cấp
tạm thời cho hưởng dụng. Đối với loại ruộng đất thế nghiệp, thì được truyền
lại cho con cháu đời sau tiếp tục được hưởng lộc. Đối với loại ruộng đất cấp
tạm thời cho hưởng dụng, thì người hưởng dụng chết, sau 3 năm, con cháu
người này phải trả lại số ruộng đất (lộc điền) không được ẩn lậu. Trong
mọi trường hợp, nhà nước phong kiến trung ương đại diện nhà vua
luôn khẳng định quyền sở hữu tối cao tuyệt đối đối với số ruộng đất được
cấp theo chế độ lộc điền. Nhà vua thể thu hồi lại số ruộng đất đã cấp theo
chế độ lộc điền trong một số trường hợp nhất định khi nhu cầu.
2. Chế độ lộc điền quân điền thời sơ?
Khái quát nông nghiệp Đại Việt thời
Nền kinh tế nước Đại Việt thời vẫn chủ yếu dựa vào nông nghiệp như
các thời đại trước, khi công nghiệp về bản chưa những bước phát triển
đáng kể để ứng dụng vào nông nghiệp. Nền sản xuất nông nghiệp thời kỳ này
vẫn nền sản xuất tiểu nông thể dựa o kinh nghiệm chủ yếu.
Đẩy mạnh nghề nông
Ngay từ năm 1427, khi đang vây hãm thành Đông Quan, Lợi đã chủ
trương sẽ cho 25 vạn trong tổng số 35 vạn quân về quê y cấy sau khi chiến
tranh kết thúc, chỉ giữ lại 10 vạn quân làm lính triều đình. Cùng năm, ông lệnh
cho những người chạy loạn trở về quê quán cày cấy xử tội nặng những
người bỏ ngh nghiệp.
Xây dựng hội lấy nông nghiệp làm gốc nên nhà chủ trương tận dụng
triệt để ruộng đất, không để hoang hóa. Năm 1428, sau khi quân Minh về
nước, Thái Tổ lệnh cho con em c tướng các đầu mục về quê nhận
ruộng đất y cấy. Năm 1429, ông lại ra lệnh: vườn của các quan kinh
thành đều phải trồng hoa hoặc rau đậu, nếu bỏ hoang sẽ bị thu hồi.
Việc miễn giảm thuế trong những năm đầu của nhà đã góp phần kích
thích nông nghiệp phát triển đáng kể, khôi phục sau 20 năm chiếm đóng của
nhà Minh.
Thánh ng cũng tiếp thu tưởng của Lê Thái Tổ, quy định trong Luật
Hồng Đức: nếu ruộng đất ng ch bỏ hoang thì quan trông coi phải tâu
lên để chia cho người cày ruộng khai khẩn, nếu không sẽ bị xử tội
Lập đồn điền
Do ruộng đất bị bỏ hoang nhiều sau chiến tranh, nhà áp dụng chính sách
khuyến khích dân khẩn hoang lập đồn điền để tận dụng sức lao động của
các binh người phạm tội.
Việc khai hoang được bắt đầu từ thời nhà Lý; việc lập tổ chức đồn điền đặt
quan chánh phó đồn điền thực hiện t thời nhà Trần. Nhà kế tục các triều
đại trước, cho các binh người Minh người Chiêm Thành khi khai phá
những vùng đất mới, lập thôn xóm. Các công thần Trịnh Khả, Nguyễn Xí,
Thụ, Trần Lạn… được cấp binh để đi khai hoang. Những vùng đất mới
được thành lập mang tên vệ, sở được hình thành ven sông thuộc huyện
Hưng Nguyên, Thiên Bảo, Diễn Châu…
Sang thời Lê Thánh Tông, chính ch đồn điền được thực hiện rộng rãi. Vua
ban chiếu lập đồn điền, mở rộng quy các đồn điền tại các địa phương, tận
dụng sức lao động của người lưu vong, tội đồ. Tới năm 1481, trong cả nước
43 đồn điền:
Vùng Bắc Bộ 30 sở
Thanh Hóa 5 sở
Nghệ An 4 sở
Thuận Hóa 2 sở
Quảng Nam 2 sở
Các đồn điền Bắc Bộ thường nhỏ mang tên xã; trong khi các đồn điền t
Thanh Hóa trở vào rộng lớn hơn mang tên huyện, do những vùng đất này
còn nhiều nơi chưa được khai thác.
