Chủ quyền lãnh thổ quốc gia là gì? Các bộ phận lãnh thổ quốc gia - Kinh tế và pháp luật 11

Luật Biển Việt Nam đã dựa trên cơ sở của Luật Biển quốc tế để đưa ra những cách xác định các vùng biển hợp lý nhất, đảm bảo lợi thế và quyền của Việt Nam là tối đa nhất trong khuôn khổ được cộng đồng quốc tế công nhận. Tài liệu giúp bạn tham khảo ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!

Môn:

Kinh tế và Pháp luật 11 96 tài liệu

Thông tin:
6 trang 1 tuần trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Chủ quyền lãnh thổ quốc gia là gì? Các bộ phận lãnh thổ quốc gia - Kinh tế và pháp luật 11

Luật Biển Việt Nam đã dựa trên cơ sở của Luật Biển quốc tế để đưa ra những cách xác định các vùng biển hợp lý nhất, đảm bảo lợi thế và quyền của Việt Nam là tối đa nhất trong khuôn khổ được cộng đồng quốc tế công nhận. Tài liệu giúp bạn tham khảo ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!

12 6 lượt tải Tải xuống
Chủ quyền lãnh thổ quốc gia là gì? Các bộ phận lãnh thổ
quốc gia
1. Các quan điểm về chủ quyền quốc gia
a. Theo MALCOLM N. SHAW
“Luật pháp quốc tế được xây dựng dựa trên khái niệm quốc gia. Quốc gia lại được đặt trên nền
tảng của chủ quyền, được thể hiện như quyền lực tối cao của các thiết chế nhà nước bên trong
quốc gia đó bên ngoài quốc gia đó thể hiện quyền lực tối cao của quốc gia với cách một
chủ thể pháp lý.”
b. Theo JAMES CRAWFORD
“Thuật ngữ ‘Chủ quyền’ rất nhiều cách sử dụng. Theo nghĩa nguyên gốc thuật ngữ này chỉ đến
quyền lực tối cao bên trong một quốc gia thuộc về vấn đề của luật hiến pháp hơn pháp luật
quốc tế, vấn đề nhiều quốc gia không được xem một vấn đề thực sự. Theo nguyên
tắc phân chia quyền lực, không bất kỳ thiết chế nào bên trong một quốc gia quyền lực toàn
bộ; quyền lực sẽ được phân chia, nhưng quốc gia vẫn được xem ‘chủ quyền’. Luật pháp quốc
tế để vấn đề phân chi quyền lực trong nội bộ quốc gia cho từng quốc gia quyết định. Luật pháp
quốc tế xem mỗi quốc gia như một thực thể chủ quyền, theo nghĩa rằng quốc gia mặc nhiên
toàn bộ thẩm quyền để hoạt động không chỉ bên trong quốc gia còn phạm vi quốc tế, để
kết (hoặc không kết) các điều ước quốc tế các cam kết khác, để quan hệ (hoặc không quan
hệ) với quốc gia khác bằng nhiều cách thức, để đồng ý (hoặc không đồng ý) giải quyết các tranh
chấp quốc tế.”
c. PETER MALANCZUK
“Khi một luật quốc tế nói rằng quốc gia chủ quyền thì họ chỉ ý cho rằng quốc gia đó độc
lập, rằng quốc gia đó không phụ thuộc vào các quốc gia khác. Họ không ý cho rằng quốc
gia đó thể theo bất kỳ cách thức nào đứng trên pháp luật. Sẽ tốt hơn nếu từ ‘chủ quyền’ được
thay thế bằng từ ‘độc lập’. Trong chừng mực từ ‘chủ quyền’ nghĩa vượt quá nghĩa ‘độc lập’
thì từ này không phải một thuật ngữ pháp với một ý nghĩa cố định, thực chất một thuật
ngữ hoàn toàn mang tính cảm tính. Mọi người biết rằng các quốc gia rất hùng mạnh, nhưng việc
quá tập trung vào chủ quyền đã khuyếch đại quyền lực của họ khuyến khích họ lạm dụng nó…”
d. ANTONIO CASSESE
“Chủ quyền quốc gia không phải không bị giới hạn. Rất nhiều quy định của luật pháp quốc tế
đặt ra giới hạn đối với ch quyền. Bên cạnh các quy định điều ước, khác nhau giữa các Quốc gia,
các giới hạn còn được đặt ra với chủ quyền quốc gia từ các quy định tập quán. Chúng hệ quả
pháp tự nhiên của nghĩa vụ tôn trọng chủ quyền của các Quốc gia khác… Một Quốc gia thể
không được thực thi quyền lực chủa quyền của mình, hay can thiệp vào, các hoạt động được thực
hiện hợp pháp bở Quốc gia khác trên lãnh thổ của chính mình. Sự bất lực pháp này bắt nguồn
từ nguyên tắc chung áp đặt nghĩa vụ tôn trọng sự độc lập danh dự của các Quốc gia khác (par
in parem non habet imperium, nghĩa là, những người bình đẳng không thẩm quyền với những
người bình đẳng khác).”
e. Theo ROBERT BECKMAN và DAGMAR BUTTE
“Chủ quyền quyền độc quyền thực thi quyền lực chính trị tối cao đối với một lãnh thổ xác định
(vùng đất, không phận một số khu vực biển nhất định như lãnh hải) con người bên trong
lãnh thổ đó. Không một Quốc gia khác nào th quyền lực chính trị chính thức bên trong
Quốc gia đó. Do đó, chủ quyền liên quan chặt chẽ đến khái niệm độc lập chính trị.”
