







Preview text:
lOMoAR cPSD| 61716317
CHƯƠNG 5: NHÂN THÂN NGƯỜI PHẠM TỘI
Vì hành vi của con người nói chung, hành vi phạm tội nói riêng luôn là kết quả của một quá trình nhận thức của cá nhân,
được kiểm soát bởi lý trí và có sự thúc đẩy của ý chí nên sẽ không thể lý giải một cách đầy đủ, toàn diện về nguyên
nhân, điều kiện của tội phạm cụ thể, đặc biệt là những nguyên nhân, điều kiện từ phía người phạm tội nếu không có sự
nghiên cứu về nhân thân người phạm tội.
Tội phạm học không nghiên cứu mọi đặc điểm nhân thân vốn có của người phạm tội, mà chỉ đi vào tìm hiểu những
đặc điểm nổi bật, rõ ràng có vai trò trong cơ chế của hành vi phạm tội và những đặc điểm này có ở mọi người phạm
tội, đã được tổng kết, kiểm chứng và ghi nhận qua các nghiên cứu khoa học nghiêm túc, đúng đắn. Các đặc điểm
nhân thân của người phạm tội được Tội phạm học nghiên cứu trên một số góc độ sau đây:
Nhóm đặc điểm sinh học của người phạm tội: giới tính, độ tuổi…
Nhóm đặc điểm xã hội thuộc về người phạm tội: trình độ học vấn, nghề nghiệp, hoàn cảnh gia đình…
Nhóm đặc điểm về tâm lý phản ánh nhận thức xã hội của người phạm tội: nhu cầu, định hướng giá trị, sở thích, hứng
thú, ý thức đạo đức, ý thức pháp luật…
Nhóm đặc điểm phản ánh tính nguy hiểm của người phạm tội (pháp lý hình sự) được quy định trong BLHS 2015, sửa đổi, bổ sung 2017.
“Nhân thân người phạm tội” là những đặc điểm, dấu hiệu đặc trưng nhất phản ánh bản chất người phạm tội. Những
đặc điểm, dấu hiệu này tác động với những tình huống, hoàn cảnh khách quan khác đã tạo ra xử sự phạm tội. Trong đó:
+ “đặc điểm, dấu hiệu đặc trưng”: bao gồm 04 nội dung, nhưng tập trung vào 03 nội dung chính là đặc điểm sinh học,
đặc điểm xã hội và đặc điểm về tâm lý. Trong đó, đặc điểm về tâm lý mang tính chất quyết định;
+ “nhất”: không phải là toàn bộ những nội dung thể hiện trong đặc điểm sinh học, đặc điểm xã hội và đặc điểm về tâm
lý của người phạm tội đều cần được liệt kê khi kiểm tra, khảo sát hay giải thích cho hành vi phạm tội của họ, mà chỉ
những đặc điểm, dấu hiệu tác động với các tình huống, hoàn cảnh khách quan để tạo ra xử sự phạm tội/hành vi phạm
tội mới được xem xét.
➢ Lưu ý về việc xem xét các đặc điểm về tâm lý (tâm lý sinh học+tâm lý xã hội):
Khi nói đến “hành vi phạm tội”, tức là nói đến “đặc điểm tâm lý tiêu cực của cá nhân đối với nhận thức xã hội”, còn
“đặc điểm tâm lý xã hội” là sản phẩm của xã hội và cũng chính là đặc điểm tâm lý cá nhân tiêu cực của người phạm tội.
Nó có ảnh hưởng đến nhận thức xã hội, mang tính chất quyết định một người thực hiện hành vi phạm tội hay không.
Nói cách khác, “đặc điểm tâm lý xã hội” chính là “định hướng giá trị” và hoàn toàn khác với đặc điểm xã hội bên ngoài.
1.3 Ý nghĩa nghiên cứu nhân thân người phạm tội:
Thứ nhất, nghiên cứu nhân thân người phạm tội tạo sơ sở cho việc xác định nguyên
nhân và điều kiện của tội phạm (từ phía người phạm tội).
