
















Preview text:
lOMoAR cPSD| 61572994
Chương 1: Liên hệ bản thân về học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức,
phong cách Hồ Chí Minh
Chủ tịch Hồ Chí Minh, vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam, không chỉ là một
nhà cách mạng kiệt xuất mà còn là tấm gương sáng ngời về tư tưởng, đạo đức
và phong cách sống. Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách của
Bác là nhiệm vụ quan trọng và ý nghĩa đối với mỗi người dân Việt Nam, đặc
biệt là thế hệ trẻ. Bản thân em đã và đang nỗ lực học tập và làm theo những giá
trị cao đẹp mà Bác Hồ đã truyền dạy.
Trước hết, em luôn cố gắng rèn luyện tinh thần tự học và cầu tiến. Bác Hồ từng
nói: "Học hỏi là một việc phải tiếp tục suốt đời." Em nhận thức rõ rằng, kiến
thức là vô tận và việc học không bao giờ là đủ. Vì vậy, em luôn chăm chỉ học
tập, không ngừng nâng cao kiến thức và kỹ năng của mình. Em thường xuyên
đọc sách, tham gia các khóa học trực tuyến và tìm hiểu thêm về các lĩnh vực
mới. Điều này không chỉ giúp em mở rộng tầm nhìn mà còn phát triển bản thân một cách toàn diện.
Bên cạnh đó, em học theo Bác về lối sống giản dị và tiết kiệm. Bác Hồ luôn
sống một cuộc đời giản dị, không xa hoa, lãng phí. Em cũng cố gắng tiết kiệm
trong chi tiêu, sử dụng tài nguyên một cách hợp lý và bảo vệ môi trường. Em
thường tham gia các hoạt động tái chế và bảo vệ môi trường tại địa phương,
góp phần làm cho môi trường sống của chúng ta trở nên xanh sạch đẹp hơn.
Tinh thần đoàn kết và giúp đỡ người khác cũng là một giá trị mà em luôn ghi
nhớ và thực hiện. Bác Hồ từng dạy: "Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành
công, thành công, đại thành công." Em luôn sẵn lòng giúp đỡ bạn bè, người
thân và những người xung quanh khi họ gặp khó khăn. Em tham gia các hoạt
động từ thiện, tình nguyện tại trường và trong cộng đồng. Điều này không chỉ
giúp em rèn luyện tinh thần đoàn kết mà còn mang lại niềm vui và ý nghĩa cho cuộc sống.
Trung thực và trách nhiệm là những phẩm chất quan trọng mà em học được từ
Bác. Em luôn cố gắng sống trung thực, không gian dối trong học tập và công
việc. Em nhận thức rõ trách nhiệm của mình đối với gia đình, nhà trường và xã
hội. Em luôn hoàn thành tốt các nhiệm vụ được giao và không ngừng phấn đấu
để trở thành một công dân tốt, có ích cho xã hội.
Cuối cùng, em luôn tự hào về lịch sử và văn hóa dân tộc, cố gắng học hỏi và
gìn giữ những giá trị truyền thống tốt đẹp. Em tham gia các hoạt động kỷ niệm
các ngày lễ lớn của đất nước, tìm hiểu về cuộc đời và sự nghiệp của Bác Hồ để
hiểu rõ hơn về tư tưởng và đạo đức của Người. Em nhận thấy rằng, việc học
tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh không chỉ giúp em lOMoAR cPSD| 61572994
trở thành một người tốt hơn mà còn góp phần xây dựng một xã hội văn minh, tiến bộ.
Những việc làm trên không chỉ giúp em học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức,
phong cách Hồ Chí Minh mà còn giúp em trở thành một người có ích cho xã
hội. Em sẽ tiếp tục nỗ lực và phấn đấu để xứng đáng với những giá trị mà Bác
Hồ đã truyền dạy. Em tin rằng, nếu mỗi người chúng ta đều học tập và làm theo
tấm gương của Bác, đất nước Việt Nam sẽ ngày càng phát triển và thịnh vượng. lOMoAR cPSD| 61572994
CHƯƠNG 3: CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
Là sinh viên HCMUE, anh/chị sẽ làm gì để góp phần xây dựng các đặc
trưng của chủ nghĩa xã hội ở nước ta?(34 TẬP - 97 SÁCH)
1. Học tập và nâng cao tri thức: •
Thực hiện học tập thường xuyên, không ngừng nâng cao kiến thức
chuyên môn và hiểu biết xã hội. •
Ví dụ: Tham gia các khóa học trực tuyến về giáo dục, quản lý, công nghệ
thông tin hoặc các buổi hội thảo chuyên ngành do HCMUE tổ chức để
nâng cao năng lực giảng dạy và nghiên cứu.