Di dân khẩn hoang
Không chỉ tận dụng sức lao động của binh người phạm tội, nhà Lê còn
chú trọng tới lực lượng lao động nông dân tại c địa phương để mở mang
những vùng đất hoang. Thời Thánh Tông hình thành hai loại ruộng mới
"ruộng chiếm xạ" "ruộng thông cáo".
Ruộng thông cáo ruộng bỏ hoang các làng được triều đình cho phép
cày cấy sau khi tâu báo lên. Người khai phá phải cùng phủ, huyện, xã. H
được hưởng lợi trên ruộng cày cấy đó truyền cho con cháu nhưng không
được biến thành ruộng hữu vẫn thuộc sở hữu triều đình
Ruộng chiếm xạ cũng ruộng khẩn hoang nộp thuế. y sức người đi khai
phá, làm được trên diện ch bao nhiêu thì được hưởng lợi sau khi nộp thuế
thể xin với bộ Hộ làm ruộng tư.
Với chính sách khẩn hoang cho phép người nông dân được sở hữu ruộng
tư, nhà đã khuyến khích được sức sản xuất nông nghiệp tăng đáng kể,
giảm bớt mâu thuẫn trong hội về ruộng đất .
Do chính sách khuyến khích dân, những vùng ven biển Yên Quảng, Sơn
Nam Thuận Hóa trở vào vốn thưa dân ngày càng đông người đến sinh
sống.
Chế độ ruộng đất
Chế độ ruộng đất thời chia hai loại chính ruộng công ruộng tư.
Ruộng công gọi quân điền. Trong số ruộng công, một bộ phận được đem
phong thưởng cho các công thần, ban cho các quý tộc quan lại, gọi lộc
điền. Các thân vương hoàng tộc thể được cấp tới 2000 mẫu ruộng (500
mẫu trong đó đất tập ấm thừa kế); c quan chính nhất phẩm được cấp
200 mẫu ruộng (trong đó 20 mẫu đất tập ấm thừa kế).
Tuy nhiên, Q Đôn trong sách Kiến văn tiểu lục cho rằng: ruộng đất trên
thực tế không đủ để thực hiện chính sách lộc điền này, do đó chính sách
chỉ thực hiện được một phần, do đó trên danh nghĩa các quý tộc quan lại
được hưởng 10 phần song thực tế ch được cấp phát bằng khoảng 1/5 trên
giấy tờ.
Một bộ phận khác trong ruộng công, đất công đất hoang được khai, đo
đạc chia cho các hạng từ tướng, quân, quan, dân tới cả người già yếu,
quả các địa phương được hưởng. Đó gọi chế độ quân điền. Chế đ quân
điền tác dụng ổn định trật tự hội, khôi phục sản xuất nông nghiệp.
Ruộng thời chủ yếu nằm trong tay c quý tộc, quan lại địa chủ
chiếm hữu[6]. Một b phận nhỏ khác trong tay nông dân có ruộng tự canh tác,
nếu nhiều ruộng, họ lại trở thành địa chủ.
Trị thủy làm thủy lợi
Khí hậu nhiệt đới gió mùa khiến nước Đại Việt thường bị lụt vào mùa mưa
hạn hán mùa khô. Do đó đắp đê làm thủy lợi yêu cầu cấp bách
của sản xuất nông nghiệp.
Thời Thái Tông, năm 1438, vua cho đào khơi các kênh Trường Yên,
Thanh Hóa, Ngh An.
