lOMoARcPSD| 60692662
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 1
1. Đặc điểm miền Bắc bước vào thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội .................. 2
1.1. Thuận lợi ........................................................................................................ 2
1.2. Khó khăn ........................................................................................................ 2
2. Chủ trương đúng đắn của Đảng đưa miền Bắc quá độ lên chủ nghiã xã hội sau
năm 1954 ............................................................................................................... 3
2.1. Đường lối chung cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc sau 1954 ........... 3
2. 2. Chủ trương và sự chđạo của Đảng xây dựng chủ nghĩa xã hội miền Bắc
từ1954 đến 1975 .................................................................................................... 5
3. Kinh nghiệm của quá trình Đảng lãnh đạo cách mạng hội chủ nghĩa
miềnBắc .............................................................................................................. 21
KẾT LUẬN ........................................................................................................ 23
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................... 24
MỞ ĐẦU
Trung thành với Cương lĩnh chính trị đã vạch ra từ năm 1930, sau khi cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi, Đảng ta chủ trương đưa miền Bắc lên
chủ nghĩa xã hội, nhằm đem lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân miền
Bắc và làm hậu phương vững chắc cho việc thực hiện cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân ở miền Nam, đấu tranh thống nhất nước nhà. Tuy nhiên, công cuộc xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc gặp phải không ít những khó khăn, thách thức
đòi hỏi Đảng ta phải chủ trương sự chỉ đạo đúng đắn, khắc phục hậu quả
chiến tranh, đẩy mạnh sản xuất chi viện sức người, sức của cho chiến trường chính
miền Nam, hoàn thành nhiệm vụ chiến lược của cách mạng dân tộc dân chủ nhân
dân. vậy, em chọn đề tài tiểu luận: Chủ trương đúng đắn của Đảng quyết
lOMoARcPSD| 60692662
2
định đưa miền Bắc quá độ lên chủ nghĩa hội sau năm 1954” nhằm làm
những chủ trương đúng đắn, sáng tạo của Đảng trong lãnh đạo xây dựng chủ nghĩa
xã hội ở miền Bắc từ sau năm 1954.
1. Đặc điểm miền Bắc bước vào thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội
1.1. Thuận lợi
Cách mạng hội chủ nghĩa miền Bắc tiến hành trong hoàn cảnh đất nước
tạm thời bị chia làm hai miền, mỗi miền chế độ chính trị, xã hội khác nhau.
Sau chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ (7-5-1954) miền Bắc hoàn toàn giải phóng,
cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân về cơ bản đã hoàn thành, bước vào thời
quá độ lên chủ nghĩa hội. Đế quốc Mỹ thay chân thực dân Pháp vào xâm
lược miền Nam, biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của
chúng. Tính chất hội miền Nam vẫn thuộc địa nửa phong kiến, nhiệm vụ
cách mạng cơ bản chưa thay đổi. Từ nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, chiến tranh
tàn phá nặng nề, bỏ qua giai đoạn phát triển bản chủ nghĩa, đồng thời miền Bắc
còn phải thường xuyên đối phó với chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ. Đây là
đặc điểm lớn nhất của miền Bắc khi bước vào thời kì quá độ lên chủ nga hội.
1.2. Khó khăn
Miền Bắc tiến lên chủ nghĩa hội trong tình hình thế giới nhiều
trong nước có nhiều khó khăn, phức tạp.
Thứ nhất, đất nước tạm thời bị chia cắt làm hai miền. miền Nam, đế quốc
Mỹ tay sai mở cuộc chiến tranh thực dân mới kéo dài suốt 20 năm, với phạm
vi ngày càng mở rộng, quy mô ngày càng leo thang. Trong thời kỳ này, miền Bắc
phải đương đầu với hai cuộc chiến tranh phá hoại tính huỷ diệt bằng không
quân hải quân của đế quốc Mỹ, hòng ngăn chặn cuộc chiến tranh giải phóng
của nhân dân ta miền Nam. Vì vậy, công cuộc xây dựng chủ nghĩa hội phải
trải qua ba lần khôi phục kinh tế, vừa phải bảo đảm đời sống nhân dân chiến
đấu chống chiến tranh phá hoại, vừa phải làm tròn nghĩa vụ của hậu phương lớn
đối với tiền tuyến miền Nam. Đặc điểm này chi phối trực tiếp đến đường lối
chính sách trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc.
lOMoARcPSD| 60692662
3
Thứ hai, công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội miền Bắc cũng như cuộc
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trong cả nước đã nhận được sự giúp đỡ hết sức
to lớn về mọi mặt của các nước xã hội chủ nghĩa. Mặt khác, từ những năm 60 thế
kỷ XX, trong hệ thống các nước hội chủ nghĩa cũng xảy ra những chia rẽ sâu
sắc, nhất là giữa Liên Xô và Trung Quốc, đòi hỏi Đảng ta phải có đường lối sáng
tạo, độc lập tự chủ, bảo đảm vừa tranh thủ được sự giúp đỡ của các nước hội
chủ nghĩa, góp phần đấu tranh vì sự thống nhất của phong trào cộng sản và công
nhân quốc tế, vừa giữ vững được độc lập, tự chủ trong tiến trình cách mạng.
Thứ ba, xuất phát điểm đi lên xây dựng chủ nghĩa hội của nước ta rất
thấp - từ một nước nông nghiệp, sản xuất nhỏ phổ biến, sở vật chất nghèo
nàn, lạc hậu, lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề. Trong khi đó, mô hình chủ nghĩa
hội Liên các nước Đông Âu áp dụng điều kiện, hoàn cảnh, xuất
phát điểm không giống nước ta. vậy, việc xác định hình, bước đi phải
thời gian để tìm tòi, khảo nghiệm. Đây cũng là đặc điểm lớn chi phối đến đường
lối cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc.
Trong bối cảnh như vậy, công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc
(1954-1975) đặt ra phải chủ trương lãnh đạo đúng đắn, phát huy tối đa mọi
nguồn lực, tranh thủ thời khoắc phục khó khăn hoàn thành nhiệm vụ cách mạng
dân tộc dân chủ nhân dân trên phạm vi cả nước.
2. Chủ trương đúng đắn của Đảng đưa miền Bắc quá độ lên chủ
nghĩa xã hội sau năm 1954
2.1. Đường lối chung cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc sau 1954
Từ tháng 7 năm 1954 đến tháng 9 năm 1960, trong quá trình lãnh đạo cách
mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, Đảng ta đã tích lũy được những kinh nghiệm
bước đầu, từng bước xác lập nội dung cơ bản về đường lối cách mạng xã hội chủ
nghĩa.
Trên cơ sở đó, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng (9-1960) đã
phân tích những đặc điểm bản của miền Bắc khi bước vào thời kì quá độ lên
chủ nghĩa xã hội, xác định đường lối chung cách mạng Việt Nam trong giai đoạn
lOMoARcPSD| 60692662
4
mới, đường lối cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân miền Nam đường lối
cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc.
Đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc là: “Đoàn kết toàn dân,
phát huy tinh thần yêu nước nồng nàn, truyền thống đấu tranh anh dũng lao
động cần cù của nhân dân ta, đồng thời tăng cường đoàn kết với các nước xã hội
chủ nghĩa anh em do Liên Xô đứng đầu, để đưa miền Bắc tiến nhanh, tiến mạnh,
tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội, xây dựng đời sống ấm no, hạnh phúc ở miền
Bắc củng cố miền Bắc thành sở vững mạnh cho cuộc đấu tranh thực hiện
thống nhất nước nhà, góp phần tăng cường phe xã hội chủ nghĩa, bảo vệ hoà bình
ở Đông Nam Á và trên thế giới”.
Muốn đạt mục tiêu đó, phải sử dụng chính quyền n chủ nhân dân làm
nhiệm vụ lịch sử của chuyên chính sản đthực hiện cải tạo hội chủ nghĩa
đối với nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp nhỏ và công thương nghiệp
bản chủ nghĩa doanh; phát triển thành phần kinh tế quốc doanh, thực hiện
công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa bằng cách ưu tiên phát triển công nghiệp nặng
một cách hợp lý, đồng thời ra sức phát triển nông nghiệp công nghiệp nhẹ; biến
nước ta thành một nước hội chủ nghĩa công nghiệp hiện đại, nông nghiệp
hiện đại, văn hoá và khoa học tiên tiến”
1
.
Đường lối đó bao gồm những nội dung chủ yếu sau:
Về mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc: xây dựng đời sống ấm
no, hạnh phúc cho nhân dân miền Bắc, củng cố miền Bắc thành cơ sở vững mạnh
cho cuộc đấu tranh thực hiện hoà bình thống nhất nước nhà; góp phần tăng cường
phe xã hội chủ nghĩa, bảo vệ hoà bình ở Đông Nam Á và thế giới.
Con đường để đạt mục tiêu trên là: sử dụng chính quyền dân chủ nhân dân
làm nhiệm vụ lịch sử của chuyên chính vô sản, để cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã
hội mới; phát triển thành phần kinh tế quốc doanh, thực hiện công nghiệp hoá xã
hội chủ nghĩa bằng cách ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lí, đồng
thời ra sức phát triển nông nghiệp công nghiệp nhẹ; đẩy mạnh cách mạng
1
Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng Lao động Việt Nam, Văn kiện đại hội, Tập 1, Ban Chấp hành Trung ương
Đảng Lao động Việt Nam, xuất bản 9-1960, tr 179-180.
lOMoARcPSD| 60692662
5
hội chủ nghĩa về tư tưởng, văn hvà kĩ thuật, để biến nước ta thành một nước xã
hội chủ nghĩa công nghiệp hiện đại, nông nghiệp hiện đại, văn hóa, khoa học
tiên tiến.
Về nhịp độ và bước đi của cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc là: tiến
nhanh , tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội.
Đại hội xác định cách mạng hội chủ nghĩa miền Bắc vị trí quyết
định nhất đối với sự phát triển của toàn bộ cách mạng nước ta, đối với sự nghiệp
thống nhất nước nhà.
Đại hội đã đề ra nhiệm vụ, phương hướng kế hoạch 5 năm lần thứ nhất
(1961-1965), nhằm xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội.
Thực chất đường lối cách mạng hội chủ nghĩa miền Bắc do Đại hội lần
thứ III của Đảng xác định đường lối tiến hành cách mạng về quan hệ sản xuất
và lực lượng sản xuất, về xây dựng cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng, nhằm
tạo ra một hình thái kinh tế - xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa.
Những tư tưởng cơ bản của đường lối cách mạng hội chủ nghĩa ở miền
Bắc còn được Đảng ta tiếp tục bổ sung, phát triển trong những năm tiếp theo. Hội
nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 19 (1/1971) nhấn mạnh: phải nắm
vững chuyên chính sản, phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động,
tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng (cách mạng về quan hệ sản xuất, cách
mạng thuật và cách mạng tưởng, văn hoá); khẳng định thời quá độ lên chủ
nghĩa xã hội là lâu dài phải trải qua nhiều bước quá độ nhỏ mà miền Bắc đang ở
bước đi ban đầu của thời quá độ lên chủ nghĩa hội; kết hợp chặt chẽ xây
dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
2. 2. Chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
miền Bắc từ 1954 đến 1975
* Thời kì khôi phục, cải tạo kinh tế (1954-1957)
Từ tháng 7-1954, miền Bắc hoàn toàn giải phóng, Đảng quyết định đưa
miền Bắc bước vào thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Trong ba năm đầu (1955
- 1957), Đảng chủ trương khôi phục kinh tế sau chiến tranh và hoàn thành những
nhiệm vụ còn lại của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Bắc.
lOMoARcPSD| 60692662
6
Hội nghị Bộ Chính trị tháng 9/1954 chỉ rõ: nhiệm vụ to lớn là hàn gắn vết
thương chiến tranh, khôi phục kinh tế quốc dân, giảm bớt những khó khăn về đời
sống cho nhân dân, phát triển kinh tế kế hoạch làm từng bước; mở rộng giao
lưu kinh tế giữa thành thị nông thôn. Đến tháng 8/ 1955, Hội nghị lần th8
Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã đra kế hoạch 3 năm khôi phục phát triển
kinh tế - văn hoá (1955-1957). Phương châm chỉ đạo: khôi phục chính, đồng
thời phát triển trong phạm vi cần thiết có thể được; trọng tâm khôi phục nông
nghiệp, dựa trên sở khôi phục nông nghiệp khôi phục các ngành khác. Phấn
đấu sau 3 năm khôi phục đạt và vượt mức sản xuất trước chiến tranh (năm 1939).
Trong nông nghiệp, trọng tâm giải quyết lương thực. Trong công nghiệp, chú
trọng tiểu thủ công nghiệp, đồng thời tăng cường các nghiệp quốc doanh, xây
dựng một số cơ sở mới về công nghiệp một cách vững chắc phục vụ sản xuất, dân
sinh và quốc phòng.
Thực hiện chủ trương của Đảng trong sản xuất nông nghiệp, giai cấp nông
dân phấn khởi phục hoá, khai hoang, làm thuỷ lợi, đẩy mạnh sản xuất tăng nhanh
sản lượng lương thực. Đến năm 1957, sản lượng lương thực miền Bắc vượt mức
trước chiến tranh 2,4 triệu tấn. Trong thời kì này, Đảng còn chỉ đạo xây dựng thí
điểm 44 hợp tác xã và 8 vạn tổ đổi công.
