Chúng ta thường gặp những lỗi duy như thế
nào ?
Những rối nhiễu tâm thường xảy ra khi chúng ta nhìn nhận tiêu cực về thế
giới, về cuộc sống nói chung. Khi những sai lệch trong quá trình xử
thông tin, chúng ta sẽ hiểu sai ý nghĩa thực của các các tình huống, sự kiện
xảy ra trong cuộc sống hàng ngày; đây sở phát sinh các rối nhiễu tâm
lý. vậy, việc nhận biết được những lỗi tư duy chúng ta hay gặp phải để
tránh rất cần thiết.
1. Khái quát chung về duy
Lôgic học với cách khoa học về duy coi nhiệm vụ nghiên cứu chính
làm ng t những điều kiện đạt tới tri thức chân thực, phân tích kết cấu của
quá trình duy, vạch ra thao tác lôgic của duy phương pháp luận nhận
thức chuẩn xác. Lôgic học tiến hành xem xét, đánh giá kinh nghiệm suy nghĩ
thông thường , phát hiện những bản chất sâu sắc hơn chỉ đạo, hướng dẫn
cho việc duy đúng đắn hơn. biết hay không biết về lôgic học thì việc
suy nghĩ của con người cũng đều phụ thuộc vào các quy luật gic c
hình thức duy. như vậy, lôgic học chiếu rọi o kinh nghiệm duy của
mỗi người giúp cho con người duy chủ động tự giác hơn, thể hiện tính
chính xác, tính đúng đắn, nâng cao hiệu quả tính thuyết phục của các
tưởng. Quan trọng hơn, việc nghiên cứu lôgic học giúp chúng ta phát hiện ra
những sai lầm lôgic của chúng ta những người khác, cũng n để tránh
khỏi sai lầm lôgic do tình hay hữu ý phạm phải. Hình thức bản của
duy trong quá trình nhận thức suy luận. xuất phát từ những phán đoán
đã biết để rút ra những phán đoán mới. nhân tôi qua quan sát tưởng
của nhiều người thông qua c tài liệu, sách báo, hay sinh hoạt đời sống,
công tác . đã gặp ghi nhận được rất nhiều loại lỗi suy luận. Bên cạnh
những lỗi về tính chân thực gắn với quan sát thực tế, kiến thức của nhiều
ngành, lĩnh vực tri thức khác nhau, còn một số lượng đáng kể các lỗi liên
quan cả đến những thao tác suy luận. Những lỗi này sẽ gây ra những kết
luận sai bất kỳ ai. Lỗi suy luận thậm chí thể cả trường hợp kết quả
cuối cùng đúng. Trong phạm vi bài viết này, tôi phân loại lỗi suy luận căn
cứ vào sự vi phạm các nguyên quy luật logic, gồm: 8 loại lỗi vi phạm quy
luật lôgíc hình thức 6 lỗi vi phạm quy luật lôgíc biện chứng. Việc phát hiện,
tả những lỗi thường gặp này sẽ giúp chúng ta sửa chữa cách suy nghĩ
hàng ngày, nâng cao hiệu quả hoạt động nhận thức thực tiễn của mình. I.
Lôgic học Lôgíc học ngành khoa học nghiên cứu về duy với ch
một quá trình nhận thức. Đây chính sự tự ý thức về hoạt động duy.
duy với cách một sự vật, hiện tượng đặc thù cũng quá trình vận động
phát triển của mình. Trong quá trình y, bản thân duy cũng sự thống
nhất của hai trạng thái động tĩnh. Việc nghiên cứu duy cũng phải được
xem xét với cả trạng thái tĩnh trạng thái động của nó. Trạng thái tĩnh đối
tượng nghiên cứu của lôgic hình thức, còn trạng thái động đối tượng
nghiên cứu của lôgíc biện chứng. dụ, c loại hình tư duy cổ đại, cổ điển
như những sự vật đồng nhất trừu tượng đối tượng của lôgic hình thức,
ngược lại sự vận động của duy từ loại hình cổ đại lên loại hình cổ điển
đối tượng của lôgic học biện chứng. Cũng ơng tự như vậy, các hình thức
của duy như khái niệm, phán đoán, suy . cũng nằm trong sự thống nhất
của trạng thái động trạng thái tĩnh. Với mỗi hình thức này, lôgic hình thức
lôgíc biện chứng cũng những nhiệm vụ khác nhau.
