Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG CỦA TÂM HỌC HỘI
A. M TẮT CHƯƠNG
Chương này phác họa về lịch sử hình thành phát triển của tâm học
hôi, đối tượng, nhiệm vụ, phương pháp nghiên cứu của tâm học hội,
bản chất, chức năng của các hiện tượng tâm hội, mối quan hệ của tâm
học hội với một số ngành khoa học khác.
Chương này được cấu trúc thành 3 phần:
I. lược lịch sử hình thành phát triển của tâm học hội
II. Đối tượng, nhiệm vụ, phương pháp nghiên của tâm học hội
III. Bản chất, phân loại c hiện tượng tâm học hội
B. MỤC TIÊU
Nghiên cứu xong chương này, sinh viên sẽ:
- Hiểu được lịch sử hình thành phát triển của Tâm học hội;
- Phân tích được đối tượng, nhiệm vụ ý nghĩa của tâm lý học xã hội;
- Phân tích được bản chất của các hiện tượng tâm hội;
- Phân bit đưc hin tượng tâm nhân với hiện ng tâm hội;
- Vận dụng được những phương pháp nghiên cứu của tâm học xã hội
vào việc nghiên cứu đời sống tâm con người.
C. NỘI DUNG
I. LƯỢC LỊCH S HÌNH THÀNH PHÁT TRIỂN CỦA TÂM
HỌC HỘI
1. Những tiền đề nảy sinh Tâm học hội
hội loài người hình thành từ khi con người cùng sống, cùng lao
động giao tiếp với nhau trong các cộng đồng. Trong quá trình lao động
sinh hoạt cùng nhau, đã nảy sinh những hiện tượng tâm chi phối hành vi,
cử chỉ của mỗi người. Chẳng hạn, các lễ nghi, các điều cấm kỵ, tập tục... điều
chỉnh hành vi điều chỉnh mối quan hệ giữa các cá nhân với cộng đồng,
1
giữa cộng đồng này với cộng đồng khác. Bằng kinh nghiệm, con người đã ý
thức được vận dụng những hiện tượng tâm ấy vào đời sống hội.
Ngay từ thời cổ đại, các triết gia duy tâm duy vật đã có những quan
điểm đối lập nhau v vấn đề nhân và hội. Platon (428 - 347 TCN) đã
quan tâm đến mối liên kết quan hệ giữa các nhân. Ông cho rằng, hội
trung m trong quan hệ giữa nhân hội; hội được xem như đối
tượng độc lập còn nhân là đối tượng biến thiên phụ thuộc. Aristote (384 -
322 TCN) lại coi nhân nguồn gốc của mọi hình thái hội, bên trong
nhân chứa đựng sẵn những xu hướng tương ứng... Platon đã chỉ ra ảnh hưởng
của các nhân đến sự ổn định của Nhà nước cho rằng chính s cân bằng
của nhân tạo nên sự ổn định hội. Theo Platon, trong hội ba kiểu
nhân cách bản: Những người luôn cố gắng làm vừa lòng người khác;
những người say xưa theo đuổi quyền lực và sự nổi danh; những người luôn
khao khát hiểu biết. Mỗi kiểu nhân cách trên phản ánh một trong ba mức độ
đặc thù của bản chất tình cảm, ý chí và trí tuệ con người. Platon đã phát triển
quan điểm về sự phân tầng xã hội đó phản ánh quan hệ của các kiểu loại
nhân cách đối với các giai cấp hội, nơi nhân sống hoạt động.
St.Augustine (354 - 430) đưa ra học thuyết về hội nhân. Đây
tưởng quan hệ sâu sắc với tâm học hội hiện đại, đặc biệt vấn đề
về s liên kết của con người. Trong tác phẩm “Thế giới của Chúa”, ông cho
rằng hội loài người kể từ khi Adam mắc sai lầm đã trở thành hai hội:
một hội của Chúa một hội trần gian rằng từ hội của Chúa
ảnh hưởng đến cuộc sống thực tiễn trần gian. Theo St.Augustine, cá nhân
không chỉ quan hệ tương tác với nhân còn quan hệ tương tác với
Chúa. Như vậy, mối quan hệ hội đã bị tác động của quan hệ giữa nhân
Chúa.
Những quan điểm về nhân hội của St.Augustine cũng như của
các cha cố đạo Thiên chúa đã tác động, ảnh hưởng không nhỏ đến các quan
điểm về hội về tâm hội của các nhà tưởng sau này. Chẳng hạn,
2
St.Thomas, đã nhấn mạnh mối quan hệ của con người đối với Chúa các
quan hệ liên nhân cách chỉ thể thực hiện qua ánh sáng của quan hệ giữa
Chúa con người. Các nhà tâm học hội hiện đại cũng đã quan tâm
phát triển ý tưởng về sự tương tác liên nhân cách trên đây, nhưng không phải
qua quan hệ với Chúa chỉ dựa trên quan hệ người - người.
Các học thuyết về “Sự thỏa thuận hội” do T.Hobber (1588 - 1679),
J.Locke (1632 - 1704) J.J.Rousseau (1712 - 1778) đưa ra, đã chỉ sự ảnh
hưởng giữa các nhân trong mối tương tác liên nhân cách. Cũng giống như
T.Hobber, J.J.Rousseau đã bắt đầu bằng việc tìm hiểu những bản năng hành
vi của con người, sau đó nghiên cứu mối tương tác giữa người với người, giữa
nhân và hội. Ông chỉ ra trật tự hội điều bất khả xâm phạm.
được xây dựng trên sở lợi ích của đa số mọi người. Cái trật tự này không
thể bắt nguồn từ bản năng của con người cần được xây dựng trên sự thỏa
thuận. Quan điểm này được được tâm học hội rất quan tâm. thể nói,
ba tác giả trên những người mở đường tiêu biểu của tâm học hội theo
chủ nghĩa nhân văn.
Georger W.F.Hegel (1770 - 1831), người những đóng góp to lớn
trong việc xây dựng tiền đề triết học của sự hình thành m học hội. Ông
đã đưa ra quan điểm v mối quan hệ giữa hội nhân, phản đối sự
phóng đại đề cao chủ nghĩa nhân. Quan điểm của ông về mối quan hệ
giữa hội nhân, về tự do nhân không chỉ ảnh hưởng đến sự phát
triển của triết học còn nh hưởng to lớn đến sự ra đời của tâm học hội.
2. Tâm học hội trở thành một khoa học độc lập
Sự hình thành tâm tâm học hội với cách một khoa học độc
lập không ra đời trực tiếp từ trong lòng triết học dựa trên sở các thành
tựu của nhiều ngành khoa học nhân văn, đặc biệt hội học tâm học.
đây ba vấn đề chính cần quan tâm, đó là: nhu cầu giải quyết các vấn đề
tâm học hội phát sinh giữa ranh giới của các khoa học khác nhau; q
trình chuẩn bị để hình thành những đặc trưng cho tâm học hội trong lòng
3
hai khoa học chính tâm học hội học cuối cùng những hình
thức đầu tiên của tâm học hội với các một khoa học độc lập.
Vào giữa thế kỷ XIX, một bước tiến đặc biệt trong s phát triển của
nhiều ngành khoa học, nhất các khoa học liên quan trực tiếp tới các mặt
khác nhau của đời sống hội. Thời kỳ này, chủ nghĩa bản đang phát triển,
những quan hệ kinh tế giữa các nước ngày càng được mở rộng. Những vấn đề
cấp bách được đặt ra, như: Sghự giao lưu ngôn ngữ, sự giao tiếp ảnh
hưởng lẫn nhau giữa các dân tộc… do đó dẫn đến những mối liên quan
giữa ngôn ngữ với những yếu tố tâm của các dân tộc. Bên cạnh đó, các vấn
đề, các hiện tượng mang tính chất hội phát sinh ngày càng nhiều, đòi hỏi
phải sự nghiên cứu, giải thích. Như vậy, nhu cầu thực tiễn đã dần dần làm
hiện đối tượng của một ngành khoa học mới, khoa học về tâm hội.
Vào nửa sau thế kỷ XIX, khi tâm học trở thành một khoa học độc lập
thì đồng thời ngành tâm học hội cũng xuất hiện. Đây thời kỳ chủ
nghĩa tư bản đang đi lên chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa. Do lực
lượng sản xuất phát triển mạnh, nhất châu Âu, giai cấp sản đã trở
thành một lực lượng quần chúng đông đảo với sức mạnh to lớn. Mâu thuẫn
giữa sản sản ngày càng gay gắt. Đã nổ ra nhiều cuộc bãi công, biểu
tình, mít tinh cũng xuất hiện những hiện tượng hội mới không thể
không xem xét, nhất đối với giai cấp thống trị lúc đó. Sự cần thiết phải
nghiên cứu các hiện tượng hội này đã thúc đẩy môn hội học và tâm
học hội ra đời.
Từ những tri thức ban đầu về mối quan hệ tương h giữa nhân
hội; v bản chất tâm của tinh thần, ý thức dân tộc cũng n hành vi của nó;
về hành vi bản năng hội… đã hình thành các thuyết về tâm dân tộc,
tâm đám đông, lý thuyết về các bản năng hội. thể nói đây những
hình thức luận đầu tiên của tâm lý học hội. Trong đó, tâm học dân tộc,
một trào lưu nghiên cứu tâm hội chủ yếu xuất hiện Đức; tâm học
đám đông, thuyết này phát triển mạnh Pháp, Ý thuyết về các
4
bản năng của hành vi hội, xuất hiện Anh, Mỹ. Trong tâm học dân tộc,
hội được coi là hàng đầu, còn trong tâm lý học đám đông thuyết bản
năng của hành vi thì ngược lại. Cả hai quan điểm này còn tiếp tục phát triển
các giai đoạn sau trong lịch sử quá trình phát triển của tâm học hội.
Tâm học dân tộc
Vào thế k XVIII, XIX, dân tộc sản đã hình thành nhiều nước, do
đó việc nghiên cứu tâm dân tộc cũng trở nên cấp thiết. Tâm học dân tộc
được hình thành Đức vào giữa thế kỷ XIX, được coi một trong những
hình thức luận đầu tiên của tâm học hội. Tâm học dân tộc coi trọng
yếu tố hội trong mối quan hệ giữa nhân hội. Tâm học dân tộc
cho rằng, trong một hội tồn tại một tinh thần siêu nhân nào đó phụ thuộc
vào chỉnh thể siêu nhân. Các chỉnh thể này nhân dân hay dân tộc. Quan
điểm này đã tuyệt đối hóa các mâu thuẫn giữa nhân hội sự tuyệt
đối hóa này gắn với dân tộc.
M.Lazarus (1824 - 1913) H.Steithal (1823 - 1893) những người
trực tiếp sáng lập ra tâm học dân tộc. Trong các công trình nghiên cứu:
"Những suy luận bước đầu về tâm học dân tộc", "Tạp chí tâm học dân
tộc ngôn ngữ học" đã thể hiện cương lĩnh nhiệm vụ của tâm học dân
tộc. Đó phải nhận thức bản chất tâm của tinh thần dân tộc hành động
của nó; khám phá những quy luật chi phối hoạt động tinh thần của dân tộc;
những sở của sự xuất hiện, phát triển biến mất những đặc điểm tiêu biểu
cho dân tộc. Tuy nhiên, sau đó không những ng trình nghiên cứu tiếp theo.
W.Wundt (1832 - 1920), người sáng lập phòng tâm học đầu tiên trên
thế giới. T năm 1900 đến năm 1920, hoàn thành cuốn "Tâm học dân tộc"
gồm 10 tập, trong đó ông đưa ra quan điểm: Không nên nghiên cứu con người
như một thể đơn lẻ, biệt lập cần phải nghiên cứu con người trong
những mối quan hệ của con người. Theo ông, nhiều do đ nói rằng tâm
học hội một phân ngành của khoa học tâm lý. Ông người tiếp tục
thực hiện những cố gắng trước đó của M.Lazarus H.Steinthal để thành lập
5
tâm học dân tộc. Trong cuốn "Tâm lý học dân tộc", W.Wundt đã phát triển
tưởng của tâm học dân tộc cho rằng tâm học cần hai phần: Tâm
học sinh tâm học dân tộc. Theo ông, tâm học dân tộc phải được
áp dụng các phương pháp nghiên cứu sản phẩm văn hóa, như: ngôn ngữ nghệ
thuật, thần thoại; phong tục, tập quán... Tâm học dân tộc, theo quan điểm
của W.Wundt chỉ tính chất tả chứ không phát hiện các quy luật.