Về sản xuất công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp, được sự giúp đỡ của các
nước hội chủ nghĩa anh em, miền Bắc vừa khôi phục nghiệp vừa xây
dựng thêm một số nghiệp mới. Hầu hết các sở công nghiệp, nhà máy,
nghiệp quan trọng đi vào hoạt động hiệu quả, giai cấp công nhân phấn khởi
làm chủ cơ sở sản xuất.
Thương nghiệp hội chủ nghĩa miền Bắc được hình thành; giao thông
vận tải được khôi phục phát triển; văn hoá, giáo dục, y tế phát triển nhanh
chóng.
Đồng thời, Đảng chú ý bồi dưỡng, giáo dục chính trị tư tưởng cho cán bộ.
Hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở được xây dựng và củng cố. Công tác
xây dựng Đảng được chú trọng, Nhà nước dân chủ nhân dân được tăng cường làm
nhiệm vụ lịch sử của chuyên chính vô sản. Khối đại đoàn kết toàn dân trong Mặt
lOMoARcPSD| 60692662
7
trận được củng cố. Khuynh hướng tưởng sản các tưởng văn hoá lạc
hậu bị đánh bại, giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội.
Về thực hiện nhiệm vụ cải cách ruộng đất, từ năm 1953 khi cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp đến giai đoạn quyết định, Đảng đã chủ trương phát
động quần chúng triệt đgiảm cải cách ruộng đất. Trong hai năm 1954 1956,
cải cách ruộng đất ở miền Bắc được tiếp tục tiến hành với 4 đợt (từ đợt 2 đến đợt
5) trên phạm vi 3.314 xã. Qua 5 đợt cải cách ruộng đất, Hội nghị lần thứ 10 (từ
ngày 25 - 8 đến 18 - 10 - 1956) Hội nghị lần thứ 14 (11-1958) của Ban Chấp
hành Trung ương Đảng đã chỉ rõ: thắng lợi của cải cách ruộng đất là thắng lợi to
lớn căn bản. Toàn bộ giai cấp địa chủ, phong kiến, đối tượng của cách mạng
dân tộc dân chủ nhân dân bị đánh đổ, 81 vạn ha ruộng đất, nhiều trâu bò, nông c
chia cho hơn 2 triệu hnông dân. Giai cấp nông dân được giải phóng, lên địa vị
làm chủ, đánh dấu hoàn thành nhiệm vụ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân
miền Bắc, tạo tiền đề kinh tế, chính trị, hội thuận lợi để miền Bắc làm cách
mạng hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, trong quá trình chỉ đạo cải cách ruộng đất đã
mắc phải một số sai lầm nghiêm trọng, ảnh hưởng đến tưởng, tình cảm cách
mạng của nhân dân. Đảng ta đã công khai nhận khuyết điểm trước đồng bào cả
nước và kiên quyết sửa sai.
* Thời kì cải tạo và xây dựng chủ nghĩa xã hội (1958-1960)
Với thắng lợi của khôi phục, phát triển kinh tế (1954-1958), tháng 11/1958,
Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ 14 bàn về kế hoạch 3 năm
(1958-1960) cải tạo hội chủ nghĩa đối với các thành phần kinh tế thể của
nông dân, thợ thủ công, thành phần kinh tế tư bản tư doanh, người buôn bán nhỏ.
Hội nghị xác định khâu chính trong cải tạo cải tạo nông nghiệp, ra sức
phát triển thành phần kinh tế quốc doanh. Đồng thời với cải tạo và phát triển kinh
tế phải tiến hành công tác giáo dục, văn hoá, tưởng, coi đó là một bộ phận quan
trọng, khăng khít của nhiệm vụ cải tạo xây dựng chủ nghĩa hội. Quá trình
cải tạo các thành phần kinh tế là quá trình xác lập chế độ công hữu về tư liệu sản
xuất dưới hai hình thức chủ yếu: sở hữu nhà nước (toàn dân) sở hữu tập thể,
nhằm hình thành quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa.
lOMoARcPSD| 60692662
8
Tháng 4/1959, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ 16
bàn về cải tạo nông nghiệp cá thể ở miền Bắc theo hướng hợp tác hoá xã hội chủ
nghĩa, cải tạo hội chủ nghĩa đối với công thương nghiệp bản doanh, thủ
công nghiệp và những người buôn bán nhỏ.
Về cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp. Hội nghị Ban Chấp hành
Trung ương lần thứ 16 chỉ rõ: miền Bắc cần và có thể tiến hành hợp tác hoá nông
nghiệp trong điều kiện chưa giới. Cuộc vận động hợp tác hoá nông nghiệp phải
kết hợp chặt chẽ với vận động cải tiến kĩ thuật, tăng năng suất lao động. Nguyên
tắc chỉ đạo xây dựng hợp tác xã nông nghiệp là tự nguyện, cùng có lợi và quản
dân chủ. Phương châm tiến hành cải tạo là tích cực, vững chắc, qui hoạch về mọi
mặt, sát với từng vùng. Trong thời gian đầu phải đi từ thấp đến cao, qua ba bước:
tổ đổi công, hợp tác bậc thấp, hợp tác xã bậc cao để cho nông dân làm quen
với lối làm ăn tập thể và phù hợp với trình độ quản lý của cán bộ.
Đối với ngư nghiệp, ngày 16/6/1960, Bộ Chính trị đã ra Chỉ thị về thành
lập hợp tác nghề cá ở vùng biển. Bộ Chính trị chỉ rõ: xây dựng hợp tác xã nghề
cá phải bao gồm cả cải tạo quan hệ sản xuất và phát triển sản xuất, lấy phát triển
sản xuất để đẩy mạnh phong trào hợp tác xã.
Chủ trương cải tạo về nông nghiệp đúng đắn của Đảng đã lôi cuốn đông
đảo nông dân xin gia nhập hợp tác xã. Các nông trường quốc doanh cũng được tổ
chức lại quản lí thống nhất của Bộ Nông trường. Phong trào làm thuỷ lợi, phân
bón, cải tiến kĩ thuật canh tác phát triển mạnh.
Đối với công thương nghiệp bản doanh, Đảng quyết định cải tạo bằng
phương pháp hoà bình. Điểm mấu chốt về kinh tế trong cải tạo bằng phương pháp
hoà bình chính sách chuộc lại liệu sản xuất sản nắm, không tịch thu,
đồng thời sắp xếp việc làm cho các nhà tư bản và giai cấp tư sản. Bước đi của cải
tạo cũng từ thấp đến cao. Điều kiện chủ chốt phải tăng cường kinh tế quốc doanh,
củng cchính quyền dân chủ nhân dân, củng cố liên minh công - nông giáo
dục tưởng xã hội chủ nghĩa cho nhân n. Thực hiện chủ trương của Đảng,
công cuộc cải tạo hội chủ nghĩa trong công, thương nghiệp bản doanh
nhanh chóng giành thắng lợi.
lOMoARcPSD| 60692662
9
Đối với thủ công nghiệp, Đảng chủ trương đưa thợ thủ công đi theo con
đường hợp tác hoá, cải tiến kĩ thuật, tận dụng khả năng của thủ công nghiệp phục
vụ nông nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu. Trong những năm
1959-1960, việc tập thể hoá tiểu thủ công nghiệp đã cơ bản hoàn thành.
Đối với những người buôn bán nhỏ, Đảng chủ trương giáo dục, giúp đỡ làm
cho họ tự nguyện tham gia cải tạo hội chủ nghĩa, tích cực tổ chức họ lại
dưới hình thức hợp tác xã, đồng thời chuyển dần một số sang sản xuất.
Đồng thời với cải tạo xã hội chủ nghĩa, Đảng chỉ đạo phát triển thành phần
kinh tế quốc doanh, phát triển công nghiệp hàng tiêu dùng và thương nghiệp
hội chủ nghĩa. Sự nghiệp phát triển văn hoá, giáo dục, y tế được Đảng, Nhà nước
quan tâm xây dựng. Hệ thống y tế hình thành bản trên khắp các địa phương
miền Bắc.
Trong 3 năm (1958-1960), công tác xây dựng Đảng được đẩy lên một bước,
chuẩn bị tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng.
Việc xây dựng Nhà nước các đoàn thể quần chúng được xúc tiến mạnh
mẽ. Ngày 29/4/1958, Quốc hội thông qua Luật tổ chức chính quyền địa phương,
bãi bỏ cấp trung gian khu, liên khu để các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương. Tháng 12/1959, Quốc hội thông qua Hiến pháp mới. Các tổ chức quần
chúng trong Mặt trận dân tộc thống nhất đều được củng cố và hoạt động tích cực.
Quân đội nhân dân Việt Nam được đặc biệt quan tâm xây dựng, từng bước tiến
lên chính qui, hiện đại.
* Đảng thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961-1965)
Đồng thời với xác định đường lối chung cách mạng hội chủ nghĩa miền
Bắc, Đại hội lần thứ III của Đảng đã đề ra phương hướng, nhiệm vụ của kế hoạch
5 năm lần thứ nhất (1961-1965).
Mục tiêu của kế hoạch 5 năm lần thứ nhất là: Thực hiện một bước công
nghiệp hoá hội chủ nghĩa, xây dựng bước đầu sở vật chất thuật của chủ
nghĩa hội, đồng thời hoàn thành cải tạo hội chủ nghĩa, tiếp tục đưa miền Bắc
tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội.
lOMoARcPSD| 60692662
10
Nhiệm vụ bản của kế hoạch là: Ra sức phát triển công nghiệp nông
nghiệp, thực hiện một bước ưu tiên phát triển công nghiệp nặng, đồng thời ra sức
phát triển nông nghiệp toàn diện, phát triển công nghiệp nhẹ, phát triển giao thông
vận tải, tăng cường thương nghiệp quốc doanh thương nghiệp hợp tác xã, chuẩn
bị sở tiến lên xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp nông nghiệp
xã hội chủ nghĩa;
Hoàn thành công cuộc cải tạo hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp, tiểu
thủ công nghiệp, thương nghiệp nhỏ và công thương nghiệp tư bản tư doanh, tăng
cường kinh tế quốc doanh, tăng cường mối quan hgiữa sở hữu toàn dân và sở
hữu tập thể, mở rộng quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa trong toàn bộ nền kinh tế
quốc dân;
Nâng cao trình đvăn hoá của nhân dân, đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, nhất là cán bộ xây dựng kinh tế và công nhân lành nghề, nâng cao
trình độ quản lý kinh tế, của đội ngũ cán bộ cácc cấp, của nhân dân lao động xúc
tiến công tác nghiên cứu khoa học ứng dụng kỹ thuật, thăm tài nguyên
tiến hành điều tra cơ bản phục vụ yêu cầu phát triển kinh tế, xã hội; phát triển văn
hoá xã hội chủ nghĩa.
Đồng thời với phát triển kinh tế, ra sức củng cố quốc phòng, giữ vững trật
tự an ninh, bảo vệ sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc.
Trong kế hoạch 5 năm lần thứ nhất phấn đấu đạt được một số chỉ tiêu chủ
yếu là: Giá trị tổng sản phẩm công nghiệp thủ công nghiệp tăng 148% so với
năm 1960, bình quân hàng năm tăng khoảng 20%. Giá tri tổng sản lượng lương
thực dự tính tăng 10%. Về xây dựng bản, Nhà nước đầu 48% ngân sách.
Thu nhập thực tế bình quân đầu người đến năm 1965 tăng khoảng 30% so với
năm 1960.
Sau Đại hội, Đảng đã chỉ đạo cụ thể để thực hiện đường lối chung về cách
mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961-1965).
Mùa xuân năm 1961, Bộ Chính trị mở đợt sinh hoạt chính trị rộng lớn trong
toàn Đảng, toàn dân nhằm khắc phục những tưởng trở ngại, tạo nên khí thế
cách mạng mới, nâng cao ý thức làm chủ tinh thần tập thể hội chủ nghĩa;
lOMoARcPSD| 60692662
11
xây dựng quan điểm phục vụ sản xuất; quan điểm cần, kiệm xây dựng nước nhà;
quan điểm tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội. Từ đây
phong trào thi đua yêu nước phát triển mạnh mẽ.
Ngày 26/1/1961, Ban thư Trung ương Đảng ra Nghị quyết về việc đẩy
mạnh phong trào thi đua yêu nước bảo đảm hoàn thành toàn diện và vượt mức kế
hoạch nhà nước năm 1961 và Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất. Thực hiện chủ trương
của Đảng, phong trào thi đua đã phát triển sâu rộng ngày càng thiết thực. Đáng
kể nhất là các phong trào thi đua “Sóng Duyên Hải” trong công nghiệp, “Gió Đại
Phong” trong nông nghiệp, thi đua đuổi kịp vượt Thành Công trong thủ công
nghiệp, thi đua giành cờ “Ba nhất” trong quân đội, thi đua giành “Hai tốt” trong
ngành giáo dục. Qua phong trào thi đua, những tổ, đội lao động xã hội chủ nghĩa,
những chiến sĩ thi đua xuất hiện ngày càng nhiều.