2. Tham gia đóng góp ý kiến và quản lý xã hội: •
Tích cực tham gia ý kiến tại các buổi họp lớp, đoàn thể, hội đồng sinh
viên, góp phần xây dựng môi trường học tập và hoạt động xã hội tốt hơn. •
Ví dụ: Đóng góp ý kiến về cải tiến phương pháp giảng dạy, hoạt động
ngoại khóa hoặc dự án cộng đồng do khoa tổ chức.
3. Rèn luyện đạo đức và lối sống theo gương Bác Hồ: •
Tu dưỡng đạo đức, phẩm chất, sống trung thực, trách nhiệm, nhân ái. •
Ví dụ: Giúp đỡ bạn bè gặp khó khăn trong học tập, tham gia các chương
trình tình nguyện “Mùa hè xanh”, “Xuân tình nguyện”.
4. Tham gia rèn luyện sức khỏe và các hoạt động xã hội: •
Duy trì thể chất tốt để phục vụ học tập và công tác xã hội. •
Ví dụ: Tham gia các CLB thể thao, giải chạy hoặc các chương trình văn
hóa – xã hội do trường tổ chức.
5. Giữ gìn trật tự, văn hóa, truyền thống dân tộc: •
Chấp hành quy định của nhà trường và pháp luật, bảo vệ môi trường, văn hóa ứng xử tốt. •
Ví dụ: Tham gia giữ gìn vệ sinh khuôn viên trường, bảo vệ di tích, cổ vũ
các hoạt động văn hóa truyền thống.
6. Phát triển kỹ năng sống: •
Rèn luyện kỹ năng giao tiếp, làm việc nhóm, giải quyết vấn đề và quản lý thời gian. lOMoAR cPSD| 61572994 •
Ví dụ: Tham gia các dự án giáo dục cộng đồng, workshop kỹ năng mềm
do Đoàn – Hội tổ chức.
7. Tôn trọng, yêu thương và hỗ trợ cộng đồng: •
Thể hiện tình cảm, trách nhiệm với gia đình, cộng đồng và đồng nghiệp. •
Ví dụ: Hỗ trợ gia đình trong công việc, tham gia chăm sóc trẻ em, người
già hoặc các hoạt động thiện nguyện tại địa phương.
Là sinh viên HCMUE, tôi sẽ góp phần vào công cuộc xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc Việt Nam XHCN bằng những việc làm cụ thể sau ( 40 TẬP- 101 SÁCH)
1. Trung thành với Tổ quốc và chế độ xã hội chủ nghĩa o Thực hiện
tinh thần: “Trung với nước, hiếu với dân, nhiệm vụ nào cũng hoàn
thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”.
o Ví dụ: Tuân thủ nội quy trường lớp, các quy định pháp luật; tham
gia các phong trào đoàn, hội để nâng cao ý thức công dân.
2. Cảnh giác với các âm mưu chống phá của các thế lực thù địch o Biết
phê phán, đấu tranh với thông tin và hành vi xuyên tạc, chia rẽ khối
đại đoàn kết dân tộc.
o Ví dụ: Khi phát hiện thông tin sai lệch trên mạng về giáo dục hoặc
lịch sử dân tộc, tôi sẽ xác minh và chia sẻ thông tin chính xác với
bạn bè và cộng đồng sinh viên.
3. Tích cực học tập, rèn luyện thân thể và bảo vệ sức khỏe o Nâng
cao trình độ chuyên môn, rèn luyện kỹ năng, duy trì lối sống lành
mạnh và giữ gìn vệ sinh.
o Ví dụ: Tôi sẽ chăm chỉ học tập các phương pháp giảng dạy mới,
tham gia thể thao, các hoạt động rèn luyện thể lực để đảm bảo sức
khỏe, từ đó truyền cảm hứng cho học sinh tương lai.
4. Tham gia các hoạt động an ninh, quốc phòng và trách nhiệm công dân
o Tham gia hoạt động tại địa phương như đền ơn đáp nghĩa, bảo vệ
môi trường, trật tự an toàn xã hội; nam sinh viên đăng ký nghĩa vụ quân sự khi đến tuổi. lOMoAR cPSD| 61572994
o Ví dụ: Tham gia chiến dịch “Tình nguyện mùa hè xanh” hoặc tổ
chức dạy học miễn phí, góp phần phát triển cộng đồng.
5. Phát huy truyền thống dân tộc và tinh thần xung kích trong học tập,
nghiên cứu và giảng dạy o Đi đầu trong đổi mới phương pháp giảng
dạy, sáng tạo trong các hoạt động giáo dục.
o Ví dụ: Thiết kế hoạt động trải nghiệm, câu lạc bộ học thuật để
khuyến khích học sinh sáng tạo và rèn luyện kỹ năng sống.