Nguyên nhân của việc thực hiện tội phạm một mặt được thể hiện ở tổng thể những hoàn cảnh khách quan bên ngoài
quyết định đến sự hình thành động cơ và sự quyết tâm thực hiện tội phạm, nhưng mặt khác, còn được thể hiện trong
các đặc điểm nhân thân người phạm tội như hệ thống nhu cầu, lợi ích, quan điểm sống, định hướng giá trị… Thứ hai,
nghiên cứu nhân thân người phạm tội có ý nghĩa trong việc quyết định biện pháp trách nhiệm hình sự.
Nhân thân người phạm tội là căn cứ quan trọng để tòa án cân nhắc hình phạt tương xứng với người phạm tội (Điều 50
BLHS 2015, sửa đổi, bổ sung 2017) vì chính đặc điểm này sẽ chi phối việc hình thành động cơ phạm tội, chi phối việc
lựa chọn và quyết định cách thức, thủ đoạn thực hiện hành vi phạm tội.
Thứ ba, nghiên cứu nhân thân người phạm tội tạo cơ sở cho việc xây dựng biện pháp giáo dục, cải tạo người phạm tội.
Thứ tư, nghiên cứu nhân thân người phạm tội có ý nghĩa quan trọng trong dự báo tội phạm và phòng ngừa tội phạm. Sự
thay đổi của một số đặc điểm nhân thân tất yếu dẫn đến sự thay đổi về phương thức, thủ đoạn phạm tội cũng như xuất
hiện thêm những tội phạm mới trong tương lai.
Điều này có thể được dự đoán từ việc nghiên cứu nhân thân người phạm tội để đảm bảo chủ động đối phó có hiệu quả
với tình hình tội phạm.
3. NỘI DUNG CÁC ĐẶC ĐIỂM NHÂN THÂN ĐẶC TRƯNG CỦA NGƯỜI PHẠM TỘI:
3.1 Các đặc điểm sinh học của người phạm tội: Thứ nhất, giới tính.
Khi nghiên cứu đặc điểm giới tính của tội phạm, Tội phạm học cần xác định 02 vấn đề:
+ Tỷ lệ phạm tội của nam giới và nữ giới;
+ Những đặc trưng của tội phạm do nam và nữ thực hiện.
Kết quả thống kê xã hội cho thấy tỷ lệ phạm tội của nam giới luôn cao hơn nữ giới. Tuy nhiên, ở mỗi xã hội, mỗi nền
văn hóa trong từng thời kỳ và đối với từng loại tội phạm thì tỷ lệ này lại có sự thay đổi.
Trong cơ cấu chung, những tội phạm mà nữ giới thực hiện nhiều là các tội phạm xâm phạm sở hữu, mại dâm, ma túy,
buôn người... Dấu hiệu mang tính đặc trưng khi nghiên cứu tội phạm nữ là phương thức và thủ đoạn thực hiện tội phạm,
trong các tội phạm do nữ giới thực hiện người ta nhận thấy ít có dấu hiệu sử dụng bạo lực. Ngay trong các tội phạm có
tính chiếm đoạt thì nữ giới cũng thường thực hiện chủ yếu là những hành vi trộm cắp, lừa đảo, lạm dụng tín nhiệm lOMoAR cPSD| 61716317
chiếm đoạt tài sản. Những tội phạm có yếu tố bạo lực như Tội giết người, Tội cố ý gây thương tích, Tội cướp tài sản…
thường chiếm tỷ lệ không cao.
Trong những năm gần đây, do những biến đổi của đời sống xã hội mà tỷ lệ nữ giới phạm tội đang ngày một gia tăng và
các tội phạm mà nữ giới thực hiện cũng ngày càng đa dạng hơn. Tuy nhiên, những nhóm tội mà nữ giới thực hiện chiếm
tỷ lệ cao vẫn là nhóm tội về kinh tế, chức vụ, mại dâm, cờ bạc, ma túy, mê tín dị đoan.
Nguyên nhân dẫn đến sự khác nhau về tỷ lệ phạm tội cũng như các loại tội phổ biến mà mỗi giới thực hiện xuất phát từ
sự khác nhau của những đặc điểm về thể chất, tâm lý và xã hội của nam và nữ. Đặc biệt cần lưu ý rằng trong khi các
đặc điểm sinh học có thể giữ một vai trò nào đó trong việc lựa chọn phương pháp và thủ đoạn phạm tội của nam và nữ,
thì sự khác biệt bởi quá trình xã hội sự phân hóa về vai trò, vị trí xã hội cũng như điều kiện hình thành và phát triển
nhân cách ở mỗi giới luôn được coi là nguyên nhân cơ bản xác định sự khác biệt về tỷ lệ phạm tội cũng như cơ cấu tội phạm theo giới.
