lOMoARcPSD| 61527594
CHỦ NGHĨA LÃNG MẠN
I. Khái niệm.
- Lãng mạn hiểu theo nghĩa chiết tự, lãng sóng nước, mạn nước tràn,
lãng mạn chỉ một sự phóng túng, tự do, vượt lên mọi ràng buộc. Như vậy, lãng
mạn có thể hiểu là sự vượt thoát lên trên thực tại bằng trí tưởng tượng.
- Chủ nghĩa lãng mạn dễ có cảm hứng trước ba đề tài: thiên nhiên, tình yêu,
tôngiáo. Ba đề i ấy giúp khới nguồn tình cảm đắm say và kích thích mạnh trí
tưởng tượng.
- Đối với chủ nghĩa lãng mạn, đau buồn, sầu não được coi những tình
cảmđẹp. thế thích những cảnh sông dài, trời rộng hoang vắng, dễ gợi nỗi
đơn, thích những đêm trăng lạnh, những buổi chiều tà, những cảnh gió mưa,
những đêm đại dương giông tố hãi hùng... Nó viết say sưa về những chuyện thất
tình, về những trái tim tan vỡ vì tình yêu tuyệt vọng.
II. Biểu hiện.
1. Đề cao mộng tưởng, lí tưởng hơn thực tại.
- Chủ nghĩa lãng mạn vốn sphản ứng chống lại hội đương thời nên
vănhọc thể hiện rất mong muốn thoát li thực tế, tìm đến một thế giới khác, giúp
con người tạm quên đi một cuộc sống mà họ cảm thấy chán ghét, vẽ ra một cuộc
sống làm thỏa mãn cái tôi bị tổn thương của họ. Vì lẽ đó, thế giới được tập trung
thể hiện ở đây là thế giới của mộng tưởng hơn là hiện thực.
- Tùy thuộc vào những phản ứng khác nhau, văn học đã tạo nên hai thế giới
khácnhau, với hai loại nhân vật trung tâm khác nhau:
+ Những người thái độ bi quan, trốn chạy cuộc đời, thường tìm về quá khứ,
vào mộng ảo hay thu mình vào cái tôi với những bí ẩn thiên định về cuộc đời, về
ái tình, bệnh tật và cái chết.
+ Ngược lại, với những con người hăng hái, tích cực, vốn không hòa hoãn với
thực tại, mong muốn thiết lập nên một hội công bằng, tự do, đảm bảo hạnh
phúc cho con người.
- Không chấp nhận xã hội hiện tại, các nhà văn lãng mạn thường vẽ nên một
xãhội lí tưởng của tương lai, một xã hội cần có hơn là vốn có.
- Vì dành ưu tiên cho mộng tưởng nên sự nghiên cứu sâu sắc và nghiêm túc
cácđiều kiện khách quan của sinh hoạt xã hội bị đẩy xuống hàng thứ yếu bị
thay thế bằng những ước vọng mang tính cải lương. Những quá trình hội
lOMoARcPSD| 61527594
thường được giải thích dưới ánh sáng của những nguyên trừu tượng về luân
và đạo đức, về thiện và ác, về công lí cường quyền, … Những cái kết có hậu,
với hạnh phúc viên mãn cho đôi lứa, mái ấm, tình thương cho người khốn khổ, lẽ
phải công bằng được thực thi, trong khi những kẻ lạnh lùng, những tên ác nhân
phải trả giá, … đã nói lên quan niệm, ước mơ cũng như phương châm hành động
của các nhà văn lãng mạn vì một xã hội tốt đẹp.
- Chính thoát li thực tại, để sống trong cõi mộng nên cuộc sống được vẽ
nênthường xa rời thực tế, thậm chí mơ hồ.
- Bất bình với thực tại, các nhà lãng mạn muốn tìm ra giải pháp chống lại
nhữngtệ nạn xấu xa ca hội. Nhưng không nhận thức đúng đắn qui luật lịch sử
cụ thể, khi tùy tiện bóp méo các qui luật khách quan về sự phát triển của
thực tại, đem đối lập cá nhân với xã hội, đề cao vai trò cá nhân trong lịch sử, nên
chương trình của họ thường xuất phát từ ý tưởng trừu tượng thường có tính chất
không tưởng, cải lương.
- Tuy nhiên, trong các tác phẩm lãng mạn, hiện thực cuộc sống cũng ít
nhiềuđược phản ánh, trật tự tư sản cùng những mâu thuẫn khó điều hòa của nó
nỗi thống khổ của người bình dân ngày càng được thể hiện sinh động, cụ thể hơn.
2. Đề cao tình cảm.
- Chống lại sự bóp nghẹt tình cảm của chủ nghĩa cổ điển, chủ nghĩa lãng mạn
trảlại cho con người một đời sống tình cảm phong phú. Tính chất trữ tình trước bị
coi khinh bao nhiêu, giờ lại được trân trọng bấy nhiêu. Tình cảm, khi được
xem như ngọn nguồn của thi hứng, của nghệ thuật. Chủ nghĩa lãng mạn được
mệnh danh là chủ nghĩa trữ tình hay chủ nghĩa duy cảm là vì vậy.
- Các nhà văn lãng mạn luôn đặt niềm tin vào sức mạnh cảm hóa con
ngườibằng tình thương của Chúa, của tôn giáo. Nó viết về tôn giáo không hẳn vì
tôn giáo, mà chủ yếu tôn giáo thích hợp với cảm hứng lãng mạn. xáo trộn
tình yêu với tín ngưỡng, xáo trộn đạo với đời. coi tình yêu cũng thiêng liêng
như một thứ tôn giáo vậy.
- Các nhà văn lãng mạn cũng tin vào khả năng hàn gắn xã hội của tình cảm,
dođó, họ ra sức xây dựng những con người tấm lòng nhân hậu, vị tha, làm hình
mẫu lí tưởng cho văn học và xã hội.
- Ngược lại, không tìm thấy niềm vui giữa một hội trật tự của bị
đảolộn nghiêm trọng, không ít nvăn lãng mạn xem việc tìm quên vào tình cảm
lOMoARcPSD| 61527594
như một cứu cánh. Do vậy, đề tài tình yêu trở thành đề tài chính trong các tác
phẩm và được khai thác ở mọi phương diện, tính chất và mức độ.
- Thiên nhiên vốn là nơi nuôi dưỡng cho những rung động tinh tế nhất trong
đờisống tình cảm của con người, nơi ẩn dật, nguồn an ủi, chống lại mọi cái phũ
phàng, nhỏ nhen đời và là nơi gởi gắm tình yêu quê hương đất nước nên được
chú ý miêu tả với tất cả chất tươi thắm của nó, trái ngược với việc gạt bỏ thiên
nhiên của chủ nghĩa cổ điển.
- Các nhà văn lãng mạn ưa phô bày tình cảm, thích mổ xẻ tâm trạng, say
mêtrước hết với bản thân mình, nên tác phẩm của họ thường ít nhiều, trực tiếp
hoặc gián tiếp có tính chất tự thuật.
- Do bất mãn với hội bên ngoài, rút sâu vào thế giới nội tâm, cách giải
quyếttính cách, hoàn cảnh và số phận nhân vật của các nhà văn cũng dễ tuân theo
cái nhìn chủ quan của ít tuân theo hoàn cảnh khách quan. Hoàn cảnh thường
mang tính ước lệ, giả tạo. Nhân vật là sự phân thân của tác giả hoặc người phát
ngôn cho nhà văn.
3. Đề cao sự tự do.
- Vì đề cao mộng tưởng và tình cảm nên con người thời kì này muốn hướng
đếnmột cuộc sống tự do, thoát khỏi mọi ràng buộc. Thi sĩ được trả lại quyền tự
do tối đa cho trí tưởng tượng và óc sáng tạo.
- Văn học lãng mạn không chấp nhận những quy định nghiêm ngặt và có khi
vôlí của chủ nghĩa cổ điển trước đây, mạnh dạn cởi trói cho ngòi bút của mình với
một tinh thần cải tạo triệt để.