2. Chủ quyền lãnh thổ quốc gia
Quốc gia thực thể pháp bao gồm ba yếu tố cấu thành: lãnh thổ, dân quyền lực công
cộng. Quốc gia là chủ thể căn bản nhất của luật quốc tế. Chủ quyền quốc gia là đặc trưng cơ bản,
quan trọng nhất của quốc gia. Theo luật pháp quốc tế hiện đại, tất cả các quốc gia đều bình đẳng
về chủ quyền.
Quốc gia khi được dùng để chỉ một nước hay đất nước. Hai khái niệm đó có thể được dùng thay
thế cho nhau.
Lãnh thổ quốc gia phạm vi không gian được giới hạn bởi biên giới quốc gia, thuộc chủ quyền
hoàn toàn và đầy đủ của một quốc gia. Lãnh thổ quốc gia Việt Nam bao gồm : vùng đất quốc gia,
vùng biển quốc gia (nội thuỷ và lãnh hải), vùng trời quốc gia, ngoài ra còn gồm lãnh thổ quốc gia
đặc biệt.
Vùng đất quốc gia (kể cả các đảo quần đảo) phần mặt đất và lòng đất của đất liền (lục địa),
của đảo, quần đảo thuộc chủ quyền một quốc gia ; bộ phận quan trọng nhất cấu thành nên lãnh thổ
quốc gia, làm sở để xác định vùng trời quốc gia, nội thuỷ, lãnh hải. ng đất quốc gia thể
gồm những lục địa ở những điểm khác nhau (tách rời nhau), nhưng các vùng đất đó đều thuộc lãnh
thổ thống nhất của quốc gia ; hoặc cũng thể chỉ bao gồm các đảo, quần đảo ngoài biển hợp
thành quốc gia quần đảo. Việt Nam là một quốc gia nằm trên bán đảo Đông Dương, ven biển Thái
Bình Dương, vùng đất quốc gia vừa đất liền, vừa đảo, vừa quần đảo, bao gồm từ đỉnh
Lũng Cú, Giang đến mũiMau ; các đảo như Phú Quốc, Cái n... quần đảo Hoàng Sa,
Trường Sa.
Việt Nam ba mặt trông ra biển: Đông, Nam Tây Nam, với bờ biển dài 3.260 km, từ Móng
Cái đến Hà Tiên. Phần Biển Đông thuộc chủ quyền Việt Nam mở rộng về phía Đông Đông
Nam, có thềm lục địa, các đảo và quần đảo lớn nhỏ bao bọc. Riêng Vịnh Bắc Bộ đã tập trung một
quần thể gần 3.000 hòn đảo trong khu vực Vịnh Hạ Long, Bái Tử Long; các đảo Cát Hải, Cát Bà,
Bạch Long Vĩ; xa hơn là quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa; phía y Nam và Nam các nhóm
đảo Côn Sơn, Phú Quốc và Thổ Chu.
3. Bộ phận của lãnh thổ quốc gia
Nội thuỷ là vùng biển nằm ở phía trong của đường cơ sở để tính chiều rộng lãnh hải. Đường cơ sở
là đường gãy khúc nối liền các điểm được lựa chọn tại ngấn nước thuỷ triều thấp nhất dọc theo bờ
biển và các đảo gần bờ do Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam xác định và công
bố1. Vùng nước thuộc nội thuỷ có chế độ pháp như lãnh thổ trên đất liền. Nội thuỷ của Việt Nam
bao gồm: Các vùng nước phía trong đường sở; vùng nước cảng được giới hạn bởi đường nối
các điểm nhô ra ngoài khơi xa nhất của các công trình thiết bị thường xuyên là bộ phận hữu cơ của
hệ thống cảng.
Lãnh hải là vùng biển có chiều rộng 12 hải tính từ đường cơ sở, chế độ pháp như lãnh thổ
đất liền. Ranh giới ngoài của lãnh hải biên giới quốc gia trên biển. Trong lãnh hải, tàu thuyền
của các quốc gia khác được hưởng quyền qua lại không gây hại thường đi theo tuyến phân
luồng giao thông biển của nước ven biển. Lãnh hải của Việt Nam bao gồm lãnh hải của đất liền,
lãnh hải của đảo, lãnh hải của quần đảo. Nước ta có thềm lục địa rộng lớn, là vùng đất và lòng đất
đáy biển kéo dài tự nhiên từ lãnh thổ đất liền ra đến bờ ngoài của rìa lục địa, giới hạn 200 hải
tính từ đường cơ sở lãnh hải. Việt Nam có chủ quyền và quyền tài phán quốc gia đối với thềm lục
địa; chủ quyền của nước ta đối với thềm lục địa đương nhiên, không phụ thuộc vào việc tuyên
bố hay không.
Lãnh thổ quốc gia đặc biệt loại lãnh thổ đặc thù của một quốc gia tồn tại hợp pháp trong lãnh
thổ một quốc gia khác hoặc trên vùng biển, vùng trời quốc tế. Ví dụ như trụ sở làm việc và nơi
của cơ quan đại diện ngoại giao.