Tuy rằng phương pháp tiếp cận giữa M.Lazarus, H.Steinthal, W.Wundt
khác nhau, song họ đều chung quan điểm về đối tượng nghiên cứu của
tâm học dân tộc những hiện tượng bắt nguồn t ý thức dân tộc chứ
không phải trong ý thức nhân.
Tâm học đám đông
Vào giữa thế kỷ XIX, do giai cấp sản đã trở thành một lực lượng
hội thực sự đông đảo, nổi lên như một lực lượng cách mạng, tiến bộ. Nhiều
cuộc biểu tình, bãi công, mít tinh...do những người lao động tiến hành, đã gây
cho giai cấp sản nhiều lo lắng. những hiện tượng tâm lý mới như: sự bắt
chước, sức mạnh cuồng nhiệt của đám đông, sự lây lan tâm lý, sự hoảng loạn...
khiến giai cấp sản thấy cần phải nghiên cứu để tìm cách đối phó, xử các
cuộc biểu tình, mít tinh của quần chúng lao động nhằm phục vụ cho sự thống
trị của chúng.
Một trong những người sáng lập ra học thuyết về tâm đám đông
G.Tard (1843 - 1904). Năm 1890, G.Tard cho xuất bản cuốn "Những quy luật
của sự bắt chước". Cuốn sách thể xem bước chuẩn bị cho s hình thành
học thuyết về đám đông. Trong cuốn sách này, ông đã giải thích sở xã hội
của sự tương tác giữa các nhân. Ông cũng chính người đầu tiên đưa ra
khái niệm mới về sự tương tác. G.Tard cho rằng, hành vi xã hội không
cách giải thích nào khác do "bắt chước", toàn bộ sinh hoạt hội phải phục
tùng "bản năng bắt chước" sẵn trong bản tính con người. Nhân dân chỉ
công cụ đơn giản cho ý chí của người khác không thể tinh thần sáng tạo.
quần chúng cần tầng lớp thượng lưu lãnh đạo... Quan điểm về sự bắt
6
chước của G.Tard đã chú ý tới yếu t phi của hành vi hội n đã đạt kết
quả hơn. Chính điều này tiền đ dẫn tới hình thành tâm học hội.
S. Sighen (1878 - 1931), người Ý, trong khi nghiên cứu về các vụ án
hình sự đã chú ý tới thời điểm bị kích động khi con người trong đám đông.
Theo ông, vào tình huống này, năng lực điều khiển hành vi một cách ý
thức trí bị mất đi, hành động diễn ra trong trạng thái bị kích động
theo quan điểm của luật pháp thì những trường hợp như vậy phải được giảm
nhẹ tội.
Sau G.Tard và S.Sighen, G.LeBon (1841 - 1939), người Pháp, đã đi sâu
nghiên cứu tâm của đám đông quần chúng. G.LeBon tiếp tục làm sáng tỏ
thêm những quan điểm của S.Sighen về hiện ợng tâm của con người
trong đám đông, mặt khác cũng bị ảnh hưởng bởi tâm học hội của
G.Tard. ng với S.Sighen, G.LeBon nghiên cứu hành vi của các nhân
trong đám đông hành động. Họ cho rằng, nhiều người tụ tập lại thành đám
đông đặc điểm của đám đông là mọi người mất đi năng lực quan sát sự
phê phán. Hành vi của h thoát khỏi tính dẫn đến những xung động, những
phản ứng bản năng. Trong họ, tình cảm chiếm ưu thế hoàn toàn, t tuệ mờ,
mất tinh thần trách nhiệm, nhân không làm chủ được bản thân mình, bị
kích động. Từ đó, G.LeBon cho rằng, đám đông v bản chất hỗn loạn, cần
phải lãnh tụ thuộc về tầng lớp thượng lưu điều khiển.
Về mặt luận, tâm học đám đông đã đặt ra vấn đề về mối quan hệ
tương hỗ giữa nhân và hội. Tuy nhiên, cách giải quyết về mối quan hệ
này lại không đầy đ sở. Bởi vậy, ý nghĩa của đối với tâm học
hội không nhiều. Mặt khác, tâm học đám đông mang mầu sắc giai cấp
sâu sắc. Ẩn sau thuyết về đám đông, các học giả sản mưu toan biện hộ
cho các hành động phản động của mình, chống lại các cuộc nổi dậy của quần
chúng, giải thích như sự phi lý của quần chúng. Họ cũng s dụng các lý
thuyết về đám đông để chứng minh rằng giai cấp sản là một đám đông
7
tổ chức, k luật, không khả năng quản chỉ giai cấp sản mới
tầng lớp ưu tú, t chức biết quản hội.
thuyết về hành vi bản ng
Đây thuyết do nhà tâm học người Anh, W.McDougal (1871 -
1938) đề xướng. Năm 1908, trong tác phẩm "Nhập môn tâm lý học hội",
W.McDougal trình bày một cách hệ thống động lực chi phối hành vi con
người, nhất các hành vi hội của nó. Theo ông, nguyên nhân của các hành
vi hội là các bản năng bẩm sinh sau này ông gọi là các xu hướng, ý
hướng. mỗi người, các bản năng xuất hiện như kết quả của trạng thái tâm -
vật lý, những đường kênh được xác định theo di truyền dùng đ giải tỏa năng
lượng thần kinh. Những đường kênh, hay còn gọi bản năng, bao gồm: bộ
phận cảm thụ (tiếp nhận, tri giác); b phận trung tâm (cảm xúc); bộ phận vận
động (phản ứng). Như vậy, thức khởi điểm của mọi hành vi biểu
hiện bên trong của cảm xúc. Mối liên h giữa bản năng cảm xúc
mang tính hệ thống và xác định.
Theo W.McDougal, con người những cặp bản năng cảm xúc sau:
bản ng đấu tranh - cảm xúc tức giận, sợ hãi; bản năng xây dựng - cảm xúc
sáng tạo; bản năng chạy trốn - tình cảm bảo vệ; bản năng duy trì nòi giống -
tình cảm ghen tng; bản năng bầy đàn - tình cảm trong các nhóm… Từ các
bản năng nảy sinh ra các thể chế hội, các quá trình hội hóa khác nhau và
nảy sinh ra chiến tranh. W.McDougal ng đã chỉ ra vai trò của sự bắt chước
trong việc lý giải sự thống nhất về hành vi giữa các thành viên trong nhóm
hội. thuyết của W.McDougal thể hiện khuynh hướng vận dụng máy móc
phương pháp tiếp cận của C.Darwin trong quá trình nghiên cứu các hiện
tượng hội do đó đã làm mất ý nghĩa khoa học của nó.
Tóm lại, các thuyết trên đây tuy những hạn chế nhất định do
không xuất phát từ phương pháp luận đúng đắn, nhưng đều ý nghĩa tích
cực chỗ đã đặt ra những vấn đề quan trọng cần giải quyết, như: mối quan hệ
8
giữa ý thức cá nhân nhóm; động lực thúc đẩy hành vi hội... Các học
thuyết tâm học này đã góp phần hình thành ngành tâm học hội sản.
Cũng trong năm 1908, E.A.Ross (1866 - 1951) đã cho xuất bản tại New
York cuốn sách giáo khoa đầu tiên về tâm học hội, tên "Tâm lý học
hội". Cuốn sách dựa trên sở kết hợp giữa hai khoa học: Tâm học
hội học một trong những vấn đ chính được đề cập trong đó sự
bắt chước được hình thành, phát triển thực hiện như thế nào. Trong tác
phẩm của mình, E.A.Ross đã sử dụng hiện tượng bắt chước để giải thích sự
thay đổi tư tưởng, thói quen quan điểm giữa các thành viên trong các nhóm
hội. Ông cũng tìm hiểu mối quan h giữa nhân hội trên cả khía
cạnh tập thể lẫn khía cạnh nhân; vai trò của hội vai t của nhân.
Theo ông, vai trò của hội th hiện qua nhóm ảnh hưởng đến nhân, còn
vai trò của nhân thể hiện qua tác động của nhân đến nhóm.
Như vậy, cùng với tác phẩm “Nhập môn tâm học hội” của
W.McDougal, cuốn sách “Tâm học hội” của E.A.Ross đã đặt dấu mốc
khẳng định sự ra đời của tâm học hội với cách một khoa học độc
lập. Kể từ đó đến nay, tâm học hội đã lịch sử phát triển gần một thế
kỷ với những đóng góp to lớn vào sự phát triển nói chung của các ngành khoa
học nhân văn khoa học tâm nói riêng.
Sự ra đời tâm lý học xã hội xôviết: Sau cách mạng tháng 10 Nga,
Liên và các nước hội chủ nghĩa khác đã nh thành phát triển ngành
tâm học hội dựa trên sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Ban đầu, một s nhà khoa học cho rằng, không cần phải bộ môn khoa học
này đã chủ nghĩa duy vật lịch sử. Quan niệm này đã đồng nhất tâm
học hội với chủ nghĩa duy vật lịch sử, đã lẫn lộn sở triết học, phương
pháp luận của khoa học này với việc nêu lên những vấn đ khoa học bộ phận
tính chất riêng biệt của nó.
Một số nhà khoa học khác, nhất các nhà hội học, lại cho rằng, cần
phải xây dựng phát triển ngành tâm học hội, nhưng lại đòi hỏi phải
9
giải quyết cả những vấn đề thuộc hội học, khoa học tổ chức, giáo dục...
Ngược lại, cũng quan điểm thu hẹp phạm vi nghiên cứu của tâm lý học
hội, coi tâm lý học hội chỉ một lĩnh vực cần thiết đặt nền móng cho khoa
học quản thôi.
Tâm học xôviết coi đối tượng của m học hội hành vi
hoạt động của con người cũng như những đặc điểm tâm lý của chính c
nhóm hội. Từ đó, trong quá trình phát triển của mình, tâm lý học hội
xôviết đi theo hai hướng chính: những nghiên cứu thuyết bản những
nghiên cứu phục vụ thực tiễn. Về thuyết, các nhà tâm học xôviết đã đạt
được những thành tựu trên các lĩnh vực như: thuyết về mối quan hệ liên
nhân cách; thuyết về nhóm những nghiên cứu về nhân cách. Về thực
tiễn, tâm học hội xôviết đi sâu nghiên cứu ứng dụng các tri thức về tâm
hội trong sản xuất; các vấn đề tâm hội của hoạt động tuyên truyền,
thông tin đại chúng; nghiên cứu trong lĩnh vực phòng ngừa, đấu tranh chống
tội phạm c nghiên cứu, vấn cho những vấn đề tâm gia đình…
Qua gần một thế kỷ phát triển, tâm học hội phát triển theo hai xu
hướng: xu hướng của các n tâm học phương Tây xu hướng của các
nhà tâm học xôviêt. Mặc những điểm chung đều nghiên cứu về đặc
điểm tâm của con người trong môi trường hội song cách tiếp cận của hai
xu hướng này những điểm khác nhau bản. Tâm học xôviêt chú ý
nhiều đến việc nghiên cứu các đặc điểm tâm của nhóm, đặc biệt tâm
của giai cấp, tập thể - một loại nhóm phát triển mức độ cao. Trong khi đó,
tâm học hội phương Tây lại quan tâm nhiều hơn đến đến việc nghiên
cứu kinh nghiệm hành vi hội của con người, coi hành vi hội của con
người đối tượng nghiên cứu của tâm học hội. c nhà tâm học
hội Xôviết chú trọng nhiều đến việc nghiên cứu luận và một góc độ nào
đó thể coi những nghiên cứu của họ mang tính hàn lâm hơn tính thực
tiễn của đời sống hội. Còn phương Tây, các n tâm học hội lại chú
ý nhiều hơn đến những vấn đề tâm hội xuất hiện trong thực tiễn của đời
10
sống hội. Đó những vấn đề, những hiện tượng tâm hội nảy sinh từ
thực tế cuộc sống. đây, các nhà tâm học hội nghiên cứu, tìm hiểu sự
thể hiện hành vi hội trong các mặt của đời sống hội. Chẳng hạn như:
Vấn đề xung đột sắc tộc, tôn giáo, vấn đề tội phạm, bạo lực, nghiện hút, hành
vi lệch chuẩn; vấn đề thích nghi hội; vấn đ quản xã hội quản
trong kinh doanh... Những nghiên cứu này xuất phát từ đòi hỏi từ những
vấn đề nảy sinh trong thực tiễn. Do vậy, trong các nghiên cứu của tâm học
hội pơng Tây, tính thực tiễn được đề cao thể hiện hơn.
nước ta, tâm lý học hội vẫn còn một ngành khoa học non trẻ.