6. Đấu tranh bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc và sẵn sàng nhận nhiệm
vụ khó khăn o Bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh
thổ; tham gia các hoạt động xã hội có lợi cho đất nước.
o Ví dụ: Tuyên truyền cho học sinh về chủ quyền biển đảo, bảo vệ
môi trường và trách nhiệm công dân ngay từ trường học.
7. Tham gia quản lý, đóng góp ý tưởng và nâng cao đời sống xã hội o
Chủ động đề xuất sáng kiến trong xây dựng chính sách, quản lý xã
hội; bảo vệ môi trường, phát triển cộng đồng.
o Ví dụ: Tham gia các dự án giáo dục cộng đồng, xây dựng mô hình
học tập, câu lạc bộ kỹ năng mềm, giúp học sinh và người dân nâng
cao chất lượng cuộc sống.
Một số giải pháp nâng cao chủ nghĩa yêu nước Hồ Chí Minh cho thanh
niên Việt Nam hiện nay
Đại hội XIII của Đảng xác định: “Động lực và nguồn lực phát triển quan trọng
của đất nước là khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc,
sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh,
hạnh phúc” . Vì vậy, nâng cao chất lượng giáo dục, làm rõ hơn nữa những nội
dung của chủ nghĩa yêu nước theo tư tưởng Hồ Chí Minh là nhiệm vụ rất cần
thiết, mang tính chiến lược lâu dài trong giai đoạn hiện nay để nâng cao sức đề
kháng cho thế hệ thanh niên trước âm mưu “diễn biến hoà bình”, giúp các em
có khả năng chủ động đấu tranh phản bác những quan điểm sai trái, thù địch
nhằm chống phá Đảng và Nhà nước ta. Trong giai đoạn hiện nay, để nâng cao
chủ nghĩa yêu nước Hồ Chí Minh cho thanh niên cần tập trung vào những giải pháp sau
1. Nâng cao nhận thức xã hội về vai trò giáo dục chủ nghĩa yêu nước o
Cần nâng cao nhận thức của toàn xã hội, trong đó có cán bộ, đảng
viên và nhân dân, về tầm quan trọng của giáo dục chủ nghĩa yêu nước
Hồ Chí Minh cho thanh niên. lOMoAR cPSD| 61572994
o Khi nhận thức được nâng lên, sẽ tạo ra môi trường xã hội thuận
lợi, thúc đẩy thanh niên năng động, sáng tạo, bản lĩnh chính trị
vững vàng, có niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng.
o Đồng thời, cần ổn định kinh tế - xã hội, khắc phục tiêu cực, tạo
môi trường lành mạnh để giáo dục thanh niên hiệu quả.
2. Kết hợp gia đình, nhà trường và đoàn thể xã hội o Gia đình giáo
dục nhân cách, đạo đức và lòng yêu nước từ nhỏ.
o Nhà trường cung cấp kiến thức chính thống, rèn luyện phẩm chất
đạo đức, lý tưởng sống và kỹ năng công dân.
o Đoàn thể xã hội (Đoàn Thanh niên, Hội Liên hiệp Thanh niên…)
tổ chức hoạt động văn hóa, thể thao, tình nguyện, tạo điều kiện để
thanh niên rèn luyện, nâng cao ý thức và trách nhiệm với cộng đồng.
o Sự phối hợp chặt chẽ giữa các môi trường này tạo ra hiệu quả giáo dục bền vững.
3. Đổi mới nội dung và phương pháp giáo dục o Nội dung giáo dục
phải cụ thể, sinh động, phù hợp với từng đối tượng, gắn liền với
hành động hằng ngày: chấp hành luật pháp, tiết kiệm, liêm chính,
yêu thương đồng bào, bảo vệ Tổ quốc.
o Tăng cường hoạt động của các tổ chức thanh niên, tạo môi trường
học tập, sinh hoạt văn hóa, thể thao lành mạnh.
o Các phong trào như “Tuổi trẻ Việt Nam học tập và làm theo lời
Bác”, “Thanh niên tình nguyện”… khơi dậy nhiệt huyết, ước mơ,
hoài bão và lòng yêu nước của thanh niên.
