Chuẩn mực hội gì? Nội dung, vai trò, cách
phân loại chuẩn mực hội
1. Khái niệm chuẩn mực hội
Mọi nhân đều liên hệ với người khác (cha mẹ, anh em, bạn bè, nhóm
hội, c thiết chế hội...) bằng những cách thức nào đó, nằm trong một
cấu trúc hội phức tạp bao quanh mình, định hướng cho các hành vi, hoạt
động của mình. Trong cuộc sống hội hàng ngày, con người (các nhân
nhóm hội) thường xuyên thực hiện các hành vi hội nào đó nhằm đạt
được hoặc thoả mãn những nguyện vọng, nhu cầu hay lợi ích nhất định.
Hành vi của họ thường được định hướng tuân theo những quy tắc, yêu
cầu, đòi hỏi hội nào đó nhằm áp đặt một phương thức ứng xử nhất định
cho các nhân, nhóm hội.
muốn tự do thực hiện những hành vi, hoạt động theo ý cộng đồng người...)
đặt ra nhằm “áp đặt” cho hành vi hội của mỗi người. Điều đó nói lên nguồn
gốc hội của chuấn mực hội - hình thành từ chính nhu cầu điều tiết, điều
chỉnh các mối quan h hội đa dạng, phức tạp của đời sống hội. Đối với
các thành viên của hội, chuẩn mực hội được coi một giá trị chi phối
rộng rãi được tuân theo một cách phổ biến.
Như vậy, “Chuẩn mực hội hệ thống các quy tắc, yêu cầu, đòi hỏi của
hội đối với mỗi nhân hay nhóm hội, trong đó xác định ít nhiều sự chính
xác về tính chất, mức độ, phạm vi, giới hạn của cái thể, cái được phép, cái
không được phép hay cái bắt buộc phải thực hiện trong hành vi hội của
mỗi người, nhằm củng cố, đảm bảo sự ổn định hội, giữ gìn trật tự, kỷ
cương, an toàn hội”.
2. Nội dung của chuẩn mực xã hội
Thứ nhất, chuẩn mực hội h thống các quy tắc, u cầu, đòi hỏi của
hội, do chính các thành viên của hội đặt ra nhằm định hướng cho hành vi
của mỗi nhân.
Thứ hai, chuẩn mực hội không phải một i đó chung chung, trừu
tượng, khó nhận biết, luôn được xác định một cách cụ thể, ràng
mức độ ít hay nhiều sự chính xác về tính chất, mức độ, phạm vi giới hạn
của những khía cạnh, chỉ báo liên quan đến hành vi hội của mỗi người;
bao gồm cái thể, cái được phép, cái không được phép hay cái bắt buộc
phải thực hiện.
“Cái thể” khái niệm dùng để chỉ khả năng thực hiện hay không thực hiện
một hành vi hội của nhân con người khi tham gia hoặc trong một tình
huống, sự kiện hội, quan hệ hội nhất định. Chẳng hạn, một người phát
hiện, ng thấy một người khác đang nguy chết đuối nếu không được
cứu kịp thời. Trong tình huống này, người phát hiện nhảy xuống hay không
nhảy xuống nước cứu người bị nạn ph thuộc vào việc h biết bơi hay không
biết bơi cùng với chế thúc đẩy hành vi hoàn toàn trông chờ vào sự tự
nguyện, tự giác của người đó. Đây chính kh năng hành động hay không
hành động - “cái thể”.
“Cái được phép” dùng để chỉ tất cả những hành vi, hoạt động mà các nhân
đã đang được phép thực hiện trong
Thứ ba, với hệ thống các quy tắc, yêu cầu được đưa ra nhằm định hướng
điều chỉnh hành vi hội của con người, chuẩn mực hội hướng tới thực
hiện các chức năng hội'. giảm bớt tính hỗn tạp trong các ý kiến, quan điểm
đánh giá hành vi; gạt đi các bất đồng, mâu thuẫn trong c tranh luận; tránh
được những xung đột không cần thiết; tạo sở, “khuôn mẫu” cho các quá
trình hòa giải, thương lượng giữa c nhân đ đi đến chấp nhận mẫu số
chung nhỏ nhất của mọi hành vi. Trên sở đó, chuẩn mực hội góp phần
tạo ra sự đồng thuận, đảm bảo sự n định hội, giữ gìn, bảo vệ trật tự, kỉ
cương, an toàn hội.