2. Sáu lỗi chính trong quá trình nhận thức xử thông tin (theo
Beck):
2.1. Suy luận tùy tiện:
Rút ra những kết luận khi không bằng chứng đầy đủ hoặc khi những bằng
chứng còn mâu thuẫn nhau. d như trẻ tin rằng mình bị mẹ mằng bị
mẹ “ghét bỏ”; hay “Tôi không nhận được điện thoại t nơi tôi đang xin việc
làm họ đã quyết định không nhận tôi làm việc”.
2.2. Khái quát hóa thái quá:
Rút ra kết luận chung dựa o một bằng chứng ngẫu nhiên duy nhất. dụ tin
rằng mình sẽ không bao giờ thành công sau thất bại đầu tiên. Tôi bị một
điểm 2 i cảm thấy cả lớp n đang coi thường tôi, tôi không muốn đến lớp
nữa”. Suy nghĩ này thường gặp trong trầm cảm.
2.3. Chú ý vào chi tiết:
Tập trung thái quá vào một chi tiết bỏ qua bối cảnh chung của vấn đề.
dụ, chào một người bạn nhưng người đó không đáp lại nghĩ rằng người
bạn kia ghét bỏ mình. Thực ra người đó đang mải suy nghĩ không nghe thấy
tiếng chào.
2.4. Tự vận vào mình:
Tự vận o nh một sự kiện không hề liên quan. dụ, ớc vào một
đám đông bắt gặp họ đang cười, liền nghĩ tin chắc rằng họ đang cười
nhạo mình.
2.5. Suy nghĩ tuyệt đối hoá:
Nghĩ về các thái cực thái quá theo kiểu hoặc tất cả hoặc không hoặc
chỉ toàn màu đen hoặc chỉ toàn màu hồng. Sai lầm nay còn được gọi kiểu
duy lưỡng phân. duy này hay gặp trong rối loạn nhân cách ranh giới
rối loạn ám nh cưỡng bức. d tin rằng mình kẻ bần cùng sau khi
mất chiếc ví.
2.6. Quan trọng hoá hoặc coi thường:
Xuất hiện những người nhìn sự việc hoặc quá coi trọng hoặc quá coi
thường. dụ tin rằng mình kẻ dốt n sau khi được trả một bài kiểm tra
văn với nhiều lỗi chính tả.
3. Tám lỗi logic về mặt hình thức
3.1 Tám lỗi lôgíc hình thức
1. Lỗi "Mãi mãi không thay đổi". Ta suy nghĩ về sự vật hay hiện tượng i
giống như đang điều kiện hiện tại hoặc mãi một tính chất, thuộc
tính cố định nào đó.
2. Lỗi "Nhìn nhận một quá trình lâu dài như một sự kiện nhất định". Ta suy
nghĩ về các đối tượng dựa trên một vài sự kiện, hiện tượng liên quan chứ
không phải trong suốt cả quá trình.
3. Lỗi "Giải quyết bằng cách định nghĩa lại". Một dạng của suy nghĩ đánh tráo
khái niệm nghĩa thay đổi nội dung khái niệm trong khi giữ nguyên tên gọi.
4. Lỗi "Phân tích nh độc lập". Sự việc, sự vật ta chọn được tách khỏi tồn tại,
phân tách hoàn toàn một bộ phận khỏi tương tác/quan hệ với môi trường, độc
lập trong khi sự thực mỗi th đều phụ thuộc lẫn nhau, quan hệ với những
cái khác.
5. Lỗi "Cô lập vấn đề": lưu tâm tới vấn đề như một sự việc riêng rẽ, rời rạc
trong ngữ cảnh rộng của nó.
6. Lỗi "Kết qu duy nhất": Một kết quả chỉ tạo ra từ 1 nguyên nhân tương ứng.
7. Lỗi "Loại trừ phương án khả thi": hướng đến giới hạn cách chúng ta nghĩ
lựa chọn. Thực tế cho thấy nhiều khi chúng ta lựa chọn trong hơn 2
phương án.
8. Lỗi "Nguyên nhân đúng đắn": nghĩ rằng đó do đầy đủ cho sự kiện
Khách quan <> Chủ quan. Thoả mãn sớm: phụ thuộc vào những mong muốn,
mục tiêu, thái độ, tình cảm, chưa đ những cứ liệu thực tiễn vững chắc.
Đa số các lỗi đều bắt nguồn t thiếu sót coi mọi khái niệm, đối tượng,
người, sự vật... là không biến đổi, không liên hệ với nhau.
