






Preview text:
Chức năng bảo vệ Tổ quốc của Nhà nước là gì?
Nhà nước Việt Nam thực hiện chức năng bảo vệ
Tổ quốc như thế nào?
1. Khái niệm về Nhà nước và chức năng của Nhà nước
- Định nghĩa nhà nước:
Nhà nước là tổ chức quyền lực đặc biệt của xã hội, bao gồm một lớp
người được tách ra từ xã hội để chuyên thực thi quyền lực, nhằm tổ chức và
quản lý xã hội phục vụ lợi ích chung của toàn xã hội cũng như lợi ích của lực
lượng cầm quyền trong xã hội.
- Định nghĩa chức năng nhà nước:
Chức năng nhà nước là những mặt hoạt động cơ bản của nhà nước, phù
hợp với bản chất, mục đích, nhiệm vụ của nhà nước và được xác định bởi
điều kiện kinh tế xã hội của đất nước trong những giai đoạn phát triển của nó.
2. Chức năng bảo vệ Tổ quốc của Nhà nước là gì?
Chức năng bảo vệ Tổ quốc là một trong những chức năng cơ bản quan trọng
nhất của nhà nước và là chức năng của mọi nhà nước. Đó là những phương
diện hoạt động của nhà nước nhằm mục đích chống lại các thế lực thù địch
bên ngoài, những âm mưu chống phá từ bên trong, nhằm giữ vững độc lập,
thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước. Trước đây, nhiều nhà nước
thường phát động chiến tranh xâm lược nước khác. Ngày nay, nhiều nhà
nước vẫn tìm cách áp đặt ý chí của mình đối với nước khác. Trong điều kiện
đó, các nhà nước phải thực hiện các hoạt động nhằm bảo vệ đất nước,
chống lại các cuộc chiến tranh xâm lược cũng như các ảnh hưởng tiêu cực khác từ bên ngoài.
3. Học thuyết của V.I. Lênin về bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa
Từ thực tiễn tình hình thế giới cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX và công cuộc
đấu tranh chống xâm lược của chủ nghĩa đế quốc, bảo vệ chính quyền Xô
viết non trẻ - Nhà nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới; đồng thời, kế
thừa tư tưởng vũ trang quần chúng bảo vệ thành quả cách mạng xã hội chủ
nghĩa của C. Mác và Ph. Ăngghen, V.I. Lênin đã tổng kết, bổ sung, phát triển,
xây dựng nên học thuyết bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Trong đó, Ông đã
khái quát và luận giải những vấn đề có tính nguyên tắc đối với công cuộc bảo
vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa của giai cấp công nhân và nhân dân lao động,
như: tính tất yếu khách quan, mục tiêu, nhiệm vụ, phương thức, lực lượng và
sức mạnh bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng
sản, sự quản lý của Nhà nước; xây dựng và củng cố khả năng quốc phòng;
tổ chức, xây dựng quân đội kiểu mới; vấn đề vũ trang cho toàn dân; mối quan
hệ giữa xây dựng với bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, v.v.
Theo V.I. Lênin, để bảo vệ thành quả cách mạng đã giành được, giai cấp vô
sản tất yếu phải cầm vũ khí chiến đấu bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Người viết: “Không cầm vũ khí bảo vệ nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa, thì
chúng ta không thể tồn tại được. Giai cấp thống trị không bao giờ nhường
chính quyền cho giai cấp bị trị. Nhưng giai cấp bị trị phải chứng minh trên
thực tế rằng họ không những có khả năng lật đổ bóc lột, mà còn có khả năng
tự tổ chức, huy động hết thảy để tự bảo vệ lấy mình”1. Đồng thời, bảo vệ Tổ
quốc bao giờ cũng gắn với bảo vệ Đảng Cộng sản, Nhà nước và chế độ xã
hội chủ nghĩa. Người chỉ rõ: “Chúng ta tán thành “bảo vệ tổ quốc”, nhưng
cuộc chiến tranh giữ nước mà chúng ta đang đi tới, là một cuộc chiến tranh
bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, bảo vệ chủ nghĩa xã hội với tính cách là tổ
quốc, bảo vệ nước Cộng hòa Xô viết, với tính cách là một đơn vị trong đạo
quân thế giới của chủ nghĩa xã hội”2.
