












Preview text:
lOMoAR cPSD| 61527594 CHƯƠNG 3
VĂN HỌC VIỆT NAM TỪ NĂM 1885 ĐẾN NĂM 1945: CHỮ QUỐC NGỮ VÀ
QUÁ TRÌNH HIỆN ĐẠI HOÁ TOÀN DIỆN
ăn học Việt Nam giai đoạn này gồm hai thời kì: thời kì chuyển tiếp từ văn học trung đại sang
văn học hiện đại và thời kì hình thành nền văn học hiện đại.
V 3.1. THỜI KÌ CHUYỂN TIẾP TỪ VĂN HỌC TRUNG ĐẠI SANG VĂN HỌC HIỆN ĐẠI (1885 – 1932)
3.1.1. Bối cảnh lịch sử
Giai đoạn cuối thế kỉ XIX – đầu thế kỉ XX chứng kiến những thay đổi to lớn của khu vực Đông Á. Ở
Việt Nam, sự phản ứng chậm chạp của triều đình Tự Đức trước hoàn cảnh mới đã khiến Việt Nam bị
đặt dưới sự thống trị của thực dân Pháp. Chính sách thực dân của người Pháp, mục đích tuy là để phục
vụ cho ý đồ khai thác thuộc địa, nhưng khách quan cũng là nguyên nhân dẫn đến những thay đổi trọng
đại trong lịch sử Việt Nam nói chung và lịch sử văn học Việt Nam nói riêng: từ xã hội phong kiến chuyển
sang thuộc địa nửa phong kiến, từ văn học trung đại chuyển sang văn học hiện đại. Quá trình này diễn
ra trong một thời gian dài với nhiều chặng, nhiều biến đổi phức tạp.
Sau Hiệp ước Giáp Tuất (1874), triều đình nhà Nguyễn công nhận sự thống trị của người Pháp ở
sáu tỉnh Nam Kì, năm 1884, triều đình nhà Nguyễn lại kí Hiệp ước Giáp Thân (hay còn gọi là Patenôtre)
với 19 điều khoản, trong đó quan trọng nhất là công nhận sự bảo hộ của Pháp ở Bắc Kì và Trung Kì.
Như vậy, nước Việt Nam đến đây bị chia làm ba kì, hoàn toàn do người Pháp cai trị, triều đình nhà
Nguyễn chỉ còn là trên danh nghĩa. Ngay sau Hiệp ước nhục nhã này, với sự phò trợ của Tôn Thất Thuyết
(1839 – 1913), ngày 13/7/1885 vua Hàm Nghi (1871 – 1944) hạ Chiếu Cần Vương, dấy lên phong trào
kháng chiến chống Pháp rộng khắp Bắc Kì và Trung Kì. Ngày 01/11/1888, vua Hàm Nghi bị bắt nhưng
phong trào Cần Vương vẫn tiếp tục và chỉ chấm dứt sau cái chết của Phan Đình Phùng
(1847 – 1895). Từ sau năm 1896, dù vẫn còn khởi nghĩa Yên Thế của Hoàng Hoa Thám 黄花探 (1858 –
1913) chống thực dân Pháp, song về cơ bản, người Pháp đã hoàn tất việc xâm chiếm Việt Nam. Với hai
cuộc khai thác thuộc địa (lần thứ nhất: 1897 – 1914, lần thứ hai: 1919 – 1929) của thực dân Pháp, xã
hội Việt Nam đã có những chuyển biến sâu sắc trong đời sống chính trị – kinh tế – văn hoá.
Về chính trị, người Pháp khẳng định vai trò cai trị của mình với hệ thống quản lí từ trung ương đến
các cấp tỉnh, thành. Về kinh tế, hoạt động khai thác thuộc địa được đẩy mạnh, kéo theo đó là sự hình
thành mạng lưới giao thông hiện đại trong toàn quốc, hình thành nền sản xuất công nghiệp và các đô
thị hiện đại. Về văn hoá, các thiết chế của văn hoá phương Tây từng bước được thiết lập ở các trường lOMoAR cPSD| 61527594
đại học, bệnh viện, báo chí, viện bảo tàng... đã hình thành một không gian văn hoá hoàn toàn mới lạ so với truyền thống.
Sự hiện diện của người Pháp ở Việt Nam đặt ra hai vấn đề: đấu tranh giành độc lập dân tộc và duy
tân đất nước để theo kịp các nước phương Tây. Trong một môi trường mới, hướng tới những nhiệm
vụ mới như thế khiến văn học dù ở bộ phận nào (công khai hay không công khai), cũng sẽ phải thay
đổi, phải hiện đại hoá. Về cơ bản, từ năm 1885 đến năm 1945 thực chất là giai đoạn hiện đại hoá của
văn học Việt Nam mà tính chất quan trọng nhất của nó là sự chuyển đổi hệ hình từ văn học trung đại
sang văn học hiện đại. Sự chuyển đổi hệ hình này là sự song hành của hai quá trình chính:
– Thứ nhất là phương Tây hoá. Đây là quá trình mà môi trường văn học, quan niệm văn học, hệ
thống thể loại văn học truyền thống từng bước bị giải thể và cấu trúc lại theo mô hình văn học phương
Tây. Nhờ vào quá trình này mà văn học Việt Nam thoát khỏi quỹ đạo văn học Đông Á (lấy Trung Quốc
làm trung tâm) để gia nhập văn học thế giới.
– Thứ hai là dân tộc hoá. Nhờ vào quá trình này mà nhân tố phương Tây được tích hợp với yếu
tố bản địa để tạo nên những kết tinh nghệ thuật mới. Không có phương Tây hoá thì không có dưỡng
chất mới, không gian tư duy nghệ thuật mới cho văn học, nhưng nếu không có dân tộc hoá thì văn học
cũng dễ trở thành lai căng, khó có được những thành tựu đích thực. Phương Tây hoá và dân tộc hoá
vì thế là tiền đề của nhau và cũng là yếu tố cần và đủ cho tiến trình hiện đại hoá văn học Việt Nam từ năm 1885 đến năm 1945.