4. Lấy gương “người tốt, việc tốt” để giáo dục thanh niên o Chủ tịch
Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Một tấm gương sống còn có giá trị hơn
một trăm bài diễn văn tuyên truyền”.
o Việc nêu gương điển hình, người tốt, việc tốt giúp thanh niên tự
giáo dục, rèn luyện bản thân, hình thành ý thức làm chủ, cầu tiến
bộ và tinh thần trách nhiệm đối với cộng đồng. Kết luận:
Để nâng cao hiệu quả giáo dục chủ nghĩa yêu nước Hồ Chí Minh cho thanh
niên, cần thực hiện đồng bộ, toàn diện các giải pháp: nâng cao nhận thức xã
hội, kết hợp gia đình – nhà trường – đoàn thể, đổi mới nội dung và phương lOMoAR cPSD| 61572994
pháp giáo dục, đồng thời phát huy vai trò gương người tốt, việc tốt. Qua đó,
hình thành thế hệ thanh niên vừa “hồng” vừa “chuyên”, đáp ứng yêu cầu xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn hiện nay.
CHƯƠNG 3: TT HỒ CHÍ MINH VỀ ĐỘC LẬP DÂN TỘC
Về quyền thiêng liêng, tự nhiên và bất khả xâm phạm của dân tộc (14 TẬP-73 SÁCH)
Đối với dân tộc Việt Nam, xuyên suốt chiều dài lịch sử, vấn đề chủ quyền quốc
gia và quyền độc lập, tự do luôn được xem là giá trị thiêng liêng và bất khả
xâm phạm. Tư tưởng này đã sớm xuất hiện trong các áng văn chính luận bất hủ
như Nam quốc sơn hà của Lý Thường Kiệt (thế kỷ XI), Bình Ngô đại cáo của
Nguyễn Trãi (thế kỷ XV) hay Hịch đánh quân Thanh của Hoàng đế Quang
Trung – Nguyễn Huệ (thế kỷ XVIII), khẳng định chủ quyền là “thiên thư định
phận”, không thế lực nào được xâm phạm. lOMoAR cPSD| 61572994
Tiếp nối truyền thống đó, Hồ Chí Minh khẳng định:
“Cái mà tôi cần nhất trên đời là đồng bào tôi được tự do, Tổ quốc tôi được độc lập.”
Không chỉ dừng ở khát vọng, tư tưởng của Người về quyền tự do và bình đẳng
được hình thành rõ nét khi thay mặt những người Việt Nam yêu nước gửi đến
Hội nghị Véc-xây (Versailles) bản Yêu sách của nhân dân An Nam (1919).
Bản yêu sách gồm tám điểm, tập trung vào hai nội dung lớn: đòi bình đẳng
pháp lý và đòi các quyền tự do dân chủ cơ bản cho nhân dân Đông Dương.
Đây là bước ngoặt quan trọng thể hiện tư tưởng quyền dân tộc gắn liền với quyền con người.
Ngày 28-1-1941, sau 30 năm bôn ba tìm đường cứu nước, Người về nước và
chủ trì Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (5-1941). Hội nghị
quyết định đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu, coi đó là quyền thiêng liêng nhất:
“Trong lúc này, quyền lợi dân tộc giải phóng cao hơn hết thảy.”
Hồ Chí Minh nhấn mạnh: nếu không giành được độc lập, dân tộc sẽ phải
chịu kiếp nô lệ trường kỳ, và ngay cả quyền lợi giai cấp “đến vạn năm cũng
không đòi lại được”.
Để thực hiện mục tiêu độc lập, Người và Trung ương Đảng thành lập Mặt trận
Việt Minh, đề ra Mười chính sách lớn, trong đó khẳng định quyết tâm:
“Quyết làm cho nước non này, cờ treo độc lập, nền xây bình quyền.”
Năm 1945, khi thời cơ cách mạng chín muồi, Người khẳng định ý chí sắt đá:
“Dù hy sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên
quyết giành cho được độc lập.”
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám mở ra kỷ nguyên độc lập, tự do cho dân
tộc Việt Nam. Ngày 2-9-1945, trong Tuyên ngôn độc lập, Hồ Chí Minh long trọng tuyên bố:
“Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng; dân tộc nào cũng
có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do.”
Hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ là minh chứng hùng
hồn cho quyết tâm bảo vệ những quyền thiêng liêng đó: độc lập dân tộc và
toàn vẹn lãnh thổ. Trong “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến”, Người khẳng định: lOMoAR cPSD| 61572994
“Chúng ta thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất
định không chịu làm nô lệ.”
Tinh thần ấy được nâng lên tầm chân lý thời đại qua câu nói bất hủ:
“Không có gì quý hơn độc lập, tự do.”
Sau hòa bình và thống nhất đất nước, tư tưởng về quyền độc lập, tự do – quyền
bất khả xâm phạm của dân tộc – tiếp tục được vận dụng trong sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc, với phương châm ngoại giao “dĩ bất biến, ứng vạn
biến”, kiên định độc lập – chủ quyền nhưng linh hoạt trong hội nhập.