Trong bối cảnh Nhà nước Xô viết vừa mới ra đời, để chống lại sự tấn công vũ
trang của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động bên trong, V.I. Lênin
nhấn mạnh phương thức đấu tranh bằng vũ trang của giai cấp vô sản và
quần chúng lao động để bảo vệ Tổ quốc; phát huy sức mạnh tổng hợp của
toàn Đảng, toàn dân, của lực lượng quần chúng công - nông - binh, dưới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản, sự tổ chức, quản lý của Chính quyền Xô viết,
trong đó lực lượng vũ trang làm nòng cốt. Trong đó, V.I. Lênin đặc biệt chú
trọng đến việc xây dựng và phát huy nhân tố chính trị, tinh thần của quần
chúng nhân dân lao động, Người chỉ rõ: “Trong mọi cuộc chiến tranh, rốt cuộc
thắng lợi đều tùy thuộc vào tinh thần của quần chúng đang đổ máu trên chiến
trường”3. Cùng với đó, V.I. Lênin luôn quan tâm đến xây dựng và củng cố
quốc phòng cả về tiềm lực và thế trận, nâng cao khả năng phòng thủ đất
nước. Người căn dặn, phải tranh thủ thời gian hòa bình, tận dụng mọi điều
kiện thuận lợi, ra sức xây dựng các tiềm lực kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa,
khoa học, kỹ thuật, quân sự và chuẩn bị đất nước sẵn sàng chiến đấu, động
viên toàn Đảng, toàn dân, toàn quân biến các tiềm lực và thế trận quốc phòng
thành sức mạnh hiện thực để bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Đó là trách
nhiệm của toàn dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản và sự tổ chức,
quản lý của Nhà nước chuyên chính vô sản. Người khẳng định: “Nghĩa vụ
tuyệt đối của toàn thể quần chúng lao động là đem hết sức mình ra để khôi
phục và tăng cường khả năng quốc phòng của đất nước”4 và “Chính vì
chúng ta chủ trương bảo vệ Tổ quốc, nên chúng ta đòi hỏi phải có thái độ
nghiêm túc đối với vấn đề khả năng quốc phòng và đối với vấn đề chuẩn bị
chiến đấu của nước nhà”5. Kết hợp chặt chẽ hai nhiệm vụ chiến lược xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là vấn đề được V.I. Lênin luôn
quan tâm; là nguyên tắc trong quá trình tổ chức thực hiện. Người đã đề ra hệ
thống lý luận, nguyên tắc về tổ chức, xây dựng và hoạt động của quân đội
kiểu mới của giai cấp công nhân; đồng thời, yêu cầu Đảng Cộng sản, Nhà
nước phải hết sức chăm lo xây dựng quân đội hùng mạnh, làm nòng cốt
trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, trên cơ sở vũ trang toàn dân.
Thực tiễn công cuộc bảo vệ thành quả Cách mạng Tháng Mười Nga do V.I.
Lênin và Đảng Bolshevik (Bôn-sê-vích) lãnh đạo và công cuộc bảo vệ Tổ
quốc của các nước xã hội chủ nghĩa đã khẳng định những giá trị khoa học và
cách mạng to lớn của học thuyết bảo vệ Tổ quốc của V.I. Lênin. Những tư
tưởng đó, không những có giá trị lịch sử, mà còn có ý nghĩa hiện thực tiếp tục
chỉ đạo công cuộc bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa hiện nay.
