





Preview text:
Chủ nghĩa cá nhân là gì? Chủ nghĩa cá nhân
trong chính trị và kinh tế?
1. Chủ nghĩa cá nhân là gì?
Chủ nghĩa cá nhân hay còn gọi là cá nhân chủ nghĩa, chủ nghĩa cá thể là
một thuật ngữ được sử dụng để mô tả một cách nhìn nhận trên phương diện
xã hội, chính trị hoặc đạo đức trong đó nhấn mạnh đến lợi ích của mỗi cá
nhân, sự độc lập của con người và tầm quan trọng của tự do và tự lực của
mỗi cá nhân. Những người theo chủ nghĩa cá nhân chủ trương không hạn
chế mục đích và ham muốn cá nhân. Họ phản đối sự can thiệp từ bên ngoài
lên sự lựa chọn của cá nhân - cho dù sự can thiệp đó là của xã hội, nhà nước,
hoặc bất kỳ một nhóm hay một thể chế nào khác. Chủ nghĩa cá nhân do vậy
đối lập với chủ nghĩa toàn luận, chủ nghĩa tập thể, chủ nghĩa cộng đồng,
và chủ nghĩa công xã, tức là đối lập với những chủ thuyết nhấn mạnh đến
việc công xã, nhóm, xã hội, chủng tộc, hoặc các mục đích quốc gia cần được
đặt ưu tiên cao hơn các mục đích của cá nhân. Chủ nghĩa cá nhân cũng đối
lập với quan điểm truyền thống, tôn giáo, tức đối lập với bất cứ quan niệm
nào cho rằng cần sử dụng các chuẩn mực đạo đức hay luân lý ở bên ngoài,
khách thể, để hạn chế sự lựa chọn hành động của cá nhân.
Chủ nghĩa cá nhân có mối quan hệ phức tạp với chủ nghĩa vị kỷ (hiểu đơn
giản là ích kỷ). Mặc dù một số nhà cá nhân chủ nghĩa cũng là những người vị
kỷ, các nhà cá nhân chủ nghĩa thường không tranh luận rằng ích kỷ về bản
chất là tốt vốn có ngay từ khi sinh ra. Thay vào đó, họ tranh luận rằng các cá
nhân không có trách nhiệm ràng buộc nào đối với các áp đặt của xã hội (đạo
đức); họ quan niệm rằng các cá nhân cần được tự do lựa chọn theo đuổi
cách sống ích kỷ cũng như bất kỳ cách sống nào khác phù hợp với mong
muốn của họ. Một số các nhà các nhân chủ nghĩa khác lại tranh luận rằng vị
kỷ là "tính tương đối của đạo đức" và mô tả tính ích kỷ là một bản chất tốt.
2. Chủ nghĩa cá nhân trong chính trị
Trong triết học chính trị, học thuyết cá nhân về nhà nước quan niệm rằng nhà
nước cần giữa vai trò bảo vệ sự tự do hành động của mỗi cá nhân theo đúng
mong muốn của cá nhân đó chừng nào mà sự tự do đó không động chạm
đến sự tự do của các cá nhân khác. Điều này đối lập với các học thuyết tập
thể về chính trị, mà theo các học thuyết này thay vì để cá nhân theo đuổi mục
đích của bản thân họ thì nhà nước đảm bảo cá nhân phục vụ cho quyền lợi
chung của xã hội. Thuật ngữ cũng được sử dụng để mô tả "sự sáng tạo của
cá nhân" và "sự tự do của cá nhân" nói chung, có lẽ được mô tả tốt nhất bằng
một từ tiếng Pháp là "laissez faire," nguyên nghĩa là một động từ hàm ý "để
[người dân] làm" [đối với những người bản thân họ biết cách làm].