3.2 Giải thích cụ thể
Lỗi 1: "Mãi i không thay đổi "
Khó thể hạn chế hay khẳng định những ngữ cảnh khác nhau áp dụng chỉ
một cách duy nhất. Lôgíc hình thức trong sâu xa không xem xét đến yếu tố
thay đổi theo thời gian. Chúng ta phải t xoay xở đối xử với sự thay đổi liên
tục của thế giới cả chính những kết quả, cách thức duy của chúng ta.
đó làm nảy sinh lỗi suy nghĩ ta thường xuyên rơi o.
dụ, "Đó đế quốc thực dân mãi mãi sen đầm trong khu vực trên thế
giới !" (như trước kia lúc này). Chính sách của mỗi nước sẽ thay đổi trong
quá khứ, thời điểm xem xét trong tương lai. Vậy nhận định như thế
không phù hợp.
Lỗi này còn xuất hiện trong nhiều tình huống khác nhau, (đặc biệt với
những sự vật, hiện tượng vận động đa dạng) dẫn đến những kết luận nhanh
chóng thể những sai lầm.
"Mãi mãi không thay đổi" là một lỗi mang đầy tính chất bảo thủ, tự coi mình
tiên tri trong mọi việc suy xét thực tế.
Lỗi 2: Nhìn nhận một quá trình lâu dài như một sự kiện nhất định.
Quá trình được xem như chuỗi các sự kiện diễn ra liên tiếp, mỗi sự kiện lại
được xem xét như một thay đổi. Chúng ta nghĩ về một sự kiện như một
quá trình ngắn hay một thời điểm. Bởi vậy trong ngôn ngữ chúng ta cũng
thường dùng danh từ để chỉ sự kiện bắt nguồn từ một động từ. Lỗi này xuất
hiện t việc chúng ta dừng thời gian coi duy với các sự vật, hiện tượng,
quá trình đồng nhất. Vấn đề chúng ta cần định nghĩa kỹ những ranh giới
xác định cho một sự kiện vẫn nó.
dụ: chỉ diễn ra 1 sự kiện một cuộc hội thảo bàn về phòng chống tội phạm
tạo cho nhiều người cảm nghĩ chúng ta một quá trình tích cực chống tội
phạm lâu dài.
Lỗi 3: Giải quyết vấn đề bằng định nghĩa lại nó.
Con người sử dụng phụ thuộc vào những từ ngữ trừu tượng do mình sinh
ra. Một từ đơn giản chưa chắc đã dễ hiểu, nhất thay đổi theo tình
huống sử dụng, định nghĩa nó. Chúng ta thể làm biến mất vấn đề, đảo
ngược vấn đề khi phân loại lại vào trong một phạm trù khác, lĩnh vực kiến
thức, môi trường văn h khác. Lôgíc hình thức hàm ý không được thay
đổi các khái niệm theo định nghĩa lại, phân loại lại chúng khi đang tiến hành
quá trình duy. Điều này không tất yếu làm thay đổi điều kiện. Hiểu sai
những thuộc tính bản của khái niệm hay mức độ hiểu biết thiếu sâu sắc
khái niệm cũng thường dẫn đến thay đổi khái niệm nguyên nhân nảy
sinh lỗi loại 3 này.
dụ, suy luận “Vật chất luôn vận động. Cái ghế này vật chất sao chẳng
thấy di chuyển ?”. Khái niệm Vật chất, vận động trong triết học đã bị đánh
tráo thành khái niệm vật chất, vận động của đời thường. Khi thay đổi khái
niệm như vậy, chúng ta đã vượt khỏi ranh giới vận dụng đúng đắn nguyên
của Logíc hình thức.
Lỗi 4. Tự mình độc lập.
Lỗi này do người nghĩ coi mình riêng biệt, phân biệt ràng với những người
khác, quên đi những mối quan hệ, phụ thuộc lẫn nhau. Lôgíc hình thức đã coi
rằng chính ta ta chứ không phải một ai khác. Quy luật bản xác định
hoạt động của một người hay một tổ chức không xem xét đến những ảnh
hưởng sâu xa đến những người khác, t chức khác.
Trong nhiều mối quan hệ, nhiều lúc một nhân hay tổ chức hoạt động
không quan tâm đến ảnh hưởng của đối với những đối tác khác. Như việc
thay đổi chính sách thuế c nước, tăng cường mua sắm thiết bị một
phân xưởng... Nguồn gốc lỗi người nghĩa đã tự mình coi như độc lập,
không thấy hết những mối quan hệ tinh tế lẫn nhau.