4. Lịch sử bảo vệ tổ quốc Viật Nam
Trong bất kỳ nhà nước, bất kỳ quốc gia nào, bảo vệ Tổ quốc là chức
năng rất quan trọng. Đặc biệt với nhà nước Việt Nam nói riêng thì bảo vệ Tổ
quốc lại càng có vai trò cấp thiết và luôn được đặt lên hàng đầu. Theo em
nguyên nhân của vấn đề này như sau: 
Tổ quốc là nhân tố then chốt quyết định sự tồn tại của bất kỳ một nhà nước
hay quốc gia nào. Đó là một điều thiêng liêng, bất khả xâm phạm, là
“nguyên khí” của một quốc gia. Bảo vệ Tổ quốc là căn cứ tiên quyết để bảo
vệ lãnh thổ, bảo vệ nền độc lập tự do của một dân tộc, từ đó tạo điều kiện
tốt nhất cho sự phát triển của đất nước. 
Chỉ khi bảo vệ được Tổ quốc mới có điều kiện để phát triển toàn diện đất
nước. Nhìn vào minh chứng của lịch sử chúng ta có thể nhận thấy rõ, trong
thời kỳ đất nước đang trải qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp(1945-1954)
và chống Mỹ (1954-1975) đầy cam go và ác liệt, nền kinh tế của đất nước
chững lại, trì trệ, xã hội chậm phát triển, đời sống nhân dân vô cùng khó
khăn gian khổ. Tuy nhiên, đến năm 1975, khi chúng ta quét sạch quân thù,
nước nhà hoàn toàn độc lập, bảo vệ vững chắc tự do của Tổ quốc, nhà
nước đã thực hiện nhiều chính sách phát triển làm cho Việt Nam dần dần
khôi phục sau chiến tranh và đạt được những bước nhảy vọt cả về kinh tế và xã hội. 
Bảo vệ Tổ quốc không chỉ là nhiệm vụ cần thiết phải thực hiện mà nó còn là
một truyền thống quý báu của đất nước Việt Nam. Trải qua hàng ngàn năm
lịch sử dựng nước và giữ nước, người Việt Nam ta luôn sẵn sàng hy sinh
để bảo vệ độc lập tự do của Tổ quốc. Bất kể khi nào có quân xâm lược, dù
là nhà nước Âu Lạc phải chống lại nhà Tần hùng mạnh, hay nhà Trần ba
lần chống lại quân Mông Nguyên – đội quân mạnh nhất vào thời bấy giờ,
hay một đất nước Việt Nam nhỏ bé phải chiến đâu chống lại Thực dân Pháp
và Đế quốc Mỹ – hai tên đầu xỏ của thế giới thế kỷ XX. Dù ở triều đại nào,
dù trong hoàn cảnh nào, tinh thần bảo vệ Tổ quốc của dân tộc ta mỗi khi có
quân xâm lược đều mạnh mẽ như làn sóng lớn, đẩy lùi mọi âm mưu xâm
lược của kẻ thù. Vì lẽ đó, bảo vệ Tổ quốc không chỉ là việc làm bắt buộc, mà
còn là sự tiếp nối truyền thống tốt đẹp của dân tộc. 
Việt Nam tuy là một nước nhỏ bé những lại có rất nhiều tài nguyên và lợi thế
để phát triển: đường bờ biển dài 3260km cong hình chữ S, vùng biển rộng
với nhiều nguồn lợi biển quý giá, có nhiều loại khoáng sản mà đặc biệt là
than đá,…. Mặt khác, Việt Nam lại nằm gần những cường quốc lớn, đặc biệt
là Trung Quốc nên luôn phải chịu sự xăm xoi nhòm ngó của nước ngoài.
Trong điều kiện hoàn cảnh ngày nay, tình hình chính trị quân sự của khu
vực ngày càng trở nên căng thẳng và nóng bỏng, đặc biệt là việc Trung
Quốc đặt trái phép dàn khoan Hải Dương HD981 vào vùng biển Việt Nam
1/5/2014. Từ đó càng đặt ra yêu cầu nhà nước ta phải chú trọng bảo vệ Tổ
quốc và coi đó là nhiệm vụ hàng đầu.