Trong thời kì này, một số tiền đề văn hoá cho tiến trình hiện đại hoá văn học xuất hiện, cụ thể như sau:
Thứ nhất là chữ quốc ngữ. Chữ quốc ngữ xuất hiện ở Việt Nam từ đầu thế kỉ XVII do công lao của
các nhà truyền giáo phương Tây và một số người Việt theo đạo Thiên Chúa. Công dụng chính ban
đầu của chữ quốc ngữ là ghi chép lại các bài giảng và truyện Thánh, phục vụ cho mục đích truyền
giáo. Đây là lí do vì sao từ đầu thế kỉ XVII cho đến cuối thế kỉ XIX, chữ quốc ngữ chủ yếu tồn tại trong
các xứ đạo. Người Pháp, khi chiếm được Nam Kì và tiến hành bình định, đã phát hiện ra chữ quốc
ngữ như một công cụ hữu dụng nhằm li khai ảnh hưởng của các nhà nho với nông dân và qua đó
kiến tạo một không gian mới chịu ảnh hưởng sâu sắc của người Pháp. Tuy nhiên, ý đồ chính trị đó đã
vấp phải sự phản ứng của đa số người Việt thời kì này. Mãi đến năm 1907, các nhà nho duy tân của
Đông Kinh nghĩa thục 東京義塾 với nhận thức về những ưu điểm của chữ quốc ngữ (dễ học, dễ
truyền bá), đã nhận thấy chữ quốc ngữ như một công cụ để truyền bá tri thức, qua đó để mở mang
dân trí, chấn hưng dân khí. Bằng uy tín văn hoá của mình, họ đã phát động một phong trào học chữ
quốc ngữ rộng khắp trong toàn quốc. Những quan hệ mật thiết giữa Đông Kinh nghĩa thục với phong
trào Đông du (do Phan Bội Châu 潘佩珠,
1867 – 1940, lãnh đạo) và phong trào Duy tân (do Phan Châu Trinh 潘周楨, 1872 – lOMoAR cPSD| 61527594
1926, lãnh đạo) đã khiến người Pháp hoảng sợ. Những người theo phong trào Đông Kinh nghĩa thục
và phong trào Duy tân đã bị đàn áp bằng máy chém và ngục tù. Tuy nhiên, từ đây chữ quốc ngữ đã có
một tồn tại mới, được trả giá bằng sự hi sinh của những người con ưu tú nhất của dân tộc, từ chỗ là
một thứ văn tự ngoại lai đã trở thành tài sản của dân tộc. Từ sau 1907, bất chấp việc Đông Kinh nghĩa
thục bị đàn áp, chữ quốc ngữ đã lan rộng khắp toàn quốc, về cơ bản thay chế cho chữ Hán và chữ Nôm
để trở thành văn tự chủ yếu trong báo chí và sáng tác văn học.
Trong quá khứ, văn học viết bằng chữ Hán và chữ Nôm chủ yếu được sáng tác và tiếp nhận bởi
tầng lớp trí thức. Việc chữ quốc ngữ được sử dụng như một văn tự cho sáng tác văn học vì thế đem
đến một thay đổi hết sức quan trọng: đưa văn học đến với đông đảo quần chúng. Tính đại chúng, tính
phổ thông vì thế là thuộc tính đầu tiên của văn học Việt Nam hiện đại.
Thứ hai là in ấn và báo chí hiện đại. Trong truyền thống, tác phẩm văn học, trừ một số ít được khắc
in (chỉ từ giai đoạn hậu kì của văn học trung đại) còn lại chủ yếu truyền bá dưới hình thức thủ bản và
truyền khẩu. Hình thức truyền bá này khiến số lượng tác phẩm bị hạn chế và không thuận lợi cho việc
hình thành một đội ngũ nhà văn chuyên nghiệp. Tình hình đã hoàn toàn thay đổi với sự hiện diện của
kĩ thuật in ấn phương Tây hiện đại. So với kĩ thuật khắc in truyền thống, in ấn phương Tây có ba lợi thế
quan trọng: nhanh, giá thành rẻ, số lượng bản in lớn.
In ấn hiện đại làm xuất hiện báo chí, lan rộng từ Nam ra Bắc. Ở giai đoạn đầu mới chỉ là công báo bằng
tiếng Pháp, nhưng cùng với thời gian, báo chí tư nhân bằng chữ quốc ngữ
dần chiếm ưu thế. Chu kì của tờ báo cũng ngày càng được rút ngắn: từ những nguyệt san – bán nguyệt
san – tuần báo – nhật báo. Qua báo chí, các luồng tư tưởng được hiện diện và lan toả sâu rộng đến
mọi tầng lớp nhân dân. Nhà báo không chỉ là người đưa tin mà đã trở thành những nhà tư tưởng, nhà
hoạt động xã hội đặc biệt quan trọng. Không ngẫu nhiên mà những nhà văn hoá, nhà chính trị quan
trọng nhất của Việt Nam thời kì này như Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Nguyễn An Ninh (1900 –
1943), Huỳnh Thúc Kháng 黃叔抗 (1876 – 1947), Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh (1890 –
1969)... đều đồng thời là những
nhà báo. Theo chiều ngược lại, chính sự thành công với vai trò của những nhà báo đã khiến những
nhân vật như Phạm Quỳnh (1892 – 1945) của Nam Phong tạp chí và Nhất Linh (1906 – 1963) của Phong
hoá, Ngày nay trở thành những nhà hoạt động xã hội, những chính khách.
Phải đến những năm 1934, với Tiểu thuyết thứ Bảy của Vũ Đình Long (1896 – 1960), mới có một
tờ báo dành riêng cho văn học nhưng ngay từ những buổi đầu tiên, hầu như tờ báo nào cũng có một
mục dành cho văn học (thường được gọi là Văn uyển) trên đó đăng tải thơ, truyện ngắn, tạp văn và
đặc biệt hấp dẫn là những tiểu thuyết nhiều kì. Phần lớn những tác phẩm quan trọng nhất của văn học
Việt Nam thời kì này đều hiện diện trên tờ báo trước khi được in sách. Đặc điểm trên dẫn đến một
loạt những hệ quả quan trọng. Một là, tồn tại trong môi trường báo chí, văn học cũng dần được thâm lOMoAR cPSD| 61527594
nhiễm cảm quan về tính thời sự. Hai là, tờ báo là một dạng hàng hoá. Và vì các tờ báo đều có sự hiện
diện của văn học và xuất hiện mang tính chu kì nên theo thời gian dần hình thành nên một đội ngũ
những người viết chuyên nghiệp cũng như người đọc chuyên nghiệp. Ở mức cao nhất của sự tương
tác giữa nhà văn và độc giả, từ những năm 1920, đã từng bước làm xuất hiện những nhà phê bình và nhà nghiên cứu văn học. Ba là,
ở giai đoạn này, nhà báo và nhà văn tuy vẫn có những sự khu biệt nhưng về cơ bản là thống nhất với
nhau. Điều này khiến văn học dù muốn hay không đều phải tham dự vào những diễn ngôn tư tưởng
hết sức phức tạp. Nhà văn không chỉ là người kể chuyện mà còn là người trí thức, nhà tư tưởng và vì
thế luôn hướng tác phẩm của mình đến những vấn đề của đời sống xã hội. Vì những lí do này, có thể
xem văn học Việt Nam hiện đại là văn học báo chí.