Ngày 09/02/1963, Bộ Chính trị ra Nghị quyết về cuộc vận động cải tiến
quản hợp tác xã, cải tiến kỹ thuật, nhằm phát triển nông nghiệp toàn diện, mạnh
mẽ và vững chắc. Ngày 24/7/1963, Bộ Chính trị ra Nghị quyết về cuộc vận động
“Nâng cao ý thức trách nhiệm tăng cường quản kinh tế tài chính, cải tiến kỹ
thuật, chống tham ô, lãng phí, quan liêu” gọi tắt cuộc vận động “Ba xây, ba
chống” với mục đích tăng cường và quản kinh tế tài chính, cải tiến thuật, đẩy
mạnh sản xuất, tăng năng suất lao động. Ngoài hai cuộc vận động này, còn
cuộc vận động đồng bào miền xuôi lên phát triển kinh tế miền núi.
Tháng 7/1961, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ 5
bàn vđẩy mạnh phát triển nông nghiệp. Hội nghị chỉ ra vấn đmấu chốt phải
xây dựng và phát triển lực lượng sản xuất mới ở nông thôn, nhằm đẩy mạnh phát
triển nông nghiệp, bảo đảm các yêu cầu chủ yếu về cung cấp lương thực, thực
phẩm, cung cấp nguyên vật liệu cho công nghiệp một số sản phẩm xuất khẩu
để đổi lấy máy móc thiết bị, làm cho nông thôn trở thành thị trường tiêu thụ rộng
lớn của công nghiệp. Phấn đấu sau 5 năm đưa mức sống của viên lên ngang
mức sống của trung nông lớp trên, thay đổi bộ mặt nông thôn; làm cho nông
nghiệp trở thành cơ sở vững chắc để phát triển công nghiệp, đưa nông nghiệp tiến
nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa hội. Phương châm phát triển
lOMoARcPSD| 60692662
12
nông nghiệp là: phát triển toàn diện, lấy lương thực làm trọng tâm; thuỷ lợi biện
pháp hàng đầu; củng cố và phát triển các hợp tác xã nông nghiệp và nông trường
quốc doanh là vấn đề có ý nghĩa rất quan trọng trong việc đẩy mạnh phát triển sản
xuất nông nghiệp.
Về công nghiệp, sau một thời gian phục hồi, cải tạo, xây dựng phát triển,
căn cứ vào thực tế tình hình và yêu cầu phát triển của công nghiệp, tháng 6/1962
Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ 7 bàn vxây dựng phát
triển công nghiệp. Hội nghị chủ trương trong thời kỳ đầu của “… phấn đấu thực
hiện một sự chuyển biến căn bản trong nền kinh tế quốc dân, tiến hành trang bị
khí nửa khí một cách phổ biến, xoá bỏ tình trạng thủ công lạc hậu lâu
đời và tình trạng mất cân đối nghiêm trọng hiện nay trong các ngành sản xuất,
bảo đảm cho nông nghiệp, công nghiệp và các ngành kinh tế khác phát triển nhịp
nhàng và mạnh mẽ”
2
.
Nhiệm vụ xây dựng và phát triển công nghiệp trong kế hoạch 5 năm lần
thứ nhất là: phấn đấu xây dựng bước đầu cơ sở vật chất và kĩ thuật của chủ nghĩa
xã hội, thực hiện một bước công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa và hoàn thành công
cuộc cải tạo hội chủ nghĩa, tiếp tục đưa miền Bắc tiến nhanh, tiến mạnh, tiến
vững chắc lên chủ nghĩa hội. Phương châm phát triển là: vừa đi ngay vào
thuật hiện đại, vừa đi tuần tự từ sản xuất thủ công lên nửa khí đại khí;
kết hợp xây dựng xí nghiệp qui mô lớn với xí nghiệp qui mô vừa và nhỏ; kết hợp
thuật hiện đại với thuật thô sơ; kết hợp xây dựng những nghiệp mới với
việc tận dụng những xí nghiệp cũ; kết hợp phát triển công nghiệp địa phương với
phát triển công nghiệp trung ương.
Tháng 4-1963, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ 8
bàn về kế hoạch phát triển kinh tế quốc dân 5 năm (1961-1965). Hội nghị đưa ra
phương hướng nhiệm vụ, những chỉ tiêu biện pháp chủ yếu của kế hoạch 5
năm lần thnhất; làm sâu sắc thêm đường lối, ớc đi, tốc độ của công nghiệp
hoá xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc; phát triển một số vấn đề về phương hướng xây
2
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng, Toàn tập, tập 23, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,2002, tr.355.
lOMoARcPSD| 60692662
13
dựng chủ nghĩa xã hội như: quan hệ giữa tích luỹ và tiêu dùng, quan hệ giữa công
nghiệp nông nghiệp, quan hệ giữa xây dựng kinh tế củng cố quốc phòng;
phương hướng tích luỹ, đầu tư, xây dựng cơ bản…theo tinh thần tự lực cánh sinh,
cần kiệm xây dựng đất nước, khắc phục những non yếu trong nền kinh tế.
Trong quá trình thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất miền Bắc, cuộc
đấu tranh của nhân dân miền Nam chống “chiến tranh đặc biệt” của đế quốc
diễn ra rất quyết liệt. Trước nguy cơ sụp đổ của nguỵ quân, nguỵ quyền, đế quốc
Mĩ một mặt đẩy mạnh chiến tranh xâm lược miền Nam, mặt khác tăng cường phá
hoại ra miền Bắc. Trước tình hình mới, ngày 27/3/1964, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã triệu tập Hội nghị chính trị đặc biệt. Tại Hội nghị này, Hồ Chủ tịch kêu
gọi mỗi người “Làm việc bằng hai để đền đáp cho đồng bào miền Nam ruột thịt”.
Thực hiện lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch, ngày 18/4/1964, Ban Bí thư Trung
ương Đảng ra Chỉ thị phát động phong trào thi đua “Mỗi người làm việc bằng hai”
đưa phong trào thi đua yêu nước xây dựng chủ nghĩa hội miền Bắc chi
viện cho miền Nam lên một bước mới. Thực hiện Chỉ thị của Ban Bí thư, phong
trào thi đua “Mỗi người làm việc bằng hai” đã nhanh chóng lan rộng khắp miền
Bắc, nhiều điển hình tiên tiến trong sản xuất và công tác xuất hiện. Phong trào thi
đua đã góp phần thúc đẩy hoàn thành thắng lợi kế hoạch nhà nước năm 1964
kế hoạch 5 năm lần thứ nhất.
Tháng 12/1964, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ 10
chuyên bàn về thương nghiệp giá cả. Căn cứ vào đường lối chung xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, Hội nghị nhấn mạnh: cách mạng hội chủ nghĩa
miền Bắc phải tiến hành toàn diện trên tất cả các mặt không được xem nhẹ mặt
nào. Thương nghiệp, giá cả phải góp phần xây dựng các mối quan hệ lớn và giải
quyết những mâu thuẫn trên con đường tiến lên để xây dựng, củng cố quan hệ sản
xuất mới, phục vụ xây dựng kinh tế kết hợp củng cố quốc phòng; phải nhận rõ sự
phát triển kinh tế hàng hoá miền Bắc trong cả thời kỳ quá độ khách quan;
phải dựa vào thị trường trong nước chính, trước mắt chủ yếu là thị trường
nông thôn; phải mở rộng giao lưu hàng htrong nước và với nước ngoài; phải
tiếp tục tăng cường lực lượng thương nghiệp quốc doanh và hợp tác xã mua bán;
lOMoARcPSD| 60692662
14
phải coi trọng cả hai mặt giá trị sử dụng và giá trị của hàng hoá; kết hợp chặt ch
thị trường thống nhất toàn miền Bắc.
Thực hiện Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, miền Bắc đã giành được những
thắng lợi to lớn đưa miền Bắc thực strở thành căn cứ địa của cách mạng cả nước
hậu phương lớn của cách mạng miền Nam. Thắng lợi đó chứng minh đường
lối xây dựng chủ nghĩa hội miền Bắc của Đảng đúng đắn, củng cố thêm
niềm tin, xây dựng ý chí quyết tâm cho quân dân cả nước vào thực hiện nhiệm vụ
cách mạng trong giai đoạn mới.
* Đảng lãnh đạo xây dựng chủ nghĩa xã hội từ 1965 đến 1975
Chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng chuyển hướng xây dựng kinh tế miền
Bắc, đánh thắng chiến tranh phá hoại lần thứ nhất (1965-1968).
Đến năm 1965, miền Bắc đã có hơn 10 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội, kế
hoạch 5 năm lần thứ nhất sắp hoàn thành thì đế quốc Mỹ chuyển sang “chiến tranh
cục bộ” và tiến hành chiến tranh phá hoại miền Bắc. Bom đạn của đế quốc Mĩ đe
doạ trực tiếp những thành qucủa chủ nghĩa hội được xây dựng hơn 10 năm
qua. Trước tình hình mới, Ban Chấp hành Trung ương Đảng liên tiếp họp Hội nghị
Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 11 (3/1965) và lần thứ 12 (12/1965) xác định
quyết tâm đánh Mỹ thắng Mỹ. Đối với miền Bắc, phương hướng nhiệm vụ
chung là: “Tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”. Nhiệm vụ cụ thể là:
Xây dựng miền Bắc thành hậu phương vững chắc của cách mạng miền
Nam, đồng thời bảo đảm đời sống cho nhân dân, đáp ứng nhu cầu hậu cần tại chỗ.
Đánh thắng chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân của đế quốc
Mỹ.
Tăng cường chi viện cho miền Nam, tích cực giúp đỡ cách mạng Lào và
cách mạng campuchia.
Miền Bắc vẫn tiếp tục xây dựng chủ nghĩa xã hội song phải chuyển hướng
xây dựng kinh tế phù hợp với tình hình cả nước có chiến tranh. Sự chuyển hướng
đó thể hiện trên các mặt sau:
Về kinh tế, chuyển hướng xây dựng phát triển kinh tế phù hợp với tình
hình miền Bắc chiến tranh phá hoại, bảo đảm được yêu cầu chiến đấu, sẵn sàng
lOMoARcPSD| 60692662
15
chiến đấu, tăng cường chi viện cho miền Nam, song vẫn bảo đảm được phương
hướng lâu dài của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Về quốc phòng, tăng cường vmọi mặt; phát động phong trào toàn dân
phòng tránh, toàn dân chống chiến tranh phá hoại của địch. Tranh thủ sự giúp đỡ
về vũ khí và phương tiện chiến tranh của các nước anh em.
Về tư tưởng và tổ chức, làm cho toàn Đảng, toàn dân nhận rõ âm mưu của
địch, chuyển mọi hoạt động từ thời bình sang thời chiến.
Giao thông vận tải phải tăng cường lực lượng cán bộ, phương tiện vật
chất. Trên các tuyến đường giao thông thực hiện khẩu hiệu “địch phá, ta cứ đi”,
“đánh địch mà đi, mở đường mà tiến”.
Chủ trương của Đảng được quán triệt trong toàn Đảng, toàn dân. Phong trào
thi đua thi đua: Mỗi người làm việc bằng hai, ra sức xây dựng và bảo vệ miền
Bắc, tích cực chi viện cho cách mạng miền Nam của Hồ Chủ tịch, trở thành phong
trào cách mạng tự giác trong các ngành, các đoàn thể thi đua xây dựng chủ nghĩa
xã hội và chi viện cho miền Nam.
Trong nông nghiệp có phong trào thi đua “tay cày tay súng” phấn đấu đạt 3
mục tiêu (5 tấn thóc, 2 con lợn, 1 lao động trên 1 héc ta gieo trồng), nhiều điển
hình sản xuất, thâm canh giỏi xuất hiện. Trong công nghiệp, phong trào thi đua
“tay búa tay súng” đã giữ vững sản xuất, một số ngành có phát triển. Các lĩnh vực
thương nghiệp, tài chính, giao thông vận tải, văn hoá, giáo dục, y tế vẫn duy trì
hoạt động và đạt hiệu quả cao. Các đoàn thể nhân dân thi đua sôi nổi, khẩn trương
với lòng nhiệt tình cách mạng và tinh thần quyết thắng cao. Hàng vạn thanh niên
với tinh thần “Ba sẵn sàng” được điều động vào chiến đấu và phục vụ chiến đấu.
Phụ nữ đảm bảo xây dựng hậu phương với tinh thần “Ba đảm đang”. Phụ lão
phong trào “Ba hăng hái”…
Trong 4 năm (từ 5/8/1964 đến 1/11/1968), quân dân miền Bắc vừa xây
dựng chủ nghĩa xã hội, vừa chi viện mọi mặt cho miền Nam với tinh thần “Thóc
không thiếu một cân, quân không thiếu một người”. Miền Bắc còn đánh thắng
cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ nhất của đế quốc Mỹ vào miền Bắc, bắn rơi
3.234 máy bay, diệt bắt sống hàng nghìn giặc lái Mỹ. Bắn chìm bắn cháy
lOMoARcPSD| 60692662
16
143 tàu chiến. Bị thất bại nặng nề ở cả hai miền Nam-Bắc, đế quốc Mĩ buộc phải
tuyên bố ném bom hạn chế miền Bắc kể từ ngày 31/3/1968 ngừng hoàn toàn
ném bom trên miền Bắc từ ngày 1/11/1968.
Đảng lãnh đạo xây dựng miền Bắc, chi viện cho miền Nam, đánh thắng
chiến tranh phá hoại lần thứ hai của đế quốc Mỹ từ năm 1969 đến năm 1973.