Lỗi 5. lập vấn đề.
Xu hướng của lỗi lưu tâm tới vấn đề như rời rạc, độc lập trong những hoàn
cảnh rộng lớn hơn. kết quả của việc ng sai quy luật cấm mâu thuẫn.
Nếu một vấn đề duy nhất thì không được cùng lúc nối với nhiều ngữ
cảnh rộng rãi. Một ch đúng đắn sự phân tích đúng đắn khảo t tương
tác h thống đang hoạt động với những hệ thống lớn hơn chỉ một
thành phần.
Chúng ta cũng thường xuyên tách riêng một vấn đề nào đó coi những vấn
đề khác không liên quan. Đó cũng yêu cầu tâm trí của người do hạn chế
của trí não. Lỗi này thể ẩn dụ n "lỗi đường hầm". Vấn đề B lẽ chính
để hướng đến mục đích A mong ước. B dẫn dắt tới C. C thì dẫn dắt tới D.
như vậy ta d coi rằng D chính cách chủ yếu để đạt được C, B tức A
mong muốn. Thực ra nếu chúng ta hướng tâm t vị trí bên ngoài thế giới
của A, B, C, D thể để lộ ra những mối quan hệ khác quan trong không kém,
không thuộc đường dẫn A-B-C-D chúng ta đã chọn lựa ra.
Lỗi 6. Lỗi kết quả duy nhất.
Lỗi này cho rằng mỗi vấn đ hay hoạt động chỉ đem lại một chỉ một kết quả
duy nhất. Bẫy này sử dụng nhầm lẫn quy luật loại trừ lẫn nhau, ước định coi
một cái bất kỳ không thể vừa thế này lại vừa thế kia. Chúng ta phải hiểu
đúng nguyên này tại một thời điểm duy nhất xác định. thể không
đúng nếu ta xem xét các kết quả những thời điểm khác nhau. Kết quả cũng
thể thay đổi khi những người quan sát những lợi ích khác nhau khi nhìn
nhận kết quả y.
Lỗi 7. Loại trừ phương án khả thi.
Lôgíc hình thức chỉ ra những cảnh quan dẫn dắt chúng ta đến việc công thức
hoá chọn một giải pháp trong nhiều giải pháp bởi chúng phải tự loại trừ lẫn
nhau, không chấp nhận giải pháp trộn lẫn.
Trong thực tế cuộc sống chính trị thế giới, chúng ta gặp không ít lỗi tương tự
kiểu của tổng thống Mỹ W. Bush: thế giới ch 2 lực lượng: một đứng về
chúng tôi đại diện cho tiến bộ một đứng về bọn ủng h khủng bố” (quan
điểm về trật tự thế giới chia hai: -Hiện nay, mỗi một quốc gia, bất kể nơi
đâu, cần phải đưa ra quyết định: hoặc đứng về phía với chúng tôi, hoặc với
bọn khủng bố!) Chúng ta đã mặc vào loại lỗi Loại trừ nhau nói trên.
Lỗi 8: do đầy đủ.
Con người thường thói quen duy miên man dễ xa rời, lệch lạc nhiều
so với thực tế.
Hoặc là thiếu những căn cứ thực tiễn được xem xét, thu thập chính xác; thiếu
những thuyết tin cậy đến thời điểm hiện tại xem t những thuyết đó
một cách khách quan, suy luận đúng đắn, phản biện. Hoặc kết qu suy
luận không được kiểm chứng, đối chiếu lại với thực tế.

Preview text:

Chúng ta thường gặp những lỗi tư duy như thế nào ?
Những rối nhiễu tâm lý thường xảy ra khi chúng ta nhìn nhận tiêu cực về thế
giới, về cuộc sống nói chung. Khi có những sai lệch trong quá trình xử lý
thông tin, chúng ta sẽ hiểu sai ý nghĩa thực của các các tình huống, sự kiện
xảy ra trong cuộc sống hàng ngày; đây là cơ sở phát sinh các rối nhiễu tâm
lý. Vì vậy, việc nhận biết được những lỗi tư duy chúng ta hay gặp phải để
tránh nó là rất cần thiết.