Thứ ba, về giáo dục, cùng với sự hiện diện của người Pháp, nền giáo dục truyền thống dần bị hạn
chế và bãi bỏ. Năm 1915 là khoa thi cuối cùng của chế độ khoa cử Nho học ở miền Bắc. Năm 1919 là
khoa thi cuối cùng của chế độ khoa cử Nho học ở miền Trung và trên toàn cõi Việt Nam. Song song với
quá trình này là sự hình thành một hệ thống giáo dục mới, được gọi là giáo dục Pháp – Việt. Những
điều chỉnh Học chính tổng quy năm 1924 đã đưa chữ quốc ngữ trở thành một môn học chính thức
trong ba năm đầu tiên của bậc tiểu học, song về cơ bản, việc học tập và giảng dạy được tiến hành bằng
tiếng Pháp. Theo thời gian, hệ thống giáo dục Pháp – Việt ngày một lớn mạnh và thu hút một số lượng
lớn học sinh, sinh viên ở mọi cấp học. Giáo dục Pháp – Việt đã làm thay đổi thế giới quan, nhân sinh
quan của thế hệ trẻ Việt Nam. Chẳng những thế, việc tiếp xúc với văn học Pháp một cách sâu sắc và
hệ thống đã hình thành ở họ những trải nghiệm mới về lối viết, hệ thống thể loại cũng như những nhu
cầu thẩm mĩ mới về văn học gắn với tên tuổi của những nhà thơ và nhà văn Pháp (đặc biệt là những
nhà thơ, nhà văn từ thế kỉ XVII trở đi) như: Molière, Rousseau, Hugo, Balzac, Baudelaire, Lamartine,
Maupassant... Những trải nghiệm mới này sẽ thay đổi tận gốc những khuôn mẫu, quan niệm văn
chương trong tâm trí của một thế hệ trí thức trẻ tuổi. Sau khi tốt nghiệp, một số ít trong họ sẽ trở
thành những nhà văn; số còn lại sẽ đóng vai trò là những độc giả. Cả người sáng tác và độc giả đều có
nhu cầu hướng tới những hình mẫu văn chương mà họ đã thụ đắc được trên ghế của nhà trường Pháp
– Việt. Một cách tự nhiên, văn học Việt Nam được phương Tây hoá một cách triệt để và nhanh chóng.
Thứ tư, về đô thị hiện đại, khác với Trung Quốc và Nhật Bản, đô thị truyền thống của Việt Nam
phát triển tương đối èo uột và không đủ sức để tạo thành một khu vực văn hoá đủ mạnh trong tương
quan với cung đình và nông thôn. Nhân vật chính của đô thị truyền thống vẫn là nhà quý tộc. Sự hiện
diện của người Pháp với hai cuộc khai thác thuộc địa đã làm xuất hiện từ Nam ra Bắc những đô thị
hiện đại. Với những đô thị hiện đại này, kinh tế thị trường thực sự xuất hiện và sự vận hành theo quy
luật cung cầu của nó đã biến văn học trở thành hàng hoá. Từ đây, văn học không còn để hướng tới
người tri kỉ như trong truyền thống mà luôn phải định hướng vào thị hiếu của người đọc (cũng là người
mua sản phẩm văn học). Hình thành cả một dòng văn học đại chúng với những tác giả, tác phẩm luôn lOMoAR cPSD| 61527594
chạy theo để khai thác, ve vuốt và thoả mãn những nhu cầu của đám đông với những đề tài về tình
yêu, tình dục, phiêu lưu, kì bí, người hùng... Mặt khác, thị hiếu của độc giả đô thị thì liên tục thay đổi.
Điều này đòi hỏi các nhà văn cũng phải liên tục làm mới mình để theo kịp sự biến đổi trên. Văn học
hiện đại vì thế bị định hướng vào tiêu chí của cái mới. Theo thời gian, ngay cả cái mới cũng trở thành
cũ. Vậy nên, nhu cầu về cái mới trở thành một ám ảnh thường trực, ngày một trở nên riết róng trong
văn học hiện đại. Đây là lí do khiến văn học hiện đại không những phá vỡ những quy phạm truyền
thống mà còn luôn tự phủ định mình để hướng tới những cách tân, tìm tòi, thử nghiệm. Cuối cùng, thị
hiếu của độc giả chẳng những luôn đòi hỏi cái mới mà còn đòi hỏi cái đa dạng. Họ muốn, trong cùng
lúc, thưởng thức những món ăn tinh thần khác nhau. Điều này khiến hoạt động sáng tác hướng tới sự
khác biệt. Cái tôi được đề cao. Ai đến với văn đàn cũng để khẳng định mình như một chân dung độc đáo, một ngoại lệ.
Văn học trở thành một vườn hoa với rất nhiều hương sắc.
Tóm lại, bốn nhân tố trên (chữ quốc ngữ; in ấn và báo chí hiện đại; giáo dục; đô thị hiện đại) là
những tiền đề quan trọng nhất cho tiến trình hiện đại hoá văn học Việt Nam từ năm 1885 đến năm
1945. Với những tiền đề này, văn học Việt Nam đã chứng kiến một sự chuyển đổi sâu sắc và toàn diện:
từ văn học đặc tuyển sang văn học hướng tới đại chúng; từ văn học của những thi tập, thủ bản, ngâm
vịnh sang văn học in ấn dưới hình thức của tờ báo, cuốn sách; từ văn học tải đạo, ngôn chí hướng tới
văn học quan tâm đến hiện thực; từ văn học trong không gian cung đình, nông thôn sang văn học đô
thị, thành thị; từ văn học thù tạc, quà tặng, sáng tác văn học như một thú chơi tao nhã sang văn học
hàng hoá, sáng tác văn học trở thành một nghề với đội ngũ nhà văn và độc giả chuyên nghiệp.
3.1.2. Tiến trình văn học
3.1.2.1. Thời kì từ năm 1885 đến năm 1913: Vai trò tiên phong của văn học miền Nam và những
cách tân văn học truyền thống đầu tiên
Những dấu hiệu đầu tiên của tiến trình hiện đại hoá văn học đến từ văn học miền Nam. Điều này
có thể được giải thích từ hai nguyên nhân chính. Thứ nhất, từ rất sớm, Nam Kì đã là thuộc địa của
người Pháp và vì thế là nơi sớm tiếp nhận những ảnh hưởng từ phương Tây. Tờ báo chữ quốc ngữ đầu
tiên (Gia Định báo) ra đời tại Sài Gòn (1865). Nam Kì cũng là nơi xuất hiện những trí thức song ngữ đầu
tiên của Việt Nam. Thứ hai, là vùng đất mới, quán tính của văn học truyền thống ở miền Nam không
quá lớn và miền Nam (trong toàn bộ lịch sử tồn tại của mình) luôn cho thấy sự cởi mở trong việc tiếp
nhận cái mới. Hiểu thế, ta sẽ không thấy ngạc nhiên khi ba cuốn tiểu thuyết đầu tiên viết bằng chữ
quốc ngữ đã xuất hiện ở Nam Bộ, đó là Truyện thầy Lazaro Phiền (1887) của Nguyễn Trọng Quản (1865
– 1911), Hoàng Tố Oanh hàm oan (1910) của Trần Chánh Chiếu (1868 – 1919), Phan Yên ngoại sử tiết
phụ gian truân (1910) của Trương Duy Toản (1885 – 1957).
