


















Preview text:
PHÂN TÍCH TÁC PHẨM “CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA” (NGUYỄN MINH CHÂU) ❤
Nguyễn Minh Châu là người suốt đời đi tìm cái đẹp và cái thật, tha thiết kiếm tìm “hạt ngọc ẩn
giấu trong bề sâu tâm hồn con người.” Trước 1975, Nguyễn Minh Châu được biết đến với
những tác phẩm đậm chất sử thi như: “Cửa sông”, “Miền cháy”, “Dấu chân người lính”. Thế
nhưng, sau 1975, chính Nguyễn Minh Châu lại là người đi tiên phong trong công cuộc đổi mới
văn học. “Chiếc thuyền ngoài xa” được in năm 1983 là một bước tiến dài rất đáng trân trọng
trong hành trình khám phá vào tầng chìm, vào chiều sâu của cuộc sống và con người của văn xuôi Nguyễn Minh Châu.
Tình huống thắt nút của tác phẩm:
Tác phẩm đã chọn được một tình huống hết sức đắt giá và có ý nghĩa. Tình huống ấy chứa
đựng nhiều mâu thuẫn, nhiều nghịch lí của cuộc sống. Phóng viên Phùng được giao nhiệm vụ
đi chụp thêm cảnh một buổi bình minh đầy sương để bổ sung cho hoàn hảo vào bộ sưu tập
chuyên đề thuyền và biển: “12 tháng là 12 bức ảnh nghệ thuật về thuyền và biển.” Lặn lội hơn
600 cây số,anh đến một vùng đầm phá miền Trung xa xôi mà anh cho là rất thi mộng để săn
lấy một bức ảnh hợp với ý đồ nghệ thuật của vị trưởng phòng. Bao nhiêu ngày nằm phục kích,
cuối cùng anh cũng bắt gặp được một cảnh mà anh rất mãn nguyện: “có lẽ suốt một đời cầm
máy ảnh chưa bao giờ tôi được thấy một cảnh “đắt” trời cho như vậy. Trước mắt tôi là một bức
tranh mực tàu của một danh hoạ thời cổ”. Đó là cảnh chiếc thuyền vó của gia đình một ngư
dân đang tiến vào bờ. Người nghệ sĩ nhiếp ảnh tràn ngập hạnh phúc sau khi bấm “ liên thanh”
một hồi hết một phần tư cuốn phim ghi lại bức ảnh mà anh cho là “cái đẹp tuyệt đỉnh của
ngoại cảnh.” Thế nhưng, chính lúc đang thăng hoa trong tột đỉnh khoái cảm nghệ thuật, người
nghệ sĩ nhiếp ảnh và cả người đọc lại phải ngạc nhiên đến sững sờ trước một cảnh tượng
nghịch lí đang diễn ra trước mắt. Nguyễn Minh Châu đã đưa đến cho ta một tình huống đầy
bất ngờ: có ai ngờ trong cái khung cảnh mà người nghệ sĩ nhiếp ảnh nhìn thấy một sự hài hòa
đến toàn bích kia, trong cái cảnh mờ sương đầy thơ mộng kia lại dần dần hiện lên một sự thực
trần trụi đầy trớ trêu. Một trong những con đường để đi đến ý nghĩa của tác phẩm là phải phát
hiện ra những mâu thuẫn nghệ thuật của tác phẩm. Nguyễn Minh Châu đã thực sự đặt người
đọc trước một tình huống đầy vấn đề: một người đàn ông vũ phu, tàn nhẫn đến mức như không
còn nhân tính; một người đàn bà cam chịu đến mức như mù quáng, vô cảm và một đứa bé với
sức phản kháng dữ dội đến mức như những hành động bản năng. Rõ ràng, tình huống ấy có
sức khơi gợi rất mạnh tư duy và cảm xúc của người đọc. Tình huống diễn ra bất ngờ và kì lạ
đến mức trong mấy phút đầu người nghệ sĩ nhiếp ảnh chỉ biết “há mồm ra mà nhìn”. Từ tình
huống ấy, ngòi bút “thâm trầm, buồn lắng, yêu thương nhưng dữ dội” của Nguyễn Minh Châu
đã tài tình hé mở cho ta đi vào cuộc sống đời thường với bao đa sự, đa đoan của nó. Nhiều
người cho rằng loại tình huống mà Nguyễn Minh Châu đặt ra trong tác phẩm là tình huống
nhận thức. Điều đó cũng hợp lí vì càng đi sâu vào tình huống càng cho ta ngộ ra, bừng tỉnh ra
nhiều điều, những điều không tuyệt bích như một bức tranh sơn mài mù sương mà ngược lại;
đầy chất muối, đầy sự mặn chát của cõi bụi trần. Từ tình huống ấy ta nhận ra bao tâm trạng,
bao con người, bao vấn đề của cuộc sống.
Hình tượng người đàn ông đánh vợ tàn nhẫn:
Nếu nhìn từ xa và quan sát bên ngoài thì hình ảnh người đàn ông đánh vợ hiện lên đầy hùng
hổ, táo tợn và tàn nhẫn. Thế nhưng, theo dõi tâm lí, hành động của con người này mới vỡ lẽ
rằng, thì ra con người thô lỗ, lạnh lùng như gỗ đá ấy cũng biểu hiện những tâm trạng, cảm xúc
khiến người đọc phải suy ngẫm. Quan sát kĩ chúng ta nhận thấy vấn đề: khi cùng lội vào bờ,
đôi mắt người đàn ông “lúc nào cũng dán vào tấm lưng áo bạc phếch và rách rưới, nửa thân
dưới ướt sũng của người đàn bà” thế nhưng khi đã đi khuất vào sau những chiếc xe tăng hỏng
thì người đàn ông mới lập tức trở nên hùng hổ, dữ tợn đến không ngờ. Trong cái thân hình hộ
pháp đậm chất biển khơi kia như đang dồn nén bao gánh nặng bắt buộc phải được trút xuống,
bắt buộc phải được thoát ra. Trong từng cơn giận lão trút xuống lưng người đàn bà ta nhận ra
cái “giọng rên rỉ đau đớn” và câu nói đi kèm: “Mày chết đi cho ông nhờ. Chúng mày chết đi
cho ông nhờ”. Câu nói cửa miệng “Mày chết đi cho ông nhờ. Chúng mày chết đi cho ông nhờ”
giúp ta định hướng rằng, hành động vũ phu man rợ của người đàn ông không phải xuất phát từ
nguyên nhân là một tội lỗi nào đó của người đàn bà mà nguyên nhân là gánh nặng cuộc sống,
gánh nặng gia đình với một đàn con nheo nhóc đang đè lên vai người đàn ôn trụ cột này. Đàn
con thì càng ngày càng đông đúc, nên những trận đòn ngày càng dài hơn, cay cực hơn. Người
đàn ông trút bao căm hờn của tình cảnh gia đình lên đầu vợ bằng bạo lực, bằng thói vũ phu
đến man rợ là điều đáng giận, đáng phê phán. Thế nhưng, qua tình huống truyện, qua cái
“giọng rên rỉ đau đớn” ta nhận ra cái tình cảnh khốn cùng đến bế tắc đè nặng lên bờ vai, khối
thịt vốn đã không thể đen hơn, rám nắng hơn trong sự vật lộn với biển khơi của người đàn ông vùng biển.
Hình ảnh người đàn bà câm lặng, nhẫn nhục chịu đựng đòn roi:
Hình ảnh người đàn ông đánh vợ đã kì lạ nhưng hình ảnh người đàn bà câm lặng, nhẫn nhục
chịu đựng đòn roi lại càng kì lạ hơn. “Ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng” nhưng
người đàn bà ấy đã “không hề kêu lên một tiếng, không chống trả, không tìm cách chạy trốn”.
Người đàn bà trót gây nên tội lỗi gì để rồi cam tâm nhận lấy sự tả giá hay chi ta tăm tối, mù
quáng đến mức không còn cút ý thức? Những giả thiết ấy đều bị đánh đổ bằng những điều mà
người đàn bà trình bày trước vị chánh án của vùng biển. Qua những cảnh có tính chất “mở
nút” của tình huống, ta nhận chân giá trị của hình tượng, đó là những vẻ đẹp tuyệt vời nơi
người phụ nữ khốn khổ ấy. Người mẹ ấy luôn cam tâm nhận lấy nỗi đau thể xác nhưng chị còn
phải khốn khổ hơn với nỗi đau tinh thần. Ở trên chiếc thuyền chật chội, túng thiếu và nheo
nhóc những con với cái kia; tiếng cười niềm vui hạnh phúc trở nên thật hiếm hoi. Những khi
trời không yên, biển không lặng, cuộc sống trên những con thuyền ấy càng trở nên gieo neo.
Thế là, bao nhiêu cay cú, uất ức, người chồng vũ phu lại trút lên đầu người đàn bà, làm như
người đàn bà ấy là nguyên nhân trực tiếp gây nên sự bế tắc kia. Dù oan trái nhưng chị tự
nguyện chấp nhận với một lời khẩn cầu cho con: khi con cái lớn lên hãy “đưa tôi lên bờ mà
đánh.” Bà cam tâm nhẫn nhục chịu đựng chỉ mong sao đừng gây nên sự tổn thương cho những
tâm hồn trẻ thơ. Trong hoàn cảnh đói khổ, quẫn bách của cuộc sống thuyền chài, suy nghĩ về
sự hành xử như vậy, giàu tình thương và đức hi sinh biết bao. Có hiểu được điều đó ta mới
đồng cảm với tâm trạng của người mẹ ấy khi vô tình để con trai chứng kiến cảnh bà bị người
chồng đánh đập dã man sau những chiếc xe tăng cũ nát kia. Người mẹ cảm thấy: “Vừa đau
đớn vừa vô cùng xấu hổ, nhục nhã”, đau khổ vì lo lắng cho con trước rồi mới đến xấu hổ, nhục
nhã cho mình. Chứng kiến những trạng thái tình cảm này không ai không cảm thấy xúc động:
“miệng mếu máo gọi, người đàn bà ngồi xệp xuống trước mặt thằng bé, ôm chầm lấy nó rồi lại
buông ra, chắp tay vái lấy vái để, rồi lại ôm chầm lấy”.
Bên cạnh tình thương và sự hi sinh, chị còn là người biết sống và biết thấu hiểu mọi lẽ đời. Có
điều, nhân hậu và vị tha biết bao nhiêu khi chị không nghĩ đến mình, chỉ thấu hiểu cho chồng
và cho tương lai của đàn con đông đúc kia. Một người chồng đầy quái gỡ, nói như vị chánh án:
“ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng. Cả nước không có một người chồng như hắn”.