Bị thất bại nặng nề trong chiến tranh cục bộ, từ ngày 1/11/1968, đế quốc
Mỹ buộc phải tuyên bố chấm dứt không điều kiện ném bom phá hoại miền Bắc từ
Vĩ tuyến 20 trở ra. Trước tình hình đó, Hội nghị Ban Chấp hành Trung lần thứ 19
của Đảng (1/1971) đã xác định: khôi phục phát triển kinh tế miền Bắc
nhằm bảo đảm cho miền Bắc làm tròn nhiệm vụ hậu phương lớn đối với tiền tuyến
lớn miền Nam, đối với cách mạng Lào cách mạng campuchia. Hội nghị đề ra
đường lối phát triển kinh tế trong bước đi ban đầu của thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội là: Ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý, trên cơ sở
phát triển nông nghiệp công nghiệp nhẹ, xây dựng kinh tế trung ương, đồng
thời phát triển kinh tế địa phương, kết hợp kinh tế với quốc phòng.
Phương hướng, nhiệm vụ khôi phục và phát triển kinh tế trong những năm
trước mắt (1971-1973) là: tập trung sức đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, sản xuất
hàng tiêu dùng, khôi phục và phát triển công nghiệp nhẹ; khôi phục và phát triển
những ngành công nghiệp nặng chủ chốt phục vụ thiết thực cho nông nghiệp
sản xuất hàng tiêu dùng; khôi phục phát triển giao thông vận tải phục vụ kịp
thời cho chiến đấu, sản xuất, xây dựng và đời sống.
Sau Hội nghị lần thứ 19, đầu năm 1972 Ban Chấp hành Trung ương Đảng
họp Hội nghị lần thứ 20 bàn về cải tiến quản lý kinh tế nhằm từng bước xây dựng
hệ thống quản lý kinh tế phù hợp với điều kiện cụ thể của miền Bắc. Hội nghị chỉ
ra nhiệm vụ cải tiến công tác quản lý ở tất cả các khâu như: kế hoạch, hạch toán
kinh tế, khoa học kỹ thuật, tổ chức bộ máy quản lý…
Giữa lúc nhân dân ta đang dồn sức khôi phục kinh tế đẩy mạnh cuộc
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, ngày 2/9/1969, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vĩnh
biệt chúng ta tại Hà Nội. Hưởng ứng lời kêu gọi của Ban Chấp hành Trung ương
Đảng, học tập làm theo Di chúc của Bác, biến đau thương thành hành động
lOMoARcPSD| 60692662
17
cách mạng, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đã tập trung sức khôi phục và phát
triển kinh tế, chi viện cho miền Nam. Chủ trương khôi phục kinh tế được biến
thành hành động cách mạng rộng lớn của quần chúng và đã đạt được những kết
quả rất quan trọng trong sản xuất nông nghiệp, công nghiệp, giao thông vận tải,
giáo dục, văn hoá, y tế, quốc phòng an ninh.
Trong khi nhân dân miền Bắc tranh thủ điều kiện có hoà bình khôi phục và
phát triển kinh tế đạt được những thành tựu mới, tăng cường tiềm lực cho cuộc
chống Mỹ cứu nước, nhân dân miền Nam cũng giành được những thắng lợi có ý
nghĩa chiến lược trong Xuân - 1970 và năm 1971. Đặc biệt cuộc tiến công
chiến lược năm 1972 đã làm cho chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh” của đế
quốc Mỹ đứng trước nguy cơ phá sản.
Để cứu vãn nguy thất bại, từ tháng 4/1972 đế quốc đánh ptrở lại
miền Bắc. Cuối năm 1972, đế quốc đã huy động một lực lượng lớn không quân
chiến lược tập kích vào Nội, Hải Phòng, các khu dân lớn với mức độ tàn
phá, huỷ diệt nhằm ngăn chặn cắt đứt sự chi viện của miền Bắc đối với mền
Nam, phá hoại tiềm lực kinh tế, quân sự, uy hiếp tinh thần quyết thắng của
nhân dân ta. Trước tình hình đó, ngày 1/6/ 1972 Bộ Chính trị Ban Chấp hành
Trung ương Đảng chủ trương chuyển hướng mọi mặt miền Bắc, quyết tâm đánh
thắng giặc Mỹ xâm lược trong mọi tình huống, đẩy mạnh sản xuất chiến đấu
phù hợp với thời chiến.
Thực hiện chủ trương của Đảng, nhân dân miền Bắc đã nhanh chóng chuyển
mọi hoạt động sang thời chiến; mở rộng thêm lực lượng phòng không và các lực
lượng trang nhân dân, đánh bại chiến tranh phá hoại của địch, bảo đảm yêu cầu
tuyển quân lao động phục vụ chiến trường, bảo đảm hậu cần tại chỗ; tăng cường
công tác tưởng, xây dựng quyết tâm trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân quyết
đánh thắng giặc Mỹ xâm lược.
Vượt lên khó khăn, đau thương và sự ác liệt chưa từng có của những cuộc
ném bom, phong toả, dưới sự lãnh đạo của Đảng, trong cuộc chiến đấu chống
chiến tranh phá hoại lần thứ hai (từ 6/4/1972 đến 15/1/1973) miền Bắc đã giành
thắng lợi to lớn, đặc biệt là trận “Điện Biên Phủ trên không” cuối năm 1972 trên
lOMoARcPSD| 60692662
18
bầu trời Hà Nội, buộc Mỹ phải ký Hiệp định Pari (27/1/1973) rút hết quân Mra
khỏi miền Nam nước ta. Nhân dân ta đã thực hiện được quyết tâm “đánh cho Mỹ
cút”, để tiến lên “đánh cho nguỵ nhào”.
Đảng lãnh đạo khắc phục hậu quả chiến tranh, khôi phục phát triển kinh
tế, ra sức chi viện cho miền Nam (1973-1975).
Sau Hiệp định Pari, nhân dân miền Bắc được sống trong hoà nh, phấn
khởi, tin tưởng, tự hào, lại tiếp tục hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục
phát triển kinh tế, văn hlàm tròn nhiệm vụ hậu phương lớn của mình. Thực tiễn
đòi hỏi Đảng ta phải đường lối thích hợp, vừa kiên quyết đẩy mạnh cuộc kháng
chiến chống Mỹ, vừa tiếp tục xây dựng chủ nghĩa hội, đưa cách mạng Việt
Nam tiếp tục tiến lên.
Tháng 6/1973, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã họp, quyết
định 3 năm khôi phục và phát triển kinh tế (1973-1975) nằm trong quá trình thực
hiện bước đi ban đầu của thời kỳ công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc.
Tiếp theo Hội nghị Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị
lần thứ 21 (7/973) và Hội nghị lần thứ 22 (12/1973) xác định nhiệm vụ chung của
toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta trong giai đoạn cách mạng mới là : nâng cao
cảnh giác sẵn sàng đánh bại âm mưu của đế quốc M tay sai, ra sức làm tròn
nhiệm vụ hậu phương lớn đối với tiền tuyến lớn miền Nam, làm tròn nhiệm vụ
quốc tế với cách mạng Lào cách mạng Campuchia. Hội nghị thông qua kế
hoạch khôi phục và phát triển kinh tế miền Bắc trong 2 năm 1973-1974 nhằm đạt
3 yêu cầu chính:
Một là, động viên tổ chức mọi lực lượng lao động hội vào sản xuất,
xây dựng khí thế sôi nổi đẩy mạnh sản xuất, đưa sản xuất lên bằng hoặc cao hơn
mức đã đạt được năm 1965. Phấn đấu đến năm 1975 thu nhập quốc dân đủ cho
quỹ tiêu dùng xã hội, bảo đảm tốt yêu cầu chi viện cho miền Nam.
Hai là, củng cố một bước quan hệ sản xuất trong cả hai khu vực quốc doanh
và tập thể.
Ba là, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác quản lý nnước,
chấn chỉnh công tác quản lý kinh tế từ Trung ương đến cơ sở.
lOMoARcPSD| 60692662
19
Thực hiện chủ trương của Đảng, nhân dân miền Bắc hăng hái lao động sản
xuất, ổn định tình hình kinh tế - xã hội. Sau 2 năm (1973-1974), miền Bắc đã
bản khôi phục xong các sở kinh tế. Trong nông nghiệp, các ng trình thuỷ
nông được khôi phục xong. Giao thông vận tải đã sửa chữa, khôi phục mở rộng
nhiều tuyến đường, năng lực vận tải và khối lượng hàng hoá vận chuyển tăng lên
rệt. Trong công nghiệp, toàn bộ các nhà máy được phục hồi. Văn hoá, giáo dục,
y tế đều được khôi phục và phát triển tốt.
Để đáp ứng ngày càng đầy đủ yêu cầu chi viện cho các chiến trường, t
tháng 3/1973 đến đầu năm 1975 chương trình mở rộng hoàn thiện hệ thống
đường chiến lược Đông Tây Trường Sơn được xúc tiến mạnh. Với tinh thần
“Tất cả miền Nam ruột thịt”, chưa bao giờ sức người, sức của từ hậu phương
lớn đra tiền tuyến nhiều như thế. Thế lực của cách mạng miền Nam đã áp
đảo địch. Trên cơ sở đó, tháng 1/1975 Bộ Chính trị hạ quyết tâm giải phóng hoàn
toàn miền Nam trong 2 năm 1975-1976, đồng thời dự kiến khi thời xuất hiện
có thể giải phóng miền Nam ngay trong năm 1975.
Trong những năm 1973 - 1975, nhân dân miền Bắc đã đạt được những thắng
lợi cực kỳ to lớn trong khôi phục và phát triển kinh tế và chi viện cho miền Nam,
đồng thời nhân tố quyết định sự nghiệp giải phóng miền Nam vào mùa Xuân
năm 1975.
Như vậy, trải qua hơn 20 năm bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa hội
mà thực sự chỉ có 8 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội, trong hoà bình, nhưng miền
Bắc đã đạt được những thành tựu rất đáng tự hào trên tất cả các mặt.
Đã xoá bỏ được chế độ người bóc lột người, xác lập được chế độ sở hữu xã
hội chủ nghĩa dưới hai hình thức chủ yếu shữu toàn dân sở hữu tập thể.
Thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa chiếm 99,7% tài sản cố định, giữ vị trí then
chốt vai trò quyết định trong nền kinh tế quốc dân. sở vật chất, kỹ thuật của
chủ nghĩa hội đã được xây dựng bước đầu theo phương hướng tiến lên sản xuất
hiện đại và một nền kinh tế độc lập tự chủ. Những cơ sở đầu tiên của công nghiệp
nặng quan trọng đã được xây dựng. Một số ngành công nghiệp nhẹ hình thành và
phát triển. Mạng lưới giao thông vận tải được mở rộng. Trong nông nghiệp, cùng
lOMoARcPSD| 60692662
20
với phong trào hợp tác hoá, các công trình thuỷ lợi được xây dựng. Nhiều thành
tựu khoa học được ứng dụng vào sản xuất góp phần tăng năng suất lao động. Một
cơ cấu kinh tế mới phù hợp với bước đi ban đầu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
hội đang từng bước hình thành. Sự nghiệp giáo dục, văn hoá, y tế, phát triển
mạnh.
Công cuộc cải tạo xây dựng chủ nghĩa hội miền Bắc đã bước đầu
kiến lập được một hình thái kinh tế - xã hội xã hội chủ nghĩa với quan hệ sản xuất
mới và những svật chất kỹ thuật bước đầu của chủ nghĩa xã hội, với một N
nước chuyên chính vô sản được củng cố, cùng với hệ tư tưởng và nền văn hoá xã
hội chủ nghĩa, đem lại những thay đổi sâu sắc trên mọi lĩnh vực.
Miền Bắc đã làm tròn nghĩa vụ của hậu phương đối với tiền tuyến. Hàng
triệu thanh niên miền Bắc đã hăng hái lên đường vào Nam chiến đấu cùng quân
dân miền Nam. Con em nhân dân miền Bắc thuộc nhiều thế hệ đã mặt trên
khắp chiến trường miền Nam hoạt động trên nhiều lĩnh vực: chiến đấu, phục vụ
chiến đấu, vận tải, y tế, giáo dục, nghệ thuật, thông tin liên lạc… góp phần y
dựng hậu phương tại chỗ ở miền Nam trong các vùng giải phóng và giúp đỡ cách
mạng Lào, cách mạng Campuchia.
Miền Bắc không chỉ chi viện cho miền Nam nguồn nhân lực dồi dào,
còn chi viện một khối lượng vật chất khổng lồ: hàng triệu tấn vũ khí, lương thực,
phương tiện kỹ thuật khác, đáp ứng đầy đvà kịp thời cho chiến trường miền
Nam ở mọi thời điểm lịch sử.
Sự lớn mạnh của miền Bắc xã hội chủ nghĩa còn là nguồn cổ vũ động viên
tinh thần cùng to lớn đối với miền Nam trong cuộc đấu tranh trực tiếp chống
đế quốc Mỹ và tay sai.
Sự nghiệp cách mạng hội chủ nghĩa miền Bắc đã tạo ra một hậu phương
tại chỗ vững chắc, củng cố phát triển tiềm lực quốc phòng để tiến hành cuộc
chiến tranh nhân dân chia lửa với miền Nam giành thắng lợi. Đồng thời chứng tỏ
sức sống mãnh liệt của chnghĩa hội, quyết tâm sức mạnh của chân
“Không có gì quý hơn độc lập tự do” của nhân dân ta.