3. Phân loại chuẩn mực hội
Thông thường, chuẩn mực hội được phân chia thành hai loại, gồm chuẩn
mực hội thành văn chuẩn mực hội bất thành văn.
Chuẩn mực hội thành n những loại chuẩn mực hội các nguyên
tắc, quy định của chúng được ghi chép lại thành văn bản dưới những hình
thức nhất định.
Trong chuẩn mực hội thành văn ba loại cụ thể chuẩn mực pháp luật,
chuẩn mực chính tr chuẩn mực tôn giáo. Chẳng hạn, tính chất thành văn
của chuẩn mực pháp luật thể hiện những quy phạm pháp luật cụ thể, được
ghi chép thể hiện trong các bộ luật, c luật hoặc các hình thức n bản
quy phạm pháp luật khác, như Bộ luật Hình sự, Bộ luật Dân sự, Luật Hôn
nhân gia đình... Mỗi quy phạm pháp luật được ghi chép trong các văn bản
pháp luật đó thể hiện tính chất thành n của chuẩn mực pháp luật.
Xuất hiện, tồn tại phát huy vai trò, hiệu lực của các chuẩn mực hội trong
đời sống hội hàng ngày được coi tính khách quan mang tính tất
yếu hội. Điều đó nói n bản chất hội của chuẩn mực hội. Bản chất
hội này không chỉ thể hiện nguồn gốc hội của chuẩn mực hội,
còn th hiện sức sống sau đó của các chuẩn mực hội trong thực tiễn
cuộc sống. Chẳng hạn, chuẩn mực đạo đức nảy sinh từ các quan hệ hội,
thể hiện ra không chỉ các quy tắc đạo đức, còn hành vi thực tế của
con người. Chừng nào chuẩn mực đạo đức không thể hiện ra trong hội
hoặc trong một bộ phận của hội như một hành vi được thực hiện, để cho
việc tuân theo bản thân việc thực hiện lại thúc đẩy người ta tiếp tục
thừa nhận, tuân theo, thì chuẩn mực đó không phải chuẩn mực hành vi;
chỉ một cách nhìn được xem đúng đối với một bộ phận lớn hay nhỏ trong
hội thôi.
Bên cạnh đó, các chuẩn mực hội còn mang tính lợi ích tính bắt buộc
thực hiện, nghĩa mọi thành viên của cộng đồng hội, muốn hay không
muốn, đều phải tuân theo c nguyên tắc, quy định của chuẩn mực hội.
Sự tuân thủ thực hiện các quy tắc, u cầu của chuẩn mực hội trong
hành vi hội của mỗi người được coi trách nhiệm, bổn phận, nghĩa vụ
của người đó. Nếu đi chệch ra khỏi quỹ đạo chung này, hành vi của họ sẽ
bất bình thường, sai lệch, tội ác... Khi đó, họ phải bị hội phê phán, lên
án hoặc áp dụng các biện pháp trừng phạt tùy theo tính chất, mức đ của
hành vi.
Theo không gian, các chuẩn mực hội được xác định thể chỉ giá trị,
hiệu lực trong một phạm vi không gian hội, một khu vực địa nhất định;
vượt ra ngoài phạm vi không gian đó chúng sẽ không còn vai trò, tác dụng
nữa. vậy, cần định hướng chuẩn mực hội sao cho phù hợp với các lợi
ích chung của hội, với c đặc điểm về lịch sử, kinh tế, văn a, lối sống,
phong tục, tập quán của từng vùng lãnh thổ hay khu vực địa nhất định.