Thế nhưng, khi được vị thẩm phán gợi ý cho con đường giải thoát thì chị lại khẩn thiết cầu xin:
“Quý toà bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó”. Cách hành xử
của chị khiến Đẩu, vị bao công của cái phố huyện vùng biển, đi từ ngạc nhiên này đến ngạc
nhiên khác. Chính người đàn bà có vẻ ngoài xấu xí và trái tim nặng trĩu khổ đau đã giúp anh
ngộ ra bao điều. Chị nhìn suốt cả đời mình để đưa ra một chân lí, giản dị, mộc mạc nhưng
thấm bao vị mặn chát của đời thường: “Đám đàn bà làng chài ở thuyền chúng tôi cần có người
đàn ông để chèo chống khi phong ba, để cùng làm ăn nuôi nấng đặng một sắp con mà nhà nào
cũng trên dưới chục đứa”. Nhưng cái chân lí đích thực và đẹp đẽ hơn là: “Đàn bà ở trên thuyền
chúng tôi phải sống cho con chứ không thể sống cho mình như ở trên đất được”. Có lẽ chính
thiên tính nữ ở người đàn bà đã giúp Đẩu, vị chánh án rành rỏi bao qui định của luật pháp “vỡ
ra” bao điều cay đắng của luật đời. Bên cạnh Đẩu, người đàn bà còn để lại bao dư vị đắng cay
cho người nghệ sĩ nhiếp ảnh. Tình huống khép lại nhưng bao nhận thức cuộc sống lại được mở
ra. Đó là ý đồ nghệ thuật đầy tài ba của tác giả thiên truyện.
Những hình ảnh biểu trưng và sự thức nhận đau đớn về bao giá trị sống:
Cùng với việc xây dựng tình huống là những hình ảnh biểu trưng có sức gợi , sức kết lắng ý
nghĩa tư tưởng lớn. Trong “Chiếc thuyền ngoài xa”, những hình ảnh biểu tượng ẩn chứa bao ý
nghĩa sâu xa và chính những hình ảnh này kết lắng và chứa đựng chủ đề tư tưởng tác phẩm.
Trước hết là cảnh tượng người đàn ông đánh vợ một cách thô bạo và man rợ đằng sau những
chiếc xe tăng hỏng. Trên mảnh đất đầm phá đầy tinh thần cách mạng ấy, chiến tranh đã đi qua
từ lâu. Những chiếc xe tăng, chứng tích của một thời bom đạn ác liệt giờ trở thành phế tích
đang dần mục sét qua năm tháng và chất muối mặn của vùng biển. Những chiếc xe rà phá bom
mìn đang cố gắng thu dọn những gì còn sót lại của chiến tranh có thể vô tình gây nên nỗi đau.
Thế nhưng, bên cạnh cuộc chiến đấu ấy, bên cạnh nỗi đau ấy là một cuộc chiến đấu mới, là
một nỗi đau mới. Cuộc chiến đấu mới ấy còn cam go hơn, nỗi đau mới ấy mới e chừng còn dai
dẳng hơn. Đó là cuộc chiến đấu với đói nghèo, với tăm tối. Trên thuyền phải có một người đàn
ông dù người đàn ông đó có man rợ và tàn bạo đến đâu đi nữa. Sự khẳng định hùng hồn như
chân lí của người đàn bà làm vị chánh án chỉ biết “trút một tiếng thở dài đầy chua chát”.
Bên cạnh hình ảnh người đàn ông đánh vợ bên bãi xe tăng hỏng là hình ảnh người nghệ sĩ
nhiếp ảnh và bức ảnh nghệ thuật về chiếc thuyền ngoài xa. Nếu cảnh người đàn ông đánh vợ
đầy nghịch lí thì hình ảnh người nghệ sĩ và bức ảnh nghệ thuật lại đầy mâu thuẫn. Thực hiện ý
đồ nghệ thuật của vị trưởng phòng về bộ sưu tập về thuyền và biển, người nghệ sĩ nhiếp ảnh đã
hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Cuộc sống con người trải qua mười hai tháng trong một năm thì
bộ sưu tập có mười hai bức tranh. Bức tranh thứ mười hai qua ống kính của người nghệ sĩ ấy
là một cảnh toàn bích từ đường nét, ánh sáng đến bố cục. Vậy mà, cuối cùng anh đã chứng
kiến những gì? Trớ trêu, trần trụi và nghịch lí đến kì cùng. Thế nhưng nó lại có đường nét, ánh
sáng và lôgic, bố cục của cuộc sống hiện thực. Cùng với vị chánh án, người nghệ sĩ nhiếp ảnh
cũng “vỡ ra” về “độ chênh” giữa cái đẹp của nghệ thuật được thu vào ống kính ống kính trong
trí tưởng tượng bay bổng của người nghệ sĩ và dư vị đắng cay đến xót xa trong cái đa đoan của
cõi đời. Mười hai bức tranh nghệ thuật về một vùng đầm phá thơ mộng, mờ sương hay mười
hai tháng với bao cơn bão tố và những trận đòn tói tấp của gia đình người đàn bà khốn khổ kia.
Với hình ảnh biểu tượng này, một lần nữa, Nguyễn Minh Châu thủ thỉ với người đọc rằng:
cũng như vị chánh án, người nghệ sĩ cần có cái nhìn cận nhân tâm hơn. Những bức ảnh nghệ
thuật và nhan đề “chiếc thuyền ngoài xa” gợi bao thức nhận đau đớn: ở đó, không phải là
những giọt sương mai thơ mộng như trong tranh thuỷ mặc của một vùng quê yên bình mà là
những giọt muối mặn đầy xót xa của cuộc sống trần trụi đời thường. Nghệ thuật chính là cuộc
sống, người nghệ sĩ phải có góc nhìn và cự li khám phá cuộc sống gần gũi hơn, có như vậy anh
mới phản ánh đúng, mới thấu hiểu được muôn sự đa đoan của cõi đời, khốn khổ đấy, đau đớn
đấy nhưng đẹp đẽ vô cùng.
Truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” đã thể hiện những đổi mới thành công của Nguyễn
Minh Châu. Bằng việc xây dựng tình huống thắt nút và việc sử dụng những hình ảnh có sức
biểu trưng lớn, tác phẩm đã đi sâu khám phá cuộc sống đời thường với bao đa sự, đa đoan thời
hậu chiến. Phải có cái nhìn tinh tế, sâu sắc, Nguyễn Minh Châu mới thấu hiểu và phát hiện
được những vẻ đẹp thầm lặng ẩn giấu trong tâm hồn người phụ nữ khốn khổ ấy. Tác phẩm do
vậy còn cho thấy tài năng và tấm lòng người cầm bút của Nguyễn Minh Châu.
ĐỀ 2: HAI PHÁT HIỆN CỦA NHIẾP ẢNH GIA PHÙNG
☘ Nhà văn Nguyễn Minh Châu là một trong những tác giả nổi tiếng của làng văn học Việt
Nam thời kỳ đổi mới. Ông được coi là người “mở đường tài năng và tinh anh nhất”. Trước
năm 1975, ông là một cây bút sử thi lãng mạn, viết nhiều về đề tài người lính. Tuy nhiên, sau
năm 1980, sáng tác của ông đi sâu vào cảm hứng đời tư thế sự với vấn đề đạo đức, và triết lý
nhân sinh. Ông khám phá con người trong cuộc đời mưu sinh, trong hành trình nhọc nhằn
kiếm tìm hạnh phúc, khám phá hạt ngọc ẩn dấu, khuất lấp trong mỗi con người. Tiêu biểu cho
những kiếm tìm đề tài và trách nhiệm của người nghệ sĩ là tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa, in
trong tập truyện cùng tên năm 1987.
Truyện ngắn được ra đời tháng 8/1983, khi cuộc chiến tranh vệ quốc của dân tộc qua đi. Đất
nước bước vào thời kì mới, thời kỳ độc lập thống nhất. Cuộc sống thời bình với muôn mặt của
đời sống, đặt ra nhu cầu nhận thức lại về hiện thực và cuộc sống con người trước đây do hoàn
cảnh của chiến tranh chưa được đặt ra. Là một tác phẩm đáp ứng được nhu cầu ấy, ”Chiếc
thuyền ngoài xa” đã trở thành một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của Nguyễn Minh Châu
và tiêu biểu cho cảm hứng đời tư thế sự, xu hướng chung của văn học Việt Nam thời kỳ đổi mới.
☘ Truyện ngắn được chia thành ba phần. Phần một: từ đầu cho đến “lưới vó biến mất”. Ở
phần này, tác giả đi sâu vào kể về hai phát hiện của nhân vật Phùng. Phần hai: tiếp theo đến
“giữa phá” là câu chuyện của người đàn bà hàng chài ở toàn án huyện. Và phần ba còn lại –
tác giả nói về bức ảnh được chọn vào bộ lịch năm ấy.
Tác phẩm mở đầu bằng một bức tranh tuyệt đẹp được người nghệ sĩ Phùng ghi lại vào một
buổi sáng mờ sương ở một phá nước miền Trung. Phùng là nghệ sĩ nhiếp ảnh, được cấp trên
giao cho chụp một bức ảnh chủ đề thuyền và biển để đăng trong bộ lịch năm ấy. Anh đã đi
thực tế tại tại vùng biển miền Trung nơi trước kia đã từng chiến đấu và có người bạn ở đó. Khi
đến đây anh bắt gặp một bức tranh tuyệt đẹp đó là hình ảnh của thuyền và biển trong sương
sớm. Đây cũng chính là tình huống độc đáo của truyện qua đó ta thấy được nhiều điều trong
cuộc sống này. Nhưng sau bức tranh ấy Phùng lại có phát hiện mới.
☘ Trước tiên, truyện ngắn này có một tình huống truyện hết sức độc đáo. Tình huống là vấn
đề then chốt đối với truyện ngắn. Nhà văn tìm được tình huống độc đáo sẽ khiến bạn đọc cuốn
hút theo câu truyện. Tình huống chính là tình thế xảy ra câu truyện, khi nhân vật ở trong tình
thế ấy sẽ bộc lộ rõ nhất bản chất, tính cách, phẩm chất của con người. Tình thế cũng có thể là
bước ngoặt làm thay đổi số phận, nhận thức hoặc có khi bộc lộ ra những cốt lõi sâu thẳm tiềm
ẩn trong truyện. Tình huống truyện của "Chiếc thuyền ngoài xa" là tình huống nhận thức,
khám phá. Đây là một tình huống bất ngờ và đầy nghịch lý. Tình huống của truyện được thể
hiện qua hai phát hiện của nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng. Tình huống đã giúp Phùng nhận ra được
nhiều điều về cuộc sống, con người và nghệ thuật. Cuộc đời vốn chứa đựng nhiều mâu thuẫn,
bất ngờ và đầy nghịch lý. Cần đến gần cuộc sống để khám phá sự thực bên trong và chiều sâu
bản chất. Cần có cái nhìn đa diện nhiều chiều để hiểu rõ bên trong số phận và tâm hồn con
người. Nghệ thuật phải luôn gắn liền với cuộc sống thì mới có ý nghĩa.
☘ Phát hiện thứ nhất của nghệ sĩ Phùng là khung cảnh thiên nhiên hoàn mĩ, đẹp thơ mộng.