Preview text:

lOMoAR cPSD| 60692662 MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 1
1. Đặc điểm miền Bắc bước vào thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội .................. 2
1.1. Thuận lợi ........................................................................................................ 2
1.2. Khó khăn ........................................................................................................ 2
2. Chủ trương đúng đắn của Đảng đưa miền Bắc quá độ lên chủ nghiã xã hội sau
năm 1954 ............................................................................................................... 3
2.1. Đường lối chung cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc sau 1954 ........... 3
2. 2. Chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc
từ1954 đến 1975 .................................................................................................... 5
3. Kinh nghiệm của quá trình Đảng lãnh đạo cách mạng xã hội chủ nghĩa ở
miềnBắc .............................................................................................................. 21
KẾT LUẬN ........................................................................................................ 23
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................... 24 MỞ ĐẦU
Trung thành với Cương lĩnh chính trị đã vạch ra từ năm 1930, sau khi cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi, Đảng ta chủ trương đưa miền Bắc lên
chủ nghĩa xã hội, nhằm đem lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân miền
Bắc và làm hậu phương vững chắc cho việc thực hiện cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân ở miền Nam, đấu tranh thống nhất nước nhà. Tuy nhiên, công cuộc xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc gặp phải không ít những khó khăn, thách thức
đòi hỏi Đảng ta phải có chủ trương và sự chỉ đạo đúng đắn, khắc phục hậu quả
chiến tranh, đẩy mạnh sản xuất chi viện sức người, sức của cho chiến trường chính
miền Nam, hoàn thành nhiệm vụ chiến lược của cách mạng dân tộc dân chủ nhân
dân. Vì vậy, em chọn đề tài tiểu luận: “Chủ trương đúng đắn của Đảng quyết lOMoAR cPSD| 60692662 2
định đưa miền Bắc quá độ lên chủ nghĩa xã hội sau năm 1954” nhằm làm rõ
những chủ trương đúng đắn, sáng tạo của Đảng trong lãnh đạo xây dựng chủ nghĩa
xã hội ở miền Bắc từ sau năm 1954.
1. Đặc điểm miền Bắc bước vào thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội
1.1. Thuận lợi
Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc tiến hành trong hoàn cảnh đất nước
tạm thời bị chia làm hai miền, mỗi miền có chế độ chính trị, xã hội khác nhau.
Sau chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ (7-5-1954) miền Bắc hoàn toàn giải phóng,
cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân về cơ bản đã hoàn thành, bước vào thời
kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đế quốc Mỹ thay chân thực dân Pháp vào xâm
lược miền Nam, biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của
chúng. Tính chất xã hội miền Nam vẫn là thuộc địa nửa phong kiến, nhiệm vụ
cách mạng cơ bản chưa thay đổi. Từ nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, chiến tranh
tàn phá nặng nề, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, đồng thời miền Bắc
còn phải thường xuyên đối phó với chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ. Đây là
đặc điểm lớn nhất của miền Bắc khi bước vào thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội. 1.2. Khó khăn
Miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội trong tình hình thế giới có nhiều và
trong nước có nhiều khó khăn, phức tạp.
Thứ nhất, đất nước tạm thời bị chia cắt làm hai miền. Ở miền Nam, đế quốc
Mỹ và tay sai mở cuộc chiến tranh thực dân mới kéo dài suốt 20 năm, với phạm
vi ngày càng mở rộng, quy mô ngày càng leo thang. Trong thời kỳ này, miền Bắc
phải đương đầu với hai cuộc chiến tranh phá hoại có tính huỷ diệt bằng không
quân và hải quân của đế quốc Mỹ, hòng ngăn chặn cuộc chiến tranh giải phóng
của nhân dân ta ở miền Nam. Vì vậy, công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội phải
trải qua ba lần khôi phục kinh tế, vừa phải bảo đảm đời sống nhân dân và chiến
đấu chống chiến tranh phá hoại, vừa phải làm tròn nghĩa vụ của hậu phương lớn
đối với tiền tuyến miền Nam. Đặc điểm này chi phối trực tiếp đến đường lối và
chính sách trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. lOMoAR cPSD| 60692662 3
Thứ hai, công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc cũng như cuộc
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trong cả nước đã nhận được sự giúp đỡ hết sức
to lớn về mọi mặt của các nước xã hội chủ nghĩa. Mặt khác, từ những năm 60 thế
kỷ XX, trong hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa cũng xảy ra những chia rẽ sâu
sắc, nhất là giữa Liên Xô và Trung Quốc, đòi hỏi Đảng ta phải có đường lối sáng
tạo, độc lập tự chủ, bảo đảm vừa tranh thủ được sự giúp đỡ của các nước xã hội
chủ nghĩa, góp phần đấu tranh vì sự thống nhất của phong trào cộng sản và công
nhân quốc tế, vừa giữ vững được độc lập, tự chủ trong tiến trình cách mạng.
Thứ ba, xuất phát điểm đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội của nước ta rất
thấp - từ một nước nông nghiệp, sản xuất nhỏ là phổ biến, cơ sở vật chất nghèo
nàn, lạc hậu, lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề. Trong khi đó, mô hình chủ nghĩa
xã hội mà Liên Xô và các nước Đông Âu áp dụng có điều kiện, hoàn cảnh, xuất
phát điểm không giống nước ta. Vì vậy, việc xác định mô hình, bước đi phải có
thời gian để tìm tòi, khảo nghiệm. Đây cũng là đặc điểm lớn chi phối đến đường
lối cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc.
Trong bối cảnh như vậy, công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc
(1954-1975) đặt ra phải có chủ trương lãnh đạo đúng đắn, phát huy tối đa mọi
nguồn lực, tranh thủ thời cơ khoắc phục khó khăn hoàn thành nhiệm vụ cách mạng
dân tộc dân chủ nhân dân trên phạm vi cả nước.
2. Chủ trương đúng đắn của Đảng đưa miền Bắc quá độ lên chủ
nghĩa xã hội sau năm 1954
2.1. Đường lối chung cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc sau 1954
Từ tháng 7 năm 1954 đến tháng 9 năm 1960, trong quá trình lãnh đạo cách
mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, Đảng ta đã tích lũy được những kinh nghiệm
bước đầu, từng bước xác lập nội dung cơ bản về đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Trên cơ sở đó, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng (9-1960) đã
phân tích những đặc điểm cơ bản của miền Bắc khi bước vào thời kì quá độ lên
chủ nghĩa xã hội, xác định đường lối chung cách mạng Việt Nam trong giai đoạn lOMoAR cPSD| 60692662 4
mới, đường lối cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam và đường lối
cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc.
Đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc là: “Đoàn kết toàn dân,
phát huy tinh thần yêu nước nồng nàn, truyền thống đấu tranh anh dũng và lao
động cần cù của nhân dân ta, đồng thời tăng cường đoàn kết với các nước xã hội
chủ nghĩa anh em do Liên Xô đứng đầu, để đưa miền Bắc tiến nhanh, tiến mạnh,
tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội, xây dựng đời sống ấm no, hạnh phúc ở miền
Bắc và củng cố miền Bắc thành cơ sở vững mạnh cho cuộc đấu tranh thực hiện
thống nhất nước nhà, góp phần tăng cường phe xã hội chủ nghĩa, bảo vệ hoà bình
ở Đông Nam Á và trên thế giới”.
Muốn đạt mục tiêu đó, phải sử dụng chính quyền dân chủ nhân dân làm
nhiệm vụ lịch sử của chuyên chính vô sản để thực hiện cải tạo xã hội chủ nghĩa
đối với nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp nhỏ và công thương nghiệp
tư bản chủ nghĩa tư doanh; phát triển thành phần kinh tế quốc doanh, thực hiện
công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa bằng cách ưu tiên phát triển công nghiệp nặng
một cách hợp lý, đồng thời ra sức phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ; biến
nước ta thành một nước xã hội chủ nghĩa có công nghiệp hiện đại, nông nghiệp
hiện đại, văn hoá và khoa học tiên tiến”1.
Đường lối đó bao gồm những nội dung chủ yếu sau:
Về mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc: xây dựng đời sống ấm
no, hạnh phúc cho nhân dân miền Bắc, củng cố miền Bắc thành cơ sở vững mạnh
cho cuộc đấu tranh thực hiện hoà bình thống nhất nước nhà; góp phần tăng cường
phe xã hội chủ nghĩa, bảo vệ hoà bình ở Đông Nam Á và thế giới.
Con đường để đạt mục tiêu trên là: sử dụng chính quyền dân chủ nhân dân
làm nhiệm vụ lịch sử của chuyên chính vô sản, để cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã
hội mới; phát triển thành phần kinh tế quốc doanh, thực hiện công nghiệp hoá xã
hội chủ nghĩa bằng cách ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lí, đồng
thời ra sức phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ; đẩy mạnh cách mạng xã
1 Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng Lao động Việt Nam, Văn kiện đại hội, Tập 1, Ban Chấp hành Trung ương
Đảng Lao động Việt Nam, xuất bản 9-1960, tr 179-180. lOMoAR cPSD| 60692662 5
hội chủ nghĩa về tư tưởng, văn hoá và kĩ thuật, để biến nước ta thành một nước xã
hội chủ nghĩa có công nghiệp hiện đại, nông nghiệp hiện đại, văn hóa, khoa học tiên tiến.
Về nhịp độ và bước đi của cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc là: tiến
nhanh , tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội.
Đại hội xác định cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc có vị trí quyết
định nhất đối với sự phát triển của toàn bộ cách mạng nước ta, đối với sự nghiệp thống nhất nước nhà.
Đại hội đã đề ra nhiệm vụ, phương hướng kế hoạch 5 năm lần thứ nhất
(1961-1965), nhằm xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội.
Thực chất đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc do Đại hội lần
thứ III của Đảng xác định là đường lối tiến hành cách mạng về quan hệ sản xuất
và lực lượng sản xuất, về xây dựng cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng, nhằm
tạo ra một hình thái kinh tế - xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa.
Những tư tưởng cơ bản của đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền
Bắc còn được Đảng ta tiếp tục bổ sung, phát triển trong những năm tiếp theo. Hội
nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 19 (1/1971) nhấn mạnh: phải nắm
vững chuyên chính vô sản, phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động,
tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng (cách mạng về quan hệ sản xuất, cách
mạng kĩ thuật và cách mạng tư tưởng, văn hoá); khẳng định thời kì quá độ lên chủ
nghĩa xã hội là lâu dài phải trải qua nhiều bước quá độ nhỏ mà miền Bắc đang ở
bước đi ban đầu của thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội; kết hợp chặt chẽ xây
dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
2. 2. Chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
miền Bắc từ 1954 đến 1975
* Thời kì khôi phục, cải tạo kinh tế (1954-1957)
Từ tháng 7-1954, miền Bắc hoàn toàn giải phóng, Đảng quyết định đưa
miền Bắc bước vào thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Trong ba năm đầu (1955
- 1957), Đảng chủ trương khôi phục kinh tế sau chiến tranh và hoàn thành những
nhiệm vụ còn lại của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Bắc. lOMoAR cPSD| 60692662 6
Hội nghị Bộ Chính trị tháng 9/1954 chỉ rõ: nhiệm vụ to lớn là hàn gắn vết
thương chiến tranh, khôi phục kinh tế quốc dân, giảm bớt những khó khăn về đời
sống cho nhân dân, phát triển kinh tế có kế hoạch và làm từng bước; mở rộng giao
lưu kinh tế giữa thành thị và nông thôn. Đến tháng 8/ 1955, Hội nghị lần thứ 8
Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã đề ra kế hoạch 3 năm khôi phục và phát triển
kinh tế - văn hoá (1955-1957). Phương châm chỉ đạo: khôi phục là chính, đồng
thời phát triển trong phạm vi cần thiết và có thể được; trọng tâm là khôi phục nông
nghiệp, dựa trên cơ sở khôi phục nông nghiệp mà khôi phục các ngành khác. Phấn
đấu sau 3 năm khôi phục đạt và vượt mức sản xuất trước chiến tranh (năm 1939).
Trong nông nghiệp, trọng tâm là giải quyết lương thực. Trong công nghiệp, chú
trọng tiểu thủ công nghiệp, đồng thời tăng cường các xí nghiệp quốc doanh, xây
dựng một số cơ sở mới về công nghiệp một cách vững chắc phục vụ sản xuất, dân sinh và quốc phòng.
Thực hiện chủ trương của Đảng trong sản xuất nông nghiệp, giai cấp nông
dân phấn khởi phục hoá, khai hoang, làm thuỷ lợi, đẩy mạnh sản xuất tăng nhanh
sản lượng lương thực. Đến năm 1957, sản lượng lương thực ở miền Bắc vượt mức
trước chiến tranh 2,4 triệu tấn. Trong thời kì này, Đảng còn chỉ đạo xây dựng thí
điểm 44 hợp tác xã và 8 vạn tổ đổi công.