Nguyễn Trọng Quản sinh năm 1865, xuất thân Công giáo, là học trò và sau này là con rể của Trương
Vĩnh Ký. Ông được đào tạo ở Algeria. Khi về nước, ông làm nghề dạy học, đã từng giữ chức Giám đốc lOMoAR cPSD| 61527594
Trường Sơ học Nam Kì. Ngoài Truyện thầy Lazaro Phiền, người ta còn tìm thấy tên một tác phẩm khác
của Nguyễn Trọng Quản (Kim vọng phu truyện) được quảng cáo trên báo nhưng hiện chưa tìm thấy
văn bản. Với dung lượng khiêm tốn (dù được ghi là tiểu thuyết nhưng trên thực tế chỉ là một truyện
vừa), Truyện thầy Lazaro Phiền là một cột mốc đánh dấu sự chuyển dịch từ trung đại sang hiện đại của
văn học Việt Nam. Trong truyền thống, thể loại và cốt truyện trong các tác phẩm tự sự của văn học
Việt Nam thường vay mượn từ Trung Quốc. Truyện thầy Lazaro Phiền đã cho thấy nó hoàn toàn đoạn
tuyệt với cội nguồn Trung Quốc để hướng tới nguồn ảnh hưởng mới từ phương Tây. Truyện luôn được
kể từ ngôi thứ nhất, mang màu sắc của những lời tự thú thường thấy trong văn học phương Tây; bên
cạnh lời kể của nhân vật là hình thức kể chuyện bằng viết thư; mô hình truyện lồng trong truyện; luôn
có sự xáo trộn giữa thời gian sự kiện và thời gian trần thuật; các mô típ về: cơn ghen, người trả thù
vắng mặt làm người ta nhớ đến Otello (Shakespeare) và Le Comte de Monte-Cristo (Dumas); không còn
là con người với những phẩm chất trung – hiếu – tiết – nghĩa truyền thống, thay vào đó là con người
bình thường với những đam mê, lầm lỗi; thế giới nội tâm đã bắt đầu là đối tượng của sự miêu tả nghệ thuật. Thời gian
sự kiện của tác phẩm kết thúc vào năm 1885, tác phẩm được in năm 1887 gây cảm tưởng về một câu
chuyện có thật, đang diễn ra ở thời hiện tại. Đặc biệt, lời văn của Truyện thầy Lazaro Phiền thuần một
chất khẩu ngữ, không hề bị ám ảnh bởi lối văn biền ngẫu (vẫn còn kéo dài đến năm 1925 với Tố Tâm
của Hoàng Ngọc Phách (1896 – 1973) và các tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh sau này). Có thể nói, hầu
hết những cách tân về kĩ thuật tự sự của văn xuôi nghệ thuật Việt Nam nửa trước thế kỉ XX đều đã
xuất hiện ở Truyện thầy Lazaro Phiền. Có một điều thú vị là: dù ra đời khá lâu sau tác phẩm của Nguyễn
Trọng Quản nhưng hai cuốn tiểu thuyết của Trần Chánh Chiếu, Trương Duy Toản lại được viết theo mô
hình tự sự và những mô típ, những hình mẫu nhân vật truyền thống. Về điểm này, chúng
không khác nhiều so với truyện thơ U tình lục
(sáng tác năm 1910 và in thành sách năm 1913) của Hồ Biểu Chánh (1884 – 1958). Những sự kiện đó
càng cho thấy tính đột phá, sự thách thức tầm đón nhận và quán tính sáng tạo của Truyện thầy Lazaro Phiền.
Đóng vai trò hình thành nên diện mạo của nền văn học mới ở Nam Bộ thời kì này không thể không
nhắc đến những tác phẩm (dịch từ tiểu thuyết đại chúng Trung Quốc) của Nguyễn Chánh Sắc với Truyện
Nhạc Phi (1905), Ngũ hổ bình Tây
(1906), Thuyết Đường diễn nghĩa (1908), Chung Vô Diệm (1909), Kim cổ kì quan
(1910)...; Trần Phong Sắc (1873 – 1928) với Phong thần diễn nghĩa (1906), Tiết
Đinh San chinh Tây (1907), Tây du diễn nghĩa (1909)...; Nguyễn An Khương (1860 –
1931) với Tàn Đường diễn nghĩa (1906), Phản Đường diễn nghĩa (1906), Hậu Tam Quốc diễn nghĩa 1906)...
Chính những tiểu thuyết dịch này đã đóng vai trò gợi ý cho sự xuất hiện của một loạt những cây bút
về tiểu thuyết lịch sử trong văn học Nam Bộ ở giai đoạn 1913 – 1932. lOMoAR cPSD| 61527594
Ở miền Bắc, đội ngũ sáng tác vẫn là nhà nho, các thể loại truyền thống vẫn giữ vai trò chủ đạo. Văn
thơ của người tài tử, sự hứng thú với những vẻ đẹp của thiên nhiên, của nghệ thuật và sự hành lạc
vẫn tiếp tục hiện diện với những sáng tác của Dương Khuê (1839 – 1902), Dương Lâm (1851 – 1920)
và Chu Mạnh Trinh (1862 – 1905). Ở một nhánh khác, mẫu hình nhà nho ẩn dật trong truyền thống
đến Nguyễn Khuyến (1835 – 1909) đã có những thay đổi quan trọng. Đỗ Tam nguyên, có một hoạn lộ
khá thông thuận nhưng ý thức được sự bất lực trước thời cuộc đã khiến Nguyễn Khuyến lựa chọn cáo
quan, lui về làm một thôn dân, một kẻ ẩn dật vui với điền viên, lánh xa thế tục để di dưỡng tinh thần.
Người thôn dân ấy lại mở lòng mình trước những sinh hoạt, buồn vui của cuộc sống thường nhật. Thơ
Nguyễn Khuyến vì thế không lánh đời, trái lại nó bắt vào mảng hiện thực đời thường mà văn học nhà
nho trước đó thường bỏ qua. Đóng góp quan trọng nhất của Nguyễn Khuyến cho lịch sử văn học là
những bài thơ Nôm về làng quê Việt Nam. Không còn là một nông thôn điền viên ước lệ, nông thôn
trong thơ Nguyễn Khuyến đậm đà chất hiện thực không chỉ trong cảnh sắc mà còn cả trong những chi
tiết đậm màu sắc phong tục. Một nét mới lạ của thời kì này là sự xuất hiện của đô thị hiện đại. Nhà
nho đầu tiên hiện diện trong môi trường phi truyền thống này là Tú Xương (Trần Tế Xương, 1870 –
1907). Từ cái nhìn của một nhà nho, với sự quan sát nhạy bén, với tiếng cười trào phúng độc đáo, Tú
Xương đã ghi lại trong thơ mình những chân dung, những sự kiện tiêu biểu của buổi giao thời mà ở
đó những đạo lí, giá trị truyền thống bị phôi pha, vùi lấp; cái kệch cỡm của xã hội tiền bạc xuất hiện
trong sự đắc thắng, phô phang. Với Tú Xương, thơ ca đã thoát xa quỹ đạo tải đạo, ngôn chí để hướng
tới chức năng miêu tả, tái hiện hiện thực một cách khách quan, chân thực. Sau Tú Xương, mạch thơ
trào phúng với khả năng phản ánh hiện thực chiều sâu này được tiếp tục với hai đại diện tiêu biểu là
Nguyễn Thiện Kế 阮善計 (1849 – 1937) và Kép Trà (1873 – 1928). Có thể xem dòng thơ trào phúng này
là tiền đề quan trọng cho khuynh hướng hiện thực thời kì 1932 – 1945.