1. Khái quát chung về tư duy
Lôgic học với tư cách là khoa học về tư duy coi nhiệm vụ nghiên cứu chính là
làm sáng tỏ những điều kiện đạt tới tri thức chân thực, phân tích kết cấu của
quá trình tư duy, vạch ra thao tác lôgic của tư duy và phương pháp luận nhận
thức chuẩn xác. Lôgic học tiến hành xem xét, đánh giá kinh nghiệm suy nghĩ
thông thường , phát hiện những bản chất sâu sắc hơn và chỉ đạo, hướng dẫn
cho việc tư duy đúng đắn hơn. Dù biết hay không biết về lôgic học thì việc
suy nghĩ của con người cũng đều phụ thuộc vào các quy luật lôgic và các
hình thức tư duy. Và như vậy, lôgic học chiếu rọi vào kinh nghiệm tư duy của
mỗi người giúp cho con người tư duy chủ động và tự giác hơn, thể hiện tính
chính xác, tính đúng đắn, nâng cao hiệu quả và tính thuyết phục của các tư
tưởng. Quan trọng hơn, việc nghiên cứu lôgic học giúp chúng ta phát hiện ra
những sai lầm lôgic của chúng ta và những người khác, cũng như để tránh
khỏi sai lầm lôgic do vô tình hay hữu ý phạm phải. Hình thức cơ bản của tư
duy trong quá trình nhận thức là suy luận. Nó xuất phát từ những phán đoán
đã biết để rút ra những phán đoán mới. Cá nhân tôi qua quan sát tư tưởng
của nhiều người thông qua các tài liệu, sách báo, hay sinh hoạt đời sống,
công tác . đã gặp và ghi nhận được rất nhiều loại lỗi suy luận. Bên cạnh
những lỗi về tính chân thực gắn với quan sát thực tế, kiến thức của nhiều
ngành, lĩnh vực tri thức khác nhau, còn có một số lượng đáng kể các lỗi liên
quan cả đến những thao tác suy luận. Những lỗi này sẽ gây ra những kết
luận sai ở bất kỳ ai. Lỗi suy luận thậm chí có thể ở cả trường hợp kết quả
cuối cùng là đúng. Trong phạm vi bài viết này, tôi phân loại lỗi suy luận căn
cứ vào sự vi phạm các nguyên lý và quy luật logic, gồm: 8 loại lỗi vi phạm quy
luật lôgíc hình thức và 6 lỗi vi phạm quy luật lôgíc biện chứng. Việc phát hiện,
mô tả rõ những lỗi thường gặp này sẽ giúp chúng ta sửa chữa cách suy nghĩ
hàng ngày, nâng cao hiệu quả hoạt động nhận thức và thực tiễn của mình. I.
Lôgic học Lôgíc học là ngành khoa học nghiên cứu về tư duy với tư cách là
một quá trình nhận thức. Đây chính là sự tự ý thức về hoạt động tư duy. Tư
duy với tư cách là một sự vật, hiện tượng đặc thù cũng có quá trình vận động
và phát triển của mình. Trong quá trình ấy, bản thân tư duy cũng là sự thống
nhất của hai trạng thái động và tĩnh. Việc nghiên cứu tư duy cũng phải được
xem xét với cả trạng thái tĩnh và trạng thái động của nó. Trạng thái tĩnh là đối
tượng nghiên cứu của lôgic hình thức, còn trạng thái động là đối tượng
nghiên cứu của lôgíc biện chứng. Ví dụ, các loại hình tư duy cổ đại, cổ điển –
như những sự vật đồng nhất trừu tượng là đối tượng của lôgic hình thức,
ngược lại sự vận động của tư duy từ loại hình cổ đại lên loại hình cổ điển là
đối tượng của lôgic học biện chứng. Cũng tương tự như vậy, các hình thức
của tư duy như khái niệm, phán đoán, suy lý . cũng nằm trong sự thống nhất
của trạng thái động và trạng thái tĩnh. Với mỗi hình thức này, lôgic hình thức
và lôgíc biện chứng cũng có những nhiệm vụ khác nhau.
2. Sáu lỗi chính trong quá trình nhận thức – xử lý thông tin (theo Beck): 2.1. Suy luận tùy tiện:
Rút ra những kết luận khi không có bằng chứng đầy đủ hoặc khi những bằng
chứng còn mâu thuẫn nhau. Ví dụ như có trẻ tin rằng mình bị mẹ mằng vì bị
mẹ “ghét bỏ”; hay “Tôi không nhận được điện thoại từ nơi tôi đang xin việc
làm là vì họ đã quyết định không nhận tôi làm việc”.