- Về đề tài, không sự phân biệt đề tài cao cả hay thấp hèn. Mọi vấn đề đều
cótư cách ngang nhau đối với văn học nghệ thuật. Nghệ thuật một tấm gương
quang học, mà tất cả những gì tồn tại trên thế giới, trong lịch sử, trong cuộc sống,
trong con người đều cần phải và có thể phản ánh vào đó dưới chiếc đũa thần của
nghệ thuật. Các nhà văn quan niệm cái xấu, cái thô kệch vẫn khả năng trở thành
những hình tượng đẹp trong nghệ thuật.
- Về nhân vật, văn học lãng mạn không thích cái tầm thường. Do vậy, tác
phẩmcủa họ thường xây dựng những nhân vật phi thường và khổng lồ, thậm chí
ngoại lệ, thông qua các biện pháp nghệ thuật phóng đại, tương phản và ước lệ,
nhằm tạo nên những hình tượng độc đáo đối lập với hiện thực tầm thường thấp
kém xung quanh.
lOMoARcPSD| 61527594
- Không phân biệt văn học dành cho giai cấp nào, văn học lãng mạn đã dành
chỗđứng cho tất cả mọi tầng lớp, giai cấp, loại người trong xã hội. Đặc biệt, hình
ảnh đám đông quần chúng với những kiếp người đau khổ nhưng phẩm chất tốt
đẹp đã được đưa vào tác phẩm lãng mạn, để lại ấn tượng tốt đẹp trong lòng người
đọc.
- Về thể loại, không còn sự phân biệt thiếu dân chủ khi chia tách ra thể loại
caocả thấp hèn. Tuy nhiên, do đặc thù riêng, văn học lãng mạn vẫn thường
được thể hiện bằng thơ trữ tình và tiểu thuyết (tình cảm) hơn cả.
- Về ngôn ngữ, văn học lãng mạn ra sức mở rộng phương tiện diễn đạt,
pháttriển ngôn ngữ đến chỗ rất mực phong phú, câu văn trong tác phẩm lãng mạn
rất phong túng, linh hoạt, giàu nhạc họa. Nó huy động mọi biện pháp tu từ nhằm
thể hiện một cách mãnh liệt nhất cảm xúc và quan niệm của người cầm bút.
III. Khái quát.
- Tóm lại, chủ nghĩa lãng mạn một phản ứng chống lại trật tự hội đương thời,
đồng thời là một phương pháp chống lại phương pháp cổ điển đã tồn tại trước đó
trong văn học. Trong quá trình tồn tại và phát triển, chủ nghĩa lãng mạn phân hóa
thành hai khuynh hướng trái ngược nhau. Khuynh hướng lãng mạn “tiêu cực” là
báo hiệu của sự xuất hiện các dòng văn học hiện đại chủ nghĩa ở Tây Âu nửa sau
thế kỉ XIX. Khuynh hướng lãng mạn “tích cực” càng về sau, càng tiến gần đến
văn học hiện thực. theo khuynh hướng nào, chủ nghĩa lãng mạn cũng chính là
đỉnh cao của kiểu sáng tác lãng mạn.
CHỦ NGHĨA LÃNG MẠN TRONG
VĂN HỌC VIỆT NAM HIỆN ĐẠI (1930 – 1945)
I. Cơ sở hình thành.
- Chủ nghĩa lãng mạn hiểu theo nghĩa trên đây đã mầm mống nước ta
từ cuối thế kỉ XIX với thơ, văn, từ khúc của Chu Mạnh Trinh, Dương Khuê,
Dương Lâm, Đào Tấn.
- Đến đầu thế kỉ này, chủ nghĩa lãng mạn thể hiện khá đầy đủ những đặc
trưngcủa trong thơ Tản Đà trong văn Hoàng Ngọc Phách (tiểu thuyết Tố
Tâm), Tương Phố (Giọt lệ thu – một thứ tùy bút trữ tình)
- Tản Đà là nhà thơ của sầu mộng, của những mối tình vẩn vơ. T
tưởngtượng hết sức phóng túng giúp ông tạo nên những giấc khá ngông
cuồng. Ông làm văn tế khóc nàng Chiêu Quân đời Hán bên Tầu, ông gánh thơ
lOMoARcPSD| 61527594
lên bán chợ Trời thực hiện những cuộc du hành cõi trời tÂu sang Á... Tố
Tâm viết vmột mối tình tan vỡ đầy nước mắt của một đôi giai nhân tài tử hiện
đại. Còn giọt lệ thu trái tim đau đớn tiếng nức nở của một thiếu phụ khóc
chồng.
- Đến giai đoạn văn học 1930 1945, với lớp nhà văn Tây học trẻ tuổi, cái
tôi cánhân thể mới thực sự được thể hiện sâu sắc. Chủ nghĩa lãng mạn do đó
phát triển mạnh mẽ thành trào lưu rầm rvới đầy đủ đặc trưng của trên các thể
loại: thơ, tiểu thuyết, truyện ngắn, bút ký, tùy bút và kịch nói nữa...
II. Giai đoạn phát triển.
1. Giai đoạn 1930 – 1935.
- Đây là giai đoạn đánh dấu sự ra đời của phong trào thơ mới với những cái
tênxuất sắc như Hàn Mặc Tử, Xuân Diệu... văn xuôi lãng mạn với đại diện tiêu
biểu là nhóm tự lực văn đoàn.
- Bộ phận văn học sản, tiểu sản thời kỳ này văn học lãng mạn:
Tiểuthuyết Tự lực văn đoàn và thơ mới. Đối với thơ mới, sau bài khởi xướng ca
Phan Khôi, một loạt các nhà thơ như Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, Huy Thông, Đình
Liên liên tiếp công kích thơ Đường luật, hào bỏ niêm, luật, đối, bỏ điển tích,
sáo ngữ …Trong bài “Một cuộc cải cách về thơ ca” Lưu Trọng kêu gọi các
nhà thơ mau chóng “đem những ý tưởng mới, những tình cảm mới thay vào những
ý tưởng cũ, những tình cảm cũ”. Cuộc đấu tranh này diễn ra khá gay gắt bởi phía
đại diện cho “Thơ cũ” cũng tỏ ra không thua kém. Các nhà thơ Tản Đà, Huỳnh
Thúc Kháng, Hoàng Duy Từ, Nguyễn Văn Hanh phản đối chống lại Thơ mới một
cách quyết liệt. Cho đến cuối năm 1935, cuộc đấu tranh này tạm lắng và sự thắng
thế nghiêng về phía Thơ mới.
- giai đoạn đầu, Thế Lữ là nhà thơ tiêu biểu nhất của Phong trào thơ mới
vớitập Mấy vần thơ (1935). Ngoài ra còn sự góp mặt các nhà thơ Lưu Trọng
Lư, Nguyễn Nhược Pháp, Vũ Đình Liên …
- Tiểu thuyết của nhóm tự lực văn đoàn trước mắt gây được tiếng vang,
vớinhững đại diện tiêu biểu là Nhất Linh, Khái Hưng, và Thạch Lam.
2. Giai đoạn 1936 – 1939.
- Đây giai đoạn chứng kiện sự giao thoa giữa yếu tố hiện thực lãng
mạntrong văn học lãng mạn, các nhà văn trước sự tác động của các cuộc biểu tình,
lOMoARcPSD| 61527594
chiến đấu hoạt động của mặt trận dân chủ bắt đầu chú ý hơn đến cuộc sống
hiện thực của con người.
- Đặc biệt được thể hiện trong văn xuôi của Thạch Lam, yếu tố hiện thực
đượcđưa vào rất nhiều. Đối với phong trào thơ mới, các nhà thơ vẫn đề cao tình
cảm nhân, tuyệt đối hóa cái tôi. Bên cạnh những tình cảm tích cực của Xuân
Diệu, nỗi buồn tiếc nuối quá khứ của Đình Liên, tình yêu nước của Huy
Cận, thơ mới bắt đầu đi vào giai đoạn thoái trào.