Trên thực tế, các nhà cá nhân chủ nghĩa chủ yếu quan tâm tới việc bảo vệ sự
tự trị của mỗi cá nhân trước những ràng buộc của các thể chế xã hội (như
nhà nước) áp đặt lên. Nhiều nhà cá nhân chủ nghĩa đặc biệt chú ý đến việc
bảo vệ sự tự do của thiểu số trước mong muốn của đa số và xem cá nhân là
một thiểu số nhỏ nhất. Ví dụ, các nhà cá nhân chủ nghĩa phản đối các hệ
thống dân chủ trừ phi có các bảo đảm hiến pháp bảo vệ sự tự do của cá nhân
khỏi bị loại bỏ bởi quyền lợi của đa số. Các quan điểm này mở rộng sang cả
lĩnh vực tự do về kinh tế và dân sự. Một mối lo ngại chung điển hình của các
nhà cá nhân chủ nghĩa là sự tập trung các doanh nghiệp công nghiệp và
thương mại trong tay nhà nước hay chính quyền thành phố. Cơ sở của việc
phản đối này là: một, các đại diện do dân bầu không có đủ trình độ, hay
không có đủ trách nhiệm cần thiết để quản lý các doanh nghiệp đòi hỏi rất
nhiều tháo vát, và cũng còn phải tốn khống ít tiền công trong quản lý hành
chính; hai, tình trạng "sức khỏe của nhà nước" phụ thuộc vào việc sự cố
gắng của mỗi cá nhân để thực hiện lợi ích riêng của họ (những cá nhân cũng
giống như "tế bào" là nơi chứa sự sống của cơ thể). Chủ nghĩa cá nhân có
thể có cách tiếp cận cực đoan như chủ nghĩa vô chính phủ cá nhân.
Đối với một số nhà cá nhân chủ nghĩa chính trị, những người có quan điểm
được gọi là chủ nghĩa cá nhân phương pháp, thuật ngữ "xã hội" có thể không
bao giờ có một ý nghĩa nào khác ngoài nghĩa là tập hợp rất lớn của các cá
nhân. Xã hội không bao giờ tồn tại bên ngoài hay ở trên cá nhân, và do vậy
không thể được phép tiến hành bất cứ hành động nào vì hành động cần có
chủ ý mà chủ ý cần có chủ thể và toàn thể xã hội không phải là một chủ thể;
chỉ có cá nhân mới là chủ thể. Cũng quan điểm như vậy nhưng với nhà nước,
họ quan niệm nhà nước là tập hợp của các cá nhân. Mặc dù các nhà nước
dân chủ được bầu bởi phổ thông đầu phiếu, sự thật vẫn là tất cả các hoạt
động của nhà nước vẫn được tiến hành như là phương tiện có chủ ý và là
hành động của một số cá nhân. Nói thẳng ra là nhà nước không hề hành
động. Ví dụ, đôi khi "chúng ta" cần phải ra quyết định ban hành một chính
sách nào đó, và đôi khi việc vận hành chính sách này cũng tức là thực thể gọi
là "xã hội" ủng hội chính sách đó và do vậy chính sách đó được xem là hợp lẽ.
Các nhà cá nhân chủ nghĩa phương pháp chỉ ra rằng "chúng ta" thực ra
không ban hành hay tiến hành chính sách nào cả; trong số những người đi
bầu, một nhóm bầu ủng hộ chính sách, tất cả những người này thực ra là cá
nhân, và một nhóm khác bầu chống lại. Quyết định được ban hành không
phải bởi "nhân dân", hoặc "nhà nước"; mà chỉ bởi những người thắng trong
cuộc bầu. Điều này là rất quan trọng vì trong bất cứ một quyết định tập thể
nào đều tồn tại các cá nhân phản đối chính sách và do vậy mà nguyện vọng
của họ bị phủ quyết hay nói cách khác việc sử dụng từ "chúng ta" xem ra đã
bỏ qua sự thật này. Các nhà cá nhân chủ nghĩa muốn nhấn mạnh tầm quan
trọng của cá nhân và tránh nhập các quyết định cá nhân này thành cái gọi là
tập thể. Vì những lý do này, các nhà cá nhân chủ nghĩa phương pháp không
đồng ý với lập luận như "chúng ta xứng đáng với nhà nước mà chúng ta có vì
chúng ta đang phục vụ chính chúng ta", vì lẽ các nhà cá nhân chủ nghĩa và
có thể cả nhiều người khác nữa không đồng ý với các hành động mà các cá
nhân đang nắm quyền lực nhà nước đưa ra. Tuy vậy nhiều cá nhân có thể đã
quen dùng từ "chúng ta" để chỉ nhà nước hoặc xã hội vì lý do dùng đã quen
cũng không sao nếu nhớ rằng những thực thể này gồm tập hợp các cá nhân.