5. Nhà nước Việt Nam thực hiện chức năng bảo vệ Tổ quốc như thế nào?
Trong điều kiện hoàn cảnh ngày nay, bảo vệ Tổ quốc là một công việc không
hề dễ dàng. Vì vậy,để hoàn thành tốt nhiệm vụ này, Đảng và nhà nước ta
phải nhạy bén nắm bắt chính xác tình hình để từ đó đề ra chủ trương, chính
sách đúng đắn, phù hợp.
Thứ nhất, củng cố quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc là nhiệm vụ “trọng
yếu,thường xuyên” của Đảng, nhà nước và nhân dân ta. Đại hội XII của Đảng
khẳng định: “Củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh quốc gia, ổn định chính
trị, trật tự, an toàn xã hội là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của Đảng, nhà
nước, của cả hệ thống chính trị và toàn dân, trong đó Quân đội nhân dân và
Công an nhân dân là nòng cốt”. Đây là quan điểm nhất quán của Đảng ta, tạo
cơ sở quan trọng cho Đảng, nhà nước, cả hệ thống chính trị, toàn dân và
toàn quân ta xác định và thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ củng cố quốc phòng,
an ninh theo chức năng, nhiệm vụ của mình nhằm bảo vệ vững chắc Tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Để thực hiện tốt điều đó, về nguồn nhân lực, lực
lượng vũ trang ngày càng trưởng thành hơn về kiến thức cũng như kĩ năng.
Nhiều trung tâm đào tạo, các trường đại học, cao đẳng và trung cấp hệ quân
đội và công an như: Học viện Kĩ thuật quân sự, Học viện quân y, Trường Sĩ
quan chính trị, Học viện An ninh nhân dân, Học viện Cảnh sát nhân dân,…
được thành lập và không ngừng nâng cao chất lượng đào tạo để cho ra
trường những con người có trình độ, có năng lực bảo vệ Tổ quốc. Ngoài ra
còn cử những người ưu tú ra nước ngoài để học tập quân sự sau đó trở về
phụng sự Tổ quốc. Về nguồn vật lực, không ngừng đổi mới, hiện đại hóa
trang thiết bị, áp dụng khoa học – kĩ thuật và kinh nghiệm của nước ngoài
trong việc nâng cao chất lượng trang thiết bị quân sự. Ngoài những trang
thiết bị hiện có, chúng ta đã mạnh tay đầu tư mua về nhiều trang thiết bị hiện
đại như tàu chiến P28 của Ấn Độ, radar trinh sát EL/M-2288ER, UAV trinh sát
Orbiter 2, tên lửa phòng không thế hệ mới SPYDER của Israel, … Từ đó
ngày càng hoàn thiện và nâng cao sức mạnh hệ thống quân sự, thực hiện tốt
nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc.
Thứ hai, phát triển nền kinh tế tạo sức mạnh và tiềm lực để từ đó bảo vệ Tổ
quốc: Thực tế sức mạnh của mỗi quốc gia phụ thuộc chủ yếu vào tiềm lực
kinh tế của quốc gia đó. Sức mạnh kinh tế tạo nên vị thế của một đất nước.