Trong Cương lĩnh năm 1991, Đảng đã đúc kết: Nắm vững ngọn cờ độc lập dân
tộc và CNXH là bài học xuyên suốt của cách mạng nước ta và khẳng định, đối
với nước ta, không còn con đường nào khác ngoài con đường duy nhất đúng
đắn là đi lên CNXH để có độc lập dân tộc thực sự và tự do, hạnh phúc cho nhân dân.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV - Đại hội thống nhất Tổ quốc, cả nước đi
lên chủ nghĩa xã hội đã khẳng định: "Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, khi
cả nước làm một nhiệm vụ chiến lược hoặc làm hai nhiệm vụ chiến lược, Đảng
ta từ khi ra đời đến nay vẫn luôn luôn giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội, đó là đường lối, là sức mạnh, là nguồn gốc mọi thắng lợi của
cách mạng Việt Nam" [3]. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội do Đại hội VII thông qua đã khẳng định trong thời kỳ đổi
mới: "Toàn Đảng, toàn dân tiếp tục nắm vững ngọn cờ độc lập, dân tộc và chủ
nghĩa xã hội, ngọn cờ vinh quang mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trao lại cho thế
hệ hôm nay và thế hệ mai sau
Về quyền độc lập, tự do của dân tộc là tiền đề mang lại cuộc sống ấm no,
tự do và hạnh phúc cho nhân dân ( 15 TẬP-76 SÁCH)
Hồ Chí Minh luôn khẳng định rằng độc lập dân tộc chỉ có ý nghĩa thực chất khi
nhân dân được hưởng tự do, hạnh phúc. Đây là tư tưởng lớn xuyên suốt con
đường cách mạng Việt Nam, được thể hiện nhất quán từ trước Cách mạng
Tháng Tám, trong Tuyên ngôn Độc lập năm 1945, cho đến bản Di chúc năm 1969.
1. Độc lập gắn liền với tự do là chân lý của thời đại
Hồ Chí Minh coi sự kết hợp độc lập – tự do – hạnh phúc là lẽ phải của nhân
loại, không ai có thể phủ nhận. Để chứng minh điều đó, Người đã: lOMoAR cPSD| 61572994 •
Trích dẫn Tuyên ngôn độc lập năm 1776 của Mỹ: mọi người sinh ra đều
có quyền bình đẳng, quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc. •
Trích dẫn Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền năm 1791 của Pháp:
con người sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi.
→ Qua đó, Người khẳng định dân tộc Việt Nam cũng có quyền độc lập, tự do,
bình đẳng, và đó là “lẽ phải không ai chối cãi được”. •
Người đánh giá cao học thuyết “Tam dân” của Tôn Trung Sơn: dân tộc
độc lập – dân quyền tự do – dân sinh hạnh phúc, coi đó là giá trị phù hợp
với mục tiêu đấu tranh của Việt Nam. •
Trong Yêu sách của nhân dân An Nam gửi Hội nghị Véc-xây (1919),
Người đòi các quyền tự do thiết yếu như: tự do báo chí, tự do ngôn luận,
tự do hội họp, tự do học tập… → chứng minh Người luôn xem tự do của
nhân dân là nội dung không thể tách rời của độc lập dân tộc.
2. Độc lập phải gắn với hạnh phúc, ấm no và đời sống của nhân dân
Đối với Hồ Chí Minh, mục tiêu tối cao của cách mạng Việt Nam là giành độc
lập để đem lại tự do, quyền sống và hạnh phúc cho nhân dân. Trong Cương lĩnh 1930
Người xác định mục tiêu rõ ràng: •
“Làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập… dân chúng được tự do”. •
Thực hiện các chính sách thiết thực: chia ruộng đất cho dân cày nghèo,
bỏ sưu thuế, thi hành ngày làm 8 giờ…
→ Độc lập dân tộc phải đi đôi với quyền lợi thiết thân của nhân dân lao động.
Sau Cách mạng Tháng Tám 1945, trong hoàn cảnh nhân dân đói rét, mù chữ,
…Hồ Chí Minh yêu cầu chúng ta phải thực hiện ngay “1.Làm cho dân có ăn. 2. Làm cho dân có mặc.
3.Làm cho dân có chỗ ở.
4.Làm cho dân có học hành.”
Và , Bác khẳng định mạnh mẽ: •
“Nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập
cũng chẳng có nghĩa lý gì”. lOMoAR cPSD| 61572994 Người nhấn mạnh: •
“Nước ta là nước dân chủ. Bao nhiêu lợi ích đều vì dân, bao nhiêu quyền hạn đều của dân.” •
Cán bộ, cơ quan nhà nước phải “là đầy tớ của nhân dân”, “việc gì có lợi
cho dân phải hết sức làm”.
Ham muốn lớn nhất của Hồ Chí Minh
Trong một phát biểu nổi tiếng, Người bộc bạch: •
“Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước
ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng
có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”.