3. Giai đoạn 1940-1945
- Văn học lãng mạn bước vào giai đoạn thoái trào, trước sự kêu gọi đấu
tranhgiải phong dân tộc, văn học lãng mạn đã không còn tiếp tục có thể thực hiện
chức năng của nó. Các nhà văn rơi vào trạng thái bế tắc, các tác phẩm tuyệt đối
hóa cá nhân một cách quá mức trong khi đất nước đang bước vào giai đoạn mới,
đòi hỏi văn học những chức năng mới. Văn học lãng mạn kết thúc là một sự
tất yếu, hợp với quy luật của lịch sử, nhường chỗ cho chủ nghĩa văn học khác với
những chức năng khác.
- Văn học lãng mạn, nhìn góc độ tích cực đã đem đến cho nền văn học
ViệtNam scách tân mới mẻ về hình thức nội dung, làm tiền đề cho sự phát
triền của văn học sau này. Chỉ tồn tại một thời gian ngắn nhưng đã để lại cho văn
học nước ta những tác phẩm bất hủ không bao giờ ta thể tìm lại những
thời kì văn học khác.
III. Phong trào Thơ mới.
1. Khái niệm.
- phong trào thơ ca lãng mạn hình thành phát triển trên văn đàn
hợppháp từ năm 1932 – 1945.
- sự đổi mới vmặt thi pháp so với thơ ca truyền thống (chịu sự ảnh
hưởngcủa thơ tượng trưng siêu thực trong văn học lãng mạn Pháp) - sự thể
hiện của ý thức cái tôi cá nhân.
2. Cơ sở hình thành và phát triển.
- Mỗi nền hoặc thời đại văn hóa tạo ra một vùng khí hậu riêng mà bất kỳ ai
sốngtrong đó đều nhiễm, lâu dần đọng lắng lại thành tâm thế ngụ cả hai cõi, hữu
thức và thức. Chính tâm thế này quyết định cái nhìn thế giới của mỗi loại hình
nhân. Đó những quan niệm vcon người, quan niệm về thời gian, quan niệm
về không gian,.., những viên gạch phạm trù xây nên bức tranh thế giới.
lOMoARcPSD| 61527594
- Cái nhìn thế giới của cá nhân thể trong nền văn hóa đô thị khác với cái
nhìncủa cá nhân tập đoàn trong xã hội nông nghiệp cổ truyền. Do vậy, bức tranh
thế giới của họ không chỉ khác về chất liệu, vật liệu mà quan trọng hơn, ở cả trái
tim cảm xúc, ở cái đầu duy lí và bàn tay đo đạc, tính đếm kiểu phương Tây. - Nếu
thiên nhiên trong tranh cổ truyền không phải thiên nhiên thực nặng về tượng
trưng, ước lệ, ngay cả trong những bài thơ nhằm tả cảnh, vịnh vật, thì thiên nhiên
trong con mắt đô thị khách quan. Người thơ xưa coi mình là một bộ phận của
thế giới, một tiểu trụ, nên dùng thiên nhiên như một tấm gương để soi ngắm
mình và chiêm nghiệm các định luật vũ trụ. Với người thị dân, thiên nhiên đã trở
thành một đối tượng phải chinh phục. Bởi vậy, người ta mới đo đạc và tính toán.
Đồng thời, với vẻ đẹp của nó, thiên nhiên cũng trở thành một đối tượng hưởng
thụ. Nó được xúc cảm, được mô tả một cách sống động, chân thực và cụ thể.
- Đời sống đô thị giải phóng con người trước hết không gian. Đầu tiên
làkhông gian địa lí, sau đó không gian hội cuối cùng không gian tinh
thần. Con người làng xã bị cột chặt vào mảnh đất họ sinh sống. Bởi vậy, mọi sự
đi lại, buôn bán hay đi lính hay ra sống kẻ chợ đều làm con người mất đi sự
thuần nhất của thôn quê. Những người định cư hẳn ở thành phố cởi bỏ được ràng
buộc của các cộng đồng làng xóm cũ: họ đã vượt không gian xã hội cổ truyền. Sự
phân công lao động, khoa học thực chứng đã đến sự định lượng hóa không gian.
Xưa kia, những cảm xúc không gian bao giờ cũng nhuốm màu tôn giáo và triết
học, không gian một khối thiêng liêng không thuần nhất, trung tâm
ngoại vi. Trong cái nhìn đô thị, tính thuần nhất toàn khối của bbiến mất.
Đúng hơn, nó đã vỡ vụn ra thành những không gian nhỏ, trần thế như những con
đường, bến đò, khúc sông, quán trọ... cho vừa tầm tâm sự của cá nhân.
- Thời gian trong hội cổ truyền thời gian trụ được ngắt theo nhịp
điệucủa mùa màng, nmột cuốn lịch thiên nhiên. Thời gian sản xuất nghỉ
ngơi để hội đình đám cứ xen kẽ quay vòng khiến con người cảm giác
sống ngoài thời gian. Trong quan niệm bác học, chỉ một thứ thời gian tuần
hoàn theo nhịp điệu vĩnh hằng của trụ. Mọi vật dường như chỉ tồn tại trong
không gian. thế, người ta không hề lo lắng đến quỹ thời gian nhân. Mọi
người nhìn thời gian trôi một cách bình thản.
- Con người của xã hội thị dân không còn sống theo nhịp đi muôn thuở của
mùamàng, thời tiết nữa. Họ tuân theo nhịp điệu của công việc, của sự thành đạt
lOMoARcPSD| 61527594
cá nhân trong cuộc sống. Thời gian với họ dường như trôi chảy nhanh hơn. Cảm
giác thời gian, nhất thời gian lịch sử, được mài sắc chuốt nhọn. Ý niệm về
phát triển theo thời gian dần dần được hình thành. Trước đây, tuổi đời được coi
tuổi tự nhiên, con người cứ lần lượt trải qua các giai đoạn ấu thơ, hoa niên, thanh
niên, trung niên, già... một cách tự nhiên. Còn đô thị, người ta trở thành người
như thế nào do sự cố gắng của chính trong thời gian. Thời gian của cải, là
công danh, là sự nghiệp. Bởi vậy, người ta có nhu cầu đo đếm thời gian một cách
chính xác. Đồng hồ cơ khí thay thế cho đồng hồ thiên nhiên, thời gian đã trở nên
khoa học và khách quan.
- Những quan niệm của con người về thế giới phản ánh quan niệm của chính
nóvề bản thân mình. Thiên nhiên, không gian, thời gian... thay đổi làm thay đổi
chính con người. Nếu nhân tập đoàn khẳng định bản ngã thông qua các quan
hệ hội thì nhân thể khẳng định cái tôi bất chấp các quan hệ hội.
cảm thấy mình trung tâm, toàn thế giới xoay quanh nó, để con người làm chuẩn
mực cho thiên nhiên, để con người cảm nhận và chinh phục thiên nhiên và có khi
thấy mình trung tâm vạn vật thời gian đều phụ thuộc vào đó. Lấy con
người làm thước đo là một nguyên tắchọc mới, là một cái nhìn nhân văn, một
cách tân nghệ thuật độc đáo của văn hóa đô thị.