Tuy nhiên, ở trung tâm của sự hiện đại hoá văn học thời kì này phải là văn chương yêu nước của
các nhà nho chí sĩ được thể hiện trong thơ văn Đông Kinh nghĩa thục, thơ văn Phan Bội Châu và Phan
Châu Trinh. Đông Kinh nghĩa thục là tổ chức của các nhà nho chí sĩ như: Lương Văn Can 梁文玕 (1854
– 1927), Nguyễn Quyền 阮權 (1869 – 1941), Dương Bá Trạc 楊伯濯 (1884 – 1944), Hoàng Tăng Bí (1883
– 1939), Đào Nguyên Phổ 陶源譜 (1861 – 1908), Nguyễn Bá Học (1857 –
1921) và một số trí thức Tây học như Nguyễn Văn Vĩnh (1882 – 1936), Phạm Duy Tốn (1881 – 1924)...
Tên gọi Đông Kinh nghĩa thục là mô phỏng theo Khánh Ứng nghĩa thục (Keio-Gijuku) của Phúc Trạch
Dụ Cát (Fukuzawa Yukichi) ở Nhật Bản. Sự ảnh hưởng của phương Tây đến các nhà nho này chưa phải
là văn học, nghệ thuật mà là những tư tưởng văn hoá – chính trị của Lư Thoa (Rousseau), của Mạnh
Đức Tư Cưu (Montesquieu), Đạt Nhĩ Văn (Darwin)... thông qua những sách báo Tân thư đến từ Trung
Quốc và Nhật Bản. Một loạt những khái niệm và cùng với đó là những tư tưởng mới về dân chủ, cạnh lOMoAR cPSD| 61527594
tranh, xã hội, văn minh... được các nhà nho hồ hởi tiếp nhận, từ đó dấy lên một phong trào duy tân
để tự cường. Văn minh tân học sách của Đông Kinh nghĩa thục có ảnh hưởng sâu rộng đến đời sống
xã hội trong việc phê phán người hủ nho, chống lối học khoa cử lỗi thời, đồng thời đề cao việc học chữ
quốc ngữ, đề cao thực học, quan tâm đến tri thức khoa học, kĩ thuật của phương Tây... Từ đây, văn
chính luận trở thành một thể loại quan trọng. Bên cạnh đó các thể loại truyền thống như vè, xẩm, thơ
lục bát và song thất lục bát, vì thuận lợi cho việc truyền khẩu, cũng được sử dụng để phục vụ cho việc
cổ động, tuyên truyền được rộng rãi. Đặc biệt, hai thể loại lục bát và song thất lục bát đã được sử dụng
hết sức thành công để xây dựng thể diễn ca cách mạng với những tác phẩm rất nổi tiếng như Bài hát
khuyên học chữ quốc ngữ (Huỳnh Thúc Kháng), Bài hát yêu nước (Phạm Tư Trực 范思直, 1868 – 1921),
Kêu hồn nước (Nguyễn Quyền), Thiết tiền ca 鐵錢歌 (Nguyễn Phan Lãng, ? – 1948), Hải ngoại huyết
thư 海外血書 (sáng tác bằng chữ Hán của Phan Bội Châu, bản dịch Nôm theo thể song thất lục bát
của Lê Đại, 1875 – 1951), Á Tế Á ca 亞細亞歌 (Phan Bội Châu), Tỉnh quốc hồn ca 醒國魂歌 (Phan Châu
Trinh). Mẫu số chung của văn thơ Đông Kinh nghĩa thục là hướng tới một mô hình xã hội mới theo
tinh thần dân chủ của phương Tây: ngôi vua bị nghi ngờ, bị xoá bỏ vị trí tối thượng; vai trò và quyền
lực của nhân dân được đề cao; một mô hình nhà nước mới được giới thiệu với sự phân quyền giữa
nghị viện, luật pháp và chính phủ (Quốc dân độc bản 國民讀本). Con người lí tưởng mà văn thơ yêu
nước thời kì này hướng đến là người quốc dân. Tuy chưa phải là người công dân của xã hội hiện đại
nhưng người quốc dân là một bước tiến lớn trong sự so sánh với con người thần dân truyền thống.
Cả Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh tuy không phải là thành viên nhưng lại có quan hệ hết sức
mật thiết với Đông Kinh nghĩa thục. Nhiều sáng tác của Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh được sử dụng
làm tài liệu học tập của Đông Kinh nghĩa thục. Phan Châu Trinh cũng trực tiếp đến diễn thuyết tại Đông
Kinh nghĩa thục mỗi khi ra
Hà Nội. Cả hai chí sĩ họ Phan đều chủ trương duy tân, hiện đại hoá đất nước để tự cường, bảo chủng
trước sức mạnh văn minh của phương Tây. Tuy nhiên, sự khác biệt là không hề nhỏ. Phan Châu Trinh,
xuất thân khoa bảng, đã từng làm quan một thời gian ngắn nhưng sau đó từ quan để theo đuổi mục
đích duy tân đất nước. Trong các nhà nho đương thời, Phan Châu Trinh là người nhận thấy rõ nhất sự
mục ruỗng của xã hội phong kiến, những căn bệnh trầm trọng của quốc dân tính (trọng hư vị, hèn đớn,
hám lợi...) và vì thế ông muốn mượn thang thuốc dân chủ và văn minh của phương Tây để làm khoẻ
khoắn lại dòng máu thiêng của dân tộc, để tự cường. Đây là lí do để Phan Châu Trinh không tán thành
chủ trương bạo động và cầu ngoại của Phan Bội Châu: “Không bạo động! Bạo động thì chết! Không
mong ngóng nước ngoài cứu giúp! Mong ngóng là ngu”. Phan Bội Châu đã từng đỗ Giải nguyên trường
Nghệ An nhưng không ra làm quan. Từ 1905 đến 1925 (khi bị Pháp bắt cóc tại Thượng Hải), cuộc đời
Phan Bội Châu gắn liền với các hoạt động cách mạng với mục tiêu cứu quốc: lập Duy tân hội (1904),
Việt Nam Quang Phục hội (1912). Phan Bội Châu không phải là không nhìn thấy những tì vết của quốc lOMoAR cPSD| 61527594
dân tính nhưng ông cũng nhìn thấy ảo tưởng dân chủ của Phan Châu Trinh trong cảnh đất nước nô lệ:
“Nước không còn nữa thì chủ cái gì”. Chính vì thế, mục tiêu hàng đầu của Phan Bội Châu là giành lại
độc lập dân tộc. Cầu viện Nhật Bản chỉ là một trong rất nhiều phương sách mà Phan Bội Châu tìm tòi,
thể nghiệm. Điều thiết yếu là phải bồi dưỡng ý thức về người quốc dân, từ đó đoàn kết mọi thành
phần khác nhau trong xã hội cho một mục đích chung, sẵn sàng xả thân giành lại độc lập cho dân tộc.