Người nghệ sĩ phát hiện ra một vẻ đẹp trên mặt biển mờ sương. Đó là cảnh một chiếc thuyền
trong buổi sớm mai đang dần tiến vào bờ, cảnh tượng khiến cho người nghệ sĩ cảm thấy may
mắn và hạnh phúc khi được chứng kiến một bức tranh tuyệt vời đến như vậy. Nó giống như
“một bức tranh mực tàu của một họa sĩ thời cổ”. “Mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe …
chiếu vào”. Vài bóng người lớn lẫn trẻ con đang dần tiến vào bờ. Toàn bộ khung cảnh từ
đường nét đến màu sắc ánh sáng đều hài hòa với nhau làm nên một vẻ đẹp toàn bích. Tác giả
gọi đó là cảnh “đắt” trời cho, vẻ đẹp mà trong cuộc đời diễm phúc lắm may ra bắt gặp được
một lần. Nghệ sĩ Phùng tự nhận ra rằng cái đẹp chính là đạo đức. Trước bức tranh mực tàu ấy
Phùng cảm thấy bối rối trong tim anh như có cái gì đang bóp chặt lấy. Đó là khoảnh khắc
trong ngần của cuộc đời. Người nghệ sĩ cảm thấy tràn ngập niềm hạnh phúc, anh thấy được
cảm xúc trong ngần của tâm hồn, cảm nhận được chân - thiện - mĩ của cuộc đời. Anh cảm thấy
tâm hồn mình được thanh lọc trở nên trong trẻo và thanh khiết. Thông qua cảm xúc của nhân
vật Phùng, tác giả đưa ra quan niệm về cái đẹp. Cái đẹp phải có tác dụng thanh lọc tâm hồn,
hướng con người đến cái chân - thiện - mĩ, cái đẹp là đạo đức.
☘ Thế nhưng cảnh càng đẹp bao nhiêu thì thực tế cuộc sống lại đen tối bấy nhiêu. Đó chính là
phát hiện thứ hai của Phùng trước khung cảnh tuyệt vời ấy. Hiện thực nghiệt ngã của con
người với số phận bất hạnh của những con người nơi đây đặc biệt là người đàn bà hàng chài
hiện lên. Bước ra từ chiếc thuyền ngư phủ đẹp như mơ ấy là người phụ nữ xấu xí và người đàn
ông hung dữ, cặp vợ chồng hiện thân cho sự lam lũ đói khổ. Chính khuôn mặt nét người của
họ đã nói lên phần nào cái cuộc sống khổ cực mà họ phải chịu. Người vợ “trạc ngoài 40”, “mặt
rỗ”, “thân hình cao lớn thô kệch”, “lưng áo bạc phếch”, “gương mặt lộ rõ sự mệt mỏi sau một
đêm thức trắng kéo lưới”… dường như bao nhiêu sương gió nắng mưa của đất trời đã chiếu
thẳng vào người đàn bà ấy vậy. Còn người đàn ông thì cũng chẳng hơn gì: “có tấm lưng rộng”,
đi chân chữ bát khuôn mặt “độc, dữ”. Cả hai người đều là hiện thân của sự nhọc nhằn, nghèo
khó của người dân hàng chài. Một cảnh tượng diễn ra khiến cho nghệ sĩ Phùng không thể nào
tin vào mắt mình và cái cảnh đẹp kia bỗng chốc biến thành một hình ảnh vô cùng thậm tệ. Hai
con người khổ sở ấy đi vào phía bãi xe tăng hỏng và thật bất ngờ trước cảnh tượng ấy: “Lão
đàn ông lập tức trở nên hùng hổ, mặt đỏ gay, lão rút trong người ra một chiếc thắt lưng … lão
trút cơn giận như lửa cháy bằng cách dùng chiếc thắt lưng quật tới tấp vào người đàn bà, lão
vừa đánh vừa thở hồng hộc, hai hàm răng nghiến ken két. .”. Trong “chiếc thuyền ngoài xa”,
một sự thật còn trớ trêu, cay đắng nữa: Cha con lão làng chài coi nhau như kẻ thù “Thằng bé
chạy một mạch, sự giận dữ căng thẳng…lập tức nhảy xổ vào cái lão đàn ông. . liền dướn thẳng
người vung chiếc khóa sắt quật vào giữa khuôn ngực lão đàn ông”. Người nghệ sĩ Phùng như
cay đắng nhận thấy những cái ngang trái, bi kịch trong gia đình thuyền chài kia đã là thứ thuốc
rửa quái đản làm những thước phim huyền diệu của cái máy ảnh mà anh dày công sáng tạo
nghệ thuật bỗng hiện hình một sự thật cuộc sống xót xa. Tấm ảnh về chiếc thuyền thì rất đẹp,
nhưng cuộc sống đích thực của gia đình dân chài trên chiếc thuyền ấy chẳng có gì là đẹp. Sự
nghịch lí ấy đặt ra vấn đề đối với người nghệ sĩ về mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống:
“Nghệ thuật không nên là ánh trăng lừa dối” (Nam Cao). Những giọt nước mắt của người đàn
bà hàng chài nhỏ xuống lấp đầy những nốt rỗ chằng chịt kia. Một cảnh tượng nghiệt ngã đối
lập với cái cảnh đẹp như ngư phủ của con thuyền.
Với hai phát hiện ấy Phùng chợt nhận ra rằng cuộc đời không đơn giản một chiều mà chứa
nhiều nghịch lý ngang trái, mâu thuẫn. Cuộc sống luôn tồn tại những mặt đối lập, đẹp và xấu
thiện và ác. Ở đây nhà văn khẳng định đừng nhầm lẫn hiện tượng với bản chất, hình thức bên
ngoài với nội dung bên trong. Khi nhìn nhận đánh giá cuộc đời thì phải có cái nhìn đa chiều nhiều phía.
☘ Nếu truyện ngắn chỉ dừng lại ở đây chắc chắn sẽ không đủ sức hút có thể để lại dư âm trong
lòng người đọc. Chính vì thế mà những tâm sự của người đàn bà hàng chài tại tòa án huyện
được viết ra. Sau khi chứng kiến cảnh bạo hành dã man bên chiếc xe tăng hỏng, Phùng đã nói
với chánh án Đẩu từng là chiến hữu của anh để nhờ giúp đỡ.Phùng và Đẩu đều có ý tốt mong
cho người phụ nữ ấy thoát khỏi người chồng vũ phu. Chính vì vậy người đàn bà hàng chài đã
đươc chánh án Đẩu mời đến tòa án huyện và giải pháp được đưa ra là li hôn với chồng. Người
đàn bà hàng chài đến tòa án huyện ban đầu chị tỏ ra rất sợ hãi khép nép sau khi nghe những
phân tích và sự giúp đỡ của Đẩu thì chị bỗng bình tĩnh và thay đổi cách xưng hô không còn
khép nép nữa mà nói ra những tâm sự những suy nghĩ của bản thân mình. Những lời tâm sự
của chị đã khiến người đọc cũng phải ngỡ ngàng. Vẻ đẹp tâm hồn ẩn sâu bởi cái vẻ ngoài xấu
xí, của người phụ nữ ấy đã khiến chánh án Đẩu và nhân vật Phùng nhận ra được nhiều điều.
Người đàn bà kể lại cuộc đời mình rằng: Trước kia bà cũng là một người con nhà khá giả,
nhưng sau một trận thủy đậu làm cho bà dỗ hết mặt không ai thèm lấy bà. Khi ấy ông chồng
của bà lại là người làm vườn. Bố mẹ mất đi người đàn ông ấy đã cứu vớt cuộc đời của bà
chính vì thế mà bà bị đánh đập nhưng cũng không nỡ bỏ người chồng đồng thời cũng là ân
nhân của mình. Hiện giờ cuộc sống của bà khổ về cả vật chất lẫn tinh thần.
☘ Gia đình bà sống cùng nhau trên một con thuyền nhỏ. Con thuyền ấy vừa là phương tiện
kiếm sống lại cũng là ngôi nhà che nắng che mưa. Bà thường xuyên bị đánh đập, ba ngày một
trận nhẹ năm ngày một trận nặng. Thế nhưng bà không hề chống lại chồng mình, cam chịu,
nhẫn nhục, bà coi một việc bị đánh là một chuyện đương nhiên, thậm chí sợ các con nhìn thấy
bà xin chồng đánh khi vào bờ. Khi nghe những lời khuyên của Đẩu và Phùng, biết lòng tốt của
họ nhưng bà nhất quyết không bỏ chồng vì người chồng là chỗ dựa tinh thần lớn nhất của gia
đình nhất là khi phong ba bão táp. Người đàn bà cần chồng vì còn phải nuôi những đứa con
kia. Và hơn nữa trên thuyền cũng có những lúc gia đình hạnh phúc vui vẻ. Người đàn bà chắt
chiu những hạnh phúc nhỏ nhoi đời thường khi nhìn thấy các con được ăn no. Thị nhận lỗi,
cho rằng đẻ nhiều con là cái tội của mình. Trong suy nghĩ của Phùng, Đẩu và thằng Phác
người đàn ông kia là kẻ thô lỗ, độc ác, dã man đáng lên án. Nhưng với người vợ thấu hiểu và
cảm thông, người đàn ông ấy cũng chỉ là nạn nhân, hắn trước kia hiền lành lắm, cũng vì cuộc
sống nghèo khổ quá nên mới như vậy. Từ đó cho thấy người đàn bà hàng chài tuy là một
người phụ nữ không học hành, xấu xí nhưng lại có một trái tim nhân hậu tiêu biểu cho nét đẹp
tâm hồn của người phụ nữ Việt Nam. Thị là người chấp nhận hi sinh để sống cho các con, một
người vị tha và sâu sắc lẽ đời.
☘ Trước những lẽ ấy thoạt đầu Đẩu và Phùng nghiêm nghị thấy bất bình nhưng về sau thì như
vỡ lẽ ra nhiều điều. Phùng từng là người lính chiến đấu giải phóng miền Nam khỏi nanh vuốt
quân xâm lược nhưng lại không thể nào giải phóng được số phận của người đàn bà bất hạnh.
Qua câu chuyện của người đàn bà, Phùng càng thấm thía: không thể đơn giản trong cái nhìn về
cuộc đời và con người. Cuộc sống này không chỉ sống cho riêng mình hay nó vốn là cái mình
nhìn thấy trên bề nổi mà nó là phần chìm bên trong câu chuyện kia. Vẻ đẹp của người đàn bà
hàng chài đã đem đến cho người đọc một thông điệp, một triết lý. Đó là phải nhìn mọi việc
một cách toàn diện. Đó mới là cái giá trị đích thực của cuộc sống này. Từ một người đàn bà
nhút nhát sợ hãi người đàn bà trở nên sâu sắc làm cho hai người đành phải để người phụ nữ ấy về với gia đình mình.