- Sự đảo lộn vị thế con người trước tự nhiên đã mang lại cho nhiều
giảiphóng. Trước hết là giải phóng giác quan. Những quan niệm miệt thị thể xác
những quan niệm đi cùng với được phá bỏ. Các giác quan thoát khỏi sự kìm
hãm của những định kiến được tdo chứng nghiệm. Văn chương đô thị tràn ngập
những cảm giác tươi mới, ban sơ. Tuy nhiên, điều ý nghĩa nhất của sgiải
phóng con người là quyền tdo lựa chọn. Chính sự lựa chọn tự do là một tiêu chí
quan trọng để con người trở thành một cá nhân đích thực. Nhân vật sử thi không
hề có lựa chọn, những hành động anh hùng mà nó thực hiện là siêu cá nhân. Con
người chịu sự sai khiến của số phận, sự đỏng đảnh của thần linh hay các quy tắc
về danh dự của tập thể. Bi kịch đặt con người trước slựa chọn, nhưng đó là s
lựa chọn giữa hai trật tsự vật siêu nhân, hai sphận thiêng liêng, hai quy luật
cao cả, chứ không phải sự lựa chọn cho mình. Con người bi kịch suy nghĩ, than
vãn, bướng bỉnh nhưng không thay đổi. Chỉ con người nhân của nền văn
minh công nghiệp mới có sự lựa chọn tự mình và cho mình.
lOMoARcPSD| 61527594
- Ngay từ khi ra đời, con người thị dân Việt Nam đã phải đứng trước sự lựa
chọnthiết yếu: tình yêu hôn nhân. những thanh niên Tây học, họ yêu theo
tiếng gọi của trái tim muốn lấy nhau tình. Nhưng rồi tình yêu của họ vấp
phải rào cản của những khuôn vàng thước ngọc cổ truyền cha mẹ đặt đâu con nằm
đấy, môn đăng hộ đối. Sau lựa chọn giữa tình yêu và hôn nhân lựa chọn giữa
gia đình và xã hội, giữa cơm áo và lí tưởng, giữa những con đường cải tạo xã hội
khác nhau.
- Tiểu thuyết với sở trường của đã thể hiện tốt những vấn đề này bình
diệnxã hội. Nhưng con người, nói gì thì nói, trước khi lựa chọn phải tự lựa chọn
đã, nghĩa là nó phải đối diện với chính nó. Đây lẽ là lãnh địa của thơ. Thơ Mới
đã thể hiện được số phận của nhân, sđơn những con đường giải thoát
khỏi gánh nặng đơn, tình yêu tuyệt vọng, những xung đột giữa văn hóa nông
thôn và thành thị, Đông Tây, những khắc khoải siêu hình... Như vậy, cũng vẫn
về những vấn đề của cá nhân đô thị, vấn đề quan niệm mới về con người, nhưng
khác với tiểu thuyết, Thơ Mới đã đi vào một chiều kích khác, chiều kích tâm linh,
chiều kích bản thể của con người.
3. Nét đặc trưng.
- Cái nhìn thế giới của con người cá nhân được phản ánh trọn vẹn trong Thơ
Mới. Khác với tiểu thuyết, thơ trữ tình là bộc bạch trực tiếp của chủ thể sáng tạo,
cái tôi. Bởi vậy, thể nói Thơ Mới tiếng nói trực tiếp của cái nhìn thế giới mới
mẻ này. Những quan niệm tân về con người, về không gian, thời gian,... là
sở của một triết học văn hóa cho cái nhìn nghệ thuật của Thơ Mới. Đây là sự quán
xuyến, là tính chỉnh thể của Thơ Mới. Nét khu biệt nó với những dòng thơ tồn tại
cùng, trước hoặc sau nó.
- Mỗi nhà Thơ Mới đều cái nhìn nghệ thuật giống nhau, chung cho cả dòngthơ.
Nhưng mỗi người lại những nhân, một chương trình sinh học riêng,
những ám ảnh thơ ấu khuyết tật thân thể riêng, hoàn cảnh kinh tế - hội
cũng riêng. Nghĩa là, trong những yếu tố tạo nên bức tranh nghệ thuật của nhà
thơ thế nào cũng một yếu tố trội bắt tất cả những yếu tố còn lại phải phục
tùng nó, phải phản chiếu ánh sáng của nó. điều, yếu tố chủ đạo này mỗi
thi nhân mỗi khác, tùy thuộc vào trời phú hay người phú.
- Trong dàn hợp xướng chung của Thơ Mới, mỗi nhà thơ đều âm chủ riêng,độc
đáo của mình. Nếu cái nhìn nghệ thuật chung của cả dòng thơ như một chuẩn,
lOMoARcPSD| 61527594
một phong cách chung cho cho cả một thời đại thi ca thì từng cái nhìn nghệ thuật
riêng của mỗi thi nhân một lệch chuẩn. chính sự lệch chuẩn này tạo
phong cách cá nhân của nhà thơ.
- Phong cách là cá tính của chủ thể sáng tạo và sự tự do lựa chọn các phươngtiện
ngôn ngữ để thể hiện trong tác phẩm. Cá tính, cái chút riêng biệt nhỏ nhoi ấy là
tất cả. Đấy là chỗ nhân phân biệt mình với người khác, khẳng định mình như
một thực thể duy nhất không lặp lại. nhân sẽ hoàn toàn tan nếu bị tước
mất cái riêng biệt ấy, cái tính ấy. Nếu trong nghệ thuật cổ truyền, nthơ
không thoát được những ràng buộc thủ công thì trong nghệ thuật lãng mạn,
là Hóa công, là Thượng đế.
- Thi nhân xưa chỉ có quyền và khả năng sáng tạo ở những tiểu tiết. Vẽ lá trổhoa
cho một ngôi nhà đã dựng sẵn: họ m cách bắt chước một thực tế đã bị quy
phạm hóa thành khuôn mẫu sao cho có nghệ thuật nhất. Thi nhân của một thời
đại mới quyền xây dựng cho mình hẳn một thế giới khác, tương ứng hoặc
đối lập, với thế giới thực tại như một hình thẩm để đối thoại với nó.
Vai trò của chủ thể sáng tạo thay đổi khiến hình thẩm của anh ta cũng
thay đổi thei. Đó không còn chỉ là một mô phỏng, phản ánh, mà chủ yếu là một
biểu hiện, tức xây dựng một thế giới theo cái nhìn nghệ thuật của riêng mình.
Trong Thơ Mới, không phải ai cũng một thế giới nghệ thuật riêng, nhưng hầu
hết ai cũng có một cá tính nghệ thuật riêng, một phong cách riêng.
- Phong cáchng là chỗ đặc dị, nơi chứa đựng mật số của tác phẩm vănchương.
Nếu thi phẩm một thông điệp nghệ thuật nghệ ngôn tmuốn gửi đến
độc giả thì thông điệp đó phải được mã hóa. Sự vào của thi nhân thể diễn
ra tầng hữu thức hoặc vô thức, thường thì cả hai. Nhiệm vụ của nhà phê bình
cùng bạn đọc tìm được cách giải tác phẩm. Trên hành trình thám
khi là vô tận này, độc giả sđược hưởng những khoái cảm thẩm mĩ. Nếu mật số
được cất giấu tầng hữu thức thì sự tìm kiếm cũng dễ vì chìa khóa chỉ thể
để ở vài nơi quy định. n khi sự mã hóa diễn ra tầng hầm vô thức thì coi như
chìa khóa đã rơi vào rốn bể. Tuy nhiên, sự kiếm tìm càng khó bao nhiêu thì sự
đền đáp cũng theo đấy mà gia tăng bấy nhiếu.
4. Ba đỉnh cao Thơ Mới.
lOMoARcPSD| 61527594
a, Xuân Diệu – nỗi ám ảnh thời gian. b,
Nguyễn Bính – đường về chân quê. c,
Hàn Mặc Tử – một tư duy thơ độc đáo.