Số lượng thơ văn mà Phan Bội Châu để lại rất lớn, đa dạng về thể loại (sử, truyện, tiểu thuyết, thơ,
tuồng, chèo...) nhưng đều hướng tới hình tượng trung tâm: người anh hùng cứu nước.
Nhà nho là nhà đạo đức, nhà chính trị hơn là một nghệ sĩ. Những sự kiện lịch sử thời kì này thu
hút nhà nho vào vũ đài của hoạt động đấu tranh chính trị, tư tưởng và văn hoá hơn là quan tâm đến
những vấn đề của đổi mới văn học. Đặc điểm nổi bật của văn học thời kì này là nỗ lực cách tân nền
văn học cũ, cố gắng ở mức cao nhất việc khai thác các thể loại truyền thống để đáp ứng những nhu
cầu mới của thời đại (trường hợp Truyện thầy Lazaro Phiền chỉ là ngoại lệ). Một sự thay đổi cơ bản của
hệ thống thể loại phải chờ đợi ở giai đoạn sau.
3.1.2.2. Thời kì từ năm 1913 đến năm 1932: Vai trò tiên phong của dịch thuật, lí luận – phê bình văn
học và sự hình thành hệ thống thể loại văn học theo mô hình phương Tây
Sau sự đàn áp đẫm máu của thực dân Pháp với Đông Kinh nghĩa thục và phong trào kháng thuế
miền Trung (1908), lực lượng sáng tác của các nhà nho trên văn đàn công khai bị tổn thương nghiêm
trọng: một số lên đoạn đầu đài, một số phải chạy sang hải ngoại, đa số còn lại bị chính quyền Pháp đày
ra Côn Đảo. Văn đàn công khai giai đoạn này là một khoảng trống. Bắt đầu từ năm 1913, với sự ra đời
Đông Dương tạp chí của Nguyễn Văn Vĩnh, một thế hệ những nhà văn xuất thân Tây học xuất hiện và
trở thành lực lượng sáng tác văn học chủ đạo thay thế cho thế hệ cầm bút của các nhà nho giai đoạn trước.
Dòng văn học yêu nước của các nhà nho, như ta đã thấy ở trên, do sự đàn áp của chính quyền thực
dân, thời kì này chủ yếu tồn tại trong các nhà tù, hình thành nên mảng thi ca trong tù rất đặc sắc. Ở
hải ngoại, bên cạnh những sáng tác bằng chữ Hán của Phan Bội Châu ở Trung Quốc (các truyện kí lịch
sử, tiểu thuyết Trùng Quang tâm sử 重光心史) phải kể đến những sáng tác bằng tiếng Pháp của nhà
cách mạng trẻ tuổi Nguyễn Ái Quốc tại Pháp, trong đó nổi bật là tác phẩm chính luận Bản án chế độ
thực dân Pháp và những truyện, kí sáng tác trong những năm 1920 (Lời than vãn của bà Trưng Trắc,
Vi hành, Những trò lố hay là Varenne và Phan Bội Châu). Đây đều là những tác phẩm có sức phê phán
mạnh mẽ đối với chế độ thực dân Pháp và vua quan bán nước. Đặc biệt, một số truyện ngắn của Nguyễn Ái Quốc
đã có bút pháp nghệ thuật hiện đại trong kĩ thuật tự sự. Đáng tiếc là phần lớn các tác phẩm này không
được độc giả Việt Nam thời kì này biết đến và vì thế không có được những tác động đến tiến trình
hiện đại hoá của văn học dân tộc. lOMoAR cPSD| 61527594
Ở bộ phận văn học công khai, từ năm 1913 trở đi, người ta chứng kiến sự hình thành một đội ngũ
sáng tác mới, phần lớn đều là những trí thức song ngữ với những ảnh hưởng ngày một sâu sắc từ văn
học phương Tây. Hai cuộc khai thác thuộc địa đã hình thành nên hệ thống đô thị hiện đại trên toàn
quốc. Cùng với đó là những thay đổi về giáo dục, sự phát triển của báo chí đã hình thành nên tầng lớp
thị dân với những nhu cầu văn học mới. Chưa thể có ngay những nhà văn chuyên nghiệp hiện đại để
đáp ứng nhu cầu này và vì thế văn học dịch đã xuất hiện như một giải pháp. Trước tiên phải kể đến
một tầng lớp nhà nho đông đảo thất thế trong môi trường Tây học chuyển sang dịch thuật các tác
phẩm đại chúng của văn học Trung Quốc. Những bản dịch của Nguyễn Đỗ Mục (1882 – 1951) như Song
phượng kì duyên, Tây sương kí, Tái sanh duyên, Đông Chu liệt quốc và của Phan Kế Bính (1875 – 1921)
như Tam quốc chí diễn nghĩa... rất hấp dẫn người đọc, đặc biệt là người đọc đại chúng. Nhưng bên
cạnh đó là vai trò ngày càng lớn của những tác phẩm dịch sách phương Tây. Ở đây, phải ghi nhận những
đóng góp đặc biệt quan trọng của Nguyễn Văn Vĩnh với Đông Dương tạp chí và tủ sách Âu Tây tư
tưởng; Phạm Quỳnh với Nam Phong tạp chí. Nguyễn Văn Vĩnh là một nhà dịch thuật đa tài. Những
dịch phẩm của ông trải rộng trên nhiều thể loại: thơ ngụ ngôn của La Fontaine, tiểu thuyết, kịch nói
của Jean Baptiste Poquelin ... Những bản dịch của Nguyễn Văn Vĩnh luôn thanh thoát, có giá trị nghệ
thuật cao góp phần cho sự xuất hiện của văn học quốc ngữ trong buổi đầu non trẻ. Bài thơ Con ve và
con kiến (dịch thơ La Fontaine) vẫn được các nhà nghiên cứu đánh giá là sự tiên phong cho Thơ mới
sau này. Nhiều nhà văn nổi tiếng như Vũ Đình Chí (Tam Lang, 1900 – 1986), Nguyễn Công Hoan (1903
– 1977)... đã công khai thừa nhận những ảnh hưởng trực tiếp từ những bản dịch của Nguyễn Văn Vĩnh
đến niềm đam mê sáng tác cũng như kinh nghiệm sáng tác của họ.