Câu chuyện kết thúc khi bức ảnh tuyệt bích được chọn in trong tấm lịch năm ấy và bức tranh
còn được treo mãi trong những gia đình sành nghệ thuật. Điều này khẳng định giá trị nghệ
thuật của bức tranh. Câu chuyện của người đàn bà hàng chài đã đi sâu vào tiềm thức của
Phùng như một trải nghiệm mà mỗi khi nhìn vào bức ảnh anh lại nhớ đến nó. Với anh, khi
đứng trước bức ảnh đen trắng lại thấy một màu hồng trong buổi sớm ban mai và nhìn kĩ hơn
nữa lại thấy bước ra từ trong tranh là người đàn bà hàng chài lam lũ. Như vậy nếu hiểu bức
tranh thuyền và biển kia là hình ảnh của nghệ thuật và người đàn bà hàng chài bước ra từ trong
tranh là hình ảnh của cuộc đời thì nghệ thuật và cuộc đời phải gắn liền với nhau. Nghệ thuật
bắt nguồn từ cuộc sống thì cũng phải gắn liền vời cuộc sống. Nghệ thuật phải luôn gắn liền với
cuộc sống thì mới có ý nghĩa.
☘ Với cách xây dựng tình huống truyện độc đáo, mới lạ, mang ý nghĩa khám phá, phát hiện về
cuộc đời, và cách trao ngòi bút cho nhân vật kể chuyện (nhân vật Phùng), “Chiếc thuyền ngoài
xa” đã để lại ấn tượng sâu đậm. Thành công của Nguyễn Minh Châu là đã đem đến cho người
đọc một tác phẩm đầy tính triết lý và chiêm nghiệm về cuộc đời, con người và cả nghệ thuật.
Những triết lý luôn đúng với mọi thời đại.
Nguyễn Minh Châu là một trong số những nhà văn đầu tiên của thời kì đổi mới đã đi sâu khám
phá sự thật đời sống, dũng cảm thể hiện những góc khuất của cuộc đời ngay trong chế độ xã
hội tốt đẹp của chúng ta. Đúng như lời của nhà văn Nguyễn Minh Châu đã nói: “Nhà văn
không có quyền nhìn sự vật một cách đơn giản, và nhà văn cần phấn đấu để đào xới bản chất
con người vào các tầng sâu lịch sử”. Truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” thể hiện một bài
học đúng đắn về cách nhìn nhận cuộc sống và con người: Mỗi người trong cõi đời, nhất là
người nghệ sĩ, không thể đơn giản, sơ lược khi nhìn nhận cuộc sống và con người. Cần một
cách nhìn đa dạng nhiều chiều, phát hiện ra bản chất thật sau vẻ đẹp bên ngoài của hiện tượng.
Đồng thời tác phẩm in đậm phong cách tự sự – triết lí của nhà văn Nguyễn Minh Châu. ĐỀ 3:Đề bài:
Phân tích người đàn bà hàng chài trong tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” của
Nguyễn Minh Châu. Từ đó làm sáng tỏ giá trị nhân đạo của tác phẩm. Bài làm:
Tôi đã từng được nghe lời nhận xét của nhà nghiên cứu người Nga Nikulin về Nguyễn
Minh Châu rằng: “Các nhân vật của Nguyễn Minh Châu trước năm 1980 được Nguyễn Minh
Châu tắm rửa sạch sẽ, được bao bọc trong bầu không khí vô trùng”. Thật dễ nhận ra điều đó ở
nhân vật Nguyệt trong “Mảnh trăng cuối rừng” - một cô gái xinh đẹp, trẻ trung, vẻ đẹp của thế
hệ trẻ kháng chiến chống Mĩ. Nhưng ở giai đoạn sau, Nguyễn Minh Châu tập trung bút lực để
viết về đời sống thế sự, đời tư, những triết lí nhân sinh. Tiêu biểu cho giai đoạn sáng tác ấy là
tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa”, ta bắt gặp người đàn bà hàng chài. Một người đàn bà trong
cuộc sống lao động đời thường ấy đã thể hiện được giá trị nhân đạo của một cây bút đi đầu
trong quan niệm đổi mới, luôn “đi tìm những hạt ngọc ẩn giấu trong tâm hồn con người”.
“Chiếc thuyền ngoài xa” được Nguyễn Minh Châu sáng tác trong giai đoạn hai vào năm
1983, khi cảm hứng sáng tác của nhà văn dần dần chuyển sang tính chất triết luận về những
giá trị nhân bản đời thường, khám phá ý nghĩa bản chất con người trong cuộc mưu sinh, trong
hành trình nhọc nhằn kiếm tìm hạnh phúc và hoàn thiện nhân cách. “Chiếc thuyền ngoài xa”
được in lần đầu trong tập “Bến quê”, sau được tác giả lấy làm tên chung cho cả tập truyện
ngắn từ truyện “Bức tranh” trở đi, in năm 1987.
Trước cách mạng, ta biết đến thị - người vợ nhặt của Kim Lân là một người phụ nữ với
số không tròn trĩnh, không tên, không tuổi, không gia đình, quê hương bản quán. Thì sau cách
mạng, một lần nữa ta gặp lại số không ấy trong trang viết của Nguyễn Minh Châu. Một người
phụ nữ chỉ được gọi tên bằng chính nghề nghiệp của mình - “người đàn bà hàng hàng chài”
không thì được gọi là “mụ”, rồi đến “chị ta”. Người đàn bà vô danh ấy trạc tuổi bốn mươi,
một thân hình quen thuộc của người đàn bà vùng biển, cao lớn với những đường nét thô kệch.
Khuôn mặt khó coi bởi những vết sẹo rỗ do bệnh đậu mùa từ ngày bé để lại không những thế
trên khuôn mặt ấy còn lộ rõ sự mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt và dường
như đang buồn ngủ. Ở chị còn phơi lộ sự nghèo đói, nhếch nhác khi thấy tấm lưng áo bạc
phếch, rách rưới, nửa thân dưới ướt sũng. Có lẽ đây chính là chân dung của con người có một
cuộc đời nhọc nhằn, lam lũ, sinh ra để gánh vác công việc, để chèo chống với phong ba! Chỉ vì
xấu xí nên cơ hội hạnh phúc của chị cũng ít hơn những người khác, mặc dù gia đình khá giả,
có nhà ở trên phố nhưng vì ngoại hình xấu xí nên không nên duyên với ai. Người đàn bà này
lại có mang với một anh con trai nhà hàng chài hay đến nhà mua đồ về đan lưới nên họ đã trở
thành vợ chồng. Trước đây chồng chị từng là một anh con trai “hiền lành nhưng cục tính”
nhưng do gia hoàn cảnh gia đình nghèo khổ và thiếu thốn, nhà đông con lại sống trên một
chiếc thuyền, miếng ăn phụ thuộc vào những ngày trời yên biển lặng có thể ra khơi đánh bắt,
còn những ngày phong ba thì … cả nhà phải ăn xương rồng luộc chấm muối. Đã khiến anh trở
thành một kẻ vũ phu. Chỉ còn biết đánh đập vợ để giải tỏa những bế tắc của cuộc sống, ba
ngày hắn đánh chị một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng, cứ khi nào lão thấy khổ quá lại lôi
vợ ra đánh, trút giận với những lời lẽ cay độc. Người đàn bà chỉ nhẫn nhịn chịu đựng “không
hề kêu một tiếng, không chống trả, không tìm cách chạy trốn”. Đúng, người đàn bà ấy tự lựa
cho mình một số phận lam lũ, cùng cực. Những gì chị đang phải trải qua là những áp lực về
cuộc sống vật chất cũng như áp lực về tinh thần sau những trận đòn roi. Hình ảnh người phụ
nữ lam lũ, có cuộc đời cực nhọc bước ra từ trang sách Nguyễn Minh Châu, để lại trong lòng
chúng ta nhiều nỗi thương xót.
Điều gì đã khiến người phụ nữ ấy làm như vậy? Nhà văn Nguyễn Minh Châu đã đưa ra câu trả
lời thỏa đáng cho chúng ta khi để người đàn bà ấy kể lại câu chuyện cuộc đời của mình nơi tòa
án huyện. Người đọc không thể nào quên những hình ảnh một người phụ nữ miền biển mang
trong mình nỗi đau khổ, sự nhẫn nhục của một cuộc đời lam lũ, vất vả đến cùng cực mà nhưng
lại toát lên vẻ đẹp tiềm ẩn của con người dù sống trong tăm tối khó khăn. Đó là vẻ đẹp của tâm
hồn, phẩm chất của người đàn bà hàng chài. Ẩn sau một số phận nghiệt ngã, những biểu hiện
có phần nhu nhược, yếu đuối lại là một tấm lòng nhân hậu, đức hạnh, phẩm tiết bám sâu trong
tâm hồn, tâm linh con người chị.
Đằng sau vẻ ngoại hình xấu xí, thô kệch lại là tấm lòng vị tha, độ lượng. Chị hiểu rõ vì mưu
sinh, vất vả, cuộc sống ngày một khó khăn, nên đã khiến một anh chàng từ hiền lành, chẳng
khi nào động chân động tay với vợ, nay thành kẻ vũ phu bạo hành. Chị hiểu và thông cảm cho
nỗi khổ u uất trong lòng chồng và chị sẵn sàng chia sẻ nỗi khổ ấy bằng sự chịu đựng những
trận đòn roi kì lạ “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng” cứ liên tiếp ngày qua ngày.
Ấy vậy mà người đàn bà ấy, không một lời kêu than trách oán cũng chẳng chạy trốn, bỏ đi mỗi
khi chồng bạo hành. Trái lại, chị còn tự nguyện lên bờ cho chồng đánh và chịu đựng những
trận đòn như lửa cháy. Không chỉ thấu hiểu, thương xót cho nỗi khổ của chồng, chị luôn luôn
tự cảm thấy mình có lỗi và có suy nghĩ mặc cảm: “giá tôi đẻ ít đi và tôi sắm được cái thuyền
rộng hơn”. Vì cuộc sống của những đứa con, chị thà bị đánh chứ không chịu bỏ chồng. Chị đã
từ chối lời đề nghị giải thoát khỏi lão chồng vũ phu với lí lẽ: “Đàn bà trên thuyền chúng tôi
phải sống cho con chứ không phải sống cho mình như trên đất được”. Nếu nghệ sĩ Phùng nhìn
người đàn ông dưới góc độ lí lịch, thành phần, chánh án Đẩu nhìn người đàn ông dưới góc độ
pháp luật, thằng Phác nhìn người đàn ông dưới con mắt trẻ thơ thì chỉ duy nhất người phụ nữ -
nạn nhân của bạo hành gia đình lại nhìn anh ta dưới con mắt thương cảm bởi chị hiểu lí do vì
sao người chồng lại trở nên độc ác như vậy. Đó là vì cái đói cái nghèo, vì gánh nặng mưu sinh
đã ghì con người ta xuống sát đất, biến đổi cả tâm tính con người. Trong khi mọi người nhìn
người đàn ông như một ác nhân thì người phụ nữ nhìn anh ta như một nạn nhân.
Chị tuy thất học nhưng có cái nhìn sắc sảo, thấu hiểu lẽ đời, thấu tình đạt lí. Chị xuất hiện ở
tòa án huyện trong tâm thế bị động, không tự nguyện và cũng không muốn viết đơn bỏ chồng.