Nghiên cứu các đặc điểm giới tính cho phép chúng ta xác định được tỷ lệ tội phạm theo giới, những tội phạm đặc trưng
do nam giới và nữ giới thực hiện, khi thực hiện tội phạm thì mỗi giới thường thể hiện những đặc điểm nào vượt trội.
Đồng thời, nó còn cho chúng ta thấy vai trò của đặc điểm của giới tính trong cơ chế hành vi phạm tội, từ đó tạo ra cơ sở
cần thiết cho việc xây dựng các biện pháp phòng ngừa tội phạm. Thứ hai, lứa tuổi.
Khi nghiên cứu đặc điểm lứa tuổi, Tội phạm học cần xác định 02 vấn đề quan trọng:
+ Lứa tuổi nào phạm tội nhiều nhất;
+ Phân bổ và diễn biến của tội phạm theo lứa tuổi và cơ cấu của tội phạm theo lứa tuổi.
Độ tuổi của người phạm tội được Tội phạm học nghiên cứu bao gồm 04 nhóm:
+ Nhóm người từ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi;
+ Nhóm người từ 18 tuổi đến 30 tuổi;
+ Nhóm người từ 30 tuổi đến 45 tuổi; +
Nhóm người trên 45 tuổi.
Nhiều công trình nghiên cứu cho thấy tội phạm do những người từ 18 đến 30 tuổi thực hiện thường chiếm tỷ lệ cao nhất,
sau đó là những người từ 30 đến 45 tuổi và nhóm chưa thành niên từ 14 đến 18 tuổi, nhóm thực hiện hành vi tội phạm
chiếm tỷ lệ thấp nhất là nhóm trên 45 tuổi.
Về cơ cấu của tội phạm theo độ tuổi, đối với mỗi nhóm tuổi khác nhau thì loại tội phạm phổ biến cũng có những đặc
điểm riêng biệt, chẳng hạn phần lớn người chưa thành niên thường thực hiện tội xâm phạm sở hữu công dân mà điển
hình là hành vi trộm cắp, các tội nghiêm trọng như Tội giết người, Tội cố ý gây thương tích, Tội hiếp dâm thường chiếm
tỷ lệ không cao. Trong khi đó, những người từ 18 đến 30 tuổi lại thực hiện phần lớn các tội có sử dụng bạo lực, những
người từ 30 đến 45 tuổi thì thường thực hiện các tội về kinh tế xã hội, về chức vụ. Đối với nhóm tội xâm phạm an ninh
quốc gia đặc biệt từ nghiêm trọng thì người chưa thành niên phạm tội rất ít, chiếm tỷ lệ cao là những người từ 30 đến
45 tuổi và trên 45 tuổi.
Nguyên nhân dẫn đến sự khác nhau trong tỷ lệ phạm tội và các loại tội phạm phổ biến ở mỗi lứa tuổi có liên quan chặt
chẽ đến quá trình xã hội hóa cá nhân, đến vị trí, vai trò xã hội đặc trưng cho mỗi giai đoạn phát triển của nhân thân
người phạm tội. Chẳng hạn đối với người chưa thành niên thì nhóm này thường gắn liền với một số đặc điểm về tâm lý
xã hội như nhận thức chưa đầy đủ, khả năng kiềm chế hành vi thấp, muốn tự khẳng định mình nhưng lại thiếu kinh
nghiệm sống, chưa có việc làm còn sống lệ thuộc vào gia đình.
Vì vậy, nhóm người này thường có xu hướng thực hiện các hành vi bạo lực để tự khẳng định mình hoặc thực hiện các
tội phạm xâm phạm sở hữu như trộm cắp, cướp giật để thỏa mãn nhu cầu tiêu xài khi chưa có khả năng kiếm tiền. Trong
khi đó, nhóm người từ 30 tuổi đến 45 tuổi và trên 45 tuổi lại có vị trí xã hội, có nghề nghiệp ổn định và quan điểm sống,
định hướng giá trị đã hình thành vững chắc, có kinh nghiệm sống và khả năng tự kiềm chế mình nên tỷ lệ phạm tội là
thấp hơn so với các nhóm khác.