5. Khái quát.
IV. Xu hướng tiểu thuyết Tự lực văn đoàn.

Preview text:

lOMoAR cPSD| 61527594
CHỦ NGHĨA LÃNG MẠN I. Khái niệm. -
Lãng mạn hiểu theo nghĩa chiết tự, lãng là sóng nước, mạn là nước tràn,
lãng mạn chỉ một sự phóng túng, tự do, vượt lên mọi ràng buộc. Như vậy, lãng
mạn có thể hiểu là sự vượt thoát lên trên thực tại bằng trí tưởng tượng. -
Chủ nghĩa lãng mạn dễ có cảm hứng trước ba đề tài: thiên nhiên, tình yêu,
tôngiáo. Ba đề tài ấy giúp nó khới nguồn tình cảm đắm say và kích thích mạnh trí tưởng tượng. -
Đối với chủ nghĩa lãng mạn, đau buồn, sầu não được coi là những tình
cảmđẹp. Vì thế nó thích những cảnh sông dài, trời rộng và hoang vắng, dễ gợi nỗi
cô đơn, thích những đêm trăng lạnh, những buổi chiều tà, những cảnh gió mưa,
những đêm đại dương giông tố hãi hùng... Nó viết say sưa về những chuyện thất
tình, về những trái tim tan vỡ vì tình yêu tuyệt vọng. II. Biểu hiện.
1. Đề cao mộng tưởng, lí tưởng hơn thực tại. -
Chủ nghĩa lãng mạn vốn là sự phản ứng chống lại xã hội đương thời nên
vănhọc thể hiện rất rõ mong muốn thoát li thực tế, tìm đến một thế giới khác, giúp
con người tạm quên đi một cuộc sống mà họ cảm thấy chán ghét, vẽ ra một cuộc
sống làm thỏa mãn cái tôi bị tổn thương của họ. Vì lẽ đó, thế giới được tập trung
thể hiện ở đây là thế giới của mộng tưởng hơn là hiện thực. -
Tùy thuộc vào những phản ứng khác nhau, văn học đã tạo nên hai thế giới
khácnhau, với hai loại nhân vật trung tâm khác nhau:
+ Những người có thái độ bi quan, trốn chạy cuộc đời, thường tìm về quá khứ,
vào mộng ảo hay thu mình vào cái tôi với những bí ẩn thiên định về cuộc đời, về
ái tình, bệnh tật và cái chết.
+ Ngược lại, với những con người hăng hái, tích cực, vốn không hòa hoãn với
thực tại, mong muốn thiết lập nên một xã hội công bằng, tự do, đảm bảo hạnh phúc cho con người. -
Không chấp nhận xã hội hiện tại, các nhà văn lãng mạn thường vẽ nên một
xãhội lí tưởng của tương lai, một xã hội cần có hơn là vốn có. -
Vì dành ưu tiên cho mộng tưởng nên sự nghiên cứu sâu sắc và nghiêm túc
cácđiều kiện khách quan của sinh hoạt xã hội bị đẩy xuống hàng thứ yếu và bị
thay thế bằng những ước vọng mang tính cải lương. Những quá trình xã hội lOMoAR cPSD| 61527594
thường được giải thích dưới ánh sáng của những nguyên lí trừu tượng về luân lí
và đạo đức, về thiện và ác, về công lí và cường quyền, … Những cái kết có hậu,
với hạnh phúc viên mãn cho đôi lứa, mái ấm, tình thương cho người khốn khổ, lẽ
phải và công bằng được thực thi, trong khi những kẻ lạnh lùng, những tên ác nhân
phải trả giá, … đã nói lên quan niệm, ước mơ cũng như phương châm hành động
của các nhà văn lãng mạn vì một xã hội tốt đẹp. -
Chính vì thoát li thực tại, để sống trong cõi mộng nên cuộc sống được vẽ
nênthường xa rời thực tế, thậm chí mơ hồ. -
Bất bình với thực tại, các nhà lãng mạn muốn tìm ra giải pháp chống lại
nhữngtệ nạn xấu xa của xã hội. Nhưng không nhận thức đúng đắn qui luật lịch sử
cụ thể, mà có khi tùy tiện bóp méo các qui luật khách quan về sự phát triển của
thực tại, đem đối lập cá nhân với xã hội, đề cao vai trò cá nhân trong lịch sử, nên
chương trình của họ thường xuất phát từ ý tưởng trừu tượng thường có tính chất
không tưởng, cải lương. -
Tuy nhiên, trong các tác phẩm lãng mạn, hiện thực cuộc sống cũng ít
nhiềuđược phản ánh, trật tự tư sản cùng những mâu thuẫn khó điều hòa của nó và
nỗi thống khổ của người bình dân ngày càng được thể hiện sinh động, cụ thể hơn.
2. Đề cao tình cảm. -
Chống lại sự bóp nghẹt tình cảm của chủ nghĩa cổ điển, chủ nghĩa lãng mạn
trảlại cho con người một đời sống tình cảm phong phú. Tính chất trữ tình trước bị
coi khinh bao nhiêu, giờ lại được trân trọng bấy nhiêu. Tình cảm, có khi được
xem như ngọn nguồn của thi hứng, của nghệ thuật. Chủ nghĩa lãng mạn được
mệnh danh là chủ nghĩa trữ tình hay chủ nghĩa duy cảm là vì vậy. -
Các nhà văn lãng mạn luôn đặt niềm tin vào sức mạnh cảm hóa con
ngườibằng tình thương của Chúa, của tôn giáo. Nó viết về tôn giáo không hẳn vì
tôn giáo, mà chủ yếu vì tôn giáo thích hợp với cảm hứng lãng mạn. Nó xáo trộn
tình yêu với tín ngưỡng, xáo trộn đạo với đời. Nó coi tình yêu cũng thiêng liêng
như một thứ tôn giáo vậy. -
Các nhà văn lãng mạn cũng tin vào khả năng hàn gắn xã hội của tình cảm,
dođó, họ ra sức xây dựng những con người có tấm lòng nhân hậu, vị tha, làm hình
mẫu lí tưởng cho văn học và xã hội. -
Ngược lại, không tìm thấy niềm vui giữa một xã hội mà trật tự của nó bị
đảolộn nghiêm trọng, không ít nhà văn lãng mạn xem việc tìm quên vào tình cảm lOMoAR cPSD| 61527594
như một cứu cánh. Do vậy, đề tài tình yêu trở thành đề tài chính trong các tác
phẩm và được khai thác ở mọi phương diện, tính chất và mức độ. -
Thiên nhiên vốn là nơi nuôi dưỡng cho những rung động tinh tế nhất trong
đờisống tình cảm của con người, là nơi ẩn dật, nguồn an ủi, chống lại mọi cái phũ
phàng, nhỏ nhen ở đời và là nơi gởi gắm tình yêu quê hương đất nước nên được
chú ý miêu tả với tất cả chất tươi thắm của nó, trái ngược với việc gạt bỏ thiên
nhiên của chủ nghĩa cổ điển. -
Các nhà văn lãng mạn ưa phô bày tình cảm, thích mổ xẻ tâm trạng, say
mêtrước hết với bản thân mình, nên tác phẩm của họ thường ít nhiều, trực tiếp
hoặc gián tiếp có tính chất tự thuật. -
Do bất mãn với xã hội bên ngoài, rút sâu vào thế giới nội tâm, cách giải
quyếttính cách, hoàn cảnh và số phận nhân vật của các nhà văn cũng dễ tuân theo
cái nhìn chủ quan của mà ít tuân theo hoàn cảnh khách quan. Hoàn cảnh thường
mang tính ước lệ, giả tạo. Nhân vật là sự phân thân của tác giả hoặc là người phát ngôn cho nhà văn.