3. Chủ nghĩa cá nhân và xã hội
Khế ước xã hội của Jean-Jacques Rousseau cho rằng mỗi cá nhân hàm
chứa một khế ước giao nộp ý chí nguyện vọng của bản thân cho cái gọi là "ý
chí nguyện vọng chung của quần chúng". Quan điểm ủng hộ việc xem ý chí
nguyện vọng của cá nhân thấp hơn ý chí nguyện vọng tập thể này về cơ bản
là đối lập với triết học cá nhân chủ nghĩa. Một cá nhân tham gia xã hội để mở
rộng hơn nữa quyền lợi của mình hay chí ít cũng để đòi hỏi quyền phục vụ
cho quyền lợi của mình, mà không quan tâm đến quyền lợi của xã hội (ngay
cả khi nhà cá nhân chủ nghĩa không phải là nhà vị kỷ). Người cá nhân chủ
nghĩa không tin vào bất cứ một học thuyết triết học nào nếu những học thuyết
này đòi hỏi họ phải hy sinh quyền lợi của cá nhân họ vì những nguyên nhân
xã hội nào đó cao cả hơn. Rousseau có thể sẽ lập luận, dĩ nhiên, rằng quan
niệm của ông về "ý chí chung" không phải là một tập hợp giản đơn của các ý
chí cá nhân và chính xác ra thì sẽ mở rộng quyền lợi của các cá nhân (ràng
buộc của bản thân luật pháp sẽ làm lợi cho cá nhân, vì nếu thiếu sự tôn trọng
pháp luật thì theo quan điểm của Rousseau, sẽ xuất hiện một dạng không
biết và lệ thuộc vào dục vọng của một cá nhân thay vì là vào lý trí độc lập).
Xã hội và các nhóm có thể khác nhau, trong chừng mực mà xã hội hay các
nhóm dựa trên những "bản thể" (cá nhân, và có thể hiểu, còn tranh cãi, là cả
quyền lợi của cá nhân) thay vì là những hành vi có tính "thực thể khác" (có
định hướng nhóm, hay của nhóm, của xã hội). Còn có sự phân biệt, liên quan
đến ngữ cảnh này, giữa xã hội "phường hội" (như thời Trung cổ châu Âu) với
"chuẩn mực có liên kết nội tại", và các xã hội "hổ thẹn" (như ở Nhật Bản khi
"mang lại sự hổ thẹn cho tổ tiên của ai đó") với "chuẩn mực có liên kết bên
ngoài", khi người ta xem phản hồi của người khác lên hành động của mình
xem có "chấp nhận được" hay không (còn gọi là "ý nghĩ của cả nhóm").
Phạm vi mà xã hội, hoặc các nhóm là "cá nhân" có thể thay đổi theo thời gian
và giữa các quốc gia. Ví dụ, xã hội Nhật Bản có tính định hướng nhóm hơn
(ví dụ như các quyết định thường do đồng thuận cả nhóm thay vì là bởi các
cá nhân), và có lập luận rằng "tính cá nhân ít phát triển" (so với phương Tây).
Ở Mỹ thì có suy nghĩ thông thường rằng là con người là điểm kết cá nhân của
hành vi, trong khi ở các xã hội châu Âu lại có xu hướng tin vào "tinh thần
công", chi tiêu "xã hội" của nhà nước, và các hoạt động "công cộng".
John Kenneth Galbraith đưa ra một phân tách cổ điển giữa "ảnh hưởng tư
nhân và sự nghèo khổ công cộng" ở Mỹ, và sự nghèo khổ tư nhân và ảnh
hưởng công cộng tại châu Âu, và có tồn tại mối tương quan giữa chủ nghĩa
cá nhân với mức độ can thiệp công và việc đánh thuế.
Chủ nghĩa cá nhân thường là đối lập với chủ nghĩa cực quyền và chủ nghĩa
tập thể, nhưng trên thực tế có hàng loạt các hành vi trung gian trải từ mức độ
xã hội đến các xã hội có tính cá nhân cao (như tại Mỹ) thông qua các xã hội
hỗn hợp (thuật ngữ nước Anh sử dụng sau Thế chiến II) đến xã hội tập thể.
Đồng thời, nhiều nhà theo chủ nghĩa tập thể (đặc biệt những người ủng hội
chủ nghĩa vô chính phủ hoặc chủ nghĩa xã hội tự do) chỉ ra sự khác nhau khá
lớn giữa chủ nghĩa tập thể tự do và thực tiễn trong chủ nghĩa cực quyền.