Nghiên cứu đặc điểm lứa tuổi giúp thấy được mối liên hệ giữa độ tuổi với tình hình tội phạm, xác định nét đặc trưng về
lứa tuổi đối với các tội phạm khác nhau, đồng thời thấy được vai trò của độ tuổi trong việc lựa chọn phương thức, thủ
đoạn thực hiện tội phạm, ảnh hưởng của dấu hiệu độ tuổi trong cơ chế hành vi phạm tội → Cơ sở quan trọng trong việc
xây dựng các giải pháp phòng ngừa tội phạm trong xã hội.
3.2 Các đặc điểm xã hội của người phạm tội:
Thứ nhất, hoàn cảnh gia đình.
Dưới góc độ Tội phạm học, tầm quan trọng của gia đình được xem xét ở 02 góc độ:
+ Sự tác động qua lại của gia đình và cá nhân đối với sự hình thành nhân cách cá nhân. Trong sự tương tác này, gia đình
quy định các nhu cầu, lợi ích, mục đích cũng như các đặc điểm của cá nhân. Những đặc điểm này có thể thúc đẩy hoặc
ngăn cản hành vi chống đối xã hội của cá nhân.
+ Sự tác động qua lại của gia đình và cá nhân trong thời điểm xảy ra tội phạm và ngay sau khi phạm tội. Ở góc độ này,
gia đình có thể tham gia vào việc che giấu tội phạm, giúp đỡ cho người phạm tội khỏi bị truy cứu TNHS hoặc gia đình
có thể là yếu tố ngăn cản việc thực hiện tội phạm, phát hiện và lên án hành vi phạm tội. lOMoAR cPSD| 61716317
Gia đình có thể tác động đến cá nhân một cách có mục đích rõ ràng hoặc tự phát thông qua lối sống, bầu không khí gia đình.
Khi nghiên cứu hoàn cảnh gia đình của người phạm tội, Tội phạm học nhận thấy những người có gia đình thường ít
phạm tội hơn những người không có gia đình. Phần lớn gia đình đều có tác động tích cực đến việc hình thành nhân cách
và xử sự của cá nhân. Tuy nhiên, một số khiếm khuyết của gia đình trong mối quan hệ với các yếu tố khác đã tác động
đến việc thực hiện tội phạm của cá nhân. Trên thực tế, người phạm tội thường xuất phát từ trong những hoàn cảnh gia
đình có một số khiếm khuyết, hạn chế nhất định như sự khó khăn về kinh tế; thế hoàn cảnh hôn nhân, gia đình có sự bất
hạnh, không đầm ấm, thiếu hạnh phúc; gia đình có sự hạn chế trong việc kiểm soát, giáo dục, quản lý đối với các thành
viên. Những biểu hiện cụ thể của sự khiếm khuyết trong gia đình thể hiện ở một số hoàn cảnh như: Gia đình có cơ cấu
không hoàn thiện; Gia đình có bầu không khí xung đột căng thẳng kéo dài; Gia đình có phương pháp sư phạm giáo dục
con cái không phù hợp; Gia đình có khiếm khuyết sai lệch trong ý thức đạo đức, ý thức pháp luật và định hướng giá trị;
Gia đình có một hoặc nhiều thành viên phạm tội.
Nghiên cứu đặc điểm hoàn cảnh gia đình giúp nhận thức được nguyên nhân của việc hình thành những đặc điểm tâm lý
tiêu cực của người phạm tội, thấy được vai trò, trách nhiệm của gia đình đối với hành vi phạm tội của mỗi cá nhân.
Từ đó, có thể kiến nghị những biện pháp phòng ngừa sớm tội phạm từ góc độ gia đình đối với cá nhân. Thứ hai, nghề nghiệp.
Khi nghiên cứu đặc điểm nghề nghiệp, Tội phạm học xác định 02 vấn đề:
+ Mối liên hệ giữa nghề nghiệp với tình hình tội phạm; + Cơ cấu của tội phạm theo nghề nghiệp.