Theo thời gian, vai trò, hiệu lực của các chuẩn mực hội thể biểu hiện
khác nhau qua từng giai đoạn, thời phát triển của hội. Sự định hướng
chuẩn mực hội nhằm đáp ứng yêu cầu, đòi hỏi của hội bám sát thực
tiễn hội trong tiến trình phát triển của hội hết sức quan trọng cần
thiết.
Theo đổi tượng, nhiều loại chuẩn mực hội phản ánh lợi ích vật chất, tinh
thần của các đối tượng hội khác nhau. Có những chuẩn mực hội phổ
biến, chi phối hành vi của tất cả các thành viên trong hội; nhưng cũng
những chuẩn mực hội đặc thù, chỉ giá trị trong một nhóm hội nào đó.
Sự định hướng chuẩn mực hội theo đối tượng đòi hỏi phải chú ý đến lợi
ích của các cộng đồng người, các nhóm hội khác nhau.
4. Tính vận động, biến đổi của chuẩn mực hội
Các loại chuẩn mực hội không mang tính bất biến thường trong
trạng thái động. Chúng thường xuyên vận động, nhân không tuân theo
chuẩn mực. những chuẩn mực hội được phổ biến, tuân thủ một giai
cấp, dân tộc này, nhưng lại không được thừa nhận một giai cấp hay dân
tộc khác. Đồng thời, những chuẩn mực hội tầng lớp hội này phải
tuân thủ trong khi tầng lớp hội khác lại không phải tuân thủ. Chẳng hạn,
mỗi cộng đồng dân tộc thường những chuẩn mực phong tục, tập quán
riêng của mình xuất phát từ những đặc trưng về lịch sử, địa lý, văn hóa lối
sống của họ. Cho nên, phong tục, tập quán của dân tộc này cỏ th không
được thừa nhận một dân tộc khác không phù hợp với truyền thống
văn hóa, lối sống của họ.
5. Vai trò của chuẩn mực xã hội đối với đời sống hội
Các chuẩn mực hội được hình thành xuất phát chính từ những nhu cầu
của h thong các quan hệ hội trong hội. Tuỳ thuộc vào nội dung, tính
chất của từng loại quan hệ hội, các chuẩn mực hội quy định cho những
thành viên của những cái cần phải làm, cái được phép, cái thể, cái bị
ngăn cấm trong các hành vi hội của họ. Qua đó, các chuẩn mực hội
thực hiện chức năng hợp nhất, tập trung ủng h các quá trình hoạt động
hội như một hệ thống các tương tác hội giữa c nhân các nhóm
hội, nghĩa quá trình hành động hành động đáp lại của một chủ thể này
với một chủ thể khác. Các chuẩn mực hội góp phần điều tiết, điều chỉnh
các quan hệ hội, tạo “khuôn mẫu” cho hành vi hội của con người, duy
trì sự ổn định, hài hòa trong hội, bảo vệ trật tự, kỉ cương, an toàn hội.
Các chuẩn mực hội yếu t không thể thiếu được trong trong đó vấn
đề nhận thức, hiểu biết, tôn trọng thực hiện c quy tắc, u cầu của
chuẩn mực hội nói chung, chuấn mực pháp luật nói riêng. Tình trạng gia
tăng các vụ việc vi phạm pháp luật, diễn biến phức tạp của tình hình tội phạm,
sự lãng quên các giá trị truyền thống, sự thờ ơ, lãnh đạm trong giao tiếp
hội... đang những vấn đề hết sức đáng lo ngại. Ý thức pháp luật của một
bộ phận trong đội ngũ cán bộ các cấp, các ngành, của các tầng lớp nhân dân
còn hạn chế, chưa theo kịp chưa được nâng lên tương xứng với sự đổi
mới hệ thống pháp luật.