Khi mới bước chân đến tòa án, chị tỏ ra rất lúng túng và sợ sệt, xưng hô lễ phép “con” - “quý
tòa” và nhìn xung quanh với ánh mắt lo sợ. Nhưng khi nghe lời khuyên và hiểu thiện chí của
Đẩu, của Phùng, chị thay đổi thái độ: từ chối lời đề nghị giúp đỡ, đau đớn đánh đổi mọi giá để
không phải bỏ chồng, đưa ra những lí do bằng việc kể lại câu chuyện về cuộc đời mình. Chị
giúp Đẩu và Phùng nhận ra sự thiếu thực tế của họ: “Lòng các chú tốt, nhưng các chú đâu có
phải là người làm ăn…cho nên các chú đâu có hiểu được cái việc của người làm ăn lam lũ, khó
nhọc… Là bởi vì các chú không phải là đàn bà, chưa bao giờ các chú biết như thế nào là nỗi
vất vả của người đàn bà trên một chiếc thuyền không có đàn ông”. Hiểu được rằng Phùng và
Đẩu muốn mình không còn phải chịu những trận đòn roi nữa, nhưng sự sâu sắc và thấu hiểu lẽ
đời của chị đã lí giải cho họ: “Đàn bà hàng chài ở thuyền chúng tôi cần phải có người đàn ông
để chèo chống khi phong ba, để cùng làm ăn nuôi nấng đặng một sắp con nhà nào cũng trên
dưới chục đứa”. Vậy nên nếu bỏ chồng, chị và các con không những mất đi chỗ dựa mà trong
bão to, sóng dữ, thử hỏi nếu không có người đàn ông thì số phận chiếc thuyền ấy sẽ ra sao?
Cuộc sống của người đàn bà hàng chài và những đứa con của chị sẽ ra làm sao? Tất cả những
điều đó cho ta thấy ở người đàn bà hàng chài có sự sắc sảo, hiểu biết, thấu hiểu lẽ đời nhưng
không bộc lộ, hiển hiện ở bên ngoài mà được cất giữ, giấu kín ở bên trong. Đây là người phụ
nữ khiêm nhường, dù biết tất cả nhưng không chọn cách sống cho riêng mình.
Vượt lên trên sự cay đắng và cơ cực ấy, tình mẫu tử của chị tỏa sáng, đó chính là đức hi sinh
cao thượng của thiên chức người mẹ. “Ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con, rồi nuôi con
cho đến khi khôn lớn cho nên phải gánh lấy cái khổ”. Với chị, “gánh lấy cái khổ vì con” là lẽ
đương nhiên. Chị vất vả ngày đêm kéo lưới trên mặt biển đầy sóng gió hay chịu đựng trận đòn
như cơm bữa của chồng là vì con, chị gồng mình để gánh chịu những đòn roi của chồng cũng
bởi những đứa con. Chị hiểu hơn ai hết, một cuộc hôn nhân tan vỡ thì những đứa con luôn là
người gánh chịu nỗi đau nhiều nhất, một gia đình hạnh phúc là gia đình còn có đầy đủ các
thành viên dù đâu đó trong gia đình ấy vẫn còn nhiều khiếm khuyết. Vì thương con và để tránh
sự tổn thương cho con nên người đàn bà xin với chồng “đưa lên bờ mà đánh”. Rồi cũng lo
trước sự phản ứng dữ dội của thằng Phác khi chứng kiến cảnh “bạo lực” đó, sợ nó làm điều gì
dại dột đối với bố nó mà chị đành ngậm ngùi gửi đứa con yêu thương của mình lên rừng ở với
ông ngoại. Hơn nữa người đàn bà còn muốn bảo vệ tâm hồn non trẻ của đứa con trước những
tác động không tốt từ hoàn cảnh. Tình mẫu tử thiêng liêng, cao thượng ấy đã chắp cánh cho
chị đưa đàn con bay vút lên trên sự cơ cực, đói kém, nhọc nhằn, lam lũ. Chị chắt chiu dành
dụm những niềm vui nhỏ nhất: vui nhất là khi nhìn đàn con được ăn no, khi vợ chồng, con cái
sống vui vẻ, hòa thuận. Tấm lòng của người mẹ ấy thật đáng trân trọng biết bao.
Qua những trang viết của Nguyễn Minh Châu, người đàn bà hàng chài là hiện thân của tình
yêu thương, đức hi sinh, sự nhẫn nhục của người phụ nữ. Người đàn bà hàng chài thấp thoáng
bóng dáng của người phụ nữ Việt Nam nhân hậu, bao dung, giàu lòng vị tha và đức hi sinh
“Nhẫn lại nuôi con, suốt đời im lặng
Biết hi sinh nên chẳng nhiều lời” (Tố Hữu)
Bằng biện pháp đối lập giữa hoàn cảnh và tính cách, giữa ngoại hình và tâm hồn, Nguyễn
Minh Châu đi sâu vào thế giới nội tâm phức tạp, đầy mâu thuẫn của con người. Qua người đàn
bà ấy, Nguyễn Minh Châu đã thể hiện sâu sắc giá trị nhân đạo của tác phẩm. Trước tiên,
Nguyễn Minh Châu cho chúng ta nhìn thấy những vấn đề nhức nhối của cuộc sống đương thời.
Bề ngoài của cuộc sống tưởng như bình yên, lặng sóng nhưng ngầm sâu là nạn bạo hành gia
đình, sự nghèo đói, thất học và cả sự tha hóa về nhân cách, … những ngang trái, nghịch lí của
cuộc sống. Chính cuộc đời, số phận của người đàn bà ấy khiến chúng ta nhìn nhận rõ hơn về
cuộc đời, không thể có cái nhìn dễ dãi, đơn giản, một chiều được mà phải có cái nhìn toàn diện,
đa chiều. Đó còn là tiếng nói cảm thông thương xót cho những kiếp người lao động lam lũ vất
vả, một cuộc đời luôn phải chống chọi với sóng gió không lúc nào ngơi nghỉ. Và tâm điểm của
truyện, Nguyễn Minh Châu muốn đề cao và tôn vinh người phụ nữ và khẳng định sức sống
bất diệt của vẻ đep tâm hồn - hạt ngọc ẩn giấu trong tâm hồn.
Khép lại “Chiếc thuyền ngoài xa”, người phụ nữ ấy để lại trong tôi quá nhiều dư âm.
Đó là nỗi khắc khoải về số phận và cuộc đời của một người đàn bà cực khổ, lam lũ, một cuộc
đời thật mỏng manh, xa vời, chấp chới như “chiếc thuyền ngoài xa” không biết đâu là điểm
đến, là bến bờ hạnh phúc. Nhưng cũng chính từ cuộc đời ấy ta thấy được tấm lòng nhân hậu
của một cây bút xuất sắc của văn học Việt Nam hiện đại. Đó không chỉ niềm cảm thương, xót
xa cho số phận con người bị đánh đập, đói nghèo mà còn thể hiện niềm tự hào, trân trọng vì
những vẻ đẹp tâm hồn không gì có thể làm vấy bùn. Tôi tin chắc những trang viết của Nguyễn
Minh Châu dù cho lớp bụi thời gian có phủ kín, giăng đầy như thế nào thì “hạt ngọc” trong đó
vẫn ngời sáng, lấp lánh - một thứ ánh sáng mê hoặc biết bao thế hệ độc giả. ĐỀ4:
Đề bài: Cảm nhận về vẻ đẹp nghệ thuật trong "Chiếc thuyền ngoài xa" của Nguyễn Minh Châu Bài làm:
Trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu, dù có là tiểu thuyết hay truyện ngắn, cốt truyện
thường không đóng một vai trò nào đáng kể. Nhà văn tập trung chú ý vào thân phận con
người, tính cách nhân vật và đã huy động vào đấy tâm hồn đa cảm dồi dào ấn tượng tươi mới
và xúc động về cuộc sống, bút pháp chân thực và một giọng văn trữ tình trầm lắng ấp áp". Có
thể nói Chiếc thuyền ngoài xa là một biểu hiện của xu hướng tìm tòi khám phá trong văn của
Nguyễn Minh Châu, trở về với đời thường, với mảnh đất miền Trung cằn cỗi và cơ cực, đau
đáu đi tìm câu hỏi cho những phận người trong cuộc sống đời thường trăm đắng ngàn cay.
Trên tinh thần quyết liệt đổi mới, Nguyễn Minh Châu đã lấy con người làm đối tượng phản
ánh thay cho hiện thực đời sống. Mặc dù không phủ nhận văn chương gắn với cái chung, với
cộng đồng nhưng Nguyễn Minh Châu còn muốn thể hiện một quan niệm văn chương trước hết
phải là câu chuyện của con người, với muôn mặt phức tạp phong phú với tất cả chiều sâu.
Hiện thực của tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa không phải là bức tranh hoành tráng của mảnh
đất chiến trường xưa A So từng ghi dấu bao chiến công, cũng không phải là những con người
tạc dáng đứng hào hùng của mình vào lịch sử. Nhân vật Phùng trở về với mảnh đất từng chiến
đấu, một người lính năm xưa giờ là phóng viên ảnh trở về ghi lại những vẻ đẹp cuộc sống đời
thường cho bộ ảnh lịch quê hương đất nước, phản ánh cuộc sống lao động khoẻ khoắn tươi rói
của những con người dựng xây đất nước, đi tìm vẻ đẹp bí ẩn của màn sương buổi sáng bổ sung
cho tấm ảnh lịch hoàn chỉnh. Thế nhưng, những gì anh chứng kiến đã khiến anh và những
người bạn của mình nhận ra một sự thật gắn với cuộc sống của những người dân chài lam lũ:
"Cuộc sống cứ lênh đênh khắp cả một vùng phá mênh mông. Cưới xin, sinh con đẻ cái, hoặc
lúc nhắm mắt cũng chỉ trên một chiếc thuyền. Xóm giềng không có. Quê hương bản quán cả
chục cây số trời nước chứ không cố kết vào một khoảnh đất nào". Từ cuộc sống ấy, những bi
kịch tiềm ẩn khiến con người phải ngỡ ngàng. Một câu chuyện đơn giản nhưng đã chứa đựng
những phát hiện mới mẻ hàm chứa quan niệm văn chương hướng về con người của Nguyễn
Minh Châu. Nếu chỉ nghĩ suy một cách xuôi chiều đơn giản, cuộc sống khi có ánh sáng cách
mạng sẽ đổi đời cho số phận người lao động, sẽ xoá tan những bi kịch đè nặng lên kiếp người.
Thế nhưng Nguyễn Minh Châu đã chỉ rõ cho chúng ta : cách mạng không phải giải quyết bi
kịch trong một sớm một chiều, con người vẫn phải đối diện với những bi kịch đời mình, dung
hoà với nó. Cách lý giải về con người của Nguyễn Minh Châu còn ẩn chứa những suy ngẫm về
số phận dân tộc phải trải qua những khổ đau để đối diện với hiện thực bao thách thức.