Kết quả thống kê cho thấy người phạm tội không có việc làm thường chiếm tỷ lệ rất cao, đặc biệt đối với nhóm người
tái phạm thì tỷ lệ này còn cao hơn rất nhiều. Trong số những người có nghề nghiệp, người phạm tội phần lớn rơi vào
nhóm lao động chân tay, lao động giản đơn, những người có tri thức và hưu trí thường ít phạm tội hơn. Mặt khác, do
đặc thù của từng ngành nghề trong nền kinh tế quốc dân mà mỗi loại tội phạm phổ biến thường xảy ra ở mỗi ngành
nghề cũng có sự khác biệt.
Ví dụ: Đối với ngành tài chính ngân hàng thì những tội phạm phổ biến là tham ô, lừa đảo chiếm đoạt tài sản, cố ý làm
trái các quy định của nhà nước trong lĩnh vực tài chính ngân hàng gây hậu quả nghiêm trọng. Trong ngành hải quan thì
lại thường xảy ra các tội phạm như buôn lậu, nhận hối lộ. Đối với ngành Tư pháp về nhóm tội phạm phổ biến và đặc
thù là các tội xâm phạm hoạt động tư pháp.
Nghiên cứu đặc điểm nghề nghiệp giúp nhận thức được ở lĩnh vực nào của đời sống xã hội, ở ngành nào của nền kinh
tế loại tội phạm nào thường xảy ra. Đồng thời, cho chúng ta hiểu đặc thù của từng tầng lớp xã hội, từng ngành sản xuất.
Nghề nghiệp và thành phần xã hội đóng vai trò quan trọng trong việc lựa chọn phương thức, thủ đoạn, công cụ, phương
tiện thực hiện tội phạm, nó ảnh hưởng đến cơ chế của hành vi phạm tội. Những nghiên cứu này là cơ sở để đưa ra những
phương hướng và giải pháp phòng ngừa tội phạm. Thứ ba, nơi cư trú.
Đặc điểm nơi cư trú cho phép nhận thức được tỷ lệ phạm tội theo khu vực cư trú, cơ cấu của tình hình phạm tội theo
các vùng miền, khu vực khác nhau.
Kết quả thống kê cho thấy tình hình tội phạm thường tập trung ở các đô thị lớn với cơ cấu cũng hết sức đa dạng và phức
tạp. Đặc biệt trong tình hình hiện nay, tội phạm đang có chiều hướng gia tăng ở các khu vực có mức độ đô thị hóa cao,
ở một số khu vực giáp ranh về địa giới hành chính, những khu vực đang có sự chuyển dịch lớn về cơ cấu dân cư, cơ cấu kinh tế, ngành nghề.
Nơi cư trú là môi trường của sự hình thành và phát triển nhân cách cá nhân con người,thể hiện quá trình xã hội hóa cá
nhân, xác định vai trò vị trí của mỗi cá nhân trong môi trường lớn. Vì vậy, yếu tố nơi cư trú ảnh hưởng đến một số đặc
điểm thuộc tâm lý cá nhân như yếu tố văn hóa, tập quán, thói quen, nét tính cách mang đặc trưng của địa bàn cư trú.
Điều này rất có ý nghĩa trong hoạt động dự báo và phòng ngừa tội phạm.
3.3 Đặc điểm về nhận thức, tâm lý của người phạm tội:
Thứ nhất, trình độ học vấn.
Trình độ học vấn liên quan chặt chẽ đến nhận thức của cá nhân, ảnh hưởng đến nhu cầu, lợi ích, sở thích cũng như
những định hướng giá trị của người đó. Nó tác động đến cách sử dụng thời gian, đến xử sự của con người nói chung và
hành vi phạm tội nói riêng.
Nghiên cứu đặc điểm này giúp chúng ta xác định được sự phân bố của tội phạm theo trình độ học vấn, cơ cấu của tội
phạm theo trình độ học vấn.
Kết quả thống kê cho thấy trình độ học vấn của người phạm tội thường thấp hơn so với những người không phạm tội
trong cùng một lứa tuổi. Tuy nhiên, ở các tội phạm khác nhau thì trình độ học vấn của người phạm tội cũng khác nhau.