Trong điều kiện của nền kinh tế thị trường, một số mặt trái của cũng đang
bộc lộ, như ch nghĩa thực dụng, quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tha hóa về
đạo đức, t nạn hội; một bộ phận cán bộ, công chức, đảng viên bị thoái
hóa, biến chất trước những cám dỗ về lợi ích vật chất... Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ XII của Đảng đã nhận định:
“Tình trạng tham nhũng, lãng phí vẫn còn nghiêm trọng với biểu
hiện ngày càng tỉnh vi, phức tạp, gây bức xúc trong luận, ảnh
hưởng đến niềm tin của nhân dân với Đảng Nhà nước. Tình
trạng suy thoái về tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một
bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên chưa bị đẩy lùi; mặt,
bộ phận còn diễn biến phức tạp hơn; một số rẩt ít cán bộ,
đảng viên bị phần tử xẩu lợi dụng lôi kéo, kích động, xúi giục,
mua chuộc đã tưởng, việc làm chống đối Đảng, Nhà
nước”.
Một trong những nguyên nhân của thực trạng trên đây do bằng những
công cụ của (nhà nước, đảng phái...). Chính trị cũng chịu ảnh hưởng của
các lĩnh vực khác của đời sống hội, n đạo đức, tôn giáo, khoa học...

Preview text:

Chuẩn mực xã hội là gì? Nội dung, vai trò, cách
phân loại chuẩn mực xã hội
1. Khái niệm chuẩn mực xã hội
Mọi cá nhân đều có liên hệ với người khác (cha mẹ, anh em, bạn bè, nhóm
xã hội, các thiết chế xã hội...) bằng những cách thức nào đó, nằm trong một
cấu trúc xã hội phức tạp bao quanh mình, định hướng cho các hành vi, hoạt
động của mình. Trong cuộc sống xã hội hàng ngày, con người (các cá nhân
và nhóm xã hội) thường xuyên thực hiện các hành vi xã hội nào đó nhằm đạt
được hoặc thoả mãn những nguyện vọng, nhu cầu hay lợi ích nhất định.
Hành vi của họ thường được định hướng và tuân theo những quy tắc, yêu
cầu, đòi hỏi xã hội nào đó nhằm áp đặt một phương thức ứng xử nhất định
cho các cá nhân, nhóm xã hội.
Dù muốn tự do thực hiện những hành vi, hoạt động theo ý cộng đồng người...)
đặt ra nhằm “áp đặt” cho hành vi xã hội của mỗi người. Điều đó nói lên nguồn
gốc xã hội của chuấn mực xã hội - hình thành từ chính nhu cầu điều tiết, điều
chỉnh các mối quan hệ xã hội đa dạng, phức tạp của đời sống xã hội. Đối với
các thành viên của xã hội, chuẩn mực xã hội được coi là một giá trị chi phối
rộng rãi và được tuân theo một cách phổ biến.
Như vậy, “Chuẩn mực xã hội là hệ thống các quy tắc, yêu cầu, đòi hỏi của xã
hội đối với mỗi cá nhân hay nhóm xã hội, trong đó xác định ít nhiều sự chính
xác về tính chất, mức độ, phạm vi, giới hạn của cái có thể, cái được phép, cái
không được phép hay cái bắt buộc phải thực hiện trong hành vi xã hội của
mỗi người, nhằm củng cố, đảm bảo sự ổn định xã hội, giữ gìn trật tự, kỷ
cương, an toàn xã hội”.

2. Nội dung của chuẩn mực xã hội
Thứ nhất, chuẩn mực xã hội là hệ thống các quy tắc, yêu cầu, đòi hỏi của xã
hội, do chính các thành viên của xã hội đặt ra nhằm định hướng cho hành vi của mỗi cá nhân.