Người nghệ sĩ nhiếp ảnh đi tìm những vẻ đẹp đích thực của cuộc sống, ngỡ như anh đã phát
hiện ra một khung cảnh thật đáng yêu đáng ca tụng, hướng người xem về cái đẹp có thể làm
quên đi những phiền não cuộc sống: "Qua khuôn hình ánh sáng, tôi đã hình dung thấy trước
những tấm ảnh nghệ thuật của tôi sẽ là vài ba chiếc mũi thuyền và một cảnh đan chéo của
những tấm lưới đọng đầy những giọt nước, mỗi mắt lưới sẽ là một nốt nhạc trong bản hòa tấu
ánh sáng và bóng tối, tượng trưng cho khung cảnh bình minh là một khoảng sáng rực rỡ đến
mức chói mắt, trong khoảng sáng đó sẽ hiện lên trong tầm nhìn thật xa những đường nét của
thân hình một người đàn bà đang cúi lom khom, sải cánh tay thật dài về phía trước kéo tấm
lưới lên khỏi mặt nước, và phía sau lưng người đàn bà, hình một ngư phủ và một đứa trẻ đứng
thẳng trên đầu mũi thuyền, dùng lực toàn thân làm đòn bẩy nâng bổng hai chiếc gọng lưới chĩa
thẳng lên trời." . Và những người dân vùng biển ấy hiện lên thật đáng yêu, đáng ca ngợi: cuộc
sống lao động đầm ấm khoẻ khoắn, những con người gặp gỡ thật đáng yêu. .Tất cả những ấn
tượng ấy sẽ không bị phá vỡ nếu như không có sự xuất hiện của chiếc - thuyền - ngoài - xa.
Người đàn ông xuất hiện cùng với người đàn bà trong khung cảnh nên thơ đã nhanh chóng phá
vỡ đi cảm giác thăng hoa nghệ thuật bằng trận đòn dây lưng quật thẳng tay vào người vợ
không thương xót. Có lẽ khó ai hình dung cảnh tượng ấy lại diễn ra trong bối cảnh cuộc sống
mới, nó hoàn toàn đối lập với điều chúng ta hằng xây dựng cho cuộc sống này "người yêu
người, sống để yêu nhau" (Tố Hữu). Điều bất công diễn ra nhức nhối trước mắt người lính
từng chiến đấu cho sự nghiệp giải phóng đất nước, giải phóng con người đã làm nên một cơn
giận bùng phát. Bản thân anh nghĩ về người đàn ông kia như "gã đàn ông "độc ác và tàn nhẫn
nhất thế gian", còn người phụ nữ xấu xí mặt rỗ kia đích thị là nạn nhân đáng thương nhất của
nạn bạo hành trong gia đình.
Hành động tấn công gã đàn ông khiến cho anh ngộ nhận mình là anh hùng: "Tôi nện hắn bằng
tay không, nhưng cú nào ra cú ấy, không phải bằng bàn tay một anh thợ chụp ảnh mà bằng bàn
tay rắn sắt của một người lính giải phóng đã từng mười năm cầm súng. Tôi đã chiến đấu trong
mấy ngày cuối cùng chiến tranh trên mảnh đất này. Bất luận trong hoàn cảnh nào tôi cũng
không cho phép hắn đánh một người đàn bà, cho dù đó là vợ và tự nguyện rúc vào trong xó bãi
xe tăng kín đáo cho hắn đánh". Nhưng phản ứng của người đàn bà trước ông chánh án đã
khiến anh choáng váng: "Quí tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con
bỏ nó. .". Hoá ra, người cần được thông cảm lại là những quan toà cách mạng có lòng tốt
nhưng "các chú đâu có phải là người làm ăn. . cho nên các chú đâu có hiểu được cái việc của
các người làm ăn lam lũ, khó nhọc". Người đàn bà khốn khổ ấy đã không chối bỏ người đàn
ông đích thực của mình, dù trong lòng đau đớn khi hàng ngày phải chịu những trận đòn, phải
chứng kiến cảnh hai cha con đối xử với nhau như kẻ thù, phải chấp nhận cuộc sống đương đầu
nơi gió bão.Có người đã nhận định: Chiếc thuyền ngoài xa là hình tượng có ý nghĩa biểu
tượng, như vẻ đẹp của một bức tranh toàn bích, nhưng đàng sau hình ảnh thiên nhiên tươi đẹp
là cuộc sống đầy khắc nghiệt, dữ dội và những số phận con người vật vã trong cuộc mưu sinh.
Hoá ra hành trình tìm kiếm hạnh phúc không hề đơn giản : người đàn ông kia dù cục súc
nhưng trên chiếc thuyền phải có lúc có đàn ông, hạnh phúc đơn giản khi cả nhà quây quần
trong bữa ăn trên chiếcthuyền khiến người đàn bà nhẫn nhục chịu đựng tất cả. Hành trình của
gia đình kỳ lạ kia vẫn tiềm ẩn những nguy cơ: đứa con yêu mẹ sẵn sàng đánh nhau với bố, thủ
dao găm tìm dịp trả thù, những trận đòn tàn khốc có thể làm cho người đàn bà kia gục ngã bất
cứ lúc nào. .Thế nhưng trong cuộc sống nghèo khổ, chật vật và ngày ngày phải nuôi đủ cho
mười miệng ăn trên chiếc thuyền ọp ẹp, người đàn bà ấy là hiện thân của một sự hy sinh vô bờ
bến.Tình yêu chồng con được nhìn nhận từ cuộc đời trăm đắng ngàn cay có vẻ đẹp riêng khiến
cho "một cái gì mới vừa vỡ ra trong đầu vị Bao Công của cái phố huyện vùng biển". Sự vỡ lẽ
ấy chính là sự phá vỡ những quan niệm giản đơn về tình yêu, hạnh phúc, về lòng nhân ái, sự
khoan dung. .mang giá trị nhân bản sâu sắc. Những kết hợp ấy trong tác phẩm của Nguyễn
Minh Châu đem đến cái nhìn đa diện về số phận con người.
Nếu như trước kia, trong văn học 1945 - 1975, khi đề cập đến số phận con người thì bao giờ
các nhà văn cũng đề cao vào khả năng con người vượt qua nghịch cảnh và những tác động của
môi trường, của xã hội mới sẽ giúp con người tìm thấy hạnh phúc. Khi diễn tả sự vận động của
tính cách con người, các nhà văn cũng thường nói về sự vận động theo chiều hướng tích cực,
từng bước vượt lên hoàn cảnh, hồi sinh tâm hồn. Cách minh họa tư tưởng ấy không tránh khỏi
có phần giản đơn và phiến diện. Nguyễn minh Châu đã không đi theo con đường mòn đó.
Trong Chiếc thuyền ngoài xa, nhà văn đã nói về những nghịch lý tồn tại như một sự thật hiển
nhiên trong đời sống con người. Bằng thái độ cảm thông và sự hiểu biết sâu sắc về con người,
ông đã cung cấp cho ta cái nhìn toàn diện về cái đẹp cuộc sống, hiểu cả bề mặt lẫn chiều sâu.
Nguyễn Minh Châu đã từng phát biểu: "Văn học và đời sống là những vòng tròn đồng tâm mà
tâm điểm là con người" (Phỏng vấn đầu xuân 1986 của báo Văn nghệ), "Nhà văn tồn tại ở trên
đời có lẽ trước hết là vì thế: để làm công việc giống như kẻ nâng giấc cho những người cùng
đường, tuyệt lộ, bị cái ác hoặc số phận đen đủi dồn con người ta đến chân tường, những con
người cả tâm hồn và thể xác bị hắt hủi và đoạ đầy đến ê chề, hoàn toàn mất hết lòng tin vào
con người vhà cuộc đời để bênh vực cho những con người không có ai để bênh vực" (Ngồi
buồn viết mà chơi). Tư tưởng ấy được thể hiện trong tác phẩm
Chiếc thuyền ngoài xa như một minh chứng cho tấm lòng hướng về con người, khả năng giải
mã những mặt phức tạp của cuộc đời. Bức thông điệp trong tác phẩm về mối quan hệ giữa
nghệ thuật và cuộc sống là nhận thức thấm thía: "cuộc đời vốn dĩ là nơi sản sinh ra cái đẹp của
nghệ thuật nhưng không phải bao giờ cuộc đời cũng là nghệ thuật, và rằng con người ta cần có
một khoảng cách để chiêm ngưỡng vẻ đẹp của nghệ thuật nhưng nếu muốn khám phá những bí
ẩn bên trong thân phận con người và cuộc đời thì phải tiếp cận với cuộc đời, đi vào bên trong
cuộc đời và sống cùng cuộc đời."(Lê Ngọc Chương- Chiếc thuyền ngoài xa, một ẩn dụ nghệ
thuật của Nguyễn Minh Châu). Kết thúc tác phẩm, người nghệ sĩ đã hoàn thành kiệt tác của
mình đem đến cho công chúng những cảm nhận về vẻ đẹp tuyệt mỹ của tạo hoá, thế nhưng
mấy ai biết được sự thật nằm sau vẻ đẹp tuyệt vời kia? Phần kết của tác phẩm để lại nhiều suy
ngẫm: "Quái lạ, tuy là ảnh đen trắng nhưng mỗi lần ngắm kỹ, tôi vẫn thấy hiện lên cái màu
hồng hồng của ánh sương mai lúc bấy giờ tôi nhìn thấy từ bãi xe tăng hỏng, và nếu nhìn lâu
hơn, bao giờ tôi cũng thấy người đàn bà ấy đang bước ra khỏi tấm ảnh, đó là một người đàn bà
vùng biển cao lớn với những đường nét thô kệch tấm lưng áo bạc phếch có miếng vá, nửa thân
dưới ướt sũng khuôn mặt rỗ đã nhợt trắng vì kéo lưới suốt đêm. Mụ bước những bước chậm
rãi, bàn chân dậm trên mặt đất chắc chắn, hòa lẫn trong đám đông."
Cuộc sống vốn vậy, vẫn đẹp tươi, vẫn êm ả, nhưng nếu không có tấm lòng để nhận ra những
uẩn khúc số phận thì những vẻ đẹp như màu hồng hồng của ánh sương mai kia cũng trở nên vô
nghĩa, người nghệ sĩ phải nhận ra sự thật ẩn khuất sau màn sương huyền ảo kia, phải tiếp cận
sự thật để nhận ra ý nghĩa đích thực của cuộc sống và con người.