Vùng trời quốc gia khoảng không gian phía trên lãnh thổ quốc gia; bộ phận cấu thành lãnh
thổ quốc gia và thuộc chủ quyền hoàn toàn của quốc gia đó. Việc làm chủ vùng trời quốc gia trên
vùng lãnh thổ quốc gia đặc biệt được thực hiện theo quy định chung của công ước quốc tế.
Chủ quyền quốc gia là quyền làm chủ một cách độc lập, toàn vẹn và đầy đủ về mọi mặt lập pháp,
hành pháp và tư pháp của một quốc gia trong phạm vi lãnh thổ của quốc gia đó. Quốc gia thể hiện
chủ quyền của mình trên mọi phương diện kinh tế, chính trị, quân sự, ngoại giao.
Tất cả các nước, không tính đến quy lãnh thổ, dân số, chế độ hội, đều chủ quyền quốc
gia. Chủ quyền quốc gia là đặc trưng chính trị và pháp lí thiết yếu của một quốc gia độc lập, được
thể hiện trong hoạt động của các quan nhà nước trong hệ thống pháp luật quốc gia. Tôn trọng
chủ quyền quốc gia là một nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế. Hiến chương Liên hợp quốc
khẳng định nguyên tắc bình đẳng về chủ quyền giữa các quốc gia; không một quốc gia nào được
can thiệp hoặc khống chế, xâm phạm chủ quyền của một quốc gia khác.
=> Kết luận: Vậy chủ quyền lãnh thổ quốc gia là một bộ phận của chủ quyền quốc gia, khẳng định
quyền làm chủ của quốc gia đó trên vùng lãnh thổ của mình. Mỗi nước toàn quyền định đoạt
mọi việc trên lãnh thổ của mình, không được xâm phạm lãnh thổ can thiệp vào công việc nội
bộ của các quốc gia khác. Chủ quyền lãnh thổ quốc gia dừng lại ở biên giới quốc gia; mọi tư tưởng
và hành động thể hiện chủ quyền quốc gia vượt quá biên giới quốc gia của mình đều là hành động
xâm phạm chủ quyền của các quốc gia khác và trái với công ước quốc tế. Chủ quyền lãnh thổ quốc
gia tuyệt đối, bất khả xâm phạm; tôn trọng chủ quyền lãnh thổ quốc gia nguyên tắc bản
trong quan hệ và luật pháp quốc tế.
4. Quyền tài phán của quốc gia ven biển
Quyền tài phán thẩm quyền riêng biệt của quốc gia ven biển trong việc đưa ra các quyết định,
quy phạm và giám sát việc thực hiện mọi hoạt động trên biển thuộc quyền chủ quyền của quốc gia
mình như: cấp phép, giải quyết xđối với một số hoạt động cụ thể, các đạo nhân tạo, thiết
bị và công trình trên biển, trong đó có việc lắp đặt và sử dụng các đảo nhân tạo, bảo vệ và giữ gìn
môi trường biển trong vùng đặc quyền kinh tế hay thềm lục địa của quốc gia đó, điều đó được quy
định cụ thể tại Công ước của Liên hợp quốc về luật Biển năm 1982 (Công ước năm 1982).
Theo quy định tại Công ước năm 1982, quyền tài phán của quốc gia trên biển bao gồm:
Thứ nhất, quyền tài phán của quốc gia trong nội thủy
Thứ hai, quyền tài phán của quốc gia ven biển trong vùng lãnh hải
Thứ ba, quyền tài phán của quốc gia ven biển trong vùng tiếp giáp lãnh hải
Quốc gia ven biển có quyền thi hành sự kiểm soát cần thiết nhằm: ngăn ngừa việc vi phạm các luật
quy định về hải quan, thuế khóa, nhập hay y tế trên lãnh thổ hay trong lãnh hải của mình;
trừng trị việc vi phạm các luật quy định nói trên xảy ra trên lãnh thổ hay trong lãnh hải của
mình.
Thứ tư, quyền tài phán của quốc gia ven biển trong vùng đặc quyền kinh tế
Theo quy định tại điểm b, khoản 1 Điều 56, Công ước năm 1982 quốc gia ven biển các quyền
tài phán: (1) Lắp đặt và sử dụng các đảo nhân tạo, các thiết bị và công trình; (2) Nghiên cứu khoa
học về biển; (3) Bảo vệ và giữ gìn môi trường biển.
Công ước năm 1982 còn quy định, trong vùng đặc quyền kinh tế của quốc gia ven biển, tất cả các
quốc gia, bất kể quốc gia biển hay không biển, trong những điều kiện do các quy định
thích hợp của Công ước Luật biển năm 1982 trù định, đều được hưởng 3 quyền tự do bản: (i)
Quyền tự do hàng hải; (ii) Quyền tự do hàng không; (3) Quyền tự do đặt dây cáp ống dẫn ngầm.
Trong khi thực hiện các quyền tài phán của mình, quốc gia ven biển phải tôn trọng các quyền tự
do của các quốc gia khác và ngược lại.