Thứ hai, chuẩn mực xã hội không phải là một cái gì đó chung chung, trừu
tượng, khó nhận biết, mà nó luôn được xác định một cách cụ thể, rõ ràng ở
mức độ ít hay nhiều sự chính xác về tính chất, mức độ, phạm vi và giới hạn
của những khía cạnh, chỉ báo liên quan đến hành vi xã hội của mỗi người;
bao gồm cái có thể, cái được phép, cái không được phép hay cái bắt buộc phải thực hiện.
“Cái có thể” là khái niệm dùng để chỉ khả năng thực hiện hay không thực hiện
một hành vi xã hội của cá nhân con người khi tham gia hoặc ở trong một tình
huống, sự kiện xã hội, quan hệ xã hội nhất định. Chẳng hạn, một người phát
hiện, hông thấy một người khác đang có nguy cơ chết đuối nếu không được
cứu kịp thời. Trong tình huống này, người phát hiện nhảy xuống hay không
nhảy xuống nước cứu người bị nạn phụ thuộc vào việc họ biết bơi hay không
biết bơi cùng với cơ chế thúc đẩy hành vi hoàn toàn trông chờ vào sự tự
nguyện, tự giác của người đó. Đây chính là khả năng hành động hay không
hành động - “cái có thể”.
“Cái được phép” dùng để chỉ tất cả những hành vi, hoạt động mà các cá nhân
đã và đang được phép thực hiện trong
Thứ ba, với hệ thống các quy tắc, yêu cầu được đưa ra nhằm định hướng và
điều chỉnh hành vi xã hội của con người, chuẩn mực xã hội hướng tới thực
hiện các chức năng xã hội'. giảm bớt tính hỗn tạp trong các ý kiến, quan điểm
đánh giá hành vi; gạt đi các bất đồng, mâu thuẫn trong các tranh luận; tránh
được những xung đột không cần thiết; tạo cơ sở, “khuôn mẫu” cho các quá
trình hòa giải, thương lượng giữa các cá nhân để đi đến chấp nhận mẫu số
chung nhỏ nhất của mọi hành vi. Trên cơ sở đó, chuẩn mực xã hội góp phần
tạo ra sự đồng thuận, đảm bảo sự ổn định xã hội, giữ gìn, bảo vệ trật tự, kỉ cương, an toàn xã hội.
3. Phân loại chuẩn mực xã hội
Thông thường, chuẩn mực xã hội được phân chia thành hai loại, gồm chuẩn
mực xã hội thành văn và chuẩn mực xã hội bất thành văn.
Chuẩn mực xã hội thành văn là những loại chuẩn mực xã hội mà các nguyên
tắc, quy định của chúng được ghi chép lại thành văn bản dưới những hình thức nhất định.
Trong chuẩn mực xã hội thành văn có ba loại cụ thể là chuẩn mực pháp luật,
chuẩn mực chính trị và chuẩn mực tôn giáo. Chẳng hạn, tính chất thành văn
của chuẩn mực pháp luật thể hiện ở những quy phạm pháp luật cụ thể, được
ghi chép và thể hiện trong các bộ luật, các luật hoặc các hình thức văn bản
quy phạm pháp luật khác, như Bộ luật Hình sự, Bộ luật Dân sự, Luật Hôn
nhân và gia đình. . Mỗi quy phạm pháp luật được ghi chép trong các văn bản
pháp luật đó thể hiện tính chất thành văn của chuẩn mực pháp luật.
Xuất hiện, tồn tại và phát huy vai trò, hiệu lực của các chuẩn mực xã hội trong
đời sống xã hội hàng ngày được coi là có tính khách quan và mang tính tất
yếu xã hội. Điều đó nói lên bản chất xã hội của chuẩn mực xã hội. Bản chất
xã hội này không chỉ thể hiện ở nguồn gốc xã hội của chuẩn mực xã hội, mà
còn thể hiện ở sức sống sau đó của các chuẩn mực xã hội trong thực tiễn
cuộc sống. Chẳng hạn, chuẩn mực đạo đức nảy sinh từ các quan hệ xã hội,
thể hiện ra không chỉ ở các quy tắc đạo đức, mà còn ở hành vi thực tế của
con người. Chừng nào mà chuẩn mực đạo đức không thể hiện ra trong xã hội
hoặc trong một bộ phận của xã hội như một hành vi được thực hiện, để cho
việc tuân theo nó và bản thân việc thực hiện nó lại thúc đẩy người ta tiếp tục
thừa nhận, tuân theo, thì chuẩn mực đó không phải là chuẩn mực hành vi; nó
chỉ là một cách nhìn được xem là đúng đối với một bộ phận lớn hay nhỏ trong xã hội mà thôi.