Hoạt động dịch thuật và giới thiệu văn học phương Tây của Phạm Quỳnh và các cộng sự của ông
trên Nam Phong tạp chí cũng rất phong phú: kịch của Corneille; thơ của Baudelaire, Musset, Lamartine;
truyện ngắn của Maupassant; tiểu thuyết của P. Bourget... Điểm độc đáo của Phạm Quỳnh là ở chỗ:
ông không chỉ dịch để hướng tới giới thiệu những thực đơn văn học mới như Nguyễn Văn Vĩnh mà còn
viết phê bình, lí luận để giúp người ta biết cách thưởng thức những món ăn tinh thần mới. Những công
trình phê bình lí luận của Phạm Quỳnh về truyện ngắn của Maupassant, về tiểu thuyết, kịch nghệ
phương Tây, so sánh thơ Việt và thơ Pháp, đọc lại Truyện Kiều của Nguyễn Du từ những chuẩn mực
thẩm mĩ của văn học phương Tây... đã góp phần quan trọng hình thành những quy phạm mới trong
tiếp nhận văn học. Cũng chính Phạm Quỳnh đã viết những bài phê bình rất kịp thời để giới thiệu những
nét đặc sắc và cổ vũ cho những sáng tác quốc ngữ mới của Nguyễn Bá Học (1857 – 1921), Phạm Duy
Tốn (1881 – 1924), Tản Đà (1889 – 1939), Đặng Trần Phất (1902 – 1929). Bên cạnh đó, Phạm Quỳnh
cũng rất sở trường về văn học thuật và triết học. Ông có công lớn trong việc giới thiệu các triết gia nổi
tiếng của Pháp và phương Tây đến người đọc Việt Nam. Có thể nói, không ai khác, Phạm Quỳnh chính
là tác gia về phê bình, lí luận văn học hiện đại và văn học thuật đầu tiên ở Việt Nam.
Môi trường văn học dịch và lí luận, phê bình đầy mới mẻ cùng với sự tiếp xúc trực tiếp với các tác
phẩm văn học phương Tây đã làm xuất hiện ở thời kì này những sáng tác theo hướng mô phỏng (phóng lOMoAR cPSD| 61527594
tác): Hồ Biểu Chánh công khai thừa nhận có tới 12 cuốn tiểu thuyết của ông được gợi ý và mô phỏng
khá sát những tiểu thuyết của các nhà văn phương Tây mà danh sách trải dài từ Hugo,
Balzac đến H. Malot và cả Dostoievski. Truyện ngắn
Sống chết mặc bay của Phạm Duy Tốn là sự mô phỏng trực tiếp từ truyện ngắn Ván bi-a của A. Daudet. Đến
Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách, sự mô phỏng đã được xử lí khá tinh tế để chỉ còn là những dấu vết đến
từ những nguồn ảnh hưởng khá đa dạng từ Rousseau đến Bourget (một
nhà văn Pháp thời danh lúc đó) và cả những tiểu thuyết
Uyên ương hồ điệp của Từ Chẩm Á được dịch trên Nam Phong.
Bấy nhiêu nhân tố đã làm nên một bức tranh văn học đặc biệt phồn tạp và mới mẻ của hệ thống
thể loại giai đoạn này:
– Về thơ: Những ngọn gió báo trước sự xuất hiện của phong trào Thơ mới (1932 – 1945) đã xuất
hiện với Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu. Cái tôi cô đơn với những sầu – mộng thi vị, cảm thức về thời gian,
nét phong tình và trên tất cả là chủ nghĩa tự luyến (narcissism) – tiền thân trực tiếp của chủ nghĩa cá nhân
(individualism) – của Tản Đà đã khiến những Khối tình con I (1916), Khối tình con II (1918),
Giấc mộng con I (1916), Giấc mộng lớn (1929) được độc giả đô thị say mê, tán thưởng. Những sáng
tác của Á Nam Trần Tuấn Khải (1895 – 1983) trong Duyên nợ phù sinh (1921) và Bút quan hoài (1927)
lại làm lay động lòng người bởi những tâm sự nước non, cao cả. Cả Tản Đà và Á Nam Trần Tuấn Khải
đều rất sở trường với những thể loại văn học truyền thống, đặc biệt là lục bát, dân ca và phong dao.
Bằng tài năng của mình, họ đã nâng cấp và đưa các thể loại này gia nhập đời sống văn học đương đại.
Mạch nguồn truyền thống này là sự chuẩn bị quan trọng cho sự tích hợp giữa dân tộc và phương Tây
trong phong trào Thơ mới giai đoạn 1932 – 1945.
– Về truyện ngắn: Các nhà văn viết truyện ngắn khá đông đảo, gồm: Nguyễn
Bá Học, Phạm Duy Tốn, Trần Quang Nghiệp (1907 – 1983), Hoàng Ngọc Phách, Tản Đà, Vũ Đình Chí. Tuy
nhiên, về đại thể có thể thấy hai khuynh hướng chính. Khuynh hướng thứ nhất với đại diện tiêu biểu
là Nguyễn Bá Học vẫn mang đậm những đặc điểm của truyện trung đại: thiên về tải đạo nói chí, tác
giả chỉ mượn nhân vật và sự kiện để bày tỏ quan điểm xã hội của mình, hành văn còn rườm rà, chưa
thoát được dấu vết biền ngẫu. Khuynh hướng thứ hai với đại diện tiêu biểu là Phạm
Duy Tốn cho thấy nỗ lực hướng tới học tập các kĩ thuật của phương Tây: lối vào truyện trực tiếp, lời
văn linh hoạt, gắn với khẩu ngữ, tác giả chủ tâm để sự kiện và nhân vật hiện lên khách quan, có tiếng
nói riêng. Ở khuynh hướng thứ hai này, những truyện ngắn của nhà văn Nam Bộ Trần Quang Nghiệp
trên Công luận báo cũng rất đáng chú ý với tiếng cười hóm hỉnh, châm biếm làm thành một diện mạo riêng, độc đáo. lOMoAR cPSD| 61527594
– Về tiểu thuyết: Tiểu thuyết thời kì này rất phong phú về chủng loại. Ở miền Bắc, có Đặng Trần
Phất với Cành hoa điểm tuyết (1921) và Cuộc tang thương (1923). Cả hai cuốn tiểu thuyết đều hướng
tới phản ánh bức tranh toàn cảnh của
xã hội Việt Nam buổi đầu Âu hoá với rất nhiều tang thương, dâu bể. Bên cạnh đó, phải kể đến Hoàng
Ngọc Phách với Tố Tâm (1925): cuốn tiểu thuyết tình yêu đầu tiên lấy nội tâm con người làm đối tượng
miêu tả – một sự báo trước cho tiểu thuyết Tự lực văn đoàn. Ở miền Nam là một đội ngũ tác giả hùng