Năm 1449, Nhân Tông lệnh cho Cục bách tác đào sông Bình Lỗ từ Lãnh
Canh đến cầu Phù Lỗ dài 2500 trượng (10 km).
Năm 1467, Thánh Tông lệnh cho Bộ Hộ khai hoặc lấp c đường nước
ruộng, không để ruộng bị úng hoặc hạn. Cùng năm, ông sai khai các nh
Thanh Hóa, Ngh An, Thuận Hóa.
Thời Thánh Tông, việc đắp đê sông đê biển được chú trọng hơn các
thời trước. Tại Ninh Bình, năm 1472 vua cho đắp đê bằng đá huyện Yên
từ phía bắc cửa Thần P đến bờ phía nam cửa Cờn con đê đắp bằng
đất từ Côi Trì huyện Yên Mô tới bờ nam Bồng Hải huyện Yên Khánh.
Con đê chống nước mặn đắp trong niên hiệu Hồng Đức được gọi là đê Hồng
Đức dài gần 25 km, hiện vẫn còn dấu tích tại phía bắc huyện Hải Hậu.
Năm 1503, Hiến Tông sai khai cừ An Phúc xuống cừ Thượng Phúc đ lấy
nước tưới ruộng cho dân.
Bên cạnh c công trình lớn, c công trình nhỏ phục vụ chống hạn thường
xuyên được thực hiện.
Việc tu sửa đê làm thủy lợi được đưa vào quy định của triều đình. Năm
1475, Thánh Tông ra sắc lệnh về sửa đắp đê điều đường sá. Cùng
năm, ông đặt ra chức quan đê để trông coi đê điều chức quan Khuyến
nông để đôn đốc nhân dân việc cày cấy.
Trình độ sản xuất nông nghiệp thời Lê tuy được nâng lên so với các
đời trước nhưng nhìn chung không chuyển biến quan trọng. Nông nghiệp
vẫn điển hình trình độ kỹ thuật của nền sản xuất tiểu nông dựa trên sức lao
động kinh nghiệm lâu đời, với những công cụ thô sơ, nhỏ bé. Những công
trình thủy lợi lớn do triều đình t chức thực hiện cũng như các công trình nhỏ
do nhân dân góp sức đã góp phần hạn chế được tác hại của thiên tai đảm
bảo cho sản xuất nông nghiệp trong nước
Như vậy, sau khi Vương triều chính thức thành lập, Vua Lê Thái Tổ hạ
lệnh cho các quan phủ, huyện, trấn, lộ điều tra một số loại ruộng đất để sung
công, trong đó ruộng của lính đào ngũ. Không chỉ lập địa bạ (s ruộng đất),
triều đình còn truy thu đất của các thế gia, các nhà tuyệt tự, bọn đào ngũ.
Như vậy, triều đình đã tịch thu tất cả ruộng đất của quan lại chính quyền nhà
Minh, ruộng đất của quý tộc nhà Trần, ruộng đất b hoang... sung làm của
công. Trên sở đó, nhà ban hành chính ch ruộng đất, sử dụng ruộng
đất thuộc sở hữu nhà nước để phong tặng cho các công thần, ban cấp cho
quan lại cao cấp làm lộc điền, giao cho các phân cấp cho dân cày cấy nộp
theo chế độ quân điền. Triều đình trực tiếp quản ruộng quốc kh đồn
điền, ngoài ra còn tổ chức khẩn hoang lập thêm nhiều sở đồn điền mới.