Trong những năm gần đây, do nhận thức được vai t quan trọng của ngành
khoa học này nên tâm học hội được quan tâm nghiên cứu, ứng dụng
rộng i trên mọi mặt của đời sống hội, đáp ng yêu cầu của thực tiễn.
được vận dụng trong quản sản xuất, kinh doanh; trong thông tin, tuyên
truyền; trong giáo dục y tế… nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động trên các
lĩnh vực này. Những kết quả nghiên cứu về tâm hội cũng được đưa vào
chương trình giảng dạy tại các Trường đại học, phục vụ nghiên cứu học tập
các bậc học khác nhau.
3. Mối quan hệ của Tâm học hội với các ngành khoa học khác
a. Với nhân chủng học
Nhân chủng học khoa học về con người, nghiên cứu về sự phân bố,
nguồn gốc, phân loại chủng tộc con người; nghiên cứu về mối quan hệ giữa
con người với môi trường tự nhiên hội; các đặc điểm sinh văn hóa
của con người.
Nhân chủng học vai trò quan trọng đối với tâm học hội. Những
tri thức của khoa học này giúp cho tâm học xã hội giải đúng đắn về sự
tác động đa dạng của hành vi con người từ nền hóa này đến nền văn hóa khác.
Các n tâm hóc xã hội không thể hiểu được đầy đủ hành vi hội của
nhân nếu không nhận thức được sự ảnh hưởng của nền văn hóa đến hành vi
nhân của con người.
11
b. Với kinh tế học
Kinh tế học một lĩnh vực khoa học quan hệ chặt chẽ với tâm
học hội. Những chính sách kinh tế chỉ hiệu quả khi chúng được dựa trên
các kết quả nghiên cứu về con người.
Trong bố cảnh nước ta xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng
hội chủ nghĩa, tâm học xã hội phải đi sâu nghiên cứu những vấn đề m
trong lĩnh vực kinh tế. Chẳng hạn như t chức, quản hoạt động kinh doanh
của doanh nghiệp, năng lực uy tín của người giám đốc doanh nghiệp, thị hiếu
người tiêu dùng…Giải quyết được vấn đề này t góc độ tâm học xã hội sẽ
đóng góp to lớn vào việc nâng cao hiệu quả các hoạt động này.
c. Với tội phạm học
Tâm học xã hội tội phạm học mối quan hệ chặt chẽ với nhau.
Tội phạm học nghiên cứu về tỷ lệ, hình thức, nguyên nhân hậu quả của tội
phạm cũng như những phản ứng của hội đối với tội phạm. Những vấn đề
tâm hội như tác động của chế tâm hội trong quan hệ liên nhân
cách (bắt chước, lây lan, đồng hóa, ám thị), ảnh hưởng của nhóm chính thức
nhóm không chính thức đến nhân…là sở để các nhà nghiên cứu về
tội phạm giải hành vi phạm tội nói riêng hành vi lệch chuẩn của con
người nói chung.
Sự giải thích về vấn đề tội phạm chắc chắn phải dựa trên sự phân tích
tính chất kết hợp giữa nhân cách môi trường. Các nhà Tâm học
hội giúp các nhà tội phạm học nghiên cứu những pơng pháp tốt hơn để
ngăn ngừa tình trạng phạm tội hạn chế xung đột giữa những người phạm
tội những người thực thi pháp luật.
II. ĐỐI TƯỢNG, NHIỆM VỤ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Đối tượng nghiên cứu
Xác định đối tượng nghiên cứu nhiệm vụ đầu tiên của bất kỳ ngành
khoa hoc nào bởi đây tiêu chuẩn đầu tiên để khẳng định sự tồn tại độc
lập của khoa học đó. Thực tế cho thấy, đã lúc người ta phủ nhận s tồn tại
12
của Tâm học hội với cách một chuyên ngành tâm lý học bằng cách
hòa vào các khoa học khác.
Trong cuộc sống hội, con người luôn thành viên của một nhóm
hội nào đó. H luôn quan hệ tương hỗ, tác động qua lại với nhau để thực
hiện những hoạt động chung tạo điều kiện cho sự tồn tại phát triển của các
nhóm người cũng như của mỗi nhân trong môi trường xã hội. Trong môi
trường hội sống chung đó, họ thường những phản ứng tâm giống
nhau đáp ứng với tác động của môi trường hội bên ngoài. Sự biểu hiện tâm
thống nhất của các thành viên trong một nhóm hội nào đó được gọi
các hiện tượng tâm hội.
Chẳng hạn, một nhóm sinh viên năm cuối thường biểu hiện băn
khoăn, lo lắng với nghề nghiệp sau khi ra trường. Chúng ta thể thấy, lúc
đầu một số sinh viên không tâm trạng này nhưng rồi mối quan hệ qua lại
giữa các sinh viên với nhau sẽ m lây lan trạng thái tâm lý này tới các sinh
viên khác. Cuối cùng toàn bộ sinh viên trong lớp đó, ngành học đó s
những biểu hiện giống nhau s lo lắng, băn khoăn cho tương lai. Trong
cuộc sống hội thường nảy sinh tồn tại nhiệu hiện tượng tâm hội
khác nhau như tình thương yêu của mọi người đối với trẻ tàn tật, nghèo khổ,
không nơi nương tựa; lòng tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng; sự
căm phẫn của mọi người đối với hiện tượng tham nhũng; s căm phẫn của
người dân đối với hành vi tàn ác của người phạm tội. Những hiện tượng trên
những hiện tượng tâm chung của nhiều người, của nhóm hội đối với
các vấn đ nảy sinh trong đời sống hội. Đó là các hiện tượng tâm hội
đối tượng nghiên cứu của Tâm học hội.
Tuy nhiên, trong lịch sử tâm học hội nhiều quan điểm khác
nhau về đối tượng nghiên cứu của ngành tâm lý học này, cụ thể:
- Các nhà tâm học phương Tây cho rằng, đối tượng nghiên cứu của
tâm học hội hành vi của nhân trong những điều kiện, hoàn cảnh
13
môi trường hội. Tuy nghiên cứu hành vi hội nhưng các quan điểm
không hoàn toàn đồng nhất với nhau.
+ Jones Gerard nhấn mạnh đến sự tác động của hành vi nhân đến
các nhân khác trong các mối quan hệ hội.
+ M. Sherif, C.W. Sherif cho rằng: Tâm hội khoa học nghiên
cứu những kinh nghiệm hội hành vi của nhân trong mối quan hệ với
các tình huống kích thích hội.
+ D.Krech, R.S. Crutchfield nhấn mạnh đến sự quy định hội đến
hành vi nhân.
+ R. Dewey, W.J. Humber, J.H.Curtis coi đối tượng nghiên cứu của
tâm học hội mối quan hệ tương tác giữa nhân môi trường xã hội.
- Trong khi đó, các n tâm học Liên Nga tồn tại ba quan điểm
về đối tượng nghiên cứu của tâm học hội khác nhau.
+ E. X.Kuzomin, V.I.Xelivanov, K.K.Platonov...cho rằng, đối tượng
nghiên cứu của tâm học hội nhân cách. Cụ thể là, tâm học hội
nghiên cứu đặc điểm của nhân ch, sự quy định của hội đối với các đặc
điểm tâm của nhân cách, phân loại các kiểu nhân cách về mặt hội.
+ V.N.Covanovxki, A.I.Copsoxon, A.G.Covaniov...cho rằng đối tượng
nghiên cứu của tâm học những hiện tượng tâm của một nhóm người,
của tập thể.
+ B.D.Parughin, N.X.Manxurov...là sự kết hợp của hai quan điểm trên,
cho rằng tâm học hội nghiên cứu tâm của nhóm người đặc điểm
tâm của nhân cách.
Mặc những cách nhìn nhận khác nhau nhưng điểm chung của
những tác giả này vẫn việc nghiên cứu về tâm của nhân trong mối
quan hệ với các nhân khác làm nảy sinh những hiện tượng tâm chung
của nhiều người. Như vậy, đối tượng nghiên cứu của Tâm học xã hội
nghiên cứu những hiện tượng tâm chung trong tâm của nhóm hội,
những quy luật, chế hình thành biểu hiện của các hiện tượng tâm
14
hội sự ảnh hưởng lẫn nhau giữa các thành viên trong nhóm.
Trong đời sống hội, chúng ta thấy một hình thái ý thức hội
ảnh hưởng rất lớn đến hành vi của nhóm, cộng đồng toàn xã hội nhưng
không phải một hiện tượng tâm hội, đó hệ tưởng. Vậy, hiện
tượng tâm hội khác với h tưởng? Mặc hiện tượng tâm
hội hệ tưởng đều phản ánh thực tại hội nhưng giữa chúng sự khác
nhất định.
Hệ tưởng một hệ thống quan điểm hội được hình thành trên
sở khoa học thực tiễn của các nhà tưởng. Chúng được các nhà tưởng
xây dựng một cách tự giác để giải thích quá trình hội lịch sử để chỉ ra
con đường phát triển sau này của chúng. Hệ tưởng bao giờ cũng tính
giai cấp rệt, tồn tại hay biến đổi, phá vỡ tùy thuộc vào hình thái
hội ổn định hay thay đổi.
Trong khi đó, m hội luôn gắn với bản thân cuộc sống của
mọi người nên rộng lớn hơn hệ tưởng. Tâm hội vừa sở trí
những còn yếu tố cảm xúc ý chí nữa. thế, vừa những yếu tố
tính giai cấp lẫn yếu tố không tính giai cấp.
Các hiện tượng tâm xã hội thể chỉ mang tính nhất thời, dễ dàng
thay đổi n cảm xúc của một đám đông trước một sự kiện nào đó, bầu không
khí tâm của một tập thể nào đó. Nhưng, các hiện tượng tâm xã hội cũng
thể mang tính ổn định, khó thay đổi được n phong tục, tập quán, truyền
thống, lệ làng. Chúng thể được hình thành tự phát hoặc tự giác.
Tuy sự khác biệt nhưng giữa tâm hội hệ tưởng lại
mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau, ảnh hưởng trực tiếp gián tiếp đến sự
hình thành phát triển của nhau.
2. Nhiệm vụ nghiên cứu
a. Nhiệm vụ nghiên cứu luận
- Nghiên cứu, xây dựng hệ thống các khái niệm phạm trù, phương
pháp luận phương pháp nghiên cứu cũng như thuyết về các vấn đề của
15
tâm học hội. Do tâm học hội là một khoa học còn non trẻ nên một
số khái niệm, phạm t cấu trúc còn chỗ chưa ràng, khiến cho ranh
giới giữa tâm học hội với một số khoa học lân cận trở nên k phân biệt.
Việc thực hiện tốt hiệm vụ trên đây sẽ góp phần bổ sung luận đẩy nhanh
sự phát triển của tâm học hội xứng đáng với vai trò của nó.
- Phát hiện các quy luật, chế hình thành phát triển của các hiện
tượng tâm xã hội trong các nhóm, cộng đồng hội, trên sở đó vận dụng
vào việc phát huy nhân t con người trong các điều kiện hoạt động khác nhau.
Cụ thể là:
+ Những quy luật của sự tác động qua lại giữa các nhân trong nhóm;
giữa nhân với nhóm và nhóm đối với nhân.