Thư năm, quyền tài phán của quốc gia ven biển trong thềm lục địa
Điều 77 Công ước năm 1982 quy định trong thềm lục địa của mình, các quốc gia ven biển quyền
chủ quyền đối với việc thăm dò, khai thác, bảo vệ nguồn tài nguyên thiên nhiên ở thềm lục địa của
mình. Nghĩa các quốc gia ven biển không thăm dò thêm lục địa hay không khai thác tài nguyên
thiên nhiên của thềm lục địa thì không ai có quyền tiến hành các hoạt động trên, nếu không có sự
thỏa thuận ràng của quốc gia đó. Các quyền của quốc gia ven biển đối với thềm lục địa không
phụ thuộc vào sự chiếm hữu thực sự hay danh nghĩa, cũng như vào bất cứ tuyên bố rõ ràng nào.
Các tài nguyên thiên nhiên phần y gồm các tài nguyên thiên nhiên khoáng sản và các tài
nguyên thiên nhiên không sinh vật khác của đáy biển và lòng đất dưới đáy biển, cũng như các sinh
vật thuộc loại định cư, nghĩa là những sinh vật ở thời kỳ nào, ở thời kỳ có thể đánh bắt được hoặc
nằm bất động đáy hoặc lòng đất dưới đáy, hoặc không khả năng di chuyển nếu không
khả năng tiếp xúc với đáy hay lòng đáy dưới đáy biển.
5. Quyền tài phán của quốc gia ven biển theo quy định của pháp luật Việt Nam
Kế thừa quy định tại Điều 27 28 Công ước năm 1982, Luật Biển Việt Nam năm 2012 đã
những quy định cụ thể về quyền tài phán hình sự và dân sự đối với tàu thuyền nước ngoài đối với
vùng biển thuộc quyền tài phán của Việt Nam, đó là:
Thứ nhất, quyền tài phán hình sự đối với tàu thuyền nước ngoài
Trong phạm vi, nhiệm vụ, quyền hạn của mình, lực lượng tuần tra, kiểm soát trên biển quyền
tiến hành các biện pháp để bắt người, điều tra đối với tội phạm xảy ra trên tàu thuyền nước ngoài
sau khi rời khỏi nội thủy và đang đi trong lãnh hải Việt Nam.
Lực lượng tuần tra, kiểm soát trên biển không được tiến hành bất kỳ biện pháp nào trên tàu thuyền
nước ngoài đang đi trong lãnh hải Việt Nam để bắt giữ người hay điều tra việc phạm tội đã xảy ra
trước khi tàu thuyền đó đi vào lãnh hải Việt Nam nếu như tàu thuyền đó xuất phát từ một cảng
nước ngoài và chỉ đi trong lãnh hải mà không đi vào nội thủy Việt Nam, trừ trường hợp cần ngăn
ngừa, hạn chế ô nhiễm môi trường biển hoặc để thực hiện quyền tài phán quốc gia theo quy định
của pháp luật.
Thứ hai, quyền tài phán dân sự đối với tàu thuyền nước ngoài
Lực lượng tuần tra, kiểm soát trên biển không được buộc tàu thuyền nước ngoài đang đi trong lãnh
hải phải dừng lại hoặc thay đổi hành trình chỉ vì mục đích thực hiện quyền tài phán dân sự đối với
cá nhân đang ở trên tàu thuyền đó.
Lực lượng tuần tra, kiểm soát trên biển không được tiến hành các biện pháp bắt giữ hay xlý về
mặt dân sự đối với tàu thuyền nước ngoài đang đi trong vùng biển Việt Nam, trừ nội thủy, trừ
trường hợp việc thi hành các biện pháp này liên quan đến nghĩa vụ đã cam kết hay trách nhiệm
dân sự mà tàu thuyền phải đảm nhận trong khi đi qua hoặc để được đi qua vùng biển Việt Nam.
Lực lượng tuần tra, kiểm soát trên biển có thể áp dụng các biện pháp bắt giữ hay xử lý tàu thuyền
nước ngoài nhằm mục đích thực hiện quyền tài phán dân sự nếu tàu thuyền đó đang đậu trong lãnh
hải hoặc đi qua lãnh hải sau khi rời khỏi nội thủy Việt Nam.
=> Kết luận: Luật Biển Việt Nam đã dựa trên sở của Luật Biển quốc tế để đưa ra những cách
xác định các vùng biển hợp lý nhất, đảm bảo lợi thế quyền của Việt Nam tối đa nhất trong
khuôn khổ được cộng đồng quốc tế công nhận, từ đó ta thấy, Luật biển năm 1982 chính Công
ước chung cho tất cả các chủ thể của Luật Quốc tế là căn cứ, chế định pháp lý bản để các
nhà làm luật đưa ra những quy định cụ thể cho tình hình Việt Nam. Sự tương thích về nội thủy và
lãnh hải ở đây là rất lớn, bởi các quy định của Luật biển Việt Nam năm 2012 đều căn cứ trên các
quy định của Công ước quy định về nội thủy và lãnh hải. Tuy nhiên, hiện nay nh hình Biển Đông
nhiều vấn đề phức tạp, các nước biểu hiện không thực thi Công ước năm1982, tàu thuyền
các nước đi vào các vùng biển thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán…đã có những
hành vi vi phạm pháp luật của quốc gia ven biển, trong đó có Việt Nam. Hoạt động thăm dò, khai
thác dầu khí, đánh bắt hải sản trái phép, xâm phạm kinh tế biển Việt Nam. Do vậy, thời gian tới
cần phải ban hành Luật Kinh tế biển Việt Nam để xây dựng một khung pháp lý cho các hoạt động
trên biển, yêu cầu các quốc gia cần tuân thủ thực thi các chế độ pháp luật của Việt Nam theo đúng
quy chế mà các quốc gia đã ký kết.