Bên cạnh đó, các chuẩn mực xã hội còn mang tính lợi ích và tính bắt buộc
thực hiện, nghĩa là mọi thành viên của cộng đồng xã hội, dù muốn hay không
muốn, đều phải tuân theo các nguyên tắc, quy định của chuẩn mực xã hội.
Sự tuân thủ và thực hiện các quy tắc, yêu cầu của chuẩn mực xã hội trong
hành vi xã hội của mỗi người được coi là trách nhiệm, bổn phận, nghĩa vụ
của người đó. Nếu đi chệch ra khỏi quỹ đạo chung này, hành vi của họ sẽ là
bất bình thường, sai lệch, là tội ác... Khi đó, họ phải bị xã hội phê phán, lên
án hoặc áp dụng các biện pháp trừng phạt tùy theo tính chất, mức độ của hành vi.
Theo không gian, các chuẩn mực xã hội được xác định có thể chỉ có giá trị,
hiệu lực trong một phạm vi không gian xã hội, một khu vực địa lý nhất định;
vượt ra ngoài phạm vi không gian đó chúng sẽ không còn vai trò, tác dụng
nữa. Vì vậy, cần định hướng chuẩn mực xã hội sao cho phù hợp với các lợi
ích chung của xã hội, với các đặc điểm về lịch sử, kinh tế, văn hóa, lối sống,
phong tục, tập quán của từng vùng lãnh thổ hay khu vực địa lý nhất định.
Theo thời gian, vai trò, hiệu lực của các chuẩn mực xã hội có thể biểu hiện
khác nhau qua từng giai đoạn, thời kì phát triển của xã hội. Sự định hướng
chuẩn mực xã hội nhằm đáp ứng yêu cầu, đòi hỏi của xã hội và bám sát thực
tiễn xã hội trong tiến trình phát triển của xã hội là hết sức quan trọng và cần thiết.
Theo đổi tượng, có nhiều loại chuẩn mực xã hội phản ánh lợi ích vật chất, tinh
thần của các đối tượng xã hội khác nhau. Có những chuẩn mực xã hội phổ
biến, chi phối hành vi của tất cả các thành viên trong xã hội; nhưng cũng có
những chuẩn mực xã hội đặc thù, chỉ có giá trị trong một nhóm xã hội nào đó.
Sự định hướng chuẩn mực xã hội theo đối tượng đòi hỏi phải chú ý đến lợi
ích của các cộng đồng người, các nhóm xã hội khác nhau.
4. Tính vận động, biến đổi của chuẩn mực xã hội
Các loại chuẩn mực xã hội không mang tính bất biến mà thường ở trong
trạng thái động. Chúng thường xuyên vận động, cá nhân không tuân theo
chuẩn mực. Có những chuẩn mực xã hội được phổ biến, tuân thủ ở một giai
cấp, dân tộc này, nhưng lại không được thừa nhận ở một giai cấp hay dân
tộc khác. Đồng thời, có những chuẩn mực xã hội mà tầng lớp xã hội này phải
tuân thủ trong khi tầng lớp xã hội khác lại không phải tuân thủ. Chẳng hạn,
mỗi cộng đồng dân tộc thường có những chuẩn mực phong tục, tập quán
riêng của mình xuất phát từ những đặc trưng về lịch sử, địa lý, văn hóa và lối
sống của họ. Cho nên, phong tục, tập quán của dân tộc này cỏ thể không
được thừa nhận ở một dân tộc khác vì nó không phù hợp với truyền thống
văn hóa, lối sống của họ.