+ Nghiên cứu c điều kiện chủ quan khách quan của sự hình thành,
phát triển các hiện tượng tâm hội.
+ Nghiên cứu sự hình thành phát triển nhân cách trong c nhóm hội,
vai trò của các nhóm hội đối với sự hội hoá nhân cách.
Nắm được những quy luật của tâm hội sẽ giúp ta căn cứ vận
dụng trong thực tiễn phục v lợi ích của con người.
b. Nhiệm vụ nghiên cứu ứng dụng
Tâm học hội một khoa học được nghiên cứu ứng dụng trong
nhiều lĩnh vực của đời sống hội, tạo thành nhân tố không thể thiếu của s
phát triển hội.
- Nghiên cứu vận dụng các tri thức, phương pháp tâm học hội vào
công tác quản hội. Từ khâu xây dựng, ban hành đến việc chỉ đạo thực
hiện các chủ trương, chính sách đều không thể không tính đến những yếu tố
tâm hội trong mối quan hệ lãnh đạo, quản lý.
- Trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh, tâm học hội được vận
dụng vào việc thông tin, quảng cáo, tiếp thị sản phẩm; nghiên cứu nhu cầu, thị
hiếu người tiêu dùng; vấn đ nghệ thuật bán hàng; nghiên cứu yếu tố tâm
trong việc nâng cao năng suất lao động...
16
- Đối với lĩnh vực bảo vệ pháp luật, tâm học hội nhiệm vụ đi
sâu nghiên cứu, vận dụng vào từng lĩnh vực hoạt động của các lực lượng bảo
vệ pháp luật, các quan, đơn vị cũng như đối với mỗi cán bộ làm việc trong
lĩnh vực bảo vệ pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động trong đấu tranh,
phòng ngừa tội phạm.
Tâm học xã hội nghiên cứu đặc điểm tâm lý của các tập thể, đơn vị
công an, tòa án, viện kiểm sát, quan thi hành án để vận dụng xây dựng,
phát triển các tập thể, đơn vị vững mạnh, đoàn kết, thực s môi trường tích
cực bồi dưỡng nhân cách nghề nghiệp cho từng đối tượng.
Tâm học hội nghiên cứu, ứng dụng trong tuyên truyền giáo dục,
vận động nhân dân tích cực tham gia phong trào bảo v an ninh Tổ quốc; xây
dựng, bồi ỡng cho quần chúng ý thức cảnh giác, tích cực chủ động góp
phần vào công tác phòng, chống tội phạm, giữ gìn an ninh, trật tự.
Đặc biệt, đối với lĩnh vực pháp, tâm học hội được quan tâm
nghiên cứu ứng dụng trong các lĩnh vực hoạt động nghiệp vụ cụ thể, nhằm
nâng cao hiệu quả các hoạt động này. Từ hoạt động điều tra ban đầu, điều tra
tố tụng đến truy tố, xét xử hay trong giáo dục cải tạo phạm nhân... đều rất cần
thiết ứng dụng các tri thức tâm học hội. Tâm học hội không chỉ
nghiên cứu các kiểu loại nhân cách liên quan đến hoạt động bảo vệ pháp
luật; những hiện tượng tâm hội phổ biến liên quan đến hoạt động
phòng ngừa đấu tranh chống tội phạm còn nghiên cứu tâm của các
nhóm, các cộng đồng, tầng lớp người trong hội, nhất các nhóm nhỏ, các
đám đông liên quan đến an ninh, trật tự... giúp cho hoạt động này ngày
càng hiệu quả hơn.
Với nhiệm vụ quan trọng trên đây, trong nhiều năm qua, tâm học
hội đã được triển khai nghiên cứu giảng dạy các Học viện, Trường Đại học
để trang b cho sinh viên những kiến thức bản về lĩnh vực khoa học quan
trọng này. Bên cạnh việc nghiên cứu giảng dạy, nhiều vấn đề, đề tài thuộc về
tâm học hội cũng được triển khai nghiên cứu ứng dụng, phục vụ yêu cầu
17
thực tiễn. Kết quả của các đề tài này đã đưa lại hiệu quả tích cực trong công
quản hội.
Nghiên cứu, vận dụng những thành tựu chung của tâm học hội
vào tất cả các lĩnh vực bảo vệ pháp luật nhằm không ngừng nâng cao chất
lượng, hiệu quả công tác phòng ngừa đấu tranh chống tội phạm, giữ vững
an ninh quốc gia trật tự an toàn hội cũng nhiệm v quan trọng của
những người làm công tác nghiên cứu, giảng dạy trên lĩnh vực này.
3. Phương pháp nghiên cứu của tâm học hội
a. Các nguyên tắc nghiên cứu tâm học hội
- Nguyên tắc quyết định luận duy vật biện chứng
Đây nguyên tắc quan trọng hàng đầu cho phép giải thích một
cách duy vật biện chứng sự nảy sinh của các hiện tượng tâm hội, nguồn
gốc của tâm hội t tồn tại hội, tính bị chế ước bởi các nhu cầu lợi
ích, bởi hoạt động các quan hệ hội của con người. vậy, để nghiên
cứu tâm xã hội chúng ta phải xuất phát từ tồn tại hội, t hoạt động của
các nhóm, các cộng đồng người trong hội.
- Nguyên tắc phát triển
Mỗi hiện tượng tâm đều quá trình nảy sinh, vận động phát triển.
vậy, nghiên cứu tâm hội phải đặt trong mối quan hệ vận động, phát
triển của nó. Vận dụng nguyên tắc này vào nghiên cứu tâm học hội s
tránh được rập khuôn, cứng nhắc, định kiến, chủ quan. Nguyên tắc này giúp
ta phát hiện những thay đổi của các hiện tượng tâm hội những tác
động cần thiết để phát triển các hiện tượng tâm đó theo hướng mong muốn.
- Nguyên tắc hoạt động giao tiếp
Tâm hội được hình thành biểu hiện thông qua hoạt động
giao tiếp. Trong quá trình hoạt động, con người tham gia vào các quan hệ
hội, vào sự giao lưu với nhau, do đó các hiện tượng tâm không ch biểu
hiện trong hoạt động là hoạt động trong sự thống nhất với các quan hệ
18
hội. Do vậy, khi nghiên cứu tâm hội phải luôn bám sát quá trình hoạt
động của các nhóm hội, nghiên cứu chúng trong sự thống nhất của hoạt
động với các quan h hội ý thức.
- Nguyên tắc hệ thống
Tuân thủ nguyên tắc này giúp cho việc đánh giá tâm hội một cách
khách quan, toàn diện, đầy đủ, tránh được chủ quan, ngộ nhận phiến diện.
Phải nghiên cứu các hiện tượng tâm hội trong mối quan hệ giữa chúng
với nhau trong mối liên hệ giữa chúng với c hiện tượng khác. Phải biết
kết hợp các biện pháp, phương pháp của chuyên ngành tâm học hội với
các biện pháp, phương pháp của các khoa học khác nghiên cứu về con người,
về hội.
b. Các phương pháp nghiên cứu của tâm học hội
Phương pháp quan sát
Quan sát phương pháp trong đó nhà khoa học tri giác một cách
chủ định các khách thể nghiên cứu nhằm mục đích nhất định. Đó một quá
trình nhận thức kế hoạch, chọn lọc. đặc biệt ý nghĩa trong việc
nghiên cứu các hiện tượng tâm hội nảy sinh như một quá trình: niềm hân
hoan, sự cuồng nhiệt của một tập hợp người; nghiên cứu tâm trạng, thái đ
đặc biệt hành vi của con người trong các nhóm hội. hai hình thức
quan sát bản, đó là:
- Quan sát không can thiệp quan sát hành vi của người được nghiên
cứu không tác động của người quan sát. Đây còn gọi quan sát tự
nhiên. Trong trường hợp này, người quan sát ghi chép một cách thụ động
những đã xảy ra.
- Quan sát can thiệp là quan sát sự tác động của người quan sát vào
tình huống nghiên cứu nhằm làm sáng tỏ một số điểm nào đó. Quan sát can
thiệp th được thực hiện dưới hai hình thức sau:
19
+ Quan sát có tham gia: Người nghiên cứu hiện diện công khai tham
gia tích cực trong tình huống được quan sát để nhận biết hành vi của người
được nghiên cứu.
+ Quan sát cấu trúc: Đây hình thức quan sát sự kiểm soát của
người nghiên cứu. Người nghiên cứu thể can thiệp nhằm tạo ra tình huống
để quan sát hoặc thể tạo nên quy trình để việc quan sát hiệu quả hơn.
Trong tâm học hội, cũng thể kết hợp quan sát tổng hợp quan
sát từng vấn đề, từng hiện tượng tâm hội tùy theo mục đích của người
nghiên cứu.
Mặc nhiều ưu điểm, nhưng phương pháp quan sát cũng những
hạn chế thụ động, phải chờ đợi sự bộc lộ của các hiện tượng tâm cần
quan sát; tài liệu thu được vẫn mang tính chất cảm tính, trực quan; phải tập
hợp nhiều dấu hiệu trong các thời điểm khác nhau, thời gian dài, tốn nhiều
công sức
Phương pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt động
Đây là phương pháp nghiên cứu tâm lý bằng cách dựa vào kết quả của
các mặt hoạt động cũng như hiệu quả hoàn thành c công việc nào đó của tập
thể hay cộng đồng người. Sản phẩm hoạt động một tập hợp người nào đó
tạo ra luôn mang đậm dấu ấn tâm chung của họ. Sản phẩm hoạt động bao
gồm cả sản phẩm vật chất sản phẩm tinh thần. Sản phẩm vật chất thể
các công trình kiến trúc, văn hóa, các đ dùng phục vụ sinh hoạt hàng ngày...
Sản phẩm tinh thần thể được tạo ra dưới các hình thức nghệ thuật như: dân
ca, điệu múa hoặc đã trở thành phong tục, tập quán của dân tộc, cộng đồng
người
Khi nghiên cứu sản phẩm hoạt động cần chú ý c về số lượng chất
lượng của sản phẩm. Cũng cần nghiên cứu cả quá trình tạo ra sản phẩm với
những điều kiện cụ thể nhất định.
Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi
20

Preview text:

Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG CỦA TÂM LÝ HỌC XÃ HỘI A. TÓM TẮT CHƯƠNG
Chương này phác họa về lịch sử hình thành và phát triển của tâm lý học
xã hôi, đối tượng, nhiệm vụ, phương pháp nghiên cứu của tâm lý học xã hội,
bản chất, chức năng của các hiện tượng tâm lý xã hội, mối quan hệ của tâm lý
học xã hội với một số ngành khoa học khác.
Chương này được cấu trúc thành 3 phần:
I. Sơ lược lịch sử hình thành và phát triển của tâm lý học xã hội
II. Đối tượng, nhiệm vụ, phương pháp nghiên của tâm lý học xã hội
III. Bản chất, phân loại các hiện tượng tâm lý học xã hội B. MỤC TIÊU
Nghiên cứu xong chương này, sinh viên sẽ:
- Hiểu được lịch sử hình thành và phát triển của Tâm lý học xã hội;
- Phân tích được đối tượng, nhiệm vụ và ý nghĩa của tâm lý học xã hội;
- Phân tích được bản chất của các hiện tượng tâm lý xã hội;
- Phân biệt được hiện tượng tâm lý cá nhân với hiện tượng tâm lý xã hội;
- Vận dụng được những phương pháp nghiên cứu của tâm lý học xã hội
vào việc nghiên cứu đời sống tâm lý con người. C. NỘI DUNG
I. SƠ LƯỢC LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA TÂM
LÝ HỌC XÃ HỘI
1. Những tiền đề nảy sinh Tâm lý học xã hội
Xã hội loài người hình thành từ khi con người cùng sống, cùng lao
động và giao tiếp với nhau trong các cộng đồng. Trong quá trình lao động và
sinh hoạt cùng nhau, đã nảy sinh những hiện tượng tâm lý chi phối hành vi,
cử chỉ của mỗi người. Chẳng hạn, các lễ nghi, các điều cấm kỵ, tập tục. . điều
chỉnh hành vi và điều chỉnh mối quan hệ giữa các cá nhân với cộng đồng, 1
giữa cộng đồng này với cộng đồng khác. Bằng kinh nghiệm, con người đã ý
thức được và vận dụng những hiện tượng tâm lý ấy vào đời sống xã hội.