| 1/6

Preview text:

Chủ quyền lãnh thổ quốc gia là gì? Các bộ phận lãnh thổ quốc gia
1. Các quan điểm về chủ quyền quốc gia
a. Theo MALCOLM N. SHAW
“Luật pháp quốc tế được xây dựng dựa trên khái niệm quốc gia. Quốc gia lại được đặt trên nền
tảng của chủ quyền, được thể hiện như quyền lực tối cao của các thiết chế nhà nước bên trong
quốc gia đó và bên ngoài quốc gia đó thể hiện là quyền lực tối cao của quốc gia với tư cách một chủ thể pháp lý.”
b. Theo JAMES CRAWFORD
“Thuật ngữ ‘Chủ quyền’ có rất nhiều cách sử dụng. Theo nghĩa nguyên gốc thuật ngữ này chỉ đến
quyền lực tối cao bên trong một quốc gia – thuộc về vấn đề của luật hiến pháp hơn là pháp luật
quốc tế, và là vấn đề mà ở nhiều quốc gia không được xem là một vấn đề thực sự. Theo nguyên
tắc phân chia quyền lực, không có bất kỳ thiết chế nào bên trong một quốc gia có quyền lực toàn
bộ; quyền lực sẽ được phân chia, nhưng quốc gia vẫn được xem là có ‘chủ quyền’. Luật pháp quốc
tế để vấn đề phân chi quyền lực trong nội bộ quốc gia cho từng quốc gia quyết định. Luật pháp
quốc tế xem mỗi quốc gia như một thực thể có chủ quyền, theo nghĩa rằng quốc gia mặc nhiên có

toàn bộ thẩm quyền để hoạt động không chỉ bên trong quốc gia mà còn ở phạm vi quốc tế, để ký
kết (hoặc không ký kết) các điều ước quốc tế và các cam kết khác, để quan hệ (hoặc không quan
hệ) với quốc gia khác bằng nhiều cách thức, để đồng ý (hoặc không đồng ý) giải quyết các tranh chấp quốc tế.”
c. PETER MALANCZUK
“Khi một luật sư quốc tế nói rằng quốc gia có chủ quyền thì họ chỉ có ý cho rằng quốc gia đó độc
lập, và rằng quốc gia đó không phụ thuộc vào các quốc gia khác. Họ không có ý cho rằng quốc

gia đó có thể theo bất kỳ cách thức nào đứng trên pháp luật. Sẽ tốt hơn nếu từ ‘chủ quyền’ được
thay thế bằng từ ‘độc lập’. Trong chừng mực mà từ ‘chủ quyền’ có nghĩa vượt quá nghĩa ‘độc lập’
thì từ này không phải là một thuật ngữ pháp lý với một ý nghĩa cố định, mà thực chất là một thuật
ngữ hoàn toàn mang tính cảm tính. Mọi người biết rằng các quốc gia rất hùng mạnh, nhưng việc
quá tập trung vào chủ quyền đã khuyếch đại quyền lực của họ và khuyến khích họ lạm dụng nó…” d. ANTONIO CASSESE
“Chủ quyền quốc gia không phải là không bị giới hạn. Rất nhiều quy định của luật pháp quốc tế
đặt ra giới hạn đối với chủ quyền. Bên cạnh các quy định điều ước, khác nhau giữa các Quốc gia,

các giới hạn còn được đặt ra với chủ quyền quốc gia từ các quy định tập quán. Chúng là hệ quả
pháp lý tự nhiên của nghĩa vụ tôn trọng chủ quyền của các Quốc gia khác… Một Quốc gia có thể
không được thực thi quyền lực chủa quyền của mình, hay can thiệp vào, các hoạt động được thực
hiện hợp pháp bở Quốc gia khác trên lãnh thổ của chính mình. Sự bất lực pháp lý này bắt nguồn
từ nguyên tắc chung áp đặt nghĩa vụ tôn trọng sự độc lập và danh dự của các Quốc gia khác (par

in parem non habet imperium, nghĩa là, những người bình đẳng không có thẩm quyền với những
người bình đẳng khác).”
e. Theo ROBERT BECKMAN và DAGMAR BUTTE
“Chủ quyền là quyền độc quyền thực thi quyền lực chính trị tối cao đối với một lãnh thổ xác định
(vùng đất, không phận và một số khu vực biển nhất định như lãnh hải) và con người bên trong
lãnh thổ đó. Không một Quốc gia khác nào có thể có quyền lực chính trị chính thức bên trong
Quốc gia đó. Do đó, chủ quyền có liên quan chặt chẽ đến khái niệm độc lập chính trị.”
2. Chủ quyền lãnh thổ quốc gia
Quốc gia là thực thể pháp lí bao gồm ba yếu tố cấu thành: lãnh thổ, dân cư và quyền lực công
cộng. Quốc gia là chủ thể căn bản nhất của luật quốc tế. Chủ quyền quốc gia là đặc trưng cơ bản,
quan trọng nhất của quốc gia. Theo luật pháp quốc tế hiện đại, tất cả các quốc gia đều bình đẳng về chủ quyền.