Chẳng hạn đối với những
Tội gây rối trật tự công cộng, Tội hiếp dâm, các tội có sử dụng bạo lực mang tính chất côn đồ thường do nhóm người
có trình độ học vấn thấp thực hiện. Trong khi đó, đối với những tội phạm về kinh tế, tội phạm có động cơ vụ lợi được
thực hiện bằng cách lợi dụng chức vụ, quyền hạn thì thường do những người có trình độ học vấn cao thực hiện. Đặc lOMoAR cPSD| 61716317
biệt đối với những người có trình độ học vấn cao khi thực hiện tội phạm thường có thủ đoạn, phương pháp tinh vi, xảo
quyệt hơn so với những người có trình độ học vấn thấp.
Nghiên cứu các đặc điểm này giúp nhận thức được sự hiểu biết về xã hội của người phạm tội, quá trình hình thành và
phát triển một số khả năng về xã hội của họ. Việc nghiên cứu này cũng cho thấy người phạm tội đã sử dụng sự hiểu biết
của mình để thực hiện hành vi tội phạm như thế nào, đồng thời thấy được mối liên hệ giữa trình độ học vấn với tình
hình tội phạm để từ đó xây dựng các biện pháp phòng ngừa. Thứ hai, nhu cầu.
“Nhu cầu” là những đòi hỏi mà cá nhân thấy cần được thỏa mãn trong những điều kiện nhất định để có thể tồn tại và
phát triển. Nhu cầu gây cho con người cảm giác đang ở trong trạng thái thiếu thốn và cá nhân tìm mọi cách để đáp ứng, thỏa mãn nó.
Nhu cầu của con người bao giờ cũng có đối tượng cụ thể. Khi nghiên cứu mối quan hệ giữa nhu cầu và tội phạm, Tội
phạm học tập trung làm rõ sự ảnh hưởng của nhu cầu đối với việc làm phát sinh tính động cơ và ảnh hưởng của nhu
cầu lên hành vi lên cách xử sự của con người khi nó không được thỏa mãn. Trong trường hợp nhu cầu không được
thỏa mãn, nó sẽ làm phát sinh mâu thuẫn giữa nhu cầu và khả năng của chủ thể và điều này ảnh hưởng sâu sắc đến
hành vi của chủ thể, nó thúc đẩy xử sự ở mức độ phản ứng (tìm kiếm có định hướng phương thức thỏa mãn) và cả ở
mức độ của hoạt động nhận thức.
Mỗi cá nhân trong xã hội sẽ có sự khác biệt nhau về tính chất, nội dung của nhu cầu cũng như các biện pháp để thỏa
mãn nhu cầu. Tuy nhiên, khi nghiên cứu đặc điểm nhu cầu của người phạm tội, Tội phạm học nhận thấy một số những đặc trưng sau:
+ Có sự hạn hẹp của nhu cầu;
+ Có sự mất cân đối trong hệ thống nhu cầu. Người phạm tội thường quá tập trung vào một số nhu cầu mang tính thực dụng, cực đoan;
+ Tồn tại những nhu cầu biến dạng, đi ngược lại chuẩn mực của đạo đức và pháp luật. Ví dụ: sử dụng ma túy, nghiện
rượu, mua dâm người chưa thành niên…
+ Biện pháp thỏa mãn các nhu cầu của người phạm tội là vô đạo đức và vi phạm pháp luật.
Khi nghiên cứu về nhu cầu của người phạm tội, điều quan trọng là phải xác định được nhu cầu mang tính chủ đạo và
chi phối đời sống của người đó. Việc so sánh cấu trúc của hệ thống nhu cầu với những biện pháp cá nhân có trong tay
để thỏa mãn nhu cầu và hành vi thực tế của người đó cho thấy nguyên nhân của những hành vi phạm tội.
Ví dụ: Đối với những người phạm tội có động cơ vụ lợi thì đa số họ sẽ thể hiện nhu cầu vật chất trong giao tiếp thông
thường, ở những người này có sự khát khao đối với việc góp nhặt, tích lũy của cải. Sự hướng đến nhu cầu vật chất chiếm
ưu thế tuyệt đối so với những nhu cầu khác. Đối với những tội phạm có sử dụng bạo lực thì người phạm tội thường có
sự khát khao khẳng định uy quyền của mình bằng bất cứ giá nào.