Ngay từ thời cổ đại, các triết gia duy tâm và duy vật đã có những quan
điểm đối lập nhau về vấn đề cá nhân và xã hội. Platon (428 - 347 TCN) đã
quan tâm đến mối liên kết và quan hệ giữa các cá nhân. Ông cho rằng, xã hội
là trung tâm trong quan hệ giữa cá nhân và xã hội; xã hội được xem như đối
tượng độc lập còn cá nhân là đối tượng biến thiên phụ thuộc. Aristote (384 -
322 TCN) lại coi cá nhân là nguồn gốc của mọi hình thái xã hội, bên trong cá
nhân chứa đựng sẵn những xu hướng tương ứng. . Platon đã chỉ ra ảnh hưởng
của các cá nhân đến sự ổn định của Nhà nước và cho rằng chính sự cân bằng
của cá nhân tạo nên sự ổn định xã hội. Theo Platon, trong xã hội có ba kiểu
nhân cách cơ bản: Những người luôn cố gắng làm vừa lòng người khác;
những người say xưa theo đuổi quyền lực và sự nổi danh; những người luôn
khao khát hiểu biết. Mỗi kiểu nhân cách trên phản ánh một trong ba mức độ
đặc thù của bản chất tình cảm, ý chí và trí tuệ con người. Platon đã phát triển
quan điểm về sự phân tầng xã hội mà ở đó phản ánh quan hệ của các kiểu loại
nhân cách đối với các giai cấp xã hội, nơi cá nhân sống và hoạt động.
St.Augustine (354 - 430) đưa ra học thuyết về xã hội và cá nhân. Đây là
tư tưởng có quan hệ sâu sắc với tâm lý học xã hội hiện đại, đặc biệt là vấn đề
về sự liên kết của con người. Trong tác phẩm “Thế giới của Chúa”, ông cho
rằng xã hội loài người kể từ khi Adam mắc sai lầm đã trở thành hai xã hội:
một xã hội của Chúa và một xã hội trần gian và rằng từ xã hội của Chúa có
ảnh hưởng đến cuộc sống thực tiễn ở trần gian. Theo St.Augustine, cá nhân
không chỉ có quan hệ tương tác với cá nhân mà còn có quan hệ tương tác với
Chúa. Như vậy, mối quan hệ xã hội đã bị tác động của quan hệ giữa cá nhân và Chúa.
Những quan điểm về cá nhân và xã hội của St.Augustine cũng như của
các cha cố đạo Thiên chúa đã tác động, ảnh hưởng không nhỏ đến các quan
điểm về xã hội và về tâm lý xã hội của các nhà tư tưởng sau này. Chẳng hạn, 2
St.Thomas, đã nhấn mạnh mối quan hệ của con người đối với Chúa và các
quan hệ liên nhân cách chỉ có thể thực hiện qua ánh sáng của quan hệ giữa
Chúa và con người. Các nhà tâm lý học xã hội hiện đại cũng đã quan tâm và
phát triển ý tưởng về sự tương tác liên nhân cách trên đây, nhưng không phải
qua quan hệ với Chúa mà chỉ dựa trên quan hệ người - người.
Các học thuyết về “Sự thỏa thuận xã hội” do T.Hobber (1588 - 1679),
J.Locke (1632 - 1704) và J.J.Rousseau (1712 - 1778) đưa ra, đã chỉ rõ sự ảnh
hưởng giữa các cá nhân trong mối tương tác liên nhân cách. Cũng giống như
T.Hobber, J.J.Rousseau đã bắt đầu bằng việc tìm hiểu những bản năng hành
vi của con người, sau đó nghiên cứu mối tương tác giữa người với người, giữa
cá nhân và xã hội. Ông chỉ ra trật tự xã hội là điều bất khả xâm phạm. Nó
được xây dựng trên cơ sở lợi ích của đa số mọi người. Cái trật tự này không
thể bắt nguồn từ bản năng của con người mà cần được xây dựng trên sự thỏa
thuận. Quan điểm này được được tâm lý học xã hội rất quan tâm. Có thể nói,
ba tác giả trên là những người mở đường tiêu biểu của tâm lý học xã hội theo chủ nghĩa nhân văn.
Georger W.F.Hegel (1770 - 1831), người có những đóng góp to lớn
trong việc xây dựng tiền đề triết học của sự hình thành tâm lý học xã hội. Ông
đã đưa ra quan điểm về mối quan hệ giữa xã hội và cá nhân, phản đối sự
phóng đại và đề cao chủ nghĩa cá nhân. Quan điểm của ông về mối quan hệ
giữa xã hội và cá nhân, về tự do cá nhân không chỉ ảnh hưởng đến sự phát
triển của triết học mà còn ảnh hưởng to lớn đến sự ra đời của tâm lý học xã hội.
2. Tâm lý học xã hội trở thành một khoa học độc lập
Sự hình thành tâm tâm lý học xã hội với tư cách là một khoa học độc
lập không ra đời trực tiếp từ trong lòng triết học mà dựa trên cơ sở các thành
tựu của nhiều ngành khoa học nhân văn, đặc biệt là xã hội học và tâm lý học.
Ở đây có ba vấn đề chính cần quan tâm, đó là: nhu cầu giải quyết các vấn đề
tâm lý học xã hội phát sinh giữa ranh giới của các khoa học khác nhau; quá
trình chuẩn bị để hình thành những đặc trưng cho tâm lý học xã hội trong lòng 3
hai khoa học chính là tâm lý học và xã hội học và cuối cùng là những hình
thức đầu tiên của tâm lý học xã hội với tư các là một khoa học độc lập.
Vào giữa thế kỷ XIX, có một bước tiến đặc biệt trong sự phát triển của
nhiều ngành khoa học, nhất là các khoa học có liên quan trực tiếp tới các mặt
khác nhau của đời sống xã hội. Thời kỳ này, chủ nghĩa tư bản đang phát triển,
những quan hệ kinh tế giữa các nước ngày càng được mở rộng. Những vấn đề
cấp bách được đặt ra, như: Sghự giao lưu ngôn ngữ, sự giao tiếp và ảnh
hưởng lẫn nhau giữa các dân tộc… và do đó dẫn đến những mối liên quan
giữa ngôn ngữ với những yếu tố tâm lý của các dân tộc. Bên cạnh đó, các vấn
đề, các hiện tượng mang tính chất xã hội phát sinh ngày càng nhiều, đòi hỏi
phải có sự nghiên cứu, giải thích. Như vậy, nhu cầu thực tiễn đã dần dần làm
hiện rõ đối tượng của một ngành khoa học mới, khoa học về tâm lý xã hội.
Vào nửa sau thế kỷ XIX, khi tâm lý học trở thành một khoa học độc lập
thì đồng thời ngành tâm lý học xã hội cũng xuất hiện. Đây là thời kỳ chủ
nghĩa tư bản đang đi lên và chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa. Do lực
lượng sản xuất phát triển mạnh, nhất là ở châu Âu, giai cấp vô sản đã trở
thành một lực lượng quần chúng đông đảo với sức mạnh to lớn. Mâu thuẫn
giữa vô sản và tư sản ngày càng gay gắt. Đã nổ ra nhiều cuộc bãi công, biểu
tình, mít tinh và cũng xuất hiện những hiện tượng xã hội mới không thể
không xem xét, nhất là đối với giai cấp thống trị lúc đó. Sự cần thiết phải
nghiên cứu các hiện tượng xã hội này đã thúc đẩy môn xã hội học và tâm lý học xã hội ra đời.
Từ những tri thức ban đầu về mối quan hệ tương hỗ giữa cá nhân và xã
hội; về bản chất tâm lý của tinh thần, ý thức dân tộc cũng như hành vi của nó;
về hành vi bản năng xã hội… đã hình thành các lý thuyết về tâm lý dân tộc,
tâm lý đám đông, lý thuyết về các bản năng xã hội. Có thể nói đây là những
hình thức lý luận đầu tiên của tâm lý học xã hội. Trong đó, tâm lý học dân tộc,
một trào lưu nghiên cứu tâm lý xã hội chủ yếu xuất hiện ở Đức; tâm lý học
đám đông, lý thuyết này phát triển mạnh ở Pháp, Ý và lý thuyết về các 4
bản năng của hành vi xã hội, xuất hiện ở Anh, Mỹ. Trong tâm lý học dân tộc,
xã hội được coi là hàng đầu, còn trong tâm lý học đám đông và lý thuyết bản
năng của hành vi thì ngược lại. Cả hai quan điểm này còn tiếp tục phát triển ở
các giai đoạn sau trong lịch sử quá trình phát triển của tâm lý học xã hội.
Tâm lý học dân tộc
Vào thế kỷ XVIII, XIX, dân tộc tư sản đã hình thành ở nhiều nước, do
đó việc nghiên cứu tâm lý dân tộc cũng trở nên cấp thiết. Tâm lý học dân tộc
được hình thành ở Đức vào giữa thế kỷ XIX, được coi là một trong những
hình thức lý luận đầu tiên của tâm lý học xã hội. Tâm lý học dân tộc coi trọng
yếu tố xã hội trong mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội. Tâm lý học dân tộc
cho rằng, trong một xã hội tồn tại một tinh thần siêu cá nhân nào đó phụ thuộc
vào chỉnh thể siêu cá nhân. Các chỉnh thể này là nhân dân hay dân tộc. Quan
điểm này đã tuyệt đối hóa các mâu thuẫn giữa cá nhân và xã hội và sự tuyệt
đối hóa này gắn với dân tộc.
M.Lazarus (1824 - 1913) và H.Steithal (1823 - 1893) là những người
trực tiếp sáng lập ra tâm lý học dân tộc. Trong các công trình nghiên cứu:
"Những suy luận bước đầu về tâm lý học dân tộc", "Tạp chí tâm lý học dân
tộc và ngôn ngữ học" đã thể hiện cương lĩnh và nhiệm vụ của tâm lý học dân
tộc. Đó là phải nhận thức bản chất tâm lý của tinh thần dân tộc và hành động
của nó; khám phá những quy luật chi phối hoạt động tinh thần của dân tộc;
những cơ sở của sự xuất hiện, phát triển và biến mất những đặc điểm tiêu biểu
cho dân tộc. Tuy nhiên, sau đó không có những công trình nghiên cứu tiếp theo.
W.Wundt (1832 - 1920), người sáng lập phòng tâm lý học đầu tiên trên
thế giới. Từ năm 1900 đến năm 1920, hoàn thành cuốn "Tâm lý học dân tộc"
gồm 10 tập, trong đó ông đưa ra quan điểm: Không nên nghiên cứu con người
như một cá thể đơn lẻ, biệt lập mà cần phải nghiên cứu con người trong
những mối quan hệ của con người. Theo ông, có nhiều lý do để nói rằng tâm
lý học xã hội là một phân ngành của khoa học tâm lý. Ông là người tiếp tục
thực hiện những cố gắng trước đó của M.Lazarus và H.Steinthal để thành lập 5
tâm lý học dân tộc. Trong cuốn "Tâm lý học dân tộc", W.Wundt đã phát triển
tư tưởng của tâm lý học dân tộc và cho rằng tâm lý học cần có hai phần: Tâm
lý học sinh lý và tâm lý học dân tộc. Theo ông, tâm lý học dân tộc phải được
áp dụng các phương pháp nghiên cứu sản phẩm văn hóa, như: ngôn ngữ nghệ
thuật, thần thoại; phong tục, tập quán. . Tâm lý học dân tộc, theo quan điểm
của W.Wundt chỉ có tính chất mô tả chứ không phát hiện các quy luật.