Quốc gia có khi được dùng để chỉ một nước hay đất nước. Hai khái niệm đó có thể được dùng thay thế cho nhau.
Lãnh thổ quốc gia là phạm vi không gian được giới hạn bởi biên giới quốc gia, thuộc chủ quyền
hoàn toàn và đầy đủ của một quốc gia. Lãnh thổ quốc gia Việt Nam bao gồm : vùng đất quốc gia,
vùng biển quốc gia (nội thuỷ và lãnh hải), vùng trời quốc gia, ngoài ra còn gồm lãnh thổ quốc gia đặc biệt.
Vùng đất quốc gia (kể cả các đảo và quần đảo) là phần mặt đất và lòng đất của đất liền (lục địa),
của đảo, quần đảo thuộc chủ quyền một quốc gia ; bộ phận quan trọng nhất cấu thành nên lãnh thổ
quốc gia, làm cơ sở để xác định vùng trời quốc gia, nội thuỷ, lãnh hải. Vùng đất quốc gia có thể
gồm những lục địa ở những điểm khác nhau (tách rời nhau), nhưng các vùng đất đó đều thuộc lãnh
thổ thống nhất của quốc gia ; hoặc cũng có thể chỉ bao gồm các đảo, quần đảo ở ngoài biển hợp
thành quốc gia quần đảo. Việt Nam là một quốc gia nằm trên bán đảo Đông Dương, ven biển Thái
Bình Dương, có vùng đất quốc gia vừa là đất liền, vừa là đảo, vừa là quần đảo, bao gồm từ đỉnh
Lũng Cú, Hà Giang đến mũi Cà Mau ; các đảo như Phú Quốc, Cái Lân... và quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa.
Việt Nam có ba mặt trông ra biển: Đông, Nam và Tây Nam, với bờ biển dài 3.260 km, từ Móng
Cái đến Hà Tiên. Phần Biển Đông thuộc chủ quyền Việt Nam mở rộng về phía Đông và Đông
Nam, có thềm lục địa, các đảo và quần đảo lớn nhỏ bao bọc. Riêng Vịnh Bắc Bộ đã tập trung một
quần thể gần 3.000 hòn đảo trong khu vực Vịnh Hạ Long, Bái Tử Long; các đảo Cát Hải, Cát Bà,
Bạch Long Vĩ; xa hơn là quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa; phía Tây Nam và Nam có các nhóm
đảo Côn Sơn, Phú Quốc và Thổ Chu.
3. Bộ phận của lãnh thổ quốc gia
Nội thuỷ là vùng biển nằm ở phía trong của đường cơ sở để tính chiều rộng lãnh hải. Đường cơ sở
là đường gãy khúc nối liền các điểm được lựa chọn tại ngấn nước thuỷ triều thấp nhất dọc theo bờ
biển và các đảo gần bờ do Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam xác định và công
bố1. Vùng nước thuộc nội thuỷ có chế độ pháp lí như lãnh thổ trên đất liền. Nội thuỷ của Việt Nam
bao gồm: Các vùng nước phía trong đường cơ sở; vùng nước cảng được giới hạn bởi đường nối
các điểm nhô ra ngoài khơi xa nhất của các công trình thiết bị thường xuyên là bộ phận hữu cơ của hệ thống cảng.
Lãnh hải là vùng biển có chiều rộng 12 hải lí tính từ đường cơ sở, có chế độ pháp lí như lãnh thổ
đất liền. Ranh giới ngoài của lãnh hải là biên giới quốc gia trên biển. Trong lãnh hải, tàu thuyền
của các quốc gia khác được hưởng quyền qua lại không gây hại và thường đi theo tuyến phân
luồng giao thông biển của nước ven biển. Lãnh hải của Việt Nam bao gồm lãnh hải của đất liền,
lãnh hải của đảo, lãnh hải của quần đảo. Nước ta có thềm lục địa rộng lớn, là vùng đất và lòng đất
đáy biển kéo dài tự nhiên từ lãnh thổ đất liền ra đến bờ ngoài của rìa lục địa, giới hạn 200 hải lí
tính từ đường cơ sở lãnh hải. Việt Nam có chủ quyền và quyền tài phán quốc gia đối với thềm lục
địa; chủ quyền của nước ta đối với thềm lục địa là đương nhiên, không phụ thuộc vào việc có tuyên bố hay không.
Lãnh thổ quốc gia đặc biệt là loại lãnh thổ đặc thù của một quốc gia tồn tại hợp pháp trong lãnh
thổ một quốc gia khác hoặc trên vùng biển, vùng trời quốc tế. Ví dụ như trụ sở làm việc và nơi ở
của cơ quan đại diện ngoại giao.
Vùng trời quốc gia là khoảng không gian phía trên lãnh thổ quốc gia; là bộ phận cấu thành lãnh
thổ quốc gia và thuộc chủ quyền hoàn toàn của quốc gia đó. Việc làm chủ vùng trời quốc gia trên
vùng lãnh thổ quốc gia đặc biệt được thực hiện theo quy định chung của công ước quốc tế.