Các quốc gia có nền kinh tế phát triển vì thế mà có thể gây sức ép về mọi mặt
lên những nước có nền kinh tế kém phát triển hơn mình. Nhận thức sâu sắc
điều đó, Đảng ta đã có những định hướng đúng đắn nhằm mục đích phát
triển kinh tế đất nước. Từ đó,Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu kinh tế
quan trọng, góp phần không nhỏ trong việc nâng cao vị thế của đất nước trên
trường quốc tế. Tốc độ tăng trưởng GDP giai đoạn 2011-2015 của Việt Nam
đạt 5,9%/năm, là mức cao của khu vực và thế giới. Quy mô nền kinh tế tăng
nhanh, năm 2015 đạt khoảng 204 tỷ USD, thu nhập bình quân đầu người đạt
gần 2.300 USD. Kim ngạch xuất khẩu thường xuyên tăng với tốc độ hai con
số, giai đoạn 2011-2015 tăng đến 18%/năm. Cho đến nay đã có 59 quốc gia
công nhận nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường, trong đó có các đối
tác thương mại lớn của Việt Nam. Việt Nam đã ký kết 10 Hiệp định thương
mại tự do khu vực và song phương (gồm sáu FTA ký kết với tư cách là thành
viên ASEAN; bốn FTA đàm phán với tư cách là một bên độc lập); vừa hoàn
tất đàm phán hai FTA (Liên minh châu Âu và TPP); đang tích cực đàm phán
ba FTA khác (ASEAN-Hong Kong; EFTA; RCEP). Những thành tựu quan
trọng bước đầu này không chỉ góp phần đưa nền kinh tế phát triển vững
mạnh, tạo vị thế của đất nước trên trường quốc tế mà còn tạo cơ sở quan
trọng để chúng ta có điều kiện hoàn thành tốt nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc.
Thứ ba, ngoài ra, mục tiêu bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là toàn
diện, cả phương diện tự nhiên – lịch sử và chính trị – xã hội trong chỉnh thể
thống nhất. Đại hội XII của Đảng xác định: “Mục tiêu trọng yếu của quốc
phòng – an ninh là: Phát huy mạnh mẽ sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc,
của cả hệ thống chính trị, tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng
quốc tế, kiên quyết, kiên trì đấu tranh để bảo vệ vững chắc độc lập, chủ
quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, nhà nước,
nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ công cuộc đổi mới, sự nghiệp
công nghiệp hóa,hiện đại hóa, bảo vệ lợi ích quốc gia – dân tộc; bảo vệ nền
văn hóa dân tộc; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định chính trị, an ninh
quốc gia,trật tự, an toàn xã hội.” Dựa trên cơ sở đó, Đảng ta đã tiến hành
nhiều hoạt động trên nhiều mặt nhằm mục tiêu bảo vệ Tổ quốc như: bảo vệ
những cảnh quan thiên nhiên có giá trị của đất nước, xây dựng các vườn
quốc gia (ngoài các vườn quốc gia lâu đời như Cúc Phương, Tam Đảo, Cát
Bà, mới đây nhà nước đã thành lập thêm một số vườn quốc gia như Phước
Bình – 2006, U Minh Hạ – 2006),khu bảo tồn thiên nhiên ( khu bảo tồn thiên
nhiên rừng ngập mặn Cần Giờ, khu bảo tồn thiên nhiên Cù lao Chàm, khu
bảo tồn thiên nhiên Pù Luông,…); công nhận các di tích lịch sử có ý nghĩa địa
phương và toàn quốc (tính đến hết năm 2006, nước ta có 2882 di tích được
xếp hạng quốc gia, 4286 di tích được xếp hạng di tích cấp tỉnh); ngoài ra nhà
nước còn công nhận và bảo tồn các giá trị văn hóa truyền thống như các lễ
hội, các phong tục tập quán truyền thống,…Từ đó góp phần quan trọng để
thực hiện tốt nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc một cách toàn diện.
Thứ tư, củng cố Đảng, kiện toàn bộ máy nhà nước cũng là một trong những
phương hướng quan trọng. Muốn ổn định đất nước, bảo vệ Tổ quốc vững
chắc thì cần có sự lãnh đạo sáng suốt, đoàn kết, nhất quán của một tập thể
đứng đầu, biểu hiện cho ý chí của nhân dân. Hiến pháp đã khẳng định vai trò
lãnh đạo tối cao của Đảng. Mặt khác, trong hoàn cảnh hiện tại, nhiều thế lực
thù địch luôn có âm mưu thâm nhập, chia rẽ Đảng ta từ bên trong thì củng cố
Đảng là hết sức quan trọng.