Theo Cuốn “Vương Triều (1428-1527)” do GS. TS Nguyễn Quang Ngọc
làm chủ biên viết, đau đáu về vệc người đi đánh giặc thì nghèo, kẻ rong chơi
thì giàu nên Vua Thái Tổ đã hạ lệnh cho các quan ty sở tại quân cấp ruộng
đất hoang cho những người không ruộng làng để họ phục hóa cày
cấy, sinh sống. Tuy kết quả của việc lập sổ ruộng bước đầu thực hiện
chính sách quân điền thời Thuận Thiên tuy chưa thật đầy đủ nhưng chính
sách đó đã mang lại ruộng đất cho các tầng lớp nhân dân, giúp họ nhanh
chóng ổn định đời sống, đẩy mạnh việc phát triển kinh tế nông nghiệp.

Preview text:

Thời Hậu Lê, chế độ Lộc Điền chính thức được
ban hành vào 1477, đời Lê Thánh Tông gồm cả
ruộng thưởng công và ruộng lộc như một hình
thức lương bổng qua tô tức.Vậy chế độ lộc điền là gì ?
1.Chế độ lộc điền là gì?
Chế độ lộc điền là chế độ ruộng đất mà nhà vua ban cấp cho quan lại, người
thân để khai thác, sử dụng, coi đó như món quà, bổng lộc mà nhà vua ban tặng.
Chế độ lộc điền được tồn tại từ thời phong kiến, ` song thể hiện rõ nhất trong
luật lệ của triều Lê (từ năm 1428 đến năm 1788). Chế độ lộc điền thực chất là
việc nhà vua - với tư cách là người đại diện tối cao của nhà nước phong kiến
trung ương đã định ra luật lệ về việc ban cấp ruộng đất cho tầng lớp quan lại
cấp cao và những người thân thuộc trong hoàng tộc để hưởng dụng. Lộc
điền là một trong những bổng lộc của quan lại (bao gồm: Tuế bổng - tiền
được cấp hàng năm; Thực hộ - số hộ dân để sai phái, nộp thuế, hoặc cung
cấp mắm muối; Lộc điền - ruộng đất được ban cấp để hưởng dụng). Người
được cấp lộc điền là những quan lại cao cấp từ Thân vương đến các quan
hàm tứ phẩm, những người thuộc tầng lớp cao cấp nhất của nhà nước phong
kiến. Căn cứ để được nhà vua ban cấp lộc điền là hàm cấp, tước phẩm của
quan lại hoặc lập công được vua ban thưởng, ghi công. Ruộng đất cấp theo
chế độ lộc điền được chia làm 2 loại: loại ruộng đất thế nghiệp và loại cấp
tạm thời cho hưởng dụng. Đối với loại ruộng đất thế nghiệp, thì được truyền
lại cho con cháu đời sau tiếp tục được hưởng lộc. Đối với loại ruộng đất cấp
tạm thời cho hưởng dụng, thì người hưởng dụng chết, sau 3 năm, con cháu
người này phải trả lại số ruộng đất (lộc điền) mà không được ẩn lậu. Trong
mọi trường hợp, nhà nước phong kiến trung ương mà đại diện là nhà vua
luôn khẳng định quyền sở hữu tối cao và tuyệt đối đối với số ruộng đất được
cấp theo chế độ lộc điền. Nhà vua có thể thu hồi lại số ruộng đất đã cấp theo
chế độ lộc điền trong một số trường hợp nhất định khi có nhu cầu.
2. Chế độ lộc điền và quân điền thời Lê sơ?
Khái quát nông nghiệp Đại Việt thời Lê sơ
Nền kinh tế nước Đại Việt thời Lê Sơ vẫn chủ yếu dựa vào nông nghiệp như
các thời đại trước, khi công nghiệp về cơ bản chưa có những bước phát triển
đáng kể để ứng dụng vào nông nghiệp. Nền sản xuất nông nghiệp thời kỳ này
vẫn là nền sản xuất tiểu nông cá thể dựa vào kinh nghiệm là chủ yếu. Đẩy mạnh nghề nông
Ngay từ năm 1427, khi đang vây hãm thành Đông Quan, Lê Lợi đã có chủ
trương sẽ cho 25 vạn trong tổng số 35 vạn quân về quê cày cấy sau khi chiến
tranh kết thúc, chỉ giữ lại 10 vạn quân làm lính triều đình. Cùng năm, ông lệnh
cho những người chạy loạn trở về quê quán cày cấy và xử tội nặng những người bỏ nghề nghiệp.