Chủ quyền quốc gia là quyền làm chủ một cách độc lập, toàn vẹn và đầy đủ về mọi mặt lập pháp,
hành pháp và tư pháp của một quốc gia trong phạm vi lãnh thổ của quốc gia đó. Quốc gia thể hiện
chủ quyền của mình trên mọi phương diện kinh tế, chính trị, quân sự, ngoại giao.
Tất cả các nước, không tính đến quy mô lãnh thổ, dân số, chế độ xã hội, đều có chủ quyền quốc
gia. Chủ quyền quốc gia là đặc trưng chính trị và pháp lí thiết yếu của một quốc gia độc lập, được
thể hiện trong hoạt động của các cơ quan nhà nước và trong hệ thống pháp luật quốc gia. Tôn trọng
chủ quyền quốc gia là một nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế. Hiến chương Liên hợp quốc
khẳng định nguyên tắc bình đẳng về chủ quyền giữa các quốc gia; không một quốc gia nào được
can thiệp hoặc khống chế, xâm phạm chủ quyền của một quốc gia khác.
=> Kết luận: Vậy chủ quyền lãnh thổ quốc gia là một bộ phận của chủ quyền quốc gia, khẳng định
quyền làm chủ của quốc gia đó trên vùng lãnh thổ của mình. Mỗi nước có toàn quyền định đoạt
mọi việc trên lãnh thổ của mình, không được xâm phạm lãnh thổ và can thiệp vào công việc nội
bộ của các quốc gia khác. Chủ quyền lãnh thổ quốc gia dừng lại ở biên giới quốc gia; mọi tư tưởng
và hành động thể hiện chủ quyền quốc gia vượt quá biên giới quốc gia của mình đều là hành động
xâm phạm chủ quyền của các quốc gia khác và trái với công ước quốc tế. Chủ quyền lãnh thổ quốc
gia là tuyệt đối, bất khả xâm phạm; tôn trọng chủ quyền lãnh thổ quốc gia là nguyên tắc cơ bản
trong quan hệ và luật pháp quốc tế.
4. Quyền tài phán của quốc gia ven biển
Quyền tài phán là thẩm quyền riêng biệt của quốc gia ven biển trong việc đưa ra các quyết định,
quy phạm và giám sát việc thực hiện mọi hoạt động trên biển thuộc quyền chủ quyền của quốc gia
mình như: cấp phép, giải quyết và xử lý đối với một số hoạt động cụ thể, các đạo nhân tạo, thiết
bị và công trình trên biển, trong đó có việc lắp đặt và sử dụng các đảo nhân tạo, bảo vệ và giữ gìn
môi trường biển trong vùng đặc quyền kinh tế hay thềm lục địa của quốc gia đó, điều đó được quy
định cụ thể tại Công ước của Liên hợp quốc về luật Biển năm 1982 (Công ước năm 1982).
Theo quy định tại Công ước năm 1982, quyền tài phán của quốc gia trên biển bao gồm:
Thứ nhất, quyền tài phán của quốc gia trong nội thủy
Thứ hai, quyền tài phán của quốc gia ven biển trong vùng lãnh hải
Thứ ba, quyền tài phán của quốc gia ven biển trong vùng tiếp giáp lãnh hải
Quốc gia ven biển có quyền thi hành sự kiểm soát cần thiết nhằm: ngăn ngừa việc vi phạm các luật
và quy định về hải quan, thuế khóa, nhập cư hay y tế trên lãnh thổ hay trong lãnh hải của mình;
trừng trị việc vi phạm các luật và quy định nói trên xảy ra trên lãnh thổ hay trong lãnh hải của mình.
Thứ tư, quyền tài phán của quốc gia ven biển trong vùng đặc quyền kinh tế
Theo quy định tại điểm b, khoản 1 Điều 56, Công ước năm 1982 quốc gia ven biển có các quyền
tài phán: (1) Lắp đặt và sử dụng các đảo nhân tạo, các thiết bị và công trình; (2) Nghiên cứu khoa
học về biển; (3) Bảo vệ và giữ gìn môi trường biển.
Công ước năm 1982 còn quy định, trong vùng đặc quyền kinh tế của quốc gia ven biển, tất cả các
quốc gia, bất kể là quốc gia có biển hay không có biển, trong những điều kiện do các quy định
thích hợp của Công ước Luật biển năm 1982 trù định, đều được hưởng 3 quyền tự do cơ bản: (i)
Quyền tự do hàng hải; (ii) Quyền tự do hàng không; (3) Quyền tự do đặt dây cáp và ống dẫn ngầm.
Trong khi thực hiện các quyền tài phán của mình, quốc gia ven biển phải tôn trọng các quyền tự
do của các quốc gia khác và ngược lại.
Thư năm, quyền tài phán của quốc gia ven biển trong thềm lục địa
Điều 77 Công ước năm 1982 quy định trong thềm lục địa của mình, các quốc gia ven biển có quyền
chủ quyền đối với việc thăm dò, khai thác, bảo vệ nguồn tài nguyên thiên nhiên ở thềm lục địa của
mình. Nghĩa là các quốc gia ven biển không thăm dò thêm lục địa hay không khai thác tài nguyên
thiên nhiên của thềm lục địa thì không ai có quyền tiến hành các hoạt động trên, nếu không có sự
thỏa thuận rõ ràng của quốc gia đó. Các quyền của quốc gia ven biển đối với thềm lục địa không
phụ thuộc vào sự chiếm hữu thực sự hay danh nghĩa, cũng như vào bất cứ tuyên bố rõ ràng nào.