ĐỀ 5: Đề bài: Phân tích tình huống truyện của truyện ngắn "Chiếc thuyền ngoài xa" BÀI LÀM:
Nam Cao đã từng có một quan điểm nghệ thuật rất hay và sâu sắc rằng: “Chao ôi! Nghệ thuật
không cần phải là ánh trăng lừa dối, cũng không nên là ánh trăng lừa dối mà nghệ thuật chỉ có
thể là những tiếng đau khổ kia thoát ra từ những kiếp lầm than. Và nhà văn không được trốn
tránh sự thật mà phải đứng trong lao khổ mở hồn ra để đón lấy những tiếng vang động của
đời”. Quan điểm ấy của nhà văn Nam Cao đã cho chúng ta những cảm nhận sâu sắc về mối
quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc đời, mà có thể tổng kết bằng mấy chữ ngắn gọn - “nghệ thuật
vị nhân sinh”. Cùng với quan điểm ấy, nhà văn Nguyễn Minh Châu trong các sáng tác của
mình đã thể hiện rất rõ lập trường của bản thân khi liên tục tạo ra các tác phẩm làm rõ khởi
nguồn của nghệ thuật thông qua số phận có phần bất hạnh của các nhân vật. Trong tác phẩm
Chiếc thuyền ngoài xa, mối quan hệ giữa nghệ thuật mà cuộc đời cũng như giá trị nhân văn
của tác phẩm đều xuất phát từ tình huống truyện đặc sắc, được tác giả xây dựng vô cùng ấn tượng.
Tình huống truyện có thể hiểu là hoàn cảnh, bối cảnh của một câu chuyện mà trong đó có một
hoặc một vài sự kiện đặc biệt xảy ra, mà theo như Nguyễn Minh Châu đó là “tình thế của câu
chuyện, là khoảnh khắc mà trong đó sự sống hiện ra rất đậm đặc”. Và chính tình huống truyện
đã trở thành chìa khóa then chốt, là điểm tựa để tác giả dễ dàng làm nổi bật cuộc sống cũng
như cá tính của toàn nhân vật, đồng thời cũng là cách để tác giả bộc lộ những tư tưởng, những
suy nghĩ của của mình. Và trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa tình huống truyện ở đây là
một tình huống mang tính nhận thức thông qua hai bức tranh, một là bức tranh ở bãi biển sáng
sớm và bức tranh thứ hai chính là bức tranh ở tòa án của huyện. Điểm chung là chúng đều
chứa đựng những nghịch lý bất ngờ, từ đó để lại cho nhiếp ảnh Phùng, cũng như độc giả
những nhận thức mới mẻ về mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống.
Tình huống truyện đầu tiên diễn ra trên bãi biển, bắt đầu với chuyện nhiếp ảnh gia Phùng được
giao nhiệm vụ chụp lấy một bức ảnh đẹp về cảnh biển buổi sáng sương mù để in làm bộ lịch
nghệ thuật. Với tâm thế của một nhà nghệ thuật chân chính khao khát cái đẹp, Phùng đã mai
phục ở bãi biển này đến cả chục ngày, tuy nhiên vẫn chưa chụp được bức nào thật sự đáng giá.
Trong khi người nghệ sĩ quyết định chọn một bức ảnh trong số ảnh đã chụp được làm kết quả
báo báo, thì bất ngờ anh lại gặp được một cảnh “đắt” trời cho, cảnh mà suốt đời cầm máy
Phùng chưa bao giờ thấy được mà người nghệ sĩ đã xuýt xoa ví như “một bức tranh mực tàu
của một danh họa thời cổ”. Hình ảnh chiếc thuyền lưới vó dưới ánh bình minh mờ ảo, với
những gam màu hồng hồng của ánh nắng bình minh tạo nên một “vẻ đẹp thực đơn giản và toàn
bích”, mà đứng trước cảnh tượng ấy người nghệ sĩ thấy trái tim mình thắt lại, bối rối, rồi đưa
máy lên chụp “liên thanh” hết cả một phần tư cuốn phim. Thậm chí người nghệ sĩ đã nhận
định rằng bản thân đã “khám phá ra chân lý của sự toàn thiện, khám phá ra khoảnh khắc trong
ngần của tâm hồn”. Đây có thể nói là sự phát hiện của một người nghệ sĩ chân chính, người có
thể hiểu, khám phá và chỉ cần lướt qua cũng đã có thể nắm bắt được cái thần của bức tranh,
nắm bắt được linh hồn của sự vật. Và cũng từ tình huống truyện thông qua phát hiện thứ nhất
của nghệ sĩ Phùng, nhà văn Nguyễn Minh Châu đã khéo léo bộc lộ quan điểm của mình về cái
đẹp “bản thân cái đẹp là đạo đức”. Thế nhưng đối lập hoàn toàn với cái cảnh “đắt” trời cho,
với bức tranh toàn thiện, toàn mỹ, thì bước xuống từ chính con thuyền ấy lại là hai con người
đọng lại như một nỗi ám ảnh, trên con thuyền đó cũng có những mảnh đời bất hạnh, những nỗi
khốn khổ của một gia đình làng chài lênh đênh trên sóng biển ẩn dưới cái vẻ đẹp thơ mộng đến
không thực trong mắt người nghệ sĩ. Tiếng thét của người đàn ông dường như đã xé tan cái
bức họa toàn bích “Cứ ngồi nguyên đấy. Động đậy tao giết cả mày đi bây giờ”. Bóng người
hiện rõ hơn, đó là một người đàn bà xấu xí, thô kệch, mặt đầy rỗ, trông mệt mỏi sau một đêm
dài thức kéo lưới, người đàn ông đi sau mái tóc tổ quạ, chân đi hình chữ bát, ánh mắt độc dữ
nhìn chằm chằm vào tấm lưng người đàn bà. Rồi một cuộc bạo hành gia đình diễn ra ngay
trước mắt Phùng, gã đàn ông rút thắt lưng quất liên tiếp vào vợ, miệng rít lên những tiếng căm
hận “Mày chết đi cho ông nhờ. Chúng mày chết hết đi cho ông nhờ”, những tưởng chỉ có kẻ
thù mới đối với nhau như thế chứ không phải là một cặp vợ chồng. Người đàn bà im lặng,
nhẫn nhục chịu đựng, không chống trả cũng không chạy trốn. Tất cả những sự việc kinh hoàng
ấy diễn ra nhanh quá, khiến Phùng chưa thể phản ứng lại được, bởi chỉ mới 5, 10 phút trước nó
còn là một cảnh “đắt” trời cho, còn bây giờ lại là một cảnh khủng khiếp, Phùng không thể hiểu
nổi những gì đang xảy ra trước mắt. Chỉ kịp vứt máy ảnh chạy đến ngăn cản, rồi anh chàng lại
chứng kiến tiếp cảnh đứa con trai vì thương mẹ mà đánh lại cả bố, nó lại căm thù bố như kẻ
thù, như ác quỷ. Cuối cùng những con người ấy rời đi chỉ để lại một bãi cát mênh mông và
hoang vắng, không còn bóng dáng của một cảnh “đắt” trời cho mà người nghệ sĩ chộp được
ban nãy. Như vậy tổng kết lại tình huống truyện trên bãi biển mở ra bằng một bức họa tuyệt
diệu, toàn bích, sau đó bị phá vỡ bởi cảnh tượng gia đình tan hoang, thù ghét lẫn nhau cũng
bởi chính những con người bước xuống từ chiếc thuyền trong sương sớm. Và cái phát hiện
tưởng như trong sáng, tổng hợp vẻ đẹp chân thiện mỹ ấy hóa ra lại ẩn chứa những điều ghê gớm và đáng sợ.
Tình huống truyện thứ hai diễn ra trong tòa án huyện, trước những nhận thức của mình về gia
đình của người đàn bà làng chài, Phùng và Đẩu (chánh án của toà án huyện) đã có ý muốn
giúp chị ly hôn. Thế nhưng trái với những mong đợi về việc người phụ nữ này có thể thoát
khỏi cảnh bạo hành, thì chị lại khăng khăng không muốn ly hôn: “Con lạy quý tòa, quý tòa bắt
tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó,. .”. Phản ứng ấy của người đàn
bà làng chài khiến cả Phùng và Đẩu vô cùng khó hiểu, gian phòng trở nên ngột ngạt và khó
chịu vô cùng. Cũng từ đây Phùng bắt đầu nhận thức được nỗi lòng của người đàn bà, hóa ra
chị cam chịu nhẫn nhục từng ấy năm, rốt cuộc cũng chỉ vì một chục đứa con đang chờ ăn trên
chiếc thuyền của hai vợ chồng chị. Qua lời lý giải của người đàn bà, Đẩu cũng hiểu ra rằng
mình không hiểu nỗi khốn khổ của một người đàn bà, đặc biệt lại là người đàn bà làm nghề
chài lưới mà không có người đàn ông chèo chống những ngày mưa bão, trở trời. Mình bản
thân chị không thể nào gồng gánh nuôi nấng từng ấy đứa con mà không có chồng, những nỗi
vất vả ấy cả Phùng và Đẩu sẽ chẳng bao giờ hiểu được bởi họ không phải là chị, không phải là
một người đàn bà có số kiếp bất hạnh và chịu đựng hy sinh vì con cái. Và trong cuộc đời khổ
cực của người đàn bà làng chài cũng có những lúc chị cảm thấy hạnh phúc khi được nhìn thấy
các con ăn no, chỉ bấy nhiêu đấy thôi cũng đáng để cho chỉ đánh đổi bằng những trận đòn, sự
nhẫn nhục, chịu đựng chung sống với gã chồng vũ phu. Ngay lúc này đây trong đầu Phùng và
Đẩu mới vỡ ra một lẽ rằng cái có lý nó tồn tại ngay trong nghịch lý của cuộc sống, sự cố chấp
không ly hôn của người đàn bà nếu chỉ nhìn từ vị trí khách quan của hai người thì đó là nghịch
lý đến khó hiểu, thế nhưng đứng vào vị trí của người phụ nữ đó thì nó lại trở nên có lý. Rốt
cuộc phụ nữ hy sinh, chịu đựng cũng chỉ vì con cái, vì muốn con được ăn no, được lớn lên, và
được có một gia đình đầy đủ cả cha lẫn mẹ. Không chỉ vậy xét từ vị trí của người đàn bà làng
chài, thì sự vũ phu của chồng cũng chỉ vì khổ quá, chị hiểu chồng và bênh vực chồng, người
đã có ơn với chị, và chị trân trọng gia đình, mái ấm của mình, không muốn nó sự xáo trộn nào cả.
Như vậy thông qua hai tình huống truyện ở bờ phá và ở tòa án huyện, tác giả Nguyễn Minh
Châu đã cho chúng ta những nhận thức rõ nét hơn về cách nhìn nhận cuộc đời và con người.
Chúng ta không thể chỉ nhìn nhận sự vật một cách phiến diện, mà phải có cái nhìn đa diện
nhiều chiều, không thể chỉ muốn thu lấy một vẻ đẹp tĩnh mà bỏ qua sự tồn tại của con người,
cũng không thể vì tôn thờ nghệ thuật tuyệt đối mà bỏ qua những sự thật, những éo le bất công
đang tồn tại đằng sau nó, mà khi làm nghệ thuật quan trọng nhất người nghệ sĩ phải đi sâu vào
cuộc đời để thấm thía, để cảm nhận vẻ đẹp thật sự không ở đâu xa trong chính tâm hồn của
con người. Bởi nghệ thuật thì xa nhưng cuộc đời thì gần. Đồng thời tình huống truyện cũng
cho chúng ta những cảm nhận rõ ràng hơn về vẻ đẹp tâm hồn của người đàn bà làng chài.