Xây dựng xã hội lấy nông nghiệp làm gốc nên nhà Lê chủ trương tận dụng
triệt để ruộng đất, không để hoang hóa. Năm 1428, sau khi quân Minh về
nước, Lê Thái Tổ lệnh cho con em các tướng và các đầu mục về quê nhận
ruộng đất cày cấy. Năm 1429, ông lại ra lệnh: vườn của các quan ở kinh
thành đều phải trồng hoa hoặc rau đậu, nếu bỏ hoang sẽ bị thu hồi.
Việc miễn giảm tô thuế trong những năm đầu của nhà Lê đã góp phần kích
thích nông nghiệp phát triển đáng kể, khôi phục sau 20 năm chiếm đóng của nhà Minh.
Lê Thánh Tông cũng tiếp thu tư tưởng của Lê Thái Tổ, quy định trong Luật
Hồng Đức: nếu ruộng đất công có chỗ bỏ hoang thì quan trông coi phải tâu
lên để chia cho người cày ruộng khai khẩn, nếu không sẽ bị xử tội Lập đồn điền
Do ruộng đất bị bỏ hoang nhiều sau chiến tranh, nhà Lê áp dụng chính sách
khuyến khích dân khẩn hoang và lập đồn điền để tận dụng sức lao động của
các tù binh và người phạm tội.
Việc khai hoang được bắt đầu từ thời nhà Lý; việc lập tổ chức đồn điền và đặt
quan chánh phó đồn điền thực hiện từ thời nhà Trần. Nhà Lê kế tục các triều
đại trước, cho các tù binh người Minh và người Chiêm Thành khi khai phá
những vùng đất mới, lập thôn xóm. Các công thần Trịnh Khả, Nguyễn Xí, Lê
Thụ, Trần Lạn… được cấp tù binh để đi khai hoang. Những vùng đất mới
được thành lập mang tên vệ, sở được hình thành ở ven sông thuộc huyện
Hưng Nguyên, Thiên Bảo, Diễn Châu…
Sang thời Lê Thánh Tông, chính sách đồn điền được thực hiện rộng rãi. Vua
ban chiếu lập đồn điền, mở rộng quy mô các đồn điền tại các địa phương, tận
dụng sức lao động của người lưu vong, tội đồ. Tới năm 1481, trong cả nước có 43 đồn điền:  Vùng Bắc Bộ có 30 sở  Thanh Hóa có 5 sở  Nghệ An có 4 sở  Thuận Hóa có 2 sở  Quảng Nam có 2 sở
Các đồn điền ở Bắc Bộ thường nhỏ và mang tên xã; trong khi các đồn điền từ
Thanh Hóa trở vào rộng lớn hơn và mang tên huyện, do những vùng đất này
còn nhiều nơi chưa được khai thác. Di dân và khẩn hoang
Không chỉ tận dụng sức lao động của tù binh và người phạm tội, nhà Lê còn
chú trọng tới lực lượng lao động là nông dân tại các địa phương để mở mang
những vùng đất hoang. Thời Lê Thánh Tông hình thành hai loại ruộng mới là
"ruộng chiếm xạ" và "ruộng thông cáo". 
Ruộng thông cáo là ruộng bỏ hoang ở các làng xã được triều đình cho phép
cày cấy sau khi tâu báo lên. Người khai phá phải ở cùng phủ, huyện, xã. Họ
được hưởng lợi trên ruộng cày cấy đó và truyền cho con cháu nhưng không
được biến thành ruộng tư hữu mà vẫn thuộc sở hữu triều đình 
Ruộng chiếm xạ cũng là ruộng khẩn hoang nộp thuế. Tùy sức người đi khai
phá, làm được trên diện tích bao nhiêu thì được hưởng lợi sau khi nộp thuế
và có thể xin với bộ Hộ làm ruộng tư.