Về sản xuất công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp, được sự giúp đỡ của các
nước xã hội chủ nghĩa anh em, miền Bắc vừa khôi phục xí nghiệp cũ vừa xây
dựng thêm một số xí nghiệp mới. Hầu hết các cơ sở công nghiệp, nhà máy, xí
nghiệp quan trọng đi vào hoạt động có hiệu quả, giai cấp công nhân phấn khởi
làm chủ cơ sở sản xuất.
Thương nghiệp xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc được hình thành; giao thông
vận tải được khôi phục và phát triển; văn hoá, giáo dục, y tế phát triển nhanh chóng.
Đồng thời, Đảng chú ý bồi dưỡng, giáo dục chính trị tư tưởng cho cán bộ.
Hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở được xây dựng và củng cố. Công tác
xây dựng Đảng được chú trọng, Nhà nước dân chủ nhân dân được tăng cường làm
nhiệm vụ lịch sử của chuyên chính vô sản. Khối đại đoàn kết toàn dân trong Mặt lOMoAR cPSD| 60692662 7
trận được củng cố. Khuynh hướng tư tưởng tư sản và các tư tưởng văn hoá lạc
hậu bị đánh bại, giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội.
Về thực hiện nhiệm vụ cải cách ruộng đất, từ năm 1953 khi cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp đến giai đoạn quyết định, Đảng đã chủ trương phát
động quần chúng triệt để giảm tô và cải cách ruộng đất. Trong hai năm 1954 1956,
cải cách ruộng đất ở miền Bắc được tiếp tục tiến hành với 4 đợt (từ đợt 2 đến đợt
5) trên phạm vi 3.314 xã. Qua 5 đợt cải cách ruộng đất, Hội nghị lần thứ 10 (từ
ngày 25 - 8 đến 18 - 10 - 1956) và Hội nghị lần thứ 14 (11-1958) của Ban Chấp
hành Trung ương Đảng đã chỉ rõ: thắng lợi của cải cách ruộng đất là thắng lợi to
lớn và căn bản. Toàn bộ giai cấp địa chủ, phong kiến, đối tượng của cách mạng
dân tộc dân chủ nhân dân bị đánh đổ, 81 vạn ha ruộng đất, nhiều trâu bò, nông cụ
chia cho hơn 2 triệu hộ nông dân. Giai cấp nông dân được giải phóng, lên địa vị
làm chủ, đánh dấu hoàn thành nhiệm vụ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở
miền Bắc, tạo tiền đề kinh tế, chính trị, xã hội thuận lợi để miền Bắc làm cách
mạng xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, trong quá trình chỉ đạo cải cách ruộng đất đã
mắc phải một số sai lầm nghiêm trọng, ảnh hưởng đến tư tưởng, tình cảm cách
mạng của nhân dân. Đảng ta đã công khai nhận khuyết điểm trước đồng bào cả
nước và kiên quyết sửa sai.
* Thời kì cải tạo và xây dựng chủ nghĩa xã hội (1958-1960)
Với thắng lợi của khôi phục, phát triển kinh tế (1954-1958), tháng 11/1958,
Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ 14 bàn về kế hoạch 3 năm
(1958-1960) cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với các thành phần kinh tế cá thể của
nông dân, thợ thủ công, thành phần kinh tế tư bản tư doanh, người buôn bán nhỏ.
Hội nghị xác định khâu chính trong cải tạo là cải tạo nông nghiệp, ra sức
phát triển thành phần kinh tế quốc doanh. Đồng thời với cải tạo và phát triển kinh
tế phải tiến hành công tác giáo dục, văn hoá, tư tưởng, coi đó là một bộ phận quan
trọng, khăng khít của nhiệm vụ cải tạo và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Quá trình
cải tạo các thành phần kinh tế là quá trình xác lập chế độ công hữu về tư liệu sản
xuất dưới hai hình thức chủ yếu: sở hữu nhà nước (toàn dân) và sở hữu tập thể,
nhằm hình thành quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa. lOMoAR cPSD| 60692662 8
Tháng 4/1959, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ 16
bàn về cải tạo nông nghiệp cá thể ở miền Bắc theo hướng hợp tác hoá xã hội chủ
nghĩa, cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với công thương nghiệp tư bản tư doanh, thủ
công nghiệp và những người buôn bán nhỏ.
Về cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp. Hội nghị Ban Chấp hành
Trung ương lần thứ 16 chỉ rõ: miền Bắc cần và có thể tiến hành hợp tác hoá nông
nghiệp trong điều kiện chưa cơ giới. Cuộc vận động hợp tác hoá nông nghiệp phải
kết hợp chặt chẽ với vận động cải tiến kĩ thuật, tăng năng suất lao động. Nguyên
tắc chỉ đạo xây dựng hợp tác xã nông nghiệp là tự nguyện, cùng có lợi và quản lý
dân chủ. Phương châm tiến hành cải tạo là tích cực, vững chắc, qui hoạch về mọi
mặt, sát với từng vùng. Trong thời gian đầu phải đi từ thấp đến cao, qua ba bước:
tổ đổi công, hợp tác xã bậc thấp, hợp tác xã bậc cao để cho nông dân làm quen
với lối làm ăn tập thể và phù hợp với trình độ quản lý của cán bộ.
Đối với ngư nghiệp, ngày 16/6/1960, Bộ Chính trị đã ra Chỉ thị về thành
lập hợp tác xã nghề cá ở vùng biển. Bộ Chính trị chỉ rõ: xây dựng hợp tác xã nghề
cá phải bao gồm cả cải tạo quan hệ sản xuất và phát triển sản xuất, lấy phát triển
sản xuất để đẩy mạnh phong trào hợp tác xã.
Chủ trương cải tạo về nông nghiệp đúng đắn của Đảng đã lôi cuốn đông
đảo nông dân xin gia nhập hợp tác xã. Các nông trường quốc doanh cũng được tổ
chức lại và quản lí thống nhất của Bộ Nông trường. Phong trào làm thuỷ lợi, phân
bón, cải tiến kĩ thuật canh tác phát triển mạnh.
Đối với công thương nghiệp tư bản tư doanh, Đảng quyết định cải tạo bằng
phương pháp hoà bình. Điểm mấu chốt về kinh tế trong cải tạo bằng phương pháp
hoà bình là chính sách chuộc lại tư liệu sản xuất mà tư sản nắm, không tịch thu,
đồng thời sắp xếp việc làm cho các nhà tư bản và giai cấp tư sản. Bước đi của cải
tạo cũng từ thấp đến cao. Điều kiện chủ chốt phải tăng cường kinh tế quốc doanh,
củng cố chính quyền dân chủ nhân dân, củng cố liên minh công - nông và giáo
dục tư tưởng xã hội chủ nghĩa cho nhân dân. Thực hiện chủ trương của Đảng,
công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa trong công, thương nghiệp tư bản tư doanh
nhanh chóng giành thắng lợi. lOMoAR cPSD| 60692662 9
Đối với thủ công nghiệp, Đảng chủ trương đưa thợ thủ công đi theo con
đường hợp tác hoá, cải tiến kĩ thuật, tận dụng khả năng của thủ công nghiệp phục
vụ nông nghiệp và sản xuất hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu. Trong những năm
1959-1960, việc tập thể hoá tiểu thủ công nghiệp đã cơ bản hoàn thành.
Đối với những người buôn bán nhỏ, Đảng chủ trương giáo dục, giúp đỡ làm
cho họ tự nguyện và tham gia cải tạo xã hội chủ nghĩa, tích cực tổ chức họ lại
dưới hình thức hợp tác xã, đồng thời chuyển dần một số sang sản xuất.
Đồng thời với cải tạo xã hội chủ nghĩa, Đảng chỉ đạo phát triển thành phần
kinh tế quốc doanh, phát triển công nghiệp hàng tiêu dùng và thương nghiệp xã
hội chủ nghĩa. Sự nghiệp phát triển văn hoá, giáo dục, y tế được Đảng, Nhà nước
quan tâm xây dựng. Hệ thống y tế hình thành cơ bản trên khắp các địa phương miền Bắc.
Trong 3 năm (1958-1960), công tác xây dựng Đảng được đẩy lên một bước,
chuẩn bị tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng.
Việc xây dựng Nhà nước và các đoàn thể quần chúng được xúc tiến mạnh
mẽ. Ngày 29/4/1958, Quốc hội thông qua Luật tổ chức chính quyền địa phương,
bãi bỏ cấp trung gian là khu, liên khu để các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương. Tháng 12/1959, Quốc hội thông qua Hiến pháp mới. Các tổ chức quần
chúng trong Mặt trận dân tộc thống nhất đều được củng cố và hoạt động tích cực.
Quân đội nhân dân Việt Nam được đặc biệt quan tâm xây dựng, từng bước tiến
lên chính qui, hiện đại.
* Đảng thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961-1965)
Đồng thời với xác định đường lối chung cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền
Bắc, Đại hội lần thứ III của Đảng đã đề ra phương hướng, nhiệm vụ của kế hoạch
5 năm lần thứ nhất (1961-1965).
Mục tiêu của kế hoạch 5 năm lần thứ nhất là: Thực hiện một bước công
nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa, xây dựng bước đầu cơ sở vật chất kĩ thuật của chủ
nghĩa xã hội, đồng thời hoàn thành cải tạo xã hội chủ nghĩa, tiếp tục đưa miền Bắc
tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội. lOMoAR cPSD| 60692662 10
Nhiệm vụ cơ bản của kế hoạch là: Ra sức phát triển công nghiệp và nông
nghiệp, thực hiện một bước ưu tiên phát triển công nghiệp nặng, đồng thời ra sức
phát triển nông nghiệp toàn diện, phát triển công nghiệp nhẹ, phát triển giao thông
vận tải, tăng cường thương nghiệp quốc doanh và thương nghiệp hợp tác xã, chuẩn
bị cơ sở tiến lên xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp và nông nghiệp xã hội chủ nghĩa;
Hoàn thành công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp, tiểu
thủ công nghiệp, thương nghiệp nhỏ và công thương nghiệp tư bản tư doanh, tăng
cường kinh tế quốc doanh, tăng cường mối quan hệ giữa sở hữu toàn dân và sở
hữu tập thể, mở rộng quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân;
Nâng cao trình độ văn hoá của nhân dân, đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, nhất là cán bộ xây dựng kinh tế và công nhân lành nghề, nâng cao
trình độ quản lý kinh tế, của đội ngũ cán bộ cácc cấp, của nhân dân lao động xúc
tiến công tác nghiên cứu khoa học và ứng dụng kỹ thuật, thăm dò tài nguyên và
tiến hành điều tra cơ bản phục vụ yêu cầu phát triển kinh tế, xã hội; phát triển văn hoá xã hội chủ nghĩa.
Đồng thời với phát triển kinh tế, ra sức củng cố quốc phòng, giữ vững trật
tự an ninh, bảo vệ sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc.
Trong kế hoạch 5 năm lần thứ nhất phấn đấu đạt được một số chỉ tiêu chủ
yếu là: Giá trị tổng sản phẩm công nghiệp và thủ công nghiệp tăng 148% so với
năm 1960, bình quân hàng năm tăng khoảng 20%. Giá tri tổng sản lượng lương
thực dự tính tăng 10%. Về xây dựng cơ bản, Nhà nước đầu tư 48% ngân sách.
Thu nhập thực tế bình quân đầu người đến năm 1965 tăng khoảng 30% so với năm 1960.
Sau Đại hội, Đảng đã chỉ đạo cụ thể để thực hiện đường lối chung về cách
mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961-1965).
Mùa xuân năm 1961, Bộ Chính trị mở đợt sinh hoạt chính trị rộng lớn trong
toàn Đảng, toàn dân nhằm khắc phục những tư tưởng trở ngại, tạo nên khí thế
cách mạng mới, nâng cao ý thức làm chủ và tinh thần tập thể xã hội chủ nghĩa; lOMoAR cPSD| 60692662 11
xây dựng quan điểm phục vụ sản xuất; quan điểm cần, kiệm xây dựng nước nhà;
quan điểm tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội. Từ đây
phong trào thi đua yêu nước phát triển mạnh mẽ.
Ngày 26/1/1961, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra Nghị quyết về việc đẩy
mạnh phong trào thi đua yêu nước bảo đảm hoàn thành toàn diện và vượt mức kế
hoạch nhà nước năm 1961 và Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất. Thực hiện chủ trương
của Đảng, phong trào thi đua đã phát triển sâu rộng và ngày càng thiết thực. Đáng
kể nhất là các phong trào thi đua “Sóng Duyên Hải” trong công nghiệp, “Gió Đại
Phong” trong nông nghiệp, thi đua đuổi kịp và vượt Thành Công trong thủ công
nghiệp, thi đua giành cờ “Ba nhất” trong quân đội, thi đua giành “Hai tốt” trong
ngành giáo dục. Qua phong trào thi đua, những tổ, đội lao động xã hội chủ nghĩa,
những chiến sĩ thi đua xuất hiện ngày càng nhiều.
Ngày 09/02/1963, Bộ Chính trị ra Nghị quyết về cuộc vận động cải tiến
quản lý hợp tác xã, cải tiến kỹ thuật, nhằm phát triển nông nghiệp toàn diện, mạnh
mẽ và vững chắc. Ngày 24/7/1963, Bộ Chính trị ra Nghị quyết về cuộc vận động
“Nâng cao ý thức trách nhiệm tăng cường quản lý kinh tế tài chính, cải tiến kỹ
thuật, chống tham ô, lãng phí, quan liêu” gọi tắt là cuộc vận động “Ba xây, ba
chống” với mục đích tăng cường và quản lý kinh tế tài chính, cải tiến kĩ thuật, đẩy
mạnh sản xuất, tăng năng suất lao động. Ngoài hai cuộc vận động này, còn có
cuộc vận động đồng bào miền xuôi lên phát triển kinh tế miền núi.