→ Đây là sự kết tinh của tư tưởng: độc lập cho Tổ quốc – hạnh phúc cho nhân dân.
3. Độc lập, tự do là thước đo giá trị sống của nhân dânTheo Hồ Chí Minh: •
Nhân dân chỉ cảm nhận được giá trị của độc lập, tự do khi đời sống vật
chất và tinh thần được bảo đảm:
“Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ.”
→ Độc lập dân tộc có thực chất hay không được thể hiện ở mức độ hạnh phúc
của người dân. Nhân dân chính là chủ thể thụ hưởng thành quả của cách mạng.
4. Quan điểm nhất quán trong Di chúc
Ngay trong những lời căn dặn cuối cùng, Hồ Chí Minh vẫn nhấn mạnh nhiệm
vụ chăm lo đời sống nhân dân, yêu cầu Đảng phải xây dựng và thực hiện thật
tốt các kế hoạch phát triển kinh tế – văn hóa để nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân.
→ Điều đó cho thấy tư tưởng “Độc lập – Tự do – Hạnh phúc” là định hướng
chiến lược, xuyên suốt và không bao giờ thay đổi. Kết luận
Quan điểm của Hồ Chí Minh khẳng định:
Độc lập dân tộc chỉ thực sự có ý nghĩa khi nó đem lại tự do, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân.
Đây không chỉ là mục tiêu của cách mạng Việt Nam mà còn là thước đo giá trị
của một nền độc lập, giá trị làm người trong một quốc gia tự chủ. Tư tưởng ấy lOMoAR cPSD| 61572994
đã, đang và sẽ tiếp tục là nền tảng định hướng cho sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước.
Quyền độc lập, tự do của dân tộc phải thật sự, toàn diện và triệt để (16 TẬP-78 SÁCH)
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra rằng: “Tự do độc lập là quyền trời cho của mỗi
dân tộc... Hễ một dân tộc đã kiên quyết đứng lên đấu tranh cho tổ quốc họ thì
không ai, không lực lượng gì chiến thắng được họ
Trong quá trình xâm lược các nước, bọn thực dân đế quốc hay dùng chiêu bài
mị dân, thành lập các chính phủ bù nhìn bản sứ, tuyên truyền cái gọi là độc lập
tự do giả hiệu cho nhân dân các nước thuộc địa nhưng thực chất là nhằm che
đậy bản chất ăn cướp và giết người của chúng.
Theo Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc phải là độc lập thật sự, hoàn toàn và triệt
để trên tất cả các lĩnh vực. Người nhấn mạnh: Độc lập mà người dân không có
quyền tự quyết… chép hết sách trang 78 79
V.I. Lê-nin khẳng định: “Các dân tộc hoàn toàn bình đẳng; các dân tộc được
quyền tự quyết”, nghĩa là có quyền độc lập chính trị và tách khỏi áp bức. Theo
Hồ Chí Minh, một quốc gia chỉ thực sự độc lập, tự do khi có quyền tự quyết,
tự chủ về vận mệnh, lựa chọn con đường phát triển mà không bị chi phối bên
ngoài. Rút kinh nghiệm từ các cuộc cách mạng thế giới, Người nhấn mạnh:
“Chúng ta đã hy sinh làm cách mệnh, thì nên làm cho đến nơi”, tức độc lập phải
thực sự, toàn diện, triệt để, với quốc hội, chính phủ, quân đội, ngoại giao,
kinh tế và tài chính riêng.
Chép thêm trang 16 tập trắng
Quyền độc lập, tự do của dân tộc gắn liền với sự thống nhất và toàn vẹn
lãnh thổ. ( 16 TẬP -79 SÁCH)
Hồ Chí Minh nhấn mạnh rằng quyền độc lập, tự do của dân tộc phải được thể
hiện qua chủ quyền, sự thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ. Người khẳng định: •
“Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một, ý chí thống nhất Tổ
quốc của nhân dân cả nước không bao giờ lay chuyển.” •
“Đấu tranh cho thống nhất là con đường sống của nhân dân Việt Nam.”
Ngay sau Cách mạng Tháng Tám 1945, quyền độc lập vừa giành lại bị thực dân
Pháp xâm lược trở lại. Hồ Chí Minh luôn khẳng định: lOMoAR cPSD| 61572994 •
“Đồng bào Nam Bộ là dân nước Việt Nam. Sông có thể cạn, núi có thể
mòn, song chân lý đó không bao giờ thay đổi!” •
Chuyến đi Pháp của Người nhằm giải quyết vấn đề Việt Nam độc lập,
Trung – Nam – Bắc thống nhất, lập luận rằng ba miền là một khối
không thể chia cắt, tương tự như các vùng của nước Pháp.