ĐỀ 6 NHỮNG PHÁT HIỆN CỦA NGHỆ SĨ PHÙNG KHI ĐỨNG TRƯỚC BIỂN LÚC
BÌNH MINH TRONG BÀI "CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA" CỦA NGUYỄN MINH CHÂU Bài viết:
Nguyễn Minh Châu là nhà văn tiêu biểu của văn học Việt Nam thời chống Mĩ, cũng là “người
mở đường tinh anh và tài năng” (Nguyên Ngọc) cho công cuộc đổi mới văn học từ sau 1975.
Ở giai đoạn trước, ngòi bút của ông theo khuynh hướng sử thi, đậm tính chiến đấu và thiên
hướng trữ tình lãng mạn, thời kì sau chuyển sang cảm hứng thế sự cùng những vấn đề triết lí
nhân sinh. “Chiếc thuyền ngoài xa” là truyện ngắn xuất sắc của Nguyễn Minh Châu trong thời
kì sau. Tác phẩm kể về chuyến đi thực tế của nghệ sỹ nhiếp ảnh Phùng, qua đó thể hiện cái
nhìn sâu sắc của tác giả về vấn đề nghệ thuật và cuộc sống. Những phát hiện của nghệ sỹ nhiếp
ảnh Phùng làm nổi bật tư tưởng của nhà văn.
Theo yêu cầu của trưởng phòng, nghệ sỹ nhiếp ảnh Phùng tìm đến vùng ven biển miền Trung
(Trung trung bộ), nơi vốn là chiến trường cũ của anh, để chụp những tấm ảnh phục vụ cho chủ
đề thuyền và biển của bộ lịch năm sau. Về lại mảnh đất một thời gắn bó trong cuộc sống đời
thường, người nghệ sỹ đi tìm vẻ đẹp bí ẩn của cuộc sống của người dân làng chài. Sau bao
ngày săn ảnh, Phùng đã chớp được một cảnh kì diệu về chiếc thuyền ngoài xa đang thu lưới
trong biển sớm mờ sương: ” mũi thuyền in một nét mơ hồ, lòe nhòe vào bầu sương mù trắng
như sữa…đang hướng mặt vào bờ”. Với Phùng đây là khoảnh khắc kì diệu trong đời cầm máy
của mình. Bởi từ khung cảnh sông nước đến con người ngư phủ, từ đường nét, màu sắc, ánh
sáng tất cả đều hài hòa tuyệt đẹp. Trong con mắt Phùng, cảnh tượng đó giống như một bức
tranh mực tàu của một danh họa thời cổ.
Đứng trước một bức tranh tuyệt tác của hóa công, người nghệ sĩ nhiếp ảnh trở nên “bối rối”,
“trong trái tim như có cái gì bóp thắt vào”. Điều đó cho thấy vẻ đẹp của chiếc thuyền ngoài xa
đã tác động mãnh liệt đến tâm hồn của người nghệ sĩ khơi dậy những cảm xúc thăng hoa kì
diệu. Trong khoảnh khắc đó, Phùng cảm giác đã khám phá ra được cái chân lí của sự hoàn
thiện, khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn khiến cho Phùng nghĩ đến lời đúc kết của ai đó
“bản thân cái đẹp chính là đạo đức”.
Qua phát hiện thứ nhất của nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng về cái đẹp toàn bích, nhà văn Nguyễn
Minh Châu không chỉ khám phá được phần nào hiện thực cuộc sống sau chiến tranh cũng như
hành trình săn tìm nghệ thuật của người nghệ sĩ mà còn cho chúng ta thấy những chân lí cuộc
đời. Đằng sau cái đẹp của thiên nhiên, của nghệ thuật là vẻ đẹp của tâm hồn, của con người.
Bức họa kia càng thêm sống động thực sự có linh hồn khi con người là chủ thể của bức tranh
lại là những con người bình dị vùng ven biển miền Trung. Hình ảnh chiếc thuyền ngoài xa tác
động mãnh liệt đến tâm hồn Phùng, điều này chứng tỏ tâm hồn của người nghệ sĩ rất dễ nhạy
cảm, tinh tế trước cái đẹp của thiên nhiên con người. Đồng thời qua phát hiện thứ nhất này nhà
văn muốn khẳng định, những tác phẩm nghệ thuật vô giá không phải tự nhiên mà có, nó là sản
phẩm của một hành trình đi tìm cái đẹp, quá trình lao động miệt mài của người nghệ sĩ chân
chính. Khi bắt gặp cảnh đẹp người nghệ sĩ thấy tâm hồn mình trong sáng vô ngần, từ đây nhà
văn muốn nhấn mạnh khả năng nhân đạo hóa con người của nghệ thuật chân chính: cái đẹp có
tác dụng thanh lọc tâm hồn con người. Nói như Đốt-tôi-ép-xki:”cái đẹp cứu vớt con người”.
Còn nhà văn Thạch Lam khẳng định: “văn chương là thứ khí giới thanh cao và đắc lực mà
chúng ta có thể vừa tố cáo, thay đổi thế giới giả dối, tàn ác, vừa làm cho lòng người thêm trong sạch và phong phú hơn.
Phát hiện thứ hai của Phùng là cảnh mà Phùng nhìn thấy khi chiếc thuyền tiến thẳng vào.
Phùng nhìn thấy bước ra từ chiếc thuyền ngư phủ đẹp như mơ kia là một người đàn bà xấu xí,
mệt mỏi, là đứa con muốn bảo vệ mẹ lao vào bố một cách bản năng. Nó bị cha cho cái bạt tai
ngã dúi mặt xuống cát. Toàn cảnh đời ngang trái, sự thật phũ phàng.
Chứng kiến cảnh tượng đó người nghệ sĩ kinh ngạc đến sững sờ, anh như chết lặng bởi vì
không thể ngờ rằng đằng sau cái vẻ đẹp kì diệu của tạo hóa kia là cái ác, cái xấu đến không thể
tin được. Vừa mới đây thôi anh đã từng chiêm nghiệm: “bản thân cái đẹp chính là đạo đức”.
Thế mà cảnh tượng cuộc sống của người dân làng chài chẳng phải là đạo đức. Nghệ sĩ Phùng
là người lính từng cầm súng bảo vệ cuộc sống con người cho nên trước cảnh đó anh thấy bất
bình, thấy người đàn ông thật độc ác, tàn nhẫn. Khung cảnh nên thơ về chiếc thuyền ngoài xa
đã nhanh chóng tan vỡ, thay cho cảm xúc thăng hoa chỉ còn lại đau đớn xót xa.
Qua phát hiện thứ hai này Nguyễn Minh Châu cho chúng ta thấy đằng sau bức tranh thuyền và
biển tuyệt diệu là cuộc đời đầy khắc nghiệt với những mảnh đời tội nghiệp. Nhà văn muốn thể
hiện cái đẹp của nghệ thuật dễ nắm bắt hơn cái đẹp của cuộc sống. Vì cái đẹp của cuộc sống
cần có thêm hạnh phúc và tình thương. Và đôi cánh khi cái đẹp của ngoại cảnh làm khuất lấp
cái xấu tồn tại ở đời sống. Cuộc đời không đơn giản xuôi chiều mà chứa đựng nhiều nghịch lí
với những mảng sáng tối, xấu đẹp, thiện ác, thật giả… Quan trọng là chúng ta đừng nhầm lẫn
giữa hình thức bên ngoài và bản chất bên trong, chúng ta phải có cái nhìn đa diện, đa chiều về
cuộc sống. Nghệ thuật vốn nảy sinh từ cuộc đời nhưng cuộc đời không phải bao giờ lúc nào
cũng đẹp như nghệ thuật.
Phát hiện thứ ba của nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng là ở tòa án huyện. Với tấm lòng nhân hậu và sự
bất bình trước cái ác, cả Phùng và Đẩu đều hy vọng góp phần giải thoát cho người đàn bà hàng
chài khỏi người chồng vũ phu, tàn nhẫn. Họ hoàn toàn tin vào thiện chí nhưng họ đã kinh ngạc
trước một hiện thực chớ trêu: người đàn bà đau khổ ấy không muốn bỏ người chồng tàn nhẫn.
Con người bị cầm tù bởi đói nghèo tăm tối và bạo lực ấy lại tuyệt đối không muốn giải thoát,
thậm chí chị còn van xin: “Quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó”
Trước thái độ và hành động của người đàn bà hàng chài Phùng cảm thấy “căn phòng ngủ lồng
lộng gió biển của Đẩu tự nhiên bị hút hết không khí, trở nên ngột ngạt quá”, đó là cảm giác
chân thực của người lính có trái tim nồng hậu không chấp nhận nổi sự bất công mong giành lại
từng quyền sống cho con người. Bất bình trước sự cam chịu nhẫn nhục tới khó hiểu của những
con người khốn khổ. Hiện thực với những mâu thuẫn éo le qua câu chuyện của người đàn bà
thất học quê mùa nhưng sâu sắc từng trải đã khiến Đẩu và Phùng trở thành những người nông
cạn, lòng tốt của các anh trở thành những lý thuyết đẹp đẽ nhưng phi thực tế.
Qua phát hiện thứ ba này, nhà văn muốn gửi gắm ba thông điệp đến người đọc. Cái xấu cũng
có thể làm cái đẹp bị khuất lấp (tìm hiểu sâu gia đình hàng chài Phùng lại thấy cuộc sống nhức
nhối ấy làm khuất lấp nhiều nét đẹp của không ít những thành viên trong gia đình). Nhà văn
không chấp nhận cái nhìn hời hợt bên ngoài, càng không chấp nhận kiểu người đứng ngoài
cuộc, đứng trên cao để phán xét. Và thông điệp thứ ba là: muốn giải quyết những vấn đề của
cuộc sống không chỉ dựa vào những thiện chí, pháp luật bằng những lí thuyết đẹp đẽ mà xa rời
thực tiến, ngược lại phải có những biện pháp thiết thực mang tính toàn xã hội mới có thể giải
phóng tận gốc những vấn đề tồn tại trong cuộc sống.
Những phát hiện của nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng rất độc đấo, qua đó truyền tải những bức thông
điệp của nhà văn. Nhà văn Nguyễn Minh Châu từng phát biểu:”Sáng tác văn học là quá trình
đi tìm hạt ngọc ẩn sâu bên trong tâm hồn người”. Thông điệp phát đi từ hình tượng “Chiếc
thuyền ngoài xa” qua những phát hiện của nghệ sĩ Phùng là sự bổ sung hết sức thuyết phục cho thông điệp đó.
Document Outline
- PHÂN TÍCH TÁC PHẨM “CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA” (NGUYỄN
- ĐỀ 2: HAI PHÁT HIỆN CỦA NHIẾP ẢNH GIA PHÙNG
- ĐỀ4:
- ĐỀ 6 NHỮNG PHÁT HIỆN CỦA NGHỆ SĨ PHÙNG KHI ĐỨNG TR