3. Đề cao sự tự do. -
Vì đề cao mộng tưởng và tình cảm nên con người thời kì này muốn hướng
đếnmột cuộc sống tự do, thoát khỏi mọi ràng buộc. Thi sĩ được trả lại quyền tự
do tối đa cho trí tưởng tượng và óc sáng tạo. -
Văn học lãng mạn không chấp nhận những quy định nghiêm ngặt và có khi
vôlí của chủ nghĩa cổ điển trước đây, mạnh dạn cởi trói cho ngòi bút của mình với
một tinh thần cải tạo triệt để. -
Về đề tài, không có sự phân biệt đề tài cao cả hay thấp hèn. Mọi vấn đề đều
cótư cách ngang nhau đối với văn học nghệ thuật. Nghệ thuật là một tấm gương
quang học, mà tất cả những gì tồn tại trên thế giới, trong lịch sử, trong cuộc sống,
trong con người đều cần phải và có thể phản ánh vào đó dưới chiếc đũa thần của
nghệ thuật. Các nhà văn quan niệm cái xấu, cái thô kệch vẫn có khả năng trở thành
những hình tượng đẹp trong nghệ thuật. -
Về nhân vật, văn học lãng mạn không thích cái tầm thường. Do vậy, tác
phẩmcủa họ thường xây dựng những nhân vật phi thường và khổng lồ, thậm chí
ngoại lệ, thông qua các biện pháp nghệ thuật phóng đại, tương phản và ước lệ,
nhằm tạo nên những hình tượng độc đáo đối lập với hiện thực tầm thường và thấp kém xung quanh. lOMoAR cPSD| 61527594 -
Không phân biệt văn học dành cho giai cấp nào, văn học lãng mạn đã dành
chỗđứng cho tất cả mọi tầng lớp, giai cấp, loại người trong xã hội. Đặc biệt, hình
ảnh đám đông quần chúng với những kiếp người đau khổ nhưng có phẩm chất tốt
đẹp đã được đưa vào tác phẩm lãng mạn, để lại ấn tượng tốt đẹp trong lòng người đọc. -
Về thể loại, không còn sự phân biệt thiếu dân chủ khi chia tách ra thể loại
caocả và thấp hèn. Tuy nhiên, do đặc thù riêng, văn học lãng mạn vẫn thường
được thể hiện bằng thơ trữ tình và tiểu thuyết (tình cảm) hơn cả. -
Về ngôn ngữ, văn học lãng mạn ra sức mở rộng phương tiện diễn đạt,
pháttriển ngôn ngữ đến chỗ rất mực phong phú, câu văn trong tác phẩm lãng mạn
rất phong túng, linh hoạt, giàu nhạc họa. Nó huy động mọi biện pháp tu từ nhằm
thể hiện một cách mãnh liệt nhất cảm xúc và quan niệm của người cầm bút. III. Khái quát.
- Tóm lại, chủ nghĩa lãng mạn là một phản ứng chống lại trật tự xã hội đương thời,
đồng thời là một phương pháp chống lại phương pháp cổ điển đã tồn tại trước đó
trong văn học. Trong quá trình tồn tại và phát triển, chủ nghĩa lãng mạn phân hóa
thành hai khuynh hướng trái ngược nhau. Khuynh hướng lãng mạn “tiêu cực” là
báo hiệu của sự xuất hiện các dòng văn học hiện đại chủ nghĩa ở Tây Âu nửa sau
thế kỉ XIX. Khuynh hướng lãng mạn “tích cực” càng về sau, càng tiến gần đến
văn học hiện thực. Dù theo khuynh hướng nào, chủ nghĩa lãng mạn cũng chính là
đỉnh cao của kiểu sáng tác lãng mạn.
CHỦ NGHĨA LÃNG MẠN TRONG
VĂN HỌC VIỆT NAM HIỆN ĐẠI (1930 – 1945)
I. Cơ sở hình thành. -
Chủ nghĩa lãng mạn hiểu theo nghĩa trên đây đã có mầm mống ở nước ta
từ cuối thế kỉ XIX với thơ, văn, từ khúc của Chu Mạnh Trinh, Dương Khuê, Dương Lâm, Đào Tấn. -
Đến đầu thế kỉ này, chủ nghĩa lãng mạn thể hiện khá đầy đủ những đặc
trưngcủa nó trong thơ Tản Đà và trong văn Hoàng Ngọc Phách (tiểu thuyết Tố
Tâm), Tương Phố (Giọt lệ thu – một thứ tùy bút trữ tình) -
Tản Đà là nhà thơ của sầu và mộng, của những mối tình vẩn vơ. Trí
tưởngtượng hết sức phóng túng và giúp ông tạo nên những giấc mơ khá ngông
cuồng. Ông làm văn tế khóc nàng Chiêu Quân đời Hán bên Tầu, ông mơ gánh thơ lOMoAR cPSD| 61527594
lên bán chợ Trời và thực hiện những cuộc du hành ở cõi trời từ Âu sang Á... Tố
Tâm viết về một mối tình tan vỡ đầy nước mắt của một đôi giai nhân tài tử hiện
đại. Còn giọt lệ thu là trái tim đau đớn và tiếng nức nở của một thiếu phụ khóc chồng. -
Đến giai đoạn văn học 1930 – 1945, với lớp nhà văn Tây học trẻ tuổi, cái
tôi cánhân cá thể mới thực sự được thể hiện sâu sắc. Chủ nghĩa lãng mạn do đó
phát triển mạnh mẽ thành trào lưu rầm rộ với đầy đủ đặc trưng của nó trên các thể
loại: thơ, tiểu thuyết, truyện ngắn, bút ký, tùy bút và kịch nói nữa...
II. Giai đoạn phát triển.
1. Giai đoạn 1930 – 1935. -
Đây là giai đoạn đánh dấu sự ra đời của phong trào thơ mới với những cái
tênxuất sắc như Hàn Mặc Tử, Xuân Diệu... và văn xuôi lãng mạn với đại diện tiêu
biểu là nhóm tự lực văn đoàn. -
Bộ phận văn học tư sản, tiểu tư sản thời kỳ này là văn học lãng mạn:
Tiểuthuyết Tự lực văn đoàn và thơ mới. Đối với thơ mới, sau bài khởi xướng của
Phan Khôi, một loạt các nhà thơ như Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, Huy Thông, Vũ Đình
Liên liên tiếp công kích thơ Đường luật, hô hào bỏ niêm, luật, đối, bỏ điển tích,
sáo ngữ …Trong bài “Một cuộc cải cách về thơ ca” Lưu Trọng Lư kêu gọi các
nhà thơ mau chóng “đem những ý tưởng mới, những tình cảm mới thay vào những
ý tưởng cũ, những tình cảm cũ”. Cuộc đấu tranh này diễn ra khá gay gắt bởi phía
đại diện cho “Thơ cũ” cũng tỏ ra không thua kém. Các nhà thơ Tản Đà, Huỳnh
Thúc Kháng, Hoàng Duy Từ, Nguyễn Văn Hanh phản đối chống lại Thơ mới một
cách quyết liệt. Cho đến cuối năm 1935, cuộc đấu tranh này tạm lắng và sự thắng
thế nghiêng về phía Thơ mới. -
Ở giai đoạn đầu, Thế Lữ là nhà thơ tiêu biểu nhất của Phong trào thơ mới
vớitập Mấy vần thơ (1935). Ngoài ra còn có sự góp mặt các nhà thơ Lưu Trọng
Lư, Nguyễn Nhược Pháp, Vũ Đình Liên … -
Tiểu thuyết của nhóm tự lực văn đoàn trước mắt gây được tiếng vang,
vớinhững đại diện tiêu biểu là Nhất Linh, Khái Hưng, và Thạch Lam.
2. Giai đoạn 1936 – 1939. -
Đây là giai đoạn chứng kiện sự giao thoa giữa yếu tố hiện thực và lãng
mạntrong văn học lãng mạn, các nhà văn trước sự tác động của các cuộc biểu tình, lOMoAR cPSD| 61527594
chiến đấu và hoạt động của mặt trận dân chủ bắt đầu chú ý hơn đến cuộc sống
hiện thực của con người. -
Đặc biệt được thể hiện trong văn xuôi của Thạch Lam, yếu tố hiện thực
đượcđưa vào rất nhiều. Đối với phong trào thơ mới, các nhà thơ vẫn đề cao tình
cảm cá nhân, và tuyệt đối hóa cái tôi. Bên cạnh những tình cảm tích cực của Xuân
Diệu, nỗi buồn và tiếc nuối quá khứ của Vũ Đình Liên, tình yêu nước của Huy
Cận, thơ mới bắt đầu đi vào giai đoạn thoái trào.