2.2. Khái quát hóa thái quá:
Rút ra kết luận chung dựa vào một bằng chứng ngẫu nhiên duy nhất. Ví dụ tin
rằng mình sẽ không bao giờ thành công sau thất bại đầu tiên. “Tôi bị một
điểm 2 tôi cảm thấy cả lớp như đang coi thường tôi, tôi không muốn đến lớp
nữa”. Suy nghĩ này thường gặp trong trầm cảm.
2.3. Chú ý vào chi tiết:
Tập trung thái quá vào một chi tiết và bỏ qua bối cảnh chung của vấn đề. Ví
dụ, chào một người bạn nhưng người đó không đáp lại và nghĩ rằng người
bạn kia ghét bỏ mình. Thực ra người đó đang mải suy nghĩ không nghe thấy tiếng chào.
2.4. Tự vận vào mình:
Tự vận vào mình một sự kiện không hề có liên quan. Ví dụ, bước vào một
đám đông bắt gặp họ đang cười, liền nghĩ và tin chắc rằng họ đang cười nhạo mình.
2.5. Suy nghĩ tuyệt đối hoá:
Nghĩ về các thái cực thái quá theo kiểu hoặc là tất cả hoặc không có gì hoặc
chỉ toàn màu đen hoặc chỉ toàn màu hồng. Sai lầm nay còn được gọi là kiểu
Tư duy lưỡng phân. Tư duy này hay gặp trong rối loạn nhân cách ranh giới
và rối loạn ám ảnh cưỡng bức. Ví dụ tin rằng mình là kẻ bần cùng sau khi mất chiếc ví.
2.6. Quan trọng hoá hoặc coi thường:
Xuất hiện ở những người nhìn sự việc hoặc là quá coi trọng hoặc quá coi
thường. Ví dụ tin rằng mình là kẻ dốt văn sau khi được trả một bài kiểm tra
văn với nhiều lỗi chính tả.
3. Tám lỗi logic về mặt hình thức
3.1 Tám lỗi lôgíc hình thức
1. Lỗi "Mãi mãi không thay đổi". Ta suy nghĩ về sự vật hay hiện tượng mãi
giống như nó đang ở điều kiện hiện tại hoặc là mãi có một tính chất, thuộc tính cố định nào đó.
2. Lỗi "Nhìn nhận một quá trình lâu dài như một sự kiện nhất định". Ta suy
nghĩ về các đối tượng dựa trên một vài sự kiện, hiện tượng liên quan chứ
không phải là trong suốt cả quá trình.
3. Lỗi "Giải quyết bằng cách định nghĩa lại". Một dạng của suy nghĩ đánh tráo
khái niệm nghĩa là thay đổi nội dung khái niệm trong khi giữ nguyên tên gọi.
4. Lỗi "Phân tích tính độc lập". Sự việc, sự vật ta chọn được tách khỏi tồn tại,
phân tách hoàn toàn một bộ phận khỏi tương tác/quan hệ với môi trường, độc
lập trong khi sự thực mỗi thứ đều phụ thuộc lẫn nhau, có quan hệ với những cái khác.
5. Lỗi "Cô lập vấn đề": lưu tâm tới vấn đề như một sự việc riêng rẽ, rời rạc
trong ngữ cảnh rộng của nó.
6. Lỗi "Kết quả duy nhất": Một kết quả chỉ tạo ra từ 1 nguyên nhân tương ứng.
7. Lỗi "Loại trừ phương án khả thi": hướng đến giới hạn cách chúng ta nghĩ
và lựa chọn. Thực tế cho thấy nhiều khi chúng ta lựa chọn trong hơn 2 phương án.
8. Lỗi "Nguyên nhân đúng đắn": nghĩ rằng đó là lý do đầy đủ cho sự kiện
Khách quan <> Chủ quan. Thoả mãn sớm: phụ thuộc vào những mong muốn,
mục tiêu, thái độ, tình cảm, chưa đủ những cứ liệu thực tiễn vững chắc.
Đa số các lỗi đều bắt nguồn từ thiếu sót là coi mọi khái niệm, đối tượng,
người, sự vật... là không biến đổi, không có liên hệ gì với nhau.
3.2 Giải thích cụ thể
Lỗi 1: "Mãi mãi là không thay đổi "
Khó có thể hạn chế hay khẳng định những ngữ cảnh khác nhau áp dụng chỉ
một cách duy nhất. Lôgíc hình thức trong sâu xa không xem xét đến yếu tố
thay đổi theo thời gian. Chúng ta phải tự xoay xở đối xử với sự thay đổi liên
tục của thế giới và cả chính những kết quả, cách thức tư duy của chúng ta.