Các tài nguyên thiên nhiên ở phần này gồm các tài nguyên thiên nhiên khoáng sản và các tài
nguyên thiên nhiên không sinh vật khác của đáy biển và lòng đất dưới đáy biển, cũng như các sinh
vật thuộc loại định cư, nghĩa là những sinh vật ở thời kỳ nào, ở thời kỳ có thể đánh bắt được hoặc
nằm bất động ở đáy hoặc lòng đất dưới đáy, hoặc là không có khả năng di chuyển nếu không có
khả năng tiếp xúc với đáy hay lòng đáy dưới đáy biển.
5. Quyền tài phán của quốc gia ven biển theo quy định của pháp luật Việt Nam
Kế thừa quy định tại Điều 27 và 28 Công ước năm 1982, Luật Biển Việt Nam năm 2012 đã có
những quy định cụ thể về quyền tài phán hình sự và dân sự đối với tàu thuyền nước ngoài đối với
vùng biển thuộc quyền tài phán của Việt Nam, đó là:
Thứ nhất, quyền tài phán hình sự đối với tàu thuyền nước ngoài
Trong phạm vi, nhiệm vụ, quyền hạn của mình, lực lượng tuần tra, kiểm soát trên biển có quyền
tiến hành các biện pháp để bắt người, điều tra đối với tội phạm xảy ra trên tàu thuyền nước ngoài
sau khi rời khỏi nội thủy và đang đi trong lãnh hải Việt Nam.
Lực lượng tuần tra, kiểm soát trên biển không được tiến hành bất kỳ biện pháp nào trên tàu thuyền
nước ngoài đang đi trong lãnh hải Việt Nam để bắt giữ người hay điều tra việc phạm tội đã xảy ra
trước khi tàu thuyền đó đi vào lãnh hải Việt Nam nếu như tàu thuyền đó xuất phát từ một cảng
nước ngoài và chỉ đi trong lãnh hải mà không đi vào nội thủy Việt Nam, trừ trường hợp cần ngăn
ngừa, hạn chế ô nhiễm môi trường biển hoặc để thực hiện quyền tài phán quốc gia theo quy định của pháp luật.
Thứ hai, quyền tài phán dân sự đối với tàu thuyền nước ngoài
Lực lượng tuần tra, kiểm soát trên biển không được buộc tàu thuyền nước ngoài đang đi trong lãnh
hải phải dừng lại hoặc thay đổi hành trình chỉ vì mục đích thực hiện quyền tài phán dân sự đối với
cá nhân đang ở trên tàu thuyền đó.
Lực lượng tuần tra, kiểm soát trên biển không được tiến hành các biện pháp bắt giữ hay xử lý về
mặt dân sự đối với tàu thuyền nước ngoài đang đi trong vùng biển Việt Nam, trừ nội thủy, trừ
trường hợp việc thi hành các biện pháp này liên quan đến nghĩa vụ đã cam kết hay trách nhiệm
dân sự mà tàu thuyền phải đảm nhận trong khi đi qua hoặc để được đi qua vùng biển Việt Nam.
Lực lượng tuần tra, kiểm soát trên biển có thể áp dụng các biện pháp bắt giữ hay xử lý tàu thuyền
nước ngoài nhằm mục đích thực hiện quyền tài phán dân sự nếu tàu thuyền đó đang đậu trong lãnh
hải hoặc đi qua lãnh hải sau khi rời khỏi nội thủy Việt Nam.
=> Kết luận: Luật Biển Việt Nam đã dựa trên cơ sở của Luật Biển quốc tế để đưa ra những cách
xác định các vùng biển hợp lý nhất, đảm bảo lợi thế và quyền của Việt Nam là tối đa nhất trong
khuôn khổ được cộng đồng quốc tế công nhận, từ đó ta thấy, Luật biển năm 1982 chính là Công
ước chung cho tất cả các chủ thể của Luật Quốc tế và là căn cứ, chế định pháp lý cơ bản để các
nhà làm luật đưa ra những quy định cụ thể cho tình hình Việt Nam. Sự tương thích về nội thủy và
lãnh hải ở đây là rất lớn, bởi các quy định của Luật biển Việt Nam năm 2012 đều căn cứ trên các
quy định của Công ước quy định về nội thủy và lãnh hải. Tuy nhiên, hiện nay tình hình Biển Đông
có nhiều vấn đề phức tạp, các nước có biểu hiện không thực thi Công ước năm1982, tàu thuyền
các nước đi vào các vùng biển thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán…đã có những
hành vi vi phạm pháp luật của quốc gia ven biển, trong đó có Việt Nam. Hoạt động thăm dò, khai
thác dầu khí, đánh bắt hải sản trái phép, xâm phạm kinh tế biển Việt Nam. Do vậy, thời gian tới
cần phải ban hành Luật Kinh tế biển Việt Nam để xây dựng một khung pháp lý cho các hoạt động
trên biển, yêu cầu các quốc gia cần tuân thủ thực thi các chế độ pháp luật của Việt Nam theo đúng
quy chế mà các quốc gia đã ký kết.