3. Giai đoạn 1940-1945 -
Văn học lãng mạn bước vào giai đoạn thoái trào, trước sự kêu gọi đấu
tranhgiải phong dân tộc, văn học lãng mạn đã không còn tiếp tục có thể thực hiện
chức năng của nó. Các nhà văn rơi vào trạng thái bế tắc, các tác phẩm tuyệt đối
hóa cá nhân một cách quá mức trong khi đất nước đang bước vào giai đoạn mới,
đòi hỏi văn học có những chức năng mới. Văn học lãng mạn kết thúc là một sự
tất yếu, hợp với quy luật của lịch sử, nhường chỗ cho chủ nghĩa văn học khác với những chức năng khác. -
Văn học lãng mạn, nhìn ở góc độ tích cực đã đem đến cho nền văn học
ViệtNam sự cách tân mới mẻ về hình thức và nội dung, làm tiền đề cho sự phát
triền của văn học sau này. Chỉ tồn tại một thời gian ngắn nhưng đã để lại cho văn
học nước ta những tác phẩm bất hủ mà không bao giờ ta có thể tìm lại ở những thời kì văn học khác.
III. Phong trào Thơ mới. 1. Khái niệm. -
Là phong trào thơ ca lãng mạn hình thành và phát triển trên văn đàn
hợppháp từ năm 1932 – 1945. -
Là sự đổi mới về mặt thi pháp so với thơ ca truyền thống (chịu sự ảnh
hưởngcủa thơ tượng trưng siêu thực trong văn học lãng mạn Pháp) - Là sự thể
hiện của ý thức cái tôi cá nhân.
2. Cơ sở hình thành và phát triển. -
Mỗi nền hoặc thời đại văn hóa tạo ra một vùng khí hậu riêng mà bất kỳ ai
sốngtrong đó đều nhiễm, lâu dần đọng lắng lại thành tâm thế ngụ ở cả hai cõi, hữu
thức và vô thức. Chính tâm thế này quyết định cái nhìn thế giới của mỗi loại hình
cá nhân. Đó là những quan niệm về con người, quan niệm về thời gian, quan niệm
về không gian,.., những viên gạch phạm trù xây nên bức tranh thế giới. lOMoAR cPSD| 61527594 -
Cái nhìn thế giới của cá nhân cá thể trong nền văn hóa đô thị khác với cái
nhìncủa cá nhân tập đoàn trong xã hội nông nghiệp cổ truyền. Do vậy, bức tranh
thế giới của họ không chỉ khác về chất liệu, vật liệu mà quan trọng hơn, ở cả trái
tim cảm xúc, ở cái đầu duy lí và bàn tay đo đạc, tính đếm kiểu phương Tây. - Nếu
thiên nhiên trong tranh cổ truyền không phải là thiên nhiên thực mà nặng về tượng
trưng, ước lệ, ngay cả trong những bài thơ nhằm tả cảnh, vịnh vật, thì thiên nhiên
trong con mắt đô thị là khách quan. Người thơ xưa coi mình là một bộ phận của
thế giới, một tiểu vũ trụ, nên dùng thiên nhiên như một tấm gương để soi ngắm
mình và chiêm nghiệm các định luật vũ trụ. Với người thị dân, thiên nhiên đã trở
thành một đối tượng phải chinh phục. Bởi vậy, người ta mới đo đạc và tính toán.
Đồng thời, với vẻ đẹp của nó, thiên nhiên cũng trở thành một đối tượng hưởng
thụ. Nó được xúc cảm, được mô tả một cách sống động, chân thực và cụ thể. -
Đời sống đô thị giải phóng con người trước hết ở không gian. Đầu tiên
làkhông gian địa lí, sau đó – không gian xã hội và cuối cùng – không gian tinh
thần. Con người làng xã bị cột chặt vào mảnh đất họ sinh sống. Bởi vậy, mọi sự
đi lại, buôn bán hay đi lính hay ra sống ở kẻ chợ đều làm con người mất đi sự
thuần nhất của thôn quê. Những người định cư hẳn ở thành phố cởi bỏ được ràng
buộc của các cộng đồng làng xóm cũ: họ đã vượt không gian xã hội cổ truyền. Sự
phân công lao động, khoa học thực chứng đã đến sự định lượng hóa không gian.
Xưa kia, những cảm xúc không gian bao giờ cũng nhuốm màu tôn giáo và triết
học, không gian là một khối thiêng liêng không thuần nhất, có trung tâm và có
ngoại vi. Trong cái nhìn đô thị, tính thuần nhất và toàn khối của nó bị biến mất.
Đúng hơn, nó đã vỡ vụn ra thành những không gian nhỏ, trần thế như những con
đường, bến đò, khúc sông, quán trọ... cho vừa tầm tâm sự của cá nhân. -
Thời gian trong xã hội cổ truyền là thời gian vũ trụ được ngắt theo nhịp
điệucủa mùa màng, như một cuốn lịch thiên nhiên. Thời gian sản xuất và nghỉ
ngơi để hội hè đình đám cứ xen kẽ và quay vòng khiến con người có cảm giác
sống ngoài thời gian. Trong quan niệm bác học, chỉ có một thứ thời gian tuần
hoàn theo nhịp điệu vĩnh hằng của vũ trụ. Mọi vật dường như chỉ tồn tại trong
không gian. Vì thế, người ta không hề lo lắng đến quỹ thời gian cá nhân. Mọi
người nhìn thời gian trôi một cách bình thản. -
Con người của xã hội thị dân không còn sống theo nhịp đi muôn thuở của
mùamàng, thời tiết nữa. Họ tuân theo nhịp điệu của công việc, của sự thành đạt lOMoAR cPSD| 61527594
cá nhân trong cuộc sống. Thời gian với họ dường như trôi chảy nhanh hơn. Cảm
giác thời gian, nhất là thời gian lịch sử, được mài sắc và chuốt nhọn. Ý niệm về
phát triển theo thời gian dần dần được hình thành. Trước đây, tuổi đời được coi là
tuổi tự nhiên, con người cứ lần lượt trải qua các giai đoạn ấu thơ, hoa niên, thanh
niên, trung niên, già... một cách tự nhiên. Còn ở đô thị, người ta trở thành người
như thế nào do sự cố gắng của chính nó trong thời gian. Thời gian là của cải, là
công danh, là sự nghiệp. Bởi vậy, người ta có nhu cầu đo đếm thời gian một cách
chính xác. Đồng hồ cơ khí thay thế cho đồng hồ thiên nhiên, thời gian đã trở nên khoa học và khách quan. -
Những quan niệm của con người về thế giới phản ánh quan niệm của chính
nóvề bản thân mình. Thiên nhiên, không gian, thời gian... thay đổi làm thay đổi
chính con người. Nếu cá nhân tập đoàn khẳng định bản ngã thông qua các quan
hệ xã hội thì cá nhân cá thể khẳng định cái tôi bất chấp các quan hệ xã hội. Nó
cảm thấy mình là trung tâm, toàn thế giới xoay quanh nó, để con người làm chuẩn
mực cho thiên nhiên, để con người cảm nhận và chinh phục thiên nhiên và có khi
nó thấy mình là trung tâm mà vạn vật thời gian đều phụ thuộc vào đó. Lấy con
người làm thước đo là một nguyên tắc mĩ học mới, là một cái nhìn nhân văn, một
cách tân nghệ thuật độc đáo của văn hóa đô thị. -
Sự đảo lộn vị thế con người trước tự nhiên đã mang lại cho nó nhiều
giảiphóng. Trước hết là giải phóng giác quan. Những quan niệm miệt thị thể xác