Và đó làm nảy sinh lỗi suy nghĩ ta thường xuyên rơi vào.
Ví dụ, "Đó là đế quốc thực dân mãi mãi là sen đầm trong khu vực và trên thế
giới !" (như trước kia và lúc này). Chính sách của mỗi nước sẽ thay đổi trong
quá khứ, ở thời điểm xem xét và trong tương lai. Vậy nhận định như thế là không phù hợp.
Lỗi này còn xuất hiện trong nhiều tình huống khác nhau, (đặc biệt là với
những sự vật, hiện tượng vận động đa dạng) dẫn đến những kết luận nhanh
chóng có thể là những sai lầm.
"Mãi mãi không thay đổi" là một lỗi mang đầy tính chất bảo thủ, tự coi mình là
tiên tri trong mọi việc suy xét thực tế.
Lỗi 2: Nhìn nhận một quá trình lâu dài như một sự kiện nhất định.
Quá trình được xem như chuỗi các sự kiện diễn ra liên tiếp, mỗi sự kiện lại
được xem xét như một thay đổi. Chúng ta nghĩ về một sự kiện như là một
quá trình ngắn hay một thời điểm. Bởi vậy trong ngôn ngữ chúng ta cũng
thường dùng danh từ để chỉ sự kiện bắt nguồn từ một động từ. Lỗi này xuất
hiện từ việc chúng ta dừng thời gian và coi tư duy với các sự vật, hiện tượng,
quá trình là đồng nhất. Vấn đề là chúng ta cần định nghĩa kỹ những ranh giới
xác định cho một sự kiện vẫn là nó.
Ví dụ: chỉ diễn ra 1 sự kiện là một cuộc hội thảo bàn về phòng chống tội phạm
tạo cho nhiều người cảm nghĩ chúng ta có một quá trình tích cực chống tội phạm lâu dài.
Lỗi 3: Giải quyết vấn đề bằng định nghĩa lại nó.
Con người sử dụng và phụ thuộc vào những từ ngữ trừu tượng do mình sinh
ra. Một từ đơn giản chưa chắc đã là dễ hiểu, nhất là nó thay đổi theo tình
huống sử dụng, định nghĩa nó. Chúng ta có thể làm biến mất vấn đề, đảo
ngược vấn đề khi phân loại lại nó vào trong một phạm trù khác, lĩnh vực kiến
thức, môi trường văn hoá khác. Lôgíc hình thức hàm ý là không được thay
đổi các khái niệm theo định nghĩa lại, phân loại lại chúng khi đang tiến hành
quá trình tư duy. Điều này không tất yếu làm thay đổi điều kiện. Hiểu sai
những thuộc tính cơ bản của khái niệm hay mức độ hiểu biết thiếu sâu sắc
khái niệm cũng thường dẫn đến thay đổi khái niệm và là nguyên nhân nảy sinh lỗi loại 3 này.
Ví dụ, suy luận “Vật chất luôn vận động. Cái ghế này là vật chất sao chẳng
thấy di chuyển gì ?”. Khái niệm Vật chất, vận động trong triết học đã bị đánh
tráo thành khái niệm vật chất, vận động của đời thường. Khi thay đổi khái
niệm như vậy, chúng ta đã vượt khỏi ranh giới vận dụng đúng đắn nguyên lý của Logíc hình thức.
Lỗi 4. Tự mình độc lập.
Lỗi này do người nghĩ coi mình riêng biệt, phân biệt rõ ràng với những người
khác, quên đi những mối quan hệ, phụ thuộc lẫn nhau. Lôgíc hình thức đã coi
rằng chính ta là ta chứ không phải là một ai khác. Quy luật cơ bản xác định
hoạt động của một người hay một tổ chức không xem xét đến những ảnh
hưởng sâu xa đến những người khác, tổ chức khác.
Trong nhiều mối quan hệ, nhiều lúc một cá nhân hay tổ chức hoạt động mà
không quan tâm đến ảnh hưởng của nó đối với những đối tác khác. Như việc
thay đổi chính sách thuế ở các nước, tăng cường mua sắm thiết bị ở một
phân xưởng... Nguồn gốc lỗi là người nghĩa đã tự mình coi như độc lập,
không thấy hết những mối quan hệ tinh tế lẫn nhau.