Tháng 7/1961, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ 5
bàn về đẩy mạnh phát triển nông nghiệp. Hội nghị chỉ ra vấn đề mấu chốt phải
xây dựng và phát triển lực lượng sản xuất mới ở nông thôn, nhằm đẩy mạnh phát
triển nông nghiệp, bảo đảm các yêu cầu chủ yếu về cung cấp lương thực, thực
phẩm, cung cấp nguyên vật liệu cho công nghiệp và một số sản phẩm xuất khẩu
để đổi lấy máy móc thiết bị, làm cho nông thôn trở thành thị trường tiêu thụ rộng
lớn của công nghiệp. Phấn đấu sau 5 năm đưa mức sống của xã viên lên ngang
mức sống của trung nông lớp trên, thay đổi bộ mặt nông thôn; làm cho nông
nghiệp trở thành cơ sở vững chắc để phát triển công nghiệp, đưa nông nghiệp tiến
nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội. Phương châm phát triển lOMoAR cPSD| 60692662 12
nông nghiệp là: phát triển toàn diện, lấy lương thực làm trọng tâm; thuỷ lợi là biện
pháp hàng đầu; củng cố và phát triển các hợp tác xã nông nghiệp và nông trường
quốc doanh là vấn đề có ý nghĩa rất quan trọng trong việc đẩy mạnh phát triển sản xuất nông nghiệp.
Về công nghiệp, sau một thời gian phục hồi, cải tạo, xây dựng và phát triển,
căn cứ vào thực tế tình hình và yêu cầu phát triển của công nghiệp, tháng 6/1962
Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ 7 bàn về xây dựng và phát
triển công nghiệp. Hội nghị chủ trương trong thời kỳ đầu của “… phấn đấu thực
hiện một sự chuyển biến căn bản trong nền kinh tế quốc dân, tiến hành trang bị
cơ khí và nửa cơ khí một cách phổ biến, xoá bỏ tình trạng thủ công lạc hậu lâu
đời và tình trạng mất cân đối nghiêm trọng hiện nay trong các ngành sản xuất,
bảo đảm cho nông nghiệp, công nghiệp và các ngành kinh tế khác phát triển nhịp
nhàng và mạnh mẽ” 2.
Nhiệm vụ xây dựng và phát triển công nghiệp trong kế hoạch 5 năm lần
thứ nhất là: phấn đấu xây dựng bước đầu cơ sở vật chất và kĩ thuật của chủ nghĩa
xã hội, thực hiện một bước công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa và hoàn thành công
cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa, tiếp tục đưa miền Bắc tiến nhanh, tiến mạnh, tiến
vững chắc lên chủ nghĩa xã hội. Phương châm phát triển là: vừa đi ngay vào kĩ
thuật hiện đại, vừa đi tuần tự từ sản xuất thủ công lên nửa cơ khí và đại cơ khí;
kết hợp xây dựng xí nghiệp qui mô lớn với xí nghiệp qui mô vừa và nhỏ; kết hợp
kĩ thuật hiện đại với kĩ thuật thô sơ; kết hợp xây dựng những xí nghiệp mới với
việc tận dụng những xí nghiệp cũ; kết hợp phát triển công nghiệp địa phương với
phát triển công nghiệp trung ương.
Tháng 4-1963, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ 8
bàn về kế hoạch phát triển kinh tế quốc dân 5 năm (1961-1965). Hội nghị đưa ra
phương hướng nhiệm vụ, những chỉ tiêu và biện pháp chủ yếu của kế hoạch 5
năm lần thứ nhất; làm sâu sắc thêm đường lối, bước đi, tốc độ của công nghiệp
hoá xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc; phát triển một số vấn đề về phương hướng xây
2 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng, Toàn tập, tập 23, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,2002, tr.355. lOMoAR cPSD| 60692662 13
dựng chủ nghĩa xã hội như: quan hệ giữa tích luỹ và tiêu dùng, quan hệ giữa công
nghiệp và nông nghiệp, quan hệ giữa xây dựng kinh tế và củng cố quốc phòng;
phương hướng tích luỹ, đầu tư, xây dựng cơ bản…theo tinh thần tự lực cánh sinh,
cần kiệm xây dựng đất nước, khắc phục những non yếu trong nền kinh tế.
Trong quá trình thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất ở miền Bắc, cuộc
đấu tranh của nhân dân miền Nam chống “chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mĩ
diễn ra rất quyết liệt. Trước nguy cơ sụp đổ của nguỵ quân, nguỵ quyền, đế quốc
Mĩ một mặt đẩy mạnh chiến tranh xâm lược miền Nam, mặt khác tăng cường phá
hoại ra miền Bắc. Trước tình hình mới, ngày 27/3/1964, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã triệu tập Hội nghị chính trị đặc biệt. Tại Hội nghị này, Hồ Chủ tịch kêu
gọi mỗi người “Làm việc bằng hai để đền đáp cho đồng bào miền Nam ruột thịt”.
Thực hiện lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch, ngày 18/4/1964, Ban Bí thư Trung
ương Đảng ra Chỉ thị phát động phong trào thi đua “Mỗi người làm việc bằng hai”
đưa phong trào thi đua yêu nước xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và chi
viện cho miền Nam lên một bước mới. Thực hiện Chỉ thị của Ban Bí thư, phong
trào thi đua “Mỗi người làm việc bằng hai” đã nhanh chóng lan rộng khắp miền
Bắc, nhiều điển hình tiên tiến trong sản xuất và công tác xuất hiện. Phong trào thi
đua đã góp phần thúc đẩy hoàn thành thắng lợi kế hoạch nhà nước năm 1964 và
kế hoạch 5 năm lần thứ nhất.
Tháng 12/1964, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ 10
chuyên bàn về thương nghiệp và giá cả. Căn cứ vào đường lối chung xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, Hội nghị nhấn mạnh: cách mạng xã hội chủ nghĩa ở
miền Bắc phải tiến hành toàn diện trên tất cả các mặt không được xem nhẹ mặt
nào. Thương nghiệp, giá cả phải góp phần xây dựng các mối quan hệ lớn và giải
quyết những mâu thuẫn trên con đường tiến lên để xây dựng, củng cố quan hệ sản
xuất mới, phục vụ xây dựng kinh tế kết hợp củng cố quốc phòng; phải nhận rõ sự
phát triển kinh tế hàng hoá ở miền Bắc trong cả thời kỳ quá độ là khách quan;
phải dựa vào thị trường trong nước là chính, trước mắt và chủ yếu là thị trường
nông thôn; phải mở rộng giao lưu hàng hoá trong nước và với nước ngoài; phải
tiếp tục tăng cường lực lượng thương nghiệp quốc doanh và hợp tác xã mua bán; lOMoAR cPSD| 60692662 14
phải coi trọng cả hai mặt giá trị sử dụng và giá trị của hàng hoá; kết hợp chặt chẽ
thị trường thống nhất toàn miền Bắc.
Thực hiện Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, miền Bắc đã giành được những
thắng lợi to lớn đưa miền Bắc thực sự trở thành căn cứ địa của cách mạng cả nước
và hậu phương lớn của cách mạng miền Nam. Thắng lợi đó chứng minh đường
lối xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc của Đảng là đúng đắn, củng cố thêm
niềm tin, xây dựng ý chí quyết tâm cho quân dân cả nước vào thực hiện nhiệm vụ
cách mạng trong giai đoạn mới.
* Đảng lãnh đạo xây dựng chủ nghĩa xã hội từ 1965 đến 1975
Chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng chuyển hướng xây dựng kinh tế ở miền
Bắc, đánh thắng chiến tranh phá hoại lần thứ nhất (1965-1968).
Đến năm 1965, miền Bắc đã có hơn 10 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội, kế
hoạch 5 năm lần thứ nhất sắp hoàn thành thì đế quốc Mỹ chuyển sang “chiến tranh
cục bộ” và tiến hành chiến tranh phá hoại miền Bắc. Bom đạn của đế quốc Mĩ đe
doạ trực tiếp những thành quả của chủ nghĩa xã hội được xây dựng hơn 10 năm
qua. Trước tình hình mới, Ban Chấp hành Trung ương Đảng liên tiếp họp Hội nghị
Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 11 (3/1965) và lần thứ 12 (12/1965) xác định
quyết tâm đánh Mỹ và thắng Mỹ. Đối với miền Bắc, phương hướng nhiệm vụ
chung là: “Tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”. Nhiệm vụ cụ thể là:
Xây dựng miền Bắc thành hậu phương vững chắc của cách mạng miền
Nam, đồng thời bảo đảm đời sống cho nhân dân, đáp ứng nhu cầu hậu cần tại chỗ.
Đánh thắng chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân của đế quốc Mỹ.
Tăng cường chi viện cho miền Nam, tích cực giúp đỡ cách mạng Lào và cách mạng campuchia.
Miền Bắc vẫn tiếp tục xây dựng chủ nghĩa xã hội song phải chuyển hướng
xây dựng kinh tế phù hợp với tình hình cả nước có chiến tranh. Sự chuyển hướng
đó thể hiện trên các mặt sau:
Về kinh tế, chuyển hướng xây dựng và phát triển kinh tế phù hợp với tình
hình miền Bắc có chiến tranh phá hoại, bảo đảm được yêu cầu chiến đấu, sẵn sàng lOMoAR cPSD| 60692662 15
chiến đấu, tăng cường chi viện cho miền Nam, song vẫn bảo đảm được phương
hướng lâu dài của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Về quốc phòng, tăng cường về mọi mặt; phát động phong trào toàn dân
phòng tránh, toàn dân chống chiến tranh phá hoại của địch. Tranh thủ sự giúp đỡ
về vũ khí và phương tiện chiến tranh của các nước anh em.
Về tư tưởng và tổ chức, làm cho toàn Đảng, toàn dân nhận rõ âm mưu của
địch, chuyển mọi hoạt động từ thời bình sang thời chiến.
Giao thông vận tải phải tăng cường lực lượng cán bộ, phương tiện và vật
chất. Trên các tuyến đường giao thông thực hiện khẩu hiệu “địch phá, ta cứ đi”,
“đánh địch mà đi, mở đường mà tiến”.
Chủ trương của Đảng được quán triệt trong toàn Đảng, toàn dân. Phong trào
thi đua thi đua: Mỗi người làm việc bằng hai, ra sức xây dựng và bảo vệ miền
Bắc, tích cực chi viện cho cách mạng miền Nam của Hồ Chủ tịch, trở thành phong
trào cách mạng tự giác trong các ngành, các đoàn thể thi đua xây dựng chủ nghĩa
xã hội và chi viện cho miền Nam.
Trong nông nghiệp có phong trào thi đua “tay cày tay súng” phấn đấu đạt 3
mục tiêu (5 tấn thóc, 2 con lợn, 1 lao động trên 1 héc ta gieo trồng), nhiều điển
hình sản xuất, thâm canh giỏi xuất hiện. Trong công nghiệp, phong trào thi đua
“tay búa tay súng” đã giữ vững sản xuất, một số ngành có phát triển. Các lĩnh vực
thương nghiệp, tài chính, giao thông vận tải, văn hoá, giáo dục, y tế vẫn duy trì
hoạt động và đạt hiệu quả cao. Các đoàn thể nhân dân thi đua sôi nổi, khẩn trương
với lòng nhiệt tình cách mạng và tinh thần quyết thắng cao. Hàng vạn thanh niên
với tinh thần “Ba sẵn sàng” được điều động vào chiến đấu và phục vụ chiến đấu.
Phụ nữ đảm bảo xây dựng hậu phương với tinh thần “Ba đảm đang”. Phụ lão có
phong trào “Ba hăng hái”…
Trong 4 năm (từ 5/8/1964 đến 1/11/1968), quân và dân miền Bắc vừa xây
dựng chủ nghĩa xã hội, vừa chi viện mọi mặt cho miền Nam với tinh thần “Thóc
không thiếu một cân, quân không thiếu một người”. Miền Bắc còn đánh thắng
cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ nhất của đế quốc Mỹ vào miền Bắc, bắn rơi
3.234 máy bay, diệt và bắt sống hàng nghìn giặc lái Mỹ. Bắn chìm và bắn cháy lOMoAR cPSD| 60692662 16
143 tàu chiến. Bị thất bại nặng nề ở cả hai miền Nam-Bắc, đế quốc Mĩ buộc phải
tuyên bố ném bom hạn chế miền Bắc kể từ ngày 31/3/1968 và ngừng hoàn toàn
ném bom trên miền Bắc từ ngày 1/11/1968.
Đảng lãnh đạo xây dựng miền Bắc, chi viện cho miền Nam, đánh thắng
chiến tranh phá hoại lần thứ hai của đế quốc Mỹ từ năm 1969 đến năm 1973.