Với chính sách khẩn hoang và cho phép người nông dân được sở hữu ruộng
tư, nhà Lê đã khuyến khích được sức sản xuất nông nghiệp tăng đáng kể,
giảm bớt mâu thuẫn trong xã hội về ruộng đất .
Do chính sách khuyến khích dân, những vùng ven biển Yên Quảng, Sơn
Nam và Thuận Hóa trở vào vốn thưa dân ngày càng đông người đến sinh sống. Chế độ ruộng đất
Chế độ ruộng đất thời Lê sơ chia hai loại chính là ruộng công ruộng tư.
Ruộng công gọi là quân điền. Trong số ruộng công, một bộ phận được đem
phong thưởng cho các công thần, ban cho các quý tộc và quan lại, gọi là lộc
điền. Các thân vương hoàng tộc có thể được cấp tới 2000 mẫu ruộng (500
mẫu trong đó là đất tập ấm thừa kế); các quan chính nhất phẩm được cấp
200 mẫu ruộng (trong đó 20 mẫu là đất tập ấm thừa kế).
Tuy nhiên, Lê Quý Đôn trong sách Kiến văn tiểu lục cho rằng: ruộng đất trên
thực tế có không đủ để thực hiện chính sách lộc điền này, do đó chính sách
chỉ thực hiện được một phần, do đó trên danh nghĩa các quý tộc và quan lại
được hưởng 10 phần song thực tế chỉ được cấp phát bằng khoảng 1/5 trên giấy tờ.
Một bộ phận khác trong ruộng công, đất công và đất hoang được kê khai, đo
đạc và chia cho các hạng từ tướng, quân, quan, dân tới cả người già yếu, cô
quả ở các địa phương được hưởng. Đó gọi là chế độ quân điền. Chế độ quân
điền có tác dụng ổn định trật tự xã hội, khôi phục sản xuất nông nghiệp.
Ruộng tư thời Lê sơ chủ yếu nằm trong tay các quý tộc, quan lại và địa chủ
chiếm hữu[6]. Một bộ phận nhỏ khác trong tay nông dân có ruộng tự canh tác,
nếu có nhiều ruộng, họ lại trở thành địa chủ.
Trị thủy và làm thủy lợi
Khí hậu nhiệt đới gió mùa khiến nước Đại Việt thường bị lũ lụt vào mùa mưa
và hạn hán và mùa khô. Do đó đắp đê và làm thủy lợi là yêu cầu cấp bách
của sản xuất nông nghiệp.
Thời Lê Thái Tông, năm 1438, vua cho đào và khơi các kênh ở Trường Yên, Thanh Hóa, Nghệ An.
Năm 1449, Lê Nhân Tông lệnh cho Cục bách tác đào sông Bình Lỗ từ Lãnh
Canh đến cầu Phù Lỗ dài 2500 trượng (10 km).
Năm 1467, Lê Thánh Tông lệnh cho Bộ Hộ khai hoặc lấp các đường nước ở
ruộng, không để ruộng bị úng hoặc hạn. Cùng năm, ông sai khai các kênh ở
Thanh Hóa, Nghệ An, Thuận Hóa.
Thời Lê Thánh Tông, việc đắp đê sông và đê biển được chú trọng hơn các
thời trước. Tại Ninh Bình, năm 1472 vua cho đắp đê bằng đá ở huyện Yên
Mô từ phía bắc cửa Thần Phù đến bờ phía nam cửa Cờn và con đê đắp bằng
đất từ xã Côi Trì huyện Yên Mô tới bờ nam xã Bồng Hải huyện Yên Khánh.
Con đê chống nước mặn đắp trong niên hiệu Hồng Đức được gọi là đê Hồng
Đức
dài gần 25 km, hiện vẫn còn dấu tích tại phía bắc huyện Hải Hậu.