Với ý chí quyết tâm của toàn dân, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp giành
thắng lợi, dẫn đến Hiệp định Giơnevơ 1954, công nhận chủ quyền, độc lập,
thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam. Dù miền Nam tạm thời bị chia
cắt, Hồ Chí Minh vẫn kiên trì nhấn mạnh: •
“Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một, không ai có thể chia cắt được.” •
“Miền Nam là máu của máu Việt Nam, là thịt của thịt Việt Nam.”
Trong suốt đời hoạt động cách mạng, Hồ Chí Minh luôn giữ niềm tin và khát vọng thống nhất: •
Tại Đại hội III của Đảng (1960): “Dân tộc ta là một, nước Việt Nam là
một. Nhân dân ta nhất định sẽ vượt tất cả mọi khó khăn và thực hiện
thống nhất đất nước, Nam Bắc một nhà.” •
Trong Di chúc (1969): “Dù khó khăn gian khổ đến mấy, nhân dân ta nhất
định sẽ hoàn toàn thắng lợi. Đồng bào Nam Bắc nhất định sẽ sum họp một nhà.”
Tư tưởng xuyên suốt này được Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục kế thừa và thể
hiện trong Văn kiện Đại hội XIII (2021): kiên quyết bảo vệ độc lập, chủ
quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, đồng thời bảo vệ Đảng, Nhà nước,
nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa. lOMoAR cPSD| 61572994
Giá trị thời đại của Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc.(80)
Hồ Chí Minh đã có những sáng tạo lý luận về cách mạng giải phóng dân tộc,
phản ánh nguyện vọng sống trong độc lập, tự do, công bằng và bình đẳng không
chỉ của dân tộc Việt Nam mà còn của mọi dân tộc bị áp bức, khi Người khẳng
định: mọi dân tộc đều sinh ra bình đẳng và có quyền sống, quyền tự do, quyền
hạnh phúc. Giải phóng dân tộc được xem là điều kiện tiên quyết cho mọi quyền
tự do, dân chủ của con người.
Điểm đặc biệt trong sáng tạo của Hồ Chí Minh là Người vừa xây dựng cơ sở lý
luận, vừa trực tiếp tổ chức và lãnh đạo cách mạng Việt Nam, kết hợp kháng
chiến với kiến quốc, đấu tranh với xây dựng, thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ
chiến lược. Lý luận của Người trở nên phong phú hơn nhờ thực tiễn thắng lợi
của Cách mạng Tháng Tám 1945 và các cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ.
Thực tiễn lãnh đạo cách mạng đã góp phần làm giàu thêm lý luận về cách mạng
và chiến tranh giải phóng, bổ sung cho kho tàng lý luận cách mạng thế giới,
chủ nghĩa Mác-Lênin và truyền thống dựng nước, giữ nước của dân tộc Việt
Nam. Những thành công của cách mạng Việt Nam cũng ảnh hưởng sâu rộng
đến phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới, như chiến thắng Điện Biên Phủ
đã thức tỉnh các dân tộc ở châu Á, châu Phi, Mỹ Latinh.
Ngày nay, tư tưởng Hồ Chí Minh vẫn định hướng cách mạng Việt Nam, với
mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với CNXH và lý tưởng “Độc lập – Tự do –
Hạnh phúc”. Để thực hiện mục tiêu này, cần nắm vững tư tưởng Hồ Chí Minh
về giải phóng dân tộc, giải phóng con người và phương thức giải quyết quan hệ
dân tộc – con người dựa trên đặc điểm dân tộc và xu hướng thời đại, từ đó đưa
tư tưởng vào thực tiễn, đảm bảo thắng lợi của cách mạng Việt Nam hiện tại và tương lai. lOMoAR cPSD| 61572994
Phần chứng minh vì sao cần dùng đến con đường bạo lực cách mạng (90)
cách mạng giải phóng dân tộc phải được tiến hành bằng con đường cách
mạng bạo lực, kết hợp đấu tranh chính trị của quần chúng với đấu tranh vũ
trang; thực hiện khởi nghĩa từng phần tiến tới tổng khởi nghĩa giành thắng lợi hoàn toàn
Vượt lên tư tưởng của các nhà lãnh đạo cách mạng tiền bối, Hồ Chí Minh xác
định phương pháp đấu tranh giải phóng dân tộc ở Việt Nam phải được tiến hành
bằng con đường cách mạng bạo lực, kết hợp đấu tranh chính trị của quần chúng
với đấu tranh vũ trang; thực hiện khởi nghĩa từng phần tiến tới tổng khởi nghĩa
giành thắng lợi hoàn toàn.