Bị thất bại nặng nề trong chiến tranh cục bộ, từ ngày 1/11/1968, đế quốc
Mỹ buộc phải tuyên bố chấm dứt không điều kiện ném bom phá hoại miền Bắc từ
Vĩ tuyến 20 trở ra. Trước tình hình đó, Hội nghị Ban Chấp hành Trung lần thứ 19
của Đảng (1/1971) đã xác định: khôi phục và phát triển kinh tế ở miền Bắc là
nhằm bảo đảm cho miền Bắc làm tròn nhiệm vụ hậu phương lớn đối với tiền tuyến
lớn miền Nam, đối với cách mạng Lào và cách mạng campuchia. Hội nghị đề ra
đường lối phát triển kinh tế trong bước đi ban đầu của thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội là: Ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý, trên cơ sở
phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ, xây dựng kinh tế trung ương, đồng
thời phát triển kinh tế địa phương, kết hợp kinh tế với quốc phòng.
Phương hướng, nhiệm vụ khôi phục và phát triển kinh tế trong những năm
trước mắt (1971-1973) là: tập trung sức đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, sản xuất
hàng tiêu dùng, khôi phục và phát triển công nghiệp nhẹ; khôi phục và phát triển
những ngành công nghiệp nặng chủ chốt phục vụ thiết thực cho nông nghiệp và
sản xuất hàng tiêu dùng; khôi phục và phát triển giao thông vận tải phục vụ kịp
thời cho chiến đấu, sản xuất, xây dựng và đời sống.
Sau Hội nghị lần thứ 19, đầu năm 1972 Ban Chấp hành Trung ương Đảng
họp Hội nghị lần thứ 20 bàn về cải tiến quản lý kinh tế nhằm từng bước xây dựng
hệ thống quản lý kinh tế phù hợp với điều kiện cụ thể của miền Bắc. Hội nghị chỉ
ra nhiệm vụ cải tiến công tác quản lý ở tất cả các khâu như: kế hoạch, hạch toán
kinh tế, khoa học kỹ thuật, tổ chức bộ máy quản lý…
Giữa lúc nhân dân ta đang dồn sức khôi phục kinh tế và đẩy mạnh cuộc
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, ngày 2/9/1969, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vĩnh
biệt chúng ta tại Hà Nội. Hưởng ứng lời kêu gọi của Ban Chấp hành Trung ương
Đảng, học tập và làm theo Di chúc của Bác, biến đau thương thành hành động lOMoAR cPSD| 60692662 17
cách mạng, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đã tập trung sức khôi phục và phát
triển kinh tế, chi viện cho miền Nam. Chủ trương khôi phục kinh tế được biến
thành hành động cách mạng rộng lớn của quần chúng và đã đạt được những kết
quả rất quan trọng trong sản xuất nông nghiệp, công nghiệp, giao thông vận tải,
giáo dục, văn hoá, y tế, quốc phòng an ninh.
Trong khi nhân dân miền Bắc tranh thủ điều kiện có hoà bình khôi phục và
phát triển kinh tế đạt được những thành tựu mới, tăng cường tiềm lực cho cuộc
chống Mỹ cứu nước, nhân dân miền Nam cũng giành được những thắng lợi có ý
nghĩa chiến lược trong Xuân - Hè 1970 và năm 1971. Đặc biệt là cuộc tiến công
chiến lược năm 1972 đã làm cho chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh” của đế
quốc Mỹ đứng trước nguy cơ phá sản.
Để cứu vãn nguy cơ thất bại, từ tháng 4/1972 đế quốc Mĩ đánh phá trở lại
miền Bắc. Cuối năm 1972, đế quốc Mĩ đã huy động một lực lượng lớn không quân
chiến lược tập kích vào Hà Nội, Hải Phòng, các khu dân cư lớn với mức độ tàn
phá, huỷ diệt nhằm ngăn chặn và cắt đứt sự chi viện của miền Bắc đối với mền
Nam, phá hoại tiềm lực kinh tế, quân sự, uy hiếp tinh thần quyết thắng Mĩ của
nhân dân ta. Trước tình hình đó, ngày 1/6/ 1972 Bộ Chính trị Ban Chấp hành
Trung ương Đảng chủ trương chuyển hướng mọi mặt ở miền Bắc, quyết tâm đánh
thắng giặc Mỹ xâm lược trong mọi tình huống, đẩy mạnh sản xuất và chiến đấu
phù hợp với thời chiến.
Thực hiện chủ trương của Đảng, nhân dân miền Bắc đã nhanh chóng chuyển
mọi hoạt động sang thời chiến; mở rộng thêm lực lượng phòng không và các lực
lượng vũ trang nhân dân, đánh bại chiến tranh phá hoại của địch, bảo đảm yêu cầu
tuyển quân và lao động phục vụ chiến trường, bảo đảm hậu cần tại chỗ; tăng cường
công tác tư tưởng, xây dựng quyết tâm trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân quyết
đánh thắng giặc Mỹ xâm lược.
Vượt lên khó khăn, đau thương và sự ác liệt chưa từng có của những cuộc
ném bom, phong toả, dưới sự lãnh đạo của Đảng, trong cuộc chiến đấu chống
chiến tranh phá hoại lần thứ hai (từ 6/4/1972 đến 15/1/1973) miền Bắc đã giành
thắng lợi to lớn, đặc biệt là trận “Điện Biên Phủ trên không” cuối năm 1972 trên lOMoAR cPSD| 60692662 18
bầu trời Hà Nội, buộc Mỹ phải ký Hiệp định Pari (27/1/1973) rút hết quân Mỹ ra
khỏi miền Nam nước ta. Nhân dân ta đã thực hiện được quyết tâm “đánh cho Mỹ
cút”, để tiến lên “đánh cho nguỵ nhào”.
Đảng lãnh đạo khắc phục hậu quả chiến tranh, khôi phục và phát triển kinh
tế, ra sức chi viện cho miền Nam (1973-1975).
Sau Hiệp định Pari, nhân dân miền Bắc được sống trong hoà bình, phấn
khởi, tin tưởng, tự hào, lại tiếp tục hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục và
phát triển kinh tế, văn hoá làm tròn nhiệm vụ hậu phương lớn của mình. Thực tiễn
đòi hỏi Đảng ta phải có đường lối thích hợp, vừa kiên quyết đẩy mạnh cuộc kháng
chiến chống Mỹ, vừa tiếp tục xây dựng chủ nghĩa xã hội, đưa cách mạng Việt Nam tiếp tục tiến lên.
Tháng 6/1973, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã họp, quyết
định 3 năm khôi phục và phát triển kinh tế (1973-1975) nằm trong quá trình thực
hiện bước đi ban đầu của thời kỳ công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc.
Tiếp theo Hội nghị Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị
lần thứ 21 (7/973) và Hội nghị lần thứ 22 (12/1973) xác định nhiệm vụ chung của
toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta trong giai đoạn cách mạng mới là : nâng cao
cảnh giác sẵn sàng đánh bại âm mưu của đế quốc Mỹ và tay sai, ra sức làm tròn
nhiệm vụ hậu phương lớn đối với tiền tuyến lớn miền Nam, làm tròn nhiệm vụ
quốc tế với cách mạng Lào và cách mạng Campuchia. Hội nghị thông qua kế
hoạch khôi phục và phát triển kinh tế miền Bắc trong 2 năm 1973-1974 nhằm đạt 3 yêu cầu chính:
Một là, động viên và tổ chức mọi lực lượng lao động xã hội vào sản xuất,
xây dựng khí thế sôi nổi đẩy mạnh sản xuất, đưa sản xuất lên bằng hoặc cao hơn
mức đã đạt được năm 1965. Phấn đấu đến năm 1975 thu nhập quốc dân đủ cho
quỹ tiêu dùng xã hội, bảo đảm tốt yêu cầu chi viện cho miền Nam.
Hai là, củng cố một bước quan hệ sản xuất trong cả hai khu vực quốc doanh và tập thể.
Ba là, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác quản lý nhà nước,
chấn chỉnh công tác quản lý kinh tế từ Trung ương đến cơ sở. lOMoAR cPSD| 60692662 19
Thực hiện chủ trương của Đảng, nhân dân miền Bắc hăng hái lao động sản
xuất, ổn định tình hình kinh tế - xã hội. Sau 2 năm (1973-1974), miền Bắc đã cơ
bản khôi phục xong các cơ sở kinh tế. Trong nông nghiệp, các công trình thuỷ
nông được khôi phục xong. Giao thông vận tải đã sửa chữa, khôi phục và mở rộng
nhiều tuyến đường, năng lực vận tải và khối lượng hàng hoá vận chuyển tăng lên
rõ rệt. Trong công nghiệp, toàn bộ các nhà máy được phục hồi. Văn hoá, giáo dục,
y tế đều được khôi phục và phát triển tốt.
Để đáp ứng ngày càng đầy đủ yêu cầu chi viện cho các chiến trường, từ
tháng 3/1973 đến đầu năm 1975 chương trình mở rộng và hoàn thiện hệ thống
đường chiến lược Đông và Tây Trường Sơn được xúc tiến mạnh. Với tinh thần
“Tất cả vì miền Nam ruột thịt”, chưa bao giờ sức người, sức của từ hậu phương
lớn đổ ra tiền tuyến nhiều như thế. Thế và lực của cách mạng miền Nam đã áp
đảo địch. Trên cơ sở đó, tháng 1/1975 Bộ Chính trị hạ quyết tâm giải phóng hoàn
toàn miền Nam trong 2 năm 1975-1976, đồng thời dự kiến khi thời cơ xuất hiện
có thể giải phóng miền Nam ngay trong năm 1975.
Trong những năm 1973 - 1975, nhân dân miền Bắc đã đạt được những thắng
lợi cực kỳ to lớn trong khôi phục và phát triển kinh tế và chi viện cho miền Nam,
đồng thời là nhân tố quyết định sự nghiệp giải phóng miền Nam vào mùa Xuân năm 1975.
Như vậy, trải qua hơn 20 năm bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
mà thực sự chỉ có 8 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội, trong hoà bình, nhưng miền
Bắc đã đạt được những thành tựu rất đáng tự hào trên tất cả các mặt.
Đã xoá bỏ được chế độ người bóc lột người, xác lập được chế độ sở hữu xã
hội chủ nghĩa dưới hai hình thức chủ yếu là sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể.
Thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa chiếm 99,7% tài sản cố định, giữ vị trí then
chốt và vai trò quyết định trong nền kinh tế quốc dân. Cơ sở vật chất, kỹ thuật của
chủ nghĩa xã hội đã được xây dựng bước đầu theo phương hướng tiến lên sản xuất
hiện đại và một nền kinh tế độc lập tự chủ. Những cơ sở đầu tiên của công nghiệp
nặng quan trọng đã được xây dựng. Một số ngành công nghiệp nhẹ hình thành và
phát triển. Mạng lưới giao thông vận tải được mở rộng. Trong nông nghiệp, cùng lOMoAR cPSD| 60692662 20
với phong trào hợp tác hoá, các công trình thuỷ lợi được xây dựng. Nhiều thành
tựu khoa học được ứng dụng vào sản xuất góp phần tăng năng suất lao động. Một
cơ cấu kinh tế mới phù hợp với bước đi ban đầu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội đang từng bước hình thành. Sự nghiệp giáo dục, văn hoá, y tế, phát triển mạnh.
Công cuộc cải tạo và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc đã bước đầu
kiến lập được một hình thái kinh tế - xã hội xã hội chủ nghĩa với quan hệ sản xuất
mới và những cơ sở vật chất kỹ thuật bước đầu của chủ nghĩa xã hội, với một Nhà
nước chuyên chính vô sản được củng cố, cùng với hệ tư tưởng và nền văn hoá xã
hội chủ nghĩa, đem lại những thay đổi sâu sắc trên mọi lĩnh vực.
Miền Bắc đã làm tròn nghĩa vụ của hậu phương đối với tiền tuyến. Hàng
triệu thanh niên miền Bắc đã hăng hái lên đường vào Nam chiến đấu cùng quân
dân miền Nam. Con em nhân dân miền Bắc thuộc nhiều thế hệ đã có mặt trên
khắp chiến trường miền Nam hoạt động trên nhiều lĩnh vực: chiến đấu, phục vụ
chiến đấu, vận tải, y tế, giáo dục, nghệ thuật, thông tin liên lạc… góp phần xây
dựng hậu phương tại chỗ ở miền Nam trong các vùng giải phóng và giúp đỡ cách
mạng Lào, cách mạng Campuchia.
Miền Bắc không chỉ chi viện cho miền Nam nguồn nhân lực dồi dào, mà
còn chi viện một khối lượng vật chất khổng lồ: hàng triệu tấn vũ khí, lương thực,
phương tiện kỹ thuật khác, đáp ứng đầy đủ và kịp thời cho chiến trường miền
Nam ở mọi thời điểm lịch sử.
Sự lớn mạnh của miền Bắc xã hội chủ nghĩa còn là nguồn cổ vũ động viên
tinh thần vô cùng to lớn đối với miền Nam trong cuộc đấu tranh trực tiếp chống
đế quốc Mỹ và tay sai.
Sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc đã tạo ra một hậu phương
tại chỗ vững chắc, củng cố và phát triển tiềm lực quốc phòng để tiến hành cuộc
chiến tranh nhân dân chia lửa với miền Nam giành thắng lợi. Đồng thời chứng tỏ
sức sống mãnh liệt của chủ nghĩa xã hội, quyết tâm và sức mạnh của chân lý
“Không có gì quý hơn độc lập tự do” của nhân dân ta.