5. Vai trò của chuẩn mực xã hội đối với đời sống xã hội
Các chuẩn mực xã hội được hình thành xuất phát chính từ những nhu cầu
của hệ thong các quan hệ xã hội trong xã hội. Tuỳ thuộc vào nội dung, tính
chất của từng loại quan hệ xã hội, các chuẩn mực xã hội quy định cho những
thành viên của nó những cái cần phải làm, cái được phép, cái có thể, cái bị
ngăn cấm trong các hành vi xã hội của họ. Qua đó, các chuẩn mực xâ hội
thực hiện chức năng hợp nhất, tập trung ủng hộ các quá trình hoạt động xã
hội như một hệ thống các tương tác xã hội giữa các cá nhân và các nhóm xã
hội, nghĩa là quá trình hành động và hành động đáp lại của một chủ thể này
với một chủ thể khác. Các chuẩn mực xã hội góp phần điều tiết, điều chỉnh
các quan hệ xã hội, tạo “khuôn mẫu” cho hành vi xã hội của con người, duy
trì sự ổn định, hài hòa trong xã hội, bảo vệ trật tự, kỉ cương, an toàn xã hội.
Các chuẩn mực xã hội là yếu tố không thể thiếu được trong trong đó có vấn
đề nhận thức, hiểu biết, tôn trọng và thực hiện các quy tắc, yêu cầu của
chuẩn mực xã hội nói chung, chuấn mực pháp luật nói riêng. Tình trạng gia
tăng các vụ việc vi phạm pháp luật, diễn biến phức tạp của tình hình tội phạm,
sự lãng quên các giá trị truyền thống, sự thờ ơ, lãnh đạm trong giao tiếp xã
hội... đang là những vấn đề hết sức đáng lo ngại. Ý thức pháp luật của một
bộ phận trong đội ngũ cán bộ các cấp, các ngành, của các tầng lớp nhân dân
còn hạn chế, chưa theo kịp và chưa được nâng lên tương xứng với sự đổi
mới hệ thống pháp luật.
Trong điều kiện của nền kinh tế thị trường, một số mặt trái của nó cũng đang
bộc lộ, như chủ nghĩa thực dụng, quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tha hóa về
đạo đức, tệ nạn xã hội; một bộ phận cán bộ, công chức, đảng viên bị thoái
hóa, biến chất trước những cám dỗ về lợi ích vật chất... Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ XII của Đảng đã nhận định:
“Tình trạng tham nhũng, lãng phí vẫn còn nghiêm trọng với biểu
hiện ngày càng tỉnh vi, phức tạp, gây bức xúc trong dư luận, ảnh
hưởng đến niềm tin của nhân dân với Đảng và Nhà nước. Tình
trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một
bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên chưa bị đẩy lùi; có mặt,
có bộ phận còn diễn biến phức tạp hơn; một số rẩt ít cán bộ,
đảng viên bị phần tử xẩu lợi dụng lôi kéo, kích động, xúi giục,
mua chuộc đã có tư tưởng, việc làm chống đối Đảng, Nhà nước”.

Một trong những nguyên nhân của thực trạng trên đây là do bằng những
công cụ của nó (nhà nước, đảng phái...). Chính trị cũng chịu ảnh hưởng của
các lĩnh vực khác của đời sống xã hội, như đạo đức, tôn giáo, khoa học...
Document Outline

  • Chuẩn mực xã hội là gì? Nội dung, vai trò, cách ph
    • 1. Khái niệm chuẩn mực xã hội
    • 2. Nội dung của chuẩn mực xã hội
    • 3. Phân loại chuẩn mực xã hội
    • 4. Tính vận động, biến đổi của chuẩn mực xã hội
    • 5. Vai trò của chuẩn mực xã hội đối với đời sống x