Chủ nghĩa cá nhân, đôi khi cũng gần gũi với các biến thể của chủ nghĩa vô
chính phủ cá nhân, chủ nghĩa tự do hoặc chủ nghĩa tự do cổ điển, thông
thường quan niệm rằng cá nhân biết rõ nhất và sâu sắc nhất và các nhà chức
trách đại diện cho quyền lực công hoặc xã hội có quyền can thiệp vào quá
trình ra quyết định của cá nhân chỉ khi có nhu cầu cấp thiết xuất hiện (và đôi
khi có thể không trong những hoành cảnh như vậy). Kiểu tranh luận này
thường thấy khi liên hệ tới các tranh cãi về chính sách liên quan đến điều tiết nền công nghiệp.
4. Chủ nghĩa cá nhân trong kinh tế
Học thuyết chủ nghĩa cá nhân kinh tế xem mỗi cá nhân cần được tự quyết
trong các quyết định kinh tế của mình, đối lập với các quyết định do nhà nước,
hoặc cộng đồng đưa ra cho anh ta. Hơn thế, chủ nghĩa cá nhân kinh tế chủ
trương sở hữu tư nhân tài sản, đối lập với các cơ cấu tổ chức tập thể hay nhà
nước. Chủ nghĩa tư bản thường được nói đến như là một hệ thống kinh tế
dựa trên những quan điểm này. Dạng cấp tiến của chủ nghĩa tư bản thừa kế
sâu sắc tư tưởng cá nhân chủ nghĩa trong kinh tế và được gọi là chủ nghĩa tư bản laissez-faire.
Các nhà phê bình chủ nghĩa tư bản hiện đại đôi khi lập luận rằng chủ nghĩa
tư bản không chỉ dựa trên các cá nhân mà chủ yếu dựa trên các hãng và
các thể chế, và vai trò của các cá nhân là phụ thuộc vào các thể chế này. Tuy
nhiên, so sánh với nhiều dạng khác nhau của chủ nghĩa tập thể trong chính trị,
chủ nghĩa tư bản thường vẫn được xem là cá nhân vì sự tham gia của các
thể chế là tự nguyện và là sự lựa chọn của cá nhân. Dĩ nhiên, chủ nghĩa tư
bản có thể cũng phát triển cả trong những xã hội tập thể với sự lựa chọn của
cá nhân. Sự khác biệt ở đây là sự lựa chọn này dựa trên cái gì: nhu cầu cá
nhân hay nhu cầu tập thể.
5. Các quan điểm đối lập – Ví dụ về chủ nghĩa cá nhân
Chủ nghĩa cá nhân có ý tiêu cực trong một số xã hội và môi trường nhất định,
những nơi xem chủ nghĩa cá nhân gắn liền với chủ nghĩa vị kỷ. Ví dụ, chủ
nghĩa cá nhân bị phê phán nặng nề nhất ở các nước Đông Á nơi mà các
hành vi vị kỷ theo truyền thống bị xem là những hành vi phản bội của người
đó trước những người mà cá nhân đó có nghĩa vụ (ví dụ gia đình hay công
ty). Sự thiếu vắng của hệ thống y tế toàn diện tại Mỹ, bắt nguồn từ niềm tin
vào trách nhiệm của cá nhân (chứ không phải là xã hội), bị chỉ trích nặng nề
tại châu Âu và các nước khác nơi có hệ thống y tế toàn diện (thường sử dụng
vốn từ nguồn thuế) nhằm bảo vệ cá nhân trước những thăng trầm của đời
sống hay những vấn đề về sức khỏe.
Những người ủng hộ những hoạt động công cộng và trách nhiệm xã hội tranh
luận rằng chính sách của họ là có lợi cho cá nhân, và chủ nghĩa cá nhân cực
đoan có thể làm tổn thương chính bản thân cá nhân. Nhưng những người
không ủng hộ lại cho rằng những hoạt động công có thể có hậu quả không
lường trước nằm ngoài phạm vi mà những chính sách này dự định giải quyết.
Nhiều nhà cá nhân chủ nghĩa cho rằng lập luận “có lợi cho cá nhân” là không
thích hợp và rằng chủ nghĩa cá nhân không phải là nói nhiều về quyền lợi cá
nhân mà là sự lựa chọn của cá nhân.
Document Outline
- Chủ nghĩa cá nhân là gì? Chủ nghĩa cá nhân trong c
- 1. Chủ nghĩa cá nhân là gì?
- 2. Chủ nghĩa cá nhân trong chính trị
- 3. Chủ nghĩa cá nhân và xã hội
- 4. Chủ nghĩa cá nhân trong kinh tế
- 5. Các quan điểm đối lập – Ví dụ về chủ nghĩa cá n