hậu và một số lượng tiểu thuyết khiến người ta phải kinh ngạc. Trong chuyên khảo Tiểu thuyết Nam
Bộ cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, Nguyễn Kim Anh đã cung cấp một danh mục tiểu thuyết Nam Bộ từ
1887 đến 1932 (phần lớn là từ 1910 đến 1932) với 553 đầu sách1. Về đại thể, tiểu thuyết Nam Bộ thời
kì này bao gồm những tiểu loại chính sau: Thứ nhất, tiểu thuyết phong tục với đại diện tiêu biểu là Hồ
Biểu Chánh. Từ 1912 đến 1943, với 41 cuốn tiểu thuyết, Hồ Biểu Chánh dù vẫn trung thành với lối kể
truyện truyền thống nhưng đã dựng lại bức tranh toàn cảnh của đời sống Nam Bộ với đủ mọi hạng
người, mọi sự kiện lớn nhỏ. Tiếp nối Nguyễn Đình Chiểu, Hồ Biểu Chánh là người đã điển phạm hoá
tính cách con người Nam Bộ với những chân dung bất hủ và một lối văn thuần chất khẩu ngữ miền
Tây. Thứ hai, tiểu thuyết lịch sử với Tân Dân Tử (1875 – 1955): Gia Long tẩu quốc (1930), Gia Long phục
quốc (1932); Phạm Minh Kiên (? – ?): Vì nước hoa rơi (1926), Lê triều Lý thị (1931). Thứ ba, tiểu thuyết
trinh thám với Biến Ngũ Nhy (1886 – 1973): Kim thời dị sử (1917 – 1920); Phú Đức (1901 – 1970): hàng
chục cuốn tiểu thuyết trinh thám, trong đó nổi tiếng nhất là Châu về Hiệp Phố (1926); Bửu Đình (1898
– 1931): Mảnh trăng thu (1930). Thứ tư, tiểu thuyết võ hiệp, hảo hán với Nguyễn Chánh Sắt (Sắc) (1869
– 1947): Nghĩa hiệp kì duyên (1920), Giang hồ nữ hiệp (1928). Thứ năm, tiểu thuyết xã hội với Sơn
Vương (1908 – 1987): Bạc trắng lòng đen (1930), Ăn năn đã muộn (1931). Thứ sáu, tiểu thuyết tình ái
với Lê Hoằng Mưu (1879 – 1941): Truyện nàng Hà Hương (1912), Oán hồng quần (1919). Đặc điểm
chung của các thể tài tiểu thuyết này là tính đại chúng rõ nét. Bên cạnh việc đáp ứng thị hiếu của độc
giả bình dân, dòng tiểu thuyết đại chúng này cũng góp phần rèn luyện óc logic, tinh thần nghĩa hiệp,
đặc biệt là gợi mở về những đề tài vốn được xem là cấm kị (đặc biệt là những đề tài liên quan đến sắc dục) trong văn học.
– Về kí: Các thể kí thời kì này cũng rất đa dạng với nhật kí (Phạm Quỳnh: Pháp du hành trình nhật
kí); du kí (Nguyễn Bá Trác (1881 – 1945): Hạn mạn du kí (1919), Nguyễn Đôn Phục (1878 – 1954): Bài
kí chơi Cổ Loa (1924), Đi chơi Sài
Gòn (1925), Đông Hồ (1906 – 1969): Thăm đảo Phú Quốc (1927)); hồi kí (Đông Hồ với Linh Phượng lệ
kí (1928)). Sự phát triển của du kí thời kì này cho thấy cảm hứng dồi dào của người cầm bút trước cảnh
sắc của dân tộc. Những hồi kí cá nhân lại là một dấu hiệu quan trọng cho ý thức về cái tôi đời tư, cá nhân.
1 Nguyễn Kim Anh (Chủ biên, 2004), Tiểu thuyết Nam Bộ cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, NXB Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh. lOMoAR cPSD| 61527594
– Về kịch: Kịch nói theo lối phương Tây được mở đầu với Chén thuốc độc (1921), Toà án lương
tâm (1923) của Vũ Đình Long (1896 – 1960). Cả hai vở kịch này đều mang đậm tính chất thuyết lí đạo
đức. Người viết kịch nhiều nhất thời kì này là Vi Huyền Đắc (1899 – 1976) với 5 tác phẩm nhưng vở
kịch thành công và có tiếng vang nhất thời kì này lại là hài kịch Ông Tây An Nam (1931) của Nam Xương
(1905 – 1958). Nhìn chung, thói quen thưởng thức thẩm mĩ của người Việt thời gian này (và cả những
giai đoạn tiếp theo) vẫn mặn mà với ca kịch truyền thống (tuồng, chèo, cải lương) hơn là kịch nói. Sự
giao tranh tư tưởng trong lời thoại cũng không phải là thế mạnh của các nhà viết kịch Việt Nam. Có lẽ
vì thế mà thể loại kịch cả ở giai đoạn này và giai đoạn 1932 – 1945 đều không có được nhiều thành
tựu như các thể loại khác. Tuy nhiên, Vũ Như Tô (1942) của Nguyễn Huy Tưởng (1912 – 1960) là một
ngoại lệ. Độ căng của sự xung đột giữa nghệ thuật và quyền lực, giữa nghệ sĩ và quần chúng, giữa cái
Đẹp và cái Thiện với kết thúc bi thảm của nó đã khiến tác phẩm này trở thành kinh điển cho thể loại bi
kịch ở Việt Nam mà cho đến nay vẫn chưa một tác phẩm nào có thể so sánh.
– Về lí luận, phê bình văn học: Người viết phê bình văn học quan trọng nhất thời kì này là Phạm
Quỳnh. Đầu những năm 1930, người ta thấy có thêm Thiếu Sơn (1908 – 1978), Phan Khôi (1887 –
1959). Tuy chưa đông đảo về số lượng nhưng những tác động của lí luận văn học đến đời sống sáng
tác của thời kì này rất đáng ghi nhận. Nói cách khác, lí luận, phê bình văn học đã trở thành một thể loại
quan trọng trong bộ khung thể loại văn học mới.
Bức tranh văn học trên cho thấy, đến giai đoạn này, trung tâm văn học đã dịch chuyển ra miền Bắc.
Văn học miền Nam chủ yếu đóng góp ở tiểu thuyết và mang tính đại chúng rõ nét. Nhìn chung, trừ thơ
Tản Đà, chưa có những tác phẩm thật sự đặc sắc, có sức sống lâu bền. Tuy nhiên, như ta đã thấy, một
hệ thống thể loại mới theo mô hình phương Tây với thơ, kịch, tự sự (truyện ngắn, tiểu thuyết, kí sự),
lí luận, phê bình văn học đã thực sự hiện diện thay thế cho hệ thống thể loại truyền thống (văn, thơ,
phú, lục, tiểu thuyết chương hồi). Hệ thống thể loại mới này là sự chuẩn bị cho những kết tinh nghệ
thuật đặc sắc ở giai đoạn tiếp sau.