Trên cơ sở nắm vững những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí
Minh đã nhận thức sâu sắc bản chất của chế độ thực dân: “Chế độ thực dân, tự
bản thân nó, đã là một hành động bạo lực của kẻ mạnh đối với kẻ yếu
rồi”(11),“lũ giặc cướp nước, chết thì chết, nết không chừa. Càng gần thất bại
thì chúng càng hung ác”(12). Người khẳng định: “Độc lập tự do không thể cầu
xin mà có được”. Vì vậy, để thực hiện cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, cũng
như cuộc đấu tranh để bảo vệ độc lập dân tộc, bảo vệ CNXH, tất yếu phải “Dùng
bạo lực cách mạng chống lại bạo lực phản cách mạng, giành lấy chính quyền
và bảo vệ chính quyền”(13).
Quan điểm bạo lực cách mạng của Hồ Chí Minh không hề đối lập với tinh thần
yêu chuộng hòa bình và chủ nghĩa nhân đạo của dân tộc Việt Nam mà là sự tiếp
nối truyền thống nhân nghĩa của cha ông ta. Đối với Hồ Chí Minh, trong cuộc
đấu tranh chính nghĩa để giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, việc sử dụng
bạo lực cũng nhằm mục đích hòa bình: “Dụng việc binh là việc nhân nghĩa,
muốn cứu dân, cứu nước”(14). Theo Người, hòa bình phải là nền hòa bình thật
sự, gắn liền với độc lập, chủ quyền của Tổ quốc và tự do, dân chủ của nhân
dân. Nếu mục tiêu đó không được đáp ứng, phương thức tiến hành chiến tranh
tất yếu là bạo lực cách mạng. Đó chính là nghệ thuật khéo léo dùng bạo lực
cách mạng chống lại bạo lực phản cách mạng của Người. lOMoAR cPSD| 61572994
CHỦ ĐỀ 4: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI (92)
Nhất quán với các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, Chủ tịch Hồ Chí
Minh quan niệm rằng, chủ nghĩa xã hội là một học thuyết khoa học và cách
mạng của giai cấp vô sản nhằm xóa bỏ ách thống trị tư bản chủ nghĩa, thực hiện
lý tưởng giải phóng giai cấp và giải phóng toàn thể xã hội loài người. Chủ nghĩa
xã hội còn được hiểu với tư cách là một chế độ xã hội thuộc hình thái kinh tế -
xã hội cộng sản chủ nghĩa mà việc xây dựng và hoàn thiện nó như là một quá
trình lịch sử lâu dài để từng bước đạt tới mục tiêu.
1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội( tóm gọn)
Nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội bao gồm: -
Chủ nghĩa xã hội là một chế độ do nhân dân làm chủ. Nhà nước phải
phát huy quyền làm chủ của nhân dân để huy động được tính tích cực và sáng
tạo của nhân dân vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. -
Chủ nghĩa xã hội có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản
xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu, nhằm không
ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân, trước hết là nhân dân lao động. -
Chủ nghĩa xã hội là một xã hội phát triển cao về văn hóa, đạo đức, trong
đó người với người là bạn bè, là đồng chí, là anh em; con người được giải phóng
khỏi áp bức, bóc lột, có cuộc sống vật chất và tinh thần phong phú, được tạo
điều kiện để phát triển hết mọi khả năng sẵn có của mình. -
Chủ nghĩa xã hội là một xã hội công bằng và hợp lý: làm nhiều hưởng
nhiều,làm ít hưởng ít, không làm thì không hưởng; các dân tộc đều bình đẳng,
miền núi được giúp đỡ để tiến kịp miền xuôi. -
Chủ nghĩa xã hội là công trình tập thể của nhân dân, do nhân dân xây
dựng dưới sự lãnh đạo của Đảng.
2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về mục tiêu và động lực xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam(101)
Về mục tiêu: Hồ Chí Minh khẳng định, xây dựng chủ nghĩa xã hội bao gồm cả
chính trị, kinh tế, văn hóa-xã hội và xây dựng con người.
Về động lực: Người chỉ rõ, quyết định nhất là con người, là nhân dân lao động,
nòng cốt là công - nông- trí thức. Trong thực hiện, phải kết hợp giữa cá nhân
(sức mạnh cá thể) với xã hội (sức mạnh cộng đồng); coi trọng động lực kinh tế,
phát triển kinh tế, sản xuất, kinh doanh, giải phóng mọi năng lực sản xuất. Phải
quan tâm tới văn hóa, khoa học, giáo dục, coi đó là động lực tinh thần không lOMoAR cPSD| 61572994
thể thiếu của chủ nghĩa xã hội. Cần kết hợp nguồn lực bên trong với nguồn lực
bên ngoài, sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; nội lực là quyết định nhất,
ngoại lực là rất quan trọng.