và những quan niệm đi cùng với nó được phá bỏ. Các giác quan thoát khỏi sự kìm
hãm của những định kiến được tự do chứng nghiệm. Văn chương đô thị tràn ngập
những cảm giác tươi mới, ban sơ. Tuy nhiên, điều có ý nghĩa nhất của sự giải
phóng con người là quyền tự do lựa chọn. Chính sự lựa chọn tự do là một tiêu chí
quan trọng để con người trở thành một cá nhân đích thực. Nhân vật sử thi không
hề có lựa chọn, những hành động anh hùng mà nó thực hiện là siêu cá nhân. Con
người chịu sự sai khiến của số phận, sự đỏng đảnh của thần linh hay các quy tắc
về danh dự của tập thể. Bi kịch đặt con người trước sự lựa chọn, nhưng đó là sự
lựa chọn giữa hai trật tự sự vật siêu cá nhân, hai số phận thiêng liêng, hai quy luật
cao cả, chứ không phải sự lựa chọn cho mình. Con người bi kịch suy nghĩ, than
vãn, bướng bỉnh nhưng không thay đổi. Chỉ có con người cá nhân của nền văn
minh công nghiệp mới có sự lựa chọn tự mình và cho mình. lOMoAR cPSD| 61527594 -
Ngay từ khi ra đời, con người thị dân Việt Nam đã phải đứng trước sự lựa
chọnthiết yếu: tình yêu và hôn nhân. Là những thanh niên Tây học, họ yêu theo
tiếng gọi của trái tim và muốn lấy nhau vì tình. Nhưng rồi tình yêu của họ vấp
phải rào cản của những khuôn vàng thước ngọc cổ truyền cha mẹ đặt đâu con nằm
đấy, môn đăng hộ đối. Sau lựa chọn giữa tình yêu và hôn nhân là lựa chọn giữa
gia đình và xã hội, giữa cơm áo và lí tưởng, giữa những con đường cải tạo xã hội khác nhau. -
Tiểu thuyết với sở trường của nó đã thể hiện tốt những vấn đề này ở bình
diệnxã hội. Nhưng con người, nói gì thì nói, trước khi lựa chọn phải tự lựa chọn
đã, nghĩa là nó phải đối diện với chính nó. Đây có lẽ là lãnh địa của thơ. Thơ Mới
đã thể hiện được số phận của cá nhân, sự cô đơn và những con đường giải thoát
khỏi gánh nặng cô đơn, tình yêu và tuyệt vọng, những xung đột giữa văn hóa nông
thôn và thành thị, Đông và Tây, những khắc khoải siêu hình... Như vậy, cũng vẫn
về những vấn đề của cá nhân đô thị, vấn đề quan niệm mới về con người, nhưng
khác với tiểu thuyết, Thơ Mới đã đi vào một chiều kích khác, chiều kích tâm linh,
chiều kích bản thể của con người. 3. Nét đặc trưng.
- Cái nhìn thế giới của con người cá nhân được phản ánh trọn vẹn trong Thơ
Mới. Khác với tiểu thuyết, thơ trữ tình là bộc bạch trực tiếp của chủ thể sáng tạo,
cái tôi. Bởi vậy, có thể nói Thơ Mới là tiếng nói trực tiếp của cái nhìn thế giới mới
mẻ này. Những quan niệm tân kì về con người, về không gian, thời gian,... là cơ
sở của một triết học văn hóa cho cái nhìn nghệ thuật của Thơ Mới. Đây là sự quán
xuyến, là tính chỉnh thể của Thơ Mới. Nét khu biệt nó với những dòng thơ tồn tại
cùng, trước hoặc sau nó.
- Mỗi nhà Thơ Mới đều có cái nhìn nghệ thuật giống nhau, chung cho cả dòngthơ.
Nhưng mỗi người lại là những cá nhân, có một chương trình sinh học riêng,
những ám ảnh thơ ấu và khuyết tật thân thể riêng, hoàn cảnh kinh tế - xã hội
cũng riêng. Nghĩa là, trong những yếu tố tạo nên bức tranh nghệ thuật của nhà
thơ thế nào cũng có một yếu tố trội bắt tất cả những yếu tố còn lại phải phục
tùng nó, phải phản chiếu ánh sáng của nó. Có điều, yếu tố chủ đạo này ở mỗi
thi nhân mỗi khác, tùy thuộc vào trời phú hay người phú.
- Trong dàn hợp xướng chung của Thơ Mới, mỗi nhà thơ đều có âm chủ riêng,độc
đáo của mình. Nếu cái nhìn nghệ thuật chung của cả dòng thơ như là một chuẩn, lOMoAR cPSD| 61527594
một phong cách chung cho cho cả một thời đại thi ca thì từng cái nhìn nghệ thuật
riêng của mỗi thi nhân là một lệch chuẩn. Và chính sự lệch chuẩn này tạo nê
phong cách cá nhân của nhà thơ.
- Phong cách là cá tính của chủ thể sáng tạo và sự tự do lựa chọn các phươngtiện
ngôn ngữ để thể hiện trong tác phẩm. Cá tính, cái chút riêng biệt nhỏ nhoi ấy là
tất cả. Đấy là chỗ cá nhân phân biệt mình với người khác, khẳng định mình như
một thực thể duy nhất không lặp lại. Cá nhân sẽ hoàn toàn tan rã nếu bị tước
mất cái riêng biệt ấy, cái cá tính ấy. Nếu trong nghệ thuật cổ truyền, nhà thơ
không thoát được những ràng buộc thủ công thì trong nghệ thuật lãng mạn, nó
là Hóa công, là Thượng đế.
- Thi nhân xưa chỉ có quyền và khả năng sáng tạo ở những tiểu tiết. Vẽ lá trổhoa
cho một ngôi nhà đã dựng sẵn: họ tìm cách bắt chước một thực tế đã bị quy
phạm hóa thành khuôn mẫu sao cho có nghệ thuật nhất. Thi nhân của một thời
đại mới có quyền xây dựng cho mình hẳn một thế giới khác, tương ứng hoặc
đối lập, với thế giới thực tại như là một mô hình thẩm mĩ để đối thoại với nó.
Vai trò của chủ thể sáng tạo thay đổi khiến mô hình thẩm mĩ của anh ta cũng
thay đổi thei. Đó không còn chỉ là một mô phỏng, phản ánh, mà chủ yếu là một
biểu hiện, tức xây dựng một thế giới theo cái nhìn nghệ thuật của riêng mình.
Trong Thơ Mới, không phải ai cũng có một thế giới nghệ thuật riêng, nhưng hầu
hết ai cũng có một cá tính nghệ thuật riêng, một phong cách riêng.
- Phong cách cũng là chỗ đặc dị, nơi chứa đựng mật số của tác phẩm vănchương.
Nếu thi phẩm là một thông điệp nghệ thuật mà nghệ sĩ ngôn từ muốn gửi đến
độc giả thì thông điệp đó phải được mã hóa. Sự vào mã của thi nhân có thể diễn
ra ở tầng hữu thức hoặc vô thức, thường thì ở cả hai. Nhiệm vụ của nhà phê bình
là cùng bạn đọc tìm được cách giải mã tác phẩm. Trên hành trình thám mã có
khi là vô tận này, độc giả sẽ được hưởng những khoái cảm thẩm mĩ. Nếu mật số
được cất giấu ở tầng hữu thức thì sự tìm kiếm cũng dễ vì chìa khóa chỉ có thể
để ở vài nơi quy định. Còn khi sự mã hóa diễn ra ở tầng hầm vô thức thì coi như
chìa khóa đã rơi vào rốn bể. Tuy nhiên, sự kiếm tìm càng khó bao nhiêu thì sự
đền đáp cũng theo đấy mà gia tăng bấy nhiếu.
4. Ba đỉnh cao Thơ Mới. lOMoAR cPSD| 61527594
a, Xuân Diệu – nỗi ám ảnh thời gian. b,
Nguyễn Bính – đường về chân quê. c,
Hàn Mặc Tử – một tư duy thơ độc đáo.
5. Khái quát.
IV. Xu hướng tiểu thuyết Tự lực văn đoàn.