Tuy rằng phương pháp tiếp cận giữa M.Lazarus, H.Steinthal, W.Wundt
có khác nhau, song họ đều có chung quan điểm về đối tượng nghiên cứu của
tâm lý học dân tộc là những hiện tượng bắt nguồn từ ý thức dân tộc chứ
không phải trong ý thức cá nhân. Tâm lý học đám đông
Vào giữa thế kỷ XIX, do giai cấp vô sản đã trở thành một lực lượng xã
hội thực sự đông đảo, nổi lên như một lực lượng cách mạng, tiến bộ. Nhiều
cuộc biểu tình, bãi công, mít tinh. .do những người lao động tiến hành, đã gây
cho giai cấp tư sản nhiều lo lắng. Có những hiện tượng tâm lý mới như: sự bắt
chước, sức mạnh cuồng nhiệt của đám đông, sự lây lan tâm lý, sự hoảng loạn. .
khiến giai cấp tư sản thấy cần phải nghiên cứu để tìm cách đối phó, xử lý các
cuộc biểu tình, mít tinh của quần chúng lao động nhằm phục vụ cho sự thống trị của chúng.
Một trong những người sáng lập ra học thuyết về tâm lý đám đông là
G.Tard (1843 - 1904). Năm 1890, G.Tard cho xuất bản cuốn "Những quy luật
của sự bắt chước". Cuốn sách có thể xem là bước chuẩn bị cho sự hình thành
học thuyết về đám đông. Trong cuốn sách này, ông đã giải thích cơ sở xã hội
của sự tương tác giữa các cá nhân. Ông cũng chính là người đầu tiên đưa ra
khái niệm mới về sự tương tác. G.Tard cho rằng, hành vi xã hội không có
cách giải thích nào khác là do "bắt chước", toàn bộ sinh hoạt xã hội phải phục
tùng "bản năng bắt chước" có sẵn trong bản tính con người. Nhân dân chỉ là
công cụ đơn giản cho ý chí của người khác và không thể có tinh thần sáng tạo.
Và quần chúng cần có tầng lớp thượng lưu lãnh đạo. . Quan điểm về sự bắt 6
chước của G.Tard đã chú ý tới yếu tố phi lý của hành vi xã hội nên đã đạt kết
quả hơn. Chính điều này là tiền đề dẫn tới hình thành tâm lý học xã hội.
S. Sighen (1878 - 1931), người Ý, trong khi nghiên cứu về các vụ án
hình sự đã chú ý tới thời điểm bị kích động khi con người ở trong đám đông.
Theo ông, ở vào tình huống này, năng lực điều khiển hành vi một cách có ý
thức và có lý trí bị mất đi, hành động diễn ra trong trạng thái bị kích động và
theo quan điểm của luật pháp thì những trường hợp như vậy phải được giảm nhẹ tội.
Sau G.Tard và S.Sighen, G.LeBon (1841 - 1939), người Pháp, đã đi sâu
nghiên cứu tâm lý của đám đông quần chúng. G.LeBon tiếp tục làm sáng tỏ
thêm những quan điểm của S.Sighen về hiện tượng tâm lý của con người
trong đám đông, mặt khác cũng bị ảnh hưởng bởi tâm lý học xã hội của
G.Tard. Cùng với S.Sighen, G.LeBon nghiên cứu hành vi của các cá nhân
trong đám đông hành động. Họ cho rằng, nhiều người tụ tập lại thành đám
đông và đặc điểm của đám đông là mọi người mất đi năng lực quan sát và sự
phê phán. Hành vi của họ thoát khỏi cá tính dẫn đến những xung động, những
phản ứng bản năng. Trong họ, tình cảm chiếm ưu thế hoàn toàn, trí tuệ mù mờ,
mất tinh thần trách nhiệm, cá nhân không làm chủ được bản thân mình, bị
kích động. Từ đó, G.LeBon cho rằng, đám đông về bản chất là hỗn loạn, cần
phải có lãnh tụ thuộc về tầng lớp thượng lưu điều khiển.
Về mặt lý luận, tâm lý học đám đông đã đặt ra vấn đề về mối quan hệ
tương hỗ giữa cá nhân và xã hội. Tuy nhiên, cách giải quyết về mối quan hệ
này lại không có đầy đủ cơ sở. Bởi vậy, ý nghĩa của nó đối với tâm lý học xã
hội là không nhiều. Mặt khác, tâm lý học đám đông mang mầu sắc giai cấp
sâu sắc. Ẩn sau lý thuyết về đám đông, các học giả tư sản mưu toan biện hộ
cho các hành động phản động của mình, chống lại các cuộc nổi dậy của quần
chúng, giải thích nó như là sự phi lý của quần chúng. Họ cũng sử dụng các lý
thuyết về đám đông để chứng minh rằng giai cấp vô sản là một đám đông vô 7
tổ chức, vô kỷ luật, không có khả năng quản lý mà chỉ có giai cấp tư sản mới
là tầng lớp ưu tú, có tổ chức và biết quản lý xã hội.
Lý thuyết về hành vi bản năng
Đây là lý thuyết do nhà tâm lý học người Anh, W.McDougal (1871 -
1938) đề xướng. Năm 1908, trong tác phẩm "Nhập môn tâm lý học xã hội",
W.McDougal trình bày một cách có hệ thống động lực chi phối hành vi con
người, nhất là các hành vi xã hội của nó. Theo ông, nguyên nhân của các hành
vi xã hội là các bản năng bẩm sinh mà sau này ông gọi là các xu hướng, ý
hướng. Ở mỗi người, các bản năng xuất hiện như kết quả của trạng thái tâm -
vật lý, những đường kênh được xác định theo di truyền dùng để giải tỏa năng
lượng thần kinh. Những đường kênh, hay còn gọi là bản năng, bao gồm: bộ
phận cảm thụ (tiếp nhận, tri giác); bộ phận trung tâm (cảm xúc); bộ phận vận
động (phản ứng). Như vậy, vô thức là khởi điểm của mọi hành vi mà biểu
hiện bên trong của nó là cảm xúc. Mối liên hệ giữa bản năng và cảm xúc
mang tính hệ thống và xác định.
Theo W.McDougal, con người có những cặp bản năng và cảm xúc sau:
bản năng đấu tranh - cảm xúc tức giận, sợ hãi; bản năng xây dựng - cảm xúc
sáng tạo; bản năng chạy trốn - tình cảm bảo vệ; bản năng duy trì nòi giống -
tình cảm ghen tuông; bản năng bầy đàn - tình cảm trong các nhóm… Từ các
bản năng nảy sinh ra các thể chế xã hội, các quá trình xã hội hóa khác nhau và
nảy sinh ra chiến tranh. W.McDougal cũng đã chỉ ra vai trò của sự bắt chước
trong việc lý giải sự thống nhất về hành vi giữa các thành viên trong nhóm xã
hội. Lý thuyết của W.McDougal thể hiện khuynh hướng vận dụng máy móc
phương pháp tiếp cận của C.Darwin trong quá trình nghiên cứu các hiện
tượng xã hội và do đó đã làm mất ý nghĩa khoa học của nó.
Tóm lại, các lý thuyết trên đây tuy có những hạn chế nhất định do
không xuất phát từ phương pháp luận đúng đắn, nhưng đều có ý nghĩa tích
cực ở chỗ đã đặt ra những vấn đề quan trọng cần giải quyết, như: mối quan hệ 8
giữa ý thức cá nhân và nhóm; động lực thúc đẩy hành vi xã hội. . Các học
thuyết tâm lý học này đã góp phần hình thành ngành tâm lý học xã hội tư sản.
Cũng trong năm 1908, E.A.Ross (1866 - 1951) đã cho xuất bản tại New
York cuốn sách giáo khoa đầu tiên về tâm lý học xã hội, có tên là "Tâm lý học
xã hội". Cuốn sách dựa trên cơ sở và kết hợp giữa hai khoa học: Tâm lý học
và xã hội học mà một trong những vấn đề chính được đề cập trong đó là sự
bắt chước được hình thành, phát triển và thực hiện như thế nào. Trong tác
phẩm của mình, E.A.Ross đã sử dụng hiện tượng bắt chước để giải thích sự
thay đổi tư tưởng, thói quen và quan điểm giữa các thành viên trong các nhóm
xã hội. Ông cũng tìm hiểu mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội trên cả khía
cạnh tập thể lẫn khía cạnh cá nhân; vai trò của xã hội và vai trò của cá nhân.
Theo ông, vai trò của xã hội thể hiện qua nhóm ảnh hưởng đến cá nhân, còn
vai trò của cá nhân thể hiện qua tác động của cá nhân đến nhóm.
Như vậy, cùng với tác phẩm “Nhập môn tâm lý học xã hội” của
W.McDougal, cuốn sách “Tâm lý học xã hội” của E.A.Ross đã đặt dấu mốc
khẳng định sự ra đời của tâm lý học xã hội với tư cách là một khoa học độc
lập. Kể từ đó đến nay, tâm lý học xã hội đã có lịch sử phát triển gần một thế
kỷ với những đóng góp to lớn vào sự phát triển nói chung của các ngành khoa
học nhân văn và khoa học tâm lý nói riêng.
Sự ra đời tâm lý học xã hội xôviết: Sau cách mạng tháng 10 Nga, ở
Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa khác đã hình thành và phát triển ngành
tâm lý học xã hội dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Ban đầu, một số nhà khoa học cho rằng, không cần phải có bộ môn khoa học
này vì đã có chủ nghĩa duy vật lịch sử. Quan niệm này đã đồng nhất tâm lý
học xã hội với chủ nghĩa duy vật lịch sử, đã lẫn lộn cơ sở triết học, phương
pháp luận của khoa học này với việc nêu lên những vấn đề khoa học bộ phận
có tính chất riêng biệt của nó.
Một số nhà khoa học khác, nhất là các nhà xã hội học, lại cho rằng, cần
phải xây dựng và phát triển ngành tâm lý học xã hội, nhưng lại đòi hỏi phải 9
giải quyết cả những vấn đề thuộc xã hội học, khoa học tổ chức, giáo dục. .
Ngược lại, cũng có quan điểm thu hẹp phạm vi nghiên cứu của tâm lý học xã
hội, coi tâm lý học xã hội chỉ là một lĩnh vực cần thiết đặt nền móng cho khoa học quản lý mà thôi.
Tâm lý học xôviết coi đối tượng của tâm lý học xã hội là hành vi và
hoạt động của con người cũng như những đặc điểm tâm lý của chính các
nhóm xã hội. Từ đó, trong quá trình phát triển của mình, tâm lý học xã hội
xôviết đi theo hai hướng chính: những nghiên cứu lý thuyết cơ bản và những
nghiên cứu phục vụ thực tiễn. Về lý thuyết, các nhà tâm lý học xôviết đã đạt
được những thành tựu trên các lĩnh vực như: lý thuyết về mối quan hệ liên
nhân cách; lý thuyết về nhóm và những nghiên cứu về nhân cách. Về thực
tiễn, tâm lý học xã hội xôviết đi sâu nghiên cứu ứng dụng các tri thức về tâm
lý xã hội trong sản xuất; các vấn đề tâm lý xã hội của hoạt động tuyên truyền,
thông tin đại chúng; nghiên cứu trong lĩnh vực phòng ngừa, đấu tranh chống
tội phạm và các nghiên cứu, tư vấn cho những vấn đề tâm lý gia đình…
Qua gần một thế kỷ phát triển, tâm lý học xã hội phát triển theo hai xu
hướng: xu hướng của các nhà tâm lý học phương Tây và xu hướng của các
nhà tâm lý học xôviêt. Mặc dù có những điểm chung là đều nghiên cứu về đặc
điểm tâm lý của con người trong môi trường xã hội song cách tiếp cận của hai
xu hướng này có những điểm khác nhau cơ bản. Tâm lý học xôviêt chú ý
nhiều đến việc nghiên cứu các đặc điểm tâm lý của nhóm, đặc biệt là tâm lý
của giai cấp, tập thể - một loại nhóm phát triển ở mức độ cao. Trong khi đó,
tâm lý học xã hội phương Tây lại quan tâm nhiều hơn đến đến việc nghiên
cứu kinh nghiệm và hành vi xã hội của con người, coi hành vi xã hội của con
người là đối tượng nghiên cứu của tâm lý học xã hội. Các nhà tâm lý học xã
hội Xôviết chú trọng nhiều đến việc nghiên cứu lý luận và ở một góc độ nào
đó có thể coi những nghiên cứu của họ mang tính hàn lâm hơn là tính thực
tiễn của đời sống xã hội. Còn ở phương Tây, các nhà tâm lý học xã hội lại chú
ý nhiều hơn đến những vấn đề tâm lý xã hội xuất hiện trong thực tiễn của đời 10
sống xã hội. Đó là những vấn đề, những hiện tượng tâm lý xã hội nảy sinh từ
thực tế cuộc sống. Ở đây, các nhà tâm lý học xã hội nghiên cứu, tìm hiểu sự
thể hiện hành vi xã hội trong các mặt của đời sống xã hội. Chẳng hạn như:
Vấn đề xung đột sắc tộc, tôn giáo, vấn đề tội phạm, bạo lực, nghiện hút, hành
vi lệch chuẩn; vấn đề thích nghi xã hội; vấn đề quản lý xã hội và quản lý
trong kinh doanh. . Những nghiên cứu này xuất phát từ đòi hỏi và từ những
vấn đề nảy sinh trong thực tiễn. Do vậy, trong các nghiên cứu của tâm lý học
xã hội phương Tây, tính thực tiễn được đề cao và thể hiện rõ hơn.