Năm 1503, Lê Hiến Tông sai khai cừ An Phúc xuống cừ Thượng Phúc để lấy
nước tưới ruộng cho dân.
Bên cạnh các công trình lớn, các công trình nhỏ phục vụ chống hạn thường xuyên được thực hiện.
Việc tu sửa đê và làm thủy lợi được đưa vào quy định của triều đình. Năm
1475, Lê Thánh Tông ra sắc lệnh về sửa đắp đê điều và đường sá. Cùng
năm, ông đặt ra chức quan Hà đê để trông coi đê điều và chức quan Khuyến
nông
để đôn đốc nhân dân việc cày cấy.
Trình độ sản xuất nông nghiệp thời Lê sơ tuy có được nâng lên so với các
đời trước nhưng nhìn chung không có chuyển biến quan trọng. Nông nghiệp
vẫn điển hình là trình độ kỹ thuật của nền sản xuất tiểu nông dựa trên sức lao
động và kinh nghiệm lâu đời, với những công cụ thô sơ, nhỏ bé. Những công
trình thủy lợi lớn do triều đình tổ chức thực hiện cũng như các công trình nhỏ
do nhân dân góp sức đã góp phần hạn chế được tác hại của thiên tai và đảm
bảo cho sản xuất nông nghiệp trong nước
Như vậy, sau khi Vương triều Lê chính thức thành lập, Vua Lê Thái Tổ hạ
lệnh cho các quan phủ, huyện, trấn, lộ điều tra một số loại ruộng đất để sung
công, trong đó có ruộng của lính đào ngũ. Không chỉ lập địa bạ (sổ ruộng đất),
triều đình còn truy thu đất của các thế gia, các nhà tuyệt tự, bọn đào ngũ.
Như vậy, triều đình đã tịch thu tất cả ruộng đất của quan lại chính quyền nhà
Minh, ruộng đất của quý tộc nhà Trần, ruộng đất bỏ hoang... sung làm của
công. Trên cơ sở đó, nhà Lê ban hành chính sách ruộng đất, sử dụng ruộng
đất thuộc sở hữu nhà nước để phong tặng cho các công thần, ban cấp cho
quan lại cao cấp làm lộc điền, giao cho các xã phân cấp cho dân cày cấy nộp
tô theo chế độ quân điền. Triều đình trực tiếp quản lý ruộng quốc khố và đồn
điền, ngoài ra còn tổ chức khẩn hoang lập thêm nhiều sở đồn điền mới.
Theo Cuốn “Vương Triều Lê (1428-1527)” do GS. TS Nguyễn Quang Ngọc
làm chủ biên viết, đau đáu về vệc người đi đánh giặc thì nghèo, kẻ rong chơi
thì giàu nên Vua Lê Thái Tổ đã hạ lệnh cho các quan ty sở tại quân cấp ruộng
đất hoang cho những người không có ruộng ở làng xã để họ phục hóa cày
cấy, sinh sống. Tuy kết quả của việc lập sổ ruộng và bước đầu thực hiện
chính sách quân điền thời Thuận Thiên tuy chưa thật đầy đủ nhưng chính
sách đó đã mang lại ruộng đất cho các tầng lớp nhân dân, giúp họ nhanh
chóng ổn định đời sống, đẩy mạnh việc phát triển kinh tế nông nghiệp.
Document Outline

  • Thời Hậu Lê, chế độ Lộc Điền chính thức được ban h
    • 1.Chế độ lộc điền là gì?
    • 2. Chế độ lộc điền và quân điền thời Lê sơ?
      • Khái quát nông nghiệp Đại Việt thời Lê sơ
      • Đẩy mạnh nghề nông
      • Lập đồn điền
      • Di dân và khẩn hoang
      • Chế độ ruộng đất
      • Trị thủy và làm thủy lợi