Lỗi 5. Cô lập vấn đề.
Xu hướng của lỗi là lưu tâm tới vấn đề như rời rạc, độc lập trong những hoàn
cảnh rộng lớn hơn. Nó là kết quả của việc dùng sai quy luật cấm mâu thuẫn.
Nếu một vấn đề là duy nhất thì không được cùng lúc nối nó với nhiều ngữ
cảnh rộng rãi. Một cách đúng đắn sự phân tích đúng đắn là khảo sát tương
tác hệ thống đang hoạt động với những hệ thống lớn hơn mà nó chỉ là một thành phần.
Chúng ta cũng thường xuyên tách riêng một vấn đề nào đó và coi những vấn
đề khác là không có liên quan. Đó cũng yêu cầu tâm trí của người do hạn chế
của trí não. Lỗi này có thể ẩn dụ như "lỗi đường hầm". Vấn đề B là lý lẽ chính
để hướng đến mục đích A mong ước. B dẫn dắt tới C. C thì dẫn dắt tới D. Và
như vậy ta dễ coi rằng D chính cách chủ yếu để đạt được C, B và tức là A
mong muốn. Thực ra nếu chúng ta hướng tâm trí và vị trí bên ngoài thế giới
của A, B, C, D có thể để lộ ra những mối quan hệ khác quan trong không kém,
không thuộc đường dẫn A-B-C-D mà chúng ta đã chọn lựa ra.
Lỗi 6. Lỗi kết quả duy nhất.
Lỗi này cho rằng mỗi vấn đề hay hoạt động chỉ đem lại một và chỉ một kết quả
duy nhất. Bẫy này sử dụng nhầm lẫn quy luật loại trừ lẫn nhau, ước định coi
một cái bất kỳ không thể vừa là thế này lại vừa là thế kia. Chúng ta phải hiểu
đúng nguyên lý này là tại một thời điểm duy nhất xác định. Nó có thể không
đúng nếu ta xem xét các kết quả ở những thời điểm khác nhau. Kết quả cũng
có thể thay đổi khi những người quan sát có những lợi ích khác nhau khi nhìn nhận kết quả ấy.
Lỗi 7. Loại trừ phương án khả thi.
Lôgíc hình thức chỉ ra những cảnh quan dẫn dắt chúng ta đến việc công thức
hoá chọn một giải pháp trong nhiều giải pháp bởi chúng phải tự loại trừ lẫn
nhau, không chấp nhận giải pháp trộn lẫn.
Trong thực tế cuộc sống chính trị thế giới, chúng ta gặp không ít lỗi tương tự
kiểu của tổng thống Mỹ W. Bush: thế giới chỉ có 2 lực lượng: một là đứng về
chúng tôi đại diện cho tiến bộ và một là đứng về bọn ủng hộ khủng bố” (quan
điểm về trật tự thế giới chia hai: -Hiện nay, mỗi một quốc gia, bất kể ở nơi
đâu, cần phải đưa ra quyết định: hoặc là đứng về phía với chúng tôi, hoặc với
bọn khủng bố!) Chúng ta đã mặc vào loại lỗi Loại trừ nhau nói trên.
Lỗi 8: Lý do đầy đủ.
Con người thường có thói quen tư duy miên man và dễ xa rời, lệch lạc nhiều so với thực tế.
Hoặc là thiếu những căn cứ thực tiễn được xem xét, thu thập chính xác; thiếu
những lý thuyết tin cậy đến thời điểm hiện tại và xem xét những lý thuyết đó
một cách khách quan, suy luận đúng đắn, có phản biện. Hoặc là kết quả suy
luận không được kiểm chứng, đối chiếu lại với thực tế.
Document Outline

  • Chúng ta thường gặp những lỗi tư duy như thế nào ?
    • 1. Khái quát chung về tư duy
    • 2. Sáu lỗi chính trong quá trình nhận thức – xử lý
      • 2.1. Suy luận tùy tiện:
      • 2.2. Khái quát hóa thái quá:
      • 2.3. Chú ý vào chi tiết:
      • 2.4. Tự vận vào mình:
      • 2.5. Suy nghĩ tuyệt đối hoá:
      • 2.6. Quan trọng hoá hoặc coi thường:
    • 3. Tám lỗi logic về mặt hình thức
      • 3.1 Tám lỗi lôgíc hình thức
      • 3.2 Giải thích cụ thể