Ở nước ta, tâm lý học xã hội vẫn còn là một ngành khoa học non trẻ.
Trong những năm gần đây, do nhận thức được vai trò quan trọng của ngành
khoa học này nên tâm lý học xã hội được quan tâm nghiên cứu, ứng dụng
rộng rãi trên mọi mặt của đời sống xã hội, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn. Nó
được vận dụng trong quản lý sản xuất, kinh doanh; trong thông tin, tuyên
truyền; trong giáo dục và y tế… nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động trên các
lĩnh vực này. Những kết quả nghiên cứu về tâm lý xã hội cũng được đưa vào
chương trình giảng dạy tại các Trường đại học, phục vụ nghiên cứu và học tập
ở các bậc học khác nhau.
3. Mối quan hệ của Tâm lý học xã hội với các ngành khoa học khác
a. Với nhân chủng học
Nhân chủng học là khoa học về con người, nghiên cứu về sự phân bố,
nguồn gốc, phân loại chủng tộc con người; nghiên cứu về mối quan hệ giữa
con người với môi trường tự nhiên và xã hội; các đặc điểm sinh lý và văn hóa của con người.
Nhân chủng học có vai trò quan trọng đối với tâm lý học xã hội. Những
tri thức của khoa học này giúp cho tâm lý học xã hội lý giải đúng đắn về sự
tác động đa dạng của hành vi con người từ nền hóa này đến nền văn hóa khác.
Các nhà tâm lý hóc xã hội không thể hiểu được đầy đủ hành vi xã hội của cá
nhân nếu không nhận thức được sự ảnh hưởng của nền văn hóa đến hành vi cá nhân của con người. 11 b. Với kinh tế học
Kinh tế học là một lĩnh vực khoa học có quan hệ chặt chẽ với tâm lý
học xã hội. Những chính sách kinh tế chỉ có hiệu quả khi chúng được dựa trên
các kết quả nghiên cứu về con người.
Trong bố cảnh nước ta xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa, tâm lý học xã hội phải đi sâu nghiên cứu những vấn đề tâm lý
trong lĩnh vực kinh tế. Chẳng hạn như tổ chức, quản lý hoạt động kinh doanh
của doanh nghiệp, năng lực uy tín của người giám đốc doanh nghiệp, thị hiếu
người tiêu dùng…Giải quyết được vấn đề này từ góc độ tâm lý học xã hội sẽ
có đóng góp to lớn vào việc nâng cao hiệu quả các hoạt động này.
c. Với tội phạm học
Tâm lý học xã hội và tội phạm học có mối quan hệ chặt chẽ với nhau.
Tội phạm học nghiên cứu về tỷ lệ, hình thức, nguyên nhân và hậu quả của tội
phạm cũng như những phản ứng của xã hội đối với tội phạm. Những vấn đề
tâm lý xã hội như tác động của cơ chế tâm lý xã hội trong quan hệ liên nhân
cách (bắt chước, lây lan, đồng hóa, ám thị), ảnh hưởng của nhóm chính thức
và nhóm không chính thức đến cá nhân…là cơ sở để các nhà nghiên cứu về
tội phạm lý giải hành vi phạm tội nói riêng và hành vi lệch chuẩn của con người nói chung.
Sự giải thích về vấn đề tội phạm chắc chắn phải dựa trên sự phân tích
có tính chất kết hợp giữa nhân cách và môi trường. Các nhà Tâm lý học xã
hội giúp các nhà tội phạm học nghiên cứu những phương pháp tốt hơn để
ngăn ngừa tình trạng phạm tội và hạn chế xung đột giữa những người phạm
tội và những người thực thi pháp luật.
II. ĐỐI TƯỢNG, NHIỆM VỤ VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Đối tượng nghiên cứu
Xác định đối tượng nghiên cứu là nhiệm vụ đầu tiên của bất kỳ ngành
khoa hoc nào bởi đây là tiêu chuẩn đầu tiên để khẳng định sự tồn tại và độc
lập của khoa học đó. Thực tế cho thấy, đã có lúc người ta phủ nhận sự tồn tại 12
của Tâm lý học xã hội với tư cách là một chuyên ngành tâm lý học bằng cách
hòa nó vào các khoa học khác.
Trong cuộc sống xã hội, con người luôn là thành viên của một nhóm xã
hội nào đó. Họ luôn có quan hệ tương hỗ, tác động qua lại với nhau để thực
hiện những hoạt động chung tạo điều kiện cho sự tồn tại và phát triển của các
nhóm người cũng như của mỗi cá nhân trong môi trường xã hội. Trong môi
trường xã hội sống chung đó, họ thường có những phản ứng tâm lý giống
nhau đáp ứng với tác động của môi trường xã hội bên ngoài. Sự biểu hiện tâm
lý thống nhất của các thành viên trong một nhóm xã hội nào đó được gọi là
các hiện tượng tâm lý xã hội.
Chẳng hạn, một nhóm sinh viên năm cuối thường có biểu hiện băn
khoăn, lo lắng với nghề nghiệp sau khi ra trường. Chúng ta có thể thấy, lúc
đầu một số sinh viên không có tâm trạng này nhưng rồi mối quan hệ qua lại
giữa các sinh viên với nhau sẽ làm lây lan trạng thái tâm lý này tới các sinh
viên khác. Cuối cùng toàn bộ sinh viên trong lớp đó, ngành học đó sẽ có
những biểu hiện giống nhau là sự lo lắng, băn khoăn cho tương lai. Trong
cuộc sống xã hội thường nảy sinh và tồn tại nhiệu hiện tượng tâm lý xã hội
khác nhau như tình thương yêu của mọi người đối với trẻ tàn tật, nghèo khổ,
không nơi nương tựa; lòng tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng; sự
căm phẫn của mọi người đối với hiện tượng tham nhũng; sự căm phẫn của
người dân đối với hành vi tàn ác của người phạm tội. Những hiện tượng trên
là những hiện tượng tâm lý chung của nhiều người, của nhóm xã hội đối với
các vấn đề nảy sinh trong đời sống xã hội. Đó là các hiện tượng tâm lý xã hội
– đối tượng nghiên cứu của Tâm lý học xã hội.
Tuy nhiên, trong lịch sử tâm lý học xã hội có nhiều quan điểm khác
nhau về đối tượng nghiên cứu của ngành tâm lý học này, cụ thể:
- Các nhà tâm lý học phương Tây cho rằng, đối tượng nghiên cứu của
tâm lý học xã hội là hành vi của cá nhân trong những điều kiện, hoàn cảnh và 13
môi trường xã hội. Tuy nghiên cứu hành vi xã hội nhưng các quan điểm
không hoàn toàn đồng nhất với nhau.
+ Jones và Gerard nhấn mạnh đến sự tác động của hành vi cá nhân đến
các cá nhân khác trong các mối quan hệ xã hội.
+ M. Sherif, C.W. Sherif cho rằng: Tâm lý xã hội là khoa học nghiên
cứu những kinh nghiệm xã hội và hành vi của cá nhân trong mối quan hệ với
các tình huống kích thích xã hội.
+ D.Krech, R.S. Crutchfield nhấn mạnh đến sự quy định xã hội đến hành vi cá nhân.
+ R. Dewey, W.J. Humber, J.H.Curtis coi đối tượng nghiên cứu của
tâm lý học xã hội là mối quan hệ tương tác giữa cá nhân và môi trường xã hội.
- Trong khi đó, các nhà tâm lý học Liên xô và Nga tồn tại ba quan điểm
về đối tượng nghiên cứu của tâm lý học xã hội khác nhau.
+ E. X.Kuzomin, V.I.Xelivanov, K.K.Platonov. .cho rằng, đối tượng
nghiên cứu của tâm lý học xã hội là nhân cách. Cụ thể là, tâm lý học xã hội
nghiên cứu đặc điểm của nhân cách, sự quy định của xã hội đối với các đặc
điểm tâm lý của nhân cách, phân loại các kiểu nhân cách về mặt xã hội.
+ V.N.Covanovxki, A.I.Copsoxon, A.G.Covaniov. .cho rằng đối tượng
nghiên cứu của tâm lý học là những hiện tượng tâm lý của một nhóm người, của tập thể.
+ B.D.Parughin, N.X.Manxurov. .là sự kết hợp của hai quan điểm trên,
cho rằng tâm lý học xã hội nghiên cứu tâm lý của nhóm người và đặc điểm tâm lý của nhân cách.
Mặc dù có những cách nhìn nhận khác nhau nhưng điểm chung của
những tác giả này vẫn là việc nghiên cứu về tâm lý của cá nhân trong mối
quan hệ với các cá nhân khác làm nảy sinh những hiện tượng tâm lý chung
của nhiều người. Như vậy, đối tượng nghiên cứu của Tâm lý học xã hội là
nghiên cứu những hiện tượng tâm lý chung trong tâm lý của nhóm xã hội,
những quy luật, cơ chế hình thành và biểu hiện của các hiện tượng tâm lý xã 14
hội và sự ảnh hưởng lẫn nhau giữa các thành viên trong nhóm.
Trong đời sống xã hội, chúng ta thấy có một hình thái ý thức xã hội có
ảnh hưởng rất lớn đến hành vi của nhóm, cộng đồng và toàn xã hội nhưng
không phải là một hiện tượng tâm lý xã hội, đó là hệ tư tưởng. Vậy, hiện
tượng tâm lý xã hội có gì khác với hệ tư tưởng? Mặc dù hiện tượng tâm lý xã
hội và hệ tư tưởng đều phản ánh thực tại xã hội nhưng giữa chúng có sự khác nhất định.
Hệ tư tưởng là một hệ thống quan điểm xã hội được hình thành trên cơ
sở khoa học – thực tiễn của các nhà tư tưởng. Chúng được các nhà tư tưởng
xây dựng một cách tự giác để giải thích quá trình xã hội – lịch sử và để chỉ ra
con đường phát triển sau này của chúng. Hệ tư tưởng bao giờ cũng có tính
giai cấp rõ rệt, nó tồn tại hay biến đổi, phá vỡ là tùy thuộc vào hình thái xã
hội ổn định hay thay đổi.
Trong khi đó, tâm lý xã hội luôn gắn bó với bản thân cuộc sống của
mọi người nên rộng lớn hơn hệ tư tưởng. Tâm lý xã hội vừa có cơ sở là lý trí
những còn có yếu tố cảm xúc và ý chí nữa. Vì thế, nó vừa có những yếu tố có
tính giai cấp lẫn yếu tố không có tính giai cấp.
Các hiện tượng tâm lý xã hội có thể chỉ mang tính nhất thời, dễ dàng
thay đổi như cảm xúc của một đám đông trước một sự kiện nào đó, bầu không
khí tâm lý của một tập thể nào đó. Nhưng, các hiện tượng tâm lý xã hội cũng
có thể mang tính ổn định, khó thay đổi được như phong tục, tập quán, truyền
thống, lệ làng. Chúng có thể được hình thành tự phát hoặc tự giác.