Thứ năm, hoàn thiện hệ thống pháp lý để ngày càng chặt chẽ, khoa học hơn
nữa. Hiện nay, xu thế chung của thế giới là hòa bình, giải quyết các tranh
chấp, xung đột bằng biện pháp đàm phán. Vì vậy, vai trò của luật pháp trở
nên vô cùng quan trọng. Hệ thống luật pháp của Việt Nam hiện nay so với
nhiều quốc gia trên thế giới nhìn chung còn nhiều hạn chế. Do đó, trong bối
cảnh nhạy cảm của tình hình thế giới rất cần thiết chúng ta phải hoàn thiện hệ
thống pháp lý, từ đó tạo căn cứ vững chắc để bảo vệ Tổ quốc. Điều 1 Hiến
pháp 2013 khẳng định: “Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một
nước độc lập,có chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ bao gồm đất liền,
hải đảo, vùng biển và vùng trời.” Trong Hiến pháp 2013 đã dành hẳn một
chương – chương IV: Bảo vệ Tổ quốc. Nhiều bộ luật như luật Nghĩa vụ quân
sự, luật Hình sự , luật An ninh quốc gia cũng góp phần tạo tiền đề pháp lý để
thực hiện chức năng bảo vệ Tổ quốc.
Thứ sáu, củng cố ý chí của công dân, tăng cường tình đoàn kết dân tộc:
Đảng ta đã thực hiện nhiều hành động tuyên truyền nhằm giáo dục, định
hướng nhận thức, hành vi cho công dân của đất nước, củng cố tinh thần yêu
nước, ý chí bảo vệ Tổ quốc đồng thời đề cao tinh thần đoàn kết dân
tộc. Điều 44 Hiến pháp 2013 quy định; “Công dân có nghĩa vụ trung thành
với Tổ quốc, phản bội Tổ quốc là tội nặng nhất.” Điều 64 Hiến pháp 2013 quy
định: “Bảo vệ Tổ quốc là sự nghiệp toàn dân.” Bời vì nhân dân là nguyên khí
của một quốc gia, nên chỉ khi nhân dân đồng lòng yêu nước thì mới có thể
đưa sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc đi đến thắng lợi.
Thứ bảy, có kế sách phòng,chống các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ
sớm,từ xa; chủ động phòng ngừa, khắc phục các yếu tố tác động tiêu cực
đến sự nghiệp củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh,bảo vệ vững chắc Tổ
quốc trong tình hình mới. Đây là kinh nghiệm quý, một phương thức giữ nước
đặc sắc của dân tộc, được Đảng ta kế thừa và phát huy, đáp ứng yêu cầu,
nhiệm vụ của Cách mạng Việt Nam trong thời kỳ mới. Theo đó, quốc phòng
an ninh phải có đủ sức mạnh để ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung
đột từ sớm, từ xa; chủ động phòng ngừa, phát hiện sớm và triệt tiêu các nhân
tố bất lợi, nhất là các nhân tố bên trong có thể gây ra đột biến, để đất nước
không bị động, bị bất ngờ; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định và tạo điều
kiện thuận lợi cho bạn bè quốc tế trong việc hợp tác với Việt Nam.
Document Outline
- Chức năng bảo vệ Tổ quốc của Nhà nước là gì? Nhà n- 1. Khái niệm về Nhà nước và chức năng của Nhà nước
- 2. Chức năng bảo vệ Tổ quốc của Nhà nước là gì?
- 3. Học thuyết của V.I. Lênin về bảo vệ Tổ quốc xã
- 4. Lịch sử bảo vệ tổ quốc Viật Nam
- 5. Nhà nước Việt Nam thực hiện chức năng bảo vệ Tổ
 