Tuy có sự khác biệt nhưng giữa tâm lý xã hội và hệ tư tư tưởng lại có
mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau, ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp đến sự
hình thành và phát triển của nhau.
2. Nhiệm vụ nghiên cứu
a. Nhiệm vụ nghiên cứu lý luận
- Nghiên cứu, xây dựng hệ thống các khái niệm và phạm trù, phương
pháp luận và phương pháp nghiên cứu cũng như lý thuyết về các vấn đề của 15
tâm lý học xã hội. Do tâm lý học xã hội là một khoa học còn non trẻ nên một
số khái niệm, phạm trù và cấu trúc còn có chỗ chưa rõ ràng, khiến cho ranh
giới giữa tâm lý học xã hội với một số khoa học lân cận trở nên khó phân biệt.
Việc thực hiện tốt hiệm vụ trên đây sẽ góp phần bổ sung lý luận và đẩy nhanh
sự phát triển của tâm lý học xã hội xứng đáng với vai trò của nó.
- Phát hiện các quy luật, cơ chế hình thành và phát triển của các hiện
tượng tâm lý xã hội trong các nhóm, cộng đồng xã hội, trên cơ sở đó vận dụng
vào việc phát huy nhân tố con người trong các điều kiện hoạt động khác nhau. Cụ thể là:
+ Những quy luật của sự tác động qua lại giữa các cá nhân trong nhóm;
giữa cá nhân với nhóm và nhóm đối với cá nhân.
+ Nghiên cứu các điều kiện chủ quan và khách quan của sự hình thành,
phát triển các hiện tượng tâm lý xã hội.
+ Nghiên cứu sự hình thành phát triển nhân cách trong các nhóm xã hội,
vai trò của các nhóm xã hội đối với sự xã hội hoá nhân cách.
Nắm được những quy luật của tâm lý xã hội sẽ giúp ta có căn cứ vận
dụng trong thực tiễn phục vụ lợi ích của con người.
b. Nhiệm vụ nghiên cứu ứng dụng
Tâm lý học xã hội là một khoa học được nghiên cứu ứng dụng trong
nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, tạo thành nhân tố không thể thiếu của sự phát triển xã hội.
- Nghiên cứu vận dụng các tri thức, phương pháp tâm lý học xã hội vào
công tác quản lý xã hội. Từ khâu xây dựng, ban hành đến việc chỉ đạo thực
hiện các chủ trương, chính sách đều không thể không tính đến những yếu tố
tâm lý xã hội trong mối quan hệ lãnh đạo, quản lý.
- Trong lĩnh vực sản xuất và kinh doanh, tâm lý học xã hội được vận
dụng vào việc thông tin, quảng cáo, tiếp thị sản phẩm; nghiên cứu nhu cầu, thị
hiếu người tiêu dùng; vấn đề nghệ thuật bán hàng; nghiên cứu yếu tố tâm lý
trong việc nâng cao năng suất lao động. . 16
- Đối với lĩnh vực bảo vệ pháp luật, tâm lý học xã hội có nhiệm vụ đi
sâu nghiên cứu, vận dụng vào từng lĩnh vực hoạt động của các lực lượng bảo
vệ pháp luật, các cơ quan, đơn vị cũng như đối với mỗi cán bộ làm việc trong
lĩnh vực bảo vệ pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động trong đấu tranh, phòng ngừa tội phạm.
Tâm lý học xã hội nghiên cứu đặc điểm tâm lý của các tập thể, đơn vị
công an, tòa án, viện kiểm sát, cơ quan thi hành án để vận dụng xây dựng,
phát triển các tập thể, đơn vị vững mạnh, đoàn kết, thực sự là môi trường tích
cực bồi dưỡng nhân cách nghề nghiệp cho từng đối tượng.
Tâm lý học xã hội nghiên cứu, ứng dụng trong tuyên truyền giáo dục,
vận động nhân dân tích cực tham gia phong trào bảo vệ an ninh Tổ quốc; xây
dựng, bồi dưỡng cho quần chúng ý thức cảnh giác, tích cực và chủ động góp
phần vào công tác phòng, chống tội phạm, giữ gìn an ninh, trật tự.
Đặc biệt, đối với lĩnh vực tư pháp, tâm lý học xã hội được quan tâm
nghiên cứu ứng dụng trong các lĩnh vực hoạt động nghiệp vụ cụ thể, nhằm
nâng cao hiệu quả các hoạt động này. Từ hoạt động điều tra ban đầu, điều tra
tố tụng đến truy tố, xét xử hay trong giáo dục cải tạo phạm nhân. . đều rất cần
thiết ứng dụng các tri thức tâm lý học xã hội. Tâm lý học xã hội không chỉ
nghiên cứu các kiểu loại nhân cách có liên quan đến hoạt động bảo vệ pháp
luật; những hiện tượng tâm lý xã hội phổ biến có liên quan đến hoạt động
phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm mà còn nghiên cứu tâm lý của các
nhóm, các cộng đồng, tầng lớp người trong xã hội, nhất là các nhóm nhỏ, các
đám đông có liên quan đến an ninh, trật tự. . giúp cho hoạt động này ngày càng có hiệu quả hơn.
Với nhiệm vụ quan trọng trên đây, trong nhiều năm qua, tâm lý học xã
hội đã được triển khai nghiên cứu giảng dạy ở các Học viện, Trường Đại học
để trang bị cho sinh viên những kiến thức cơ bản về lĩnh vực khoa học quan
trọng này. Bên cạnh việc nghiên cứu giảng dạy, nhiều vấn đề, đề tài thuộc về
tâm lý học xã hội cũng được triển khai nghiên cứu ứng dụng, phục vụ yêu cầu 17
thực tiễn. Kết quả của các đề tài này đã đưa lại hiệu quả tích cực trong công quản lý xã hội.
Nghiên cứu, vận dụng những thành tựu chung của tâm lý học xã hội
vào tất cả các lĩnh vực bảo vệ pháp luật nhằm không ngừng nâng cao chất
lượng, hiệu quả công tác phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm, giữ vững
an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội cũng là nhiệm vụ quan trọng của
những người làm công tác nghiên cứu, giảng dạy trên lĩnh vực này.
3. Phương pháp nghiên cứu của tâm lý học xã hội
a. Các nguyên tắc nghiên cứu tâm lý học xã hội
- Nguyên tắc quyết định luận duy vật biện chứng
Đây là nguyên tắc quan trọng hàng đầu vì nó cho phép giải thích một
cách duy vật biện chứng sự nảy sinh của các hiện tượng tâm lý xã hội, nguồn
gốc của tâm lý xã hội từ tồn tại xã hội, tính bị chế ước bởi các nhu cầu và lợi
ích, bởi hoạt động và các quan hệ xã hội của con người. Vì vậy, để nghiên
cứu tâm lý xã hội chúng ta phải xuất phát từ tồn tại xã hội, từ hoạt động của
các nhóm, các cộng đồng người trong xã hội. - Nguyên tắc phát triển
Mỗi hiện tượng tâm lý đều có quá trình nảy sinh, vận động và phát triển.
Vì vậy, nghiên cứu tâm lý xã hội phải đặt trong mối quan hệ vận động, phát
triển của nó. Vận dụng nguyên tắc này vào nghiên cứu tâm lý học xã hội sẽ
tránh được rập khuôn, cứng nhắc, định kiến, chủ quan. Nguyên tắc này giúp
ta phát hiện những thay đổi của các hiện tượng tâm lý xã hội và có những tác
động cần thiết để phát triển các hiện tượng tâm lý đó theo hướng mong muốn.
- Nguyên tắc hoạt động và giao tiếp
Tâm lý xã hội được hình thành và biểu hiện thông qua hoạt động và
giao tiếp. Trong quá trình hoạt động, con người tham gia vào các quan hệ xã
hội, vào sự giao lưu với nhau, do đó các hiện tượng tâm lý không chỉ biểu
hiện trong hoạt động mà là hoạt động trong sự thống nhất với các quan hệ xã 18
hội. Do vậy, khi nghiên cứu tâm lý xã hội phải luôn bám sát quá trình hoạt
động của các nhóm xã hội, nghiên cứu chúng trong sự thống nhất của hoạt
động với các quan hệ xã hội và ý thức. - Nguyên tắc hệ thống
Tuân thủ nguyên tắc này giúp cho việc đánh giá tâm lý xã hội một cách
khách quan, toàn diện, đầy đủ, tránh được chủ quan, ngộ nhận và phiến diện.
Phải nghiên cứu các hiện tượng tâm lý xã hội trong mối quan hệ giữa chúng
với nhau và trong mối liên hệ giữa chúng với các hiện tượng khác. Phải biết
kết hợp các biện pháp, phương pháp của chuyên ngành tâm lý học xã hội với
các biện pháp, phương pháp của các khoa học khác nghiên cứu về con người, về xã hội.
b. Các phương pháp nghiên cứu của tâm lý học xã hội Phương pháp quan sát
Quan sát là phương pháp trong đó nhà khoa học tri giác một cách có
chủ định các khách thể nghiên cứu nhằm mục đích nhất định. Đó là một quá
trình nhận thức có kế hoạch, có chọn lọc. Nó đặc biệt có ý nghĩa trong việc
nghiên cứu các hiện tượng tâm lý xã hội nảy sinh như một quá trình: niềm hân
hoan, sự cuồng nhiệt… của một tập hợp người; nghiên cứu tâm trạng, thái độ
và đặc biệt là hành vi của con người trong các nhóm xã hội. Có hai hình thức quan sát cơ bản, đó là:
- Quan sát không can thiệp là quan sát hành vi của người được nghiên
cứu mà không có tác động của người quan sát. Đây còn gọi là quan sát tự
nhiên. Trong trường hợp này, người quan sát ghi chép một cách thụ động những gì đã xảy ra.
- Quan sát can thiệp là quan sát có sự tác động của người quan sát vào
tình huống nghiên cứu nhằm làm sáng tỏ một số điểm nào đó. Quan sát can
thiệp có thể được thực hiện dưới hai hình thức sau: 19
+ Quan sát có tham gia: Người nghiên cứu hiện diện công khai và tham
gia tích cực trong tình huống được quan sát để nhận biết hành vi của người được nghiên cứu.
+ Quan sát cấu trúc: Đây là hình thức quan sát có sự kiểm soát của
người nghiên cứu. Người nghiên cứu có thể can thiệp nhằm tạo ra tình huống
để quan sát hoặc có thể tạo nên quy trình để việc quan sát có hiệu quả hơn.
Trong tâm lý học xã hội, cũng có thể kết hợp quan sát tổng hợp và quan
sát từng vấn đề, từng hiện tượng tâm lý xã hội tùy theo mục đích của người nghiên cứu.
Mặc dù có nhiều ưu điểm, nhưng phương pháp quan sát cũng có những
hạn chế là thụ động, phải chờ đợi sự bộc lộ của các hiện tượng tâm lý cần
quan sát; tài liệu thu được vẫn mang tính chất cảm tính, trực quan; phải tập
hợp nhiều dấu hiệu trong các thời điểm khác nhau, thời gian dài, tốn nhiều công sức…
Phương pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt động
Đây là phương pháp nghiên cứu tâm lý bằng cách dựa vào kết quả của
các mặt hoạt động cũng như hiệu quả hoàn thành các công việc nào đó của tập
thể hay cộng đồng người. Sản phẩm hoạt động mà một tập hợp người nào đó
tạo ra luôn mang đậm dấu ấn tâm lý chung của họ. Sản phẩm hoạt động bao
gồm cả sản phẩm vật chất và sản phẩm tinh thần. Sản phẩm vật chất có thể là
các công trình kiến trúc, văn hóa, các đồ dùng phục vụ sinh hoạt hàng ngày. .
Sản phẩm tinh thần có thể được tạo ra dưới các hình thức nghệ thuật như: dân
ca, điệu múa hoặc đã trở thành phong tục, tập quán của dân tộc, cộng đồng người…
Khi nghiên cứu sản phẩm hoạt động cần chú ý cả về số lượng và chất
lượng của sản phẩm. Cũng cần nghiên cứu cả quá trình tạo ra sản phẩm với
những điều kiện cụ thể nhất định.
Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi 20