Nhu cầu của con người được hình thành và phát triển trong những điều kiện xã hội và lịch sử nhất định, trong quá trình
hoạt động của cá nhân, vừa mang tính cơ động lại vừa có sự bền vững ổn định. Có thể xây dựng hình thành ở con người
những nhu cầu phong phú, lành mạnh; đồng thời, cũng có thể cải tạo được những nhu cầu lệch chuẩn. Tuy nhiên, nhu
cầu là một thuộc tính tâm lý mang tính ổn định và bền vững nên việc thay đổi nó là cả một quá trình lâu dài. Nhu cầu
sai lệch và phương thức thỏa mãn trái pháp luật sẽ dẫn đến tội phạm. Vì vậy, nghiên cứu đặc điểm này tạo cơ sở cho
việc xây dựng các biện pháp giải pháp phòng ngừa tội phạm một cách chủ động hiệu quả.
Thứ ba, định hướng giá trị.
“Định hướng giá trị” là tập hợp những giá trị tích lũy ở cá nhân trong quá trình sống dưới sự ảnh hưởng của môi trường
xung quanh, kinh nghiệm sống và sự giáo dục. Định hướng giá trị được hình thành và củng cố bởi năng lực nhận thức, kinh nghiệm cá nhân.
Qua sự trải nghiệm lâu dài giúp cho cá nhân tự lựa chọn cho mình những giá trị phù hợp.
→Định hướng giá trị không được hình thành bẩm sinh mà hình thành bằng môi trường xã hội hóa.
Định hướng giá trị đóng vai trò quan trọng trong việc lựa chọn những phương án xử sự trong đời sống cá nhân. Nó cho
phép cá nhân trong những tình huống cụ thể lựa chọn những hình thức xử sự có thể thỏa mãn tối đa nhu cầu và định
hướng giá trị của bản thân.
Thời gian phân tích, đánh giá, nhận định tình huống càng lâu bao nhiêu thì định hướng giá trị càng được thể hiện rõ nét bấy nhiêu.
Định hướng giá trị thể hiện những đánh giá của cá nhân về các nhóm giá trị trong cuộc sống. Các nhóm giá trị này có
thể được xác định một cách cụ thể như vật chất – tinh thần, cá nhân – tập thể, nội dung – hình thức, truyền thống – hiện
đại, giá trị nội – giá trị ngoại...
Khi nghiên cứu và định hướng giá trị của người phạm tội, Tội phạm học nhận thấy ở người phạm tội có một số biểu hiện như sau:
+ Người phạm tội thường có sự đánh giá không đúng, có sự nhầm lẫn giữa các giá trị trong xã hội
+ Mất cân đối trong hệ thống giá trị, người phạm tội thường tập trung vào những giá trị thứ yếu, giá trị thực dụng +
Xác định các thứ bậc giá trị theo mục đích ích kỷ. Trong bối cảnh cụ thể, người phạm tội luôn đặt lợi ích cá nhân
của mình lên trên các nhóm lợi ích khác. lOMoAR cPSD| 61716317
Nghiên cứu đặc điểm này cho thấy được mối liên hệ chặt chẽ giữa định hướng giá trị với tình hình tội phạm trong xã hội.
Cụ thể, nếu như trong thời kỳ bao cấp con người chỉ thiên về những giá trị tinh thần thì trong tình hình hiện nay các giá
trị vật chất, giá trị ngoại lai được coi trọng. Chính vì vậy, các tội phạm thực hiện mang yếu tố vật chất ngày càng chiếm
tỷ trọng lớn trong tình hình tội phạm ở Việt Nam (như các tội xâm phạm sở hữu, tội xâm phạm trật tự, quản lý kinh tế,
các tội tham nhũng ma túy).
Tóm lại, có thể nhận thấy là định hướng những giá trị giữ một vai trò quan trọng trong việc lựa chọn các hình thức xử
sự của cá nhân. Tuy nhiên, nó cũng có thể bị suy yếu hoặc bị phá vỡ nếu như có sự không phù hợp giữa định hướng
mong đợi với kết quả hành vi.
Ngược lại, với những cá nhân hơn một lần thực hiện thành công hành vi phạm tội thì sẽ càng khẳng định và củng cố
định hướng giá trị sai lệch của mình bất chấp tính chống đối xã hội. Định hướng giá trị càng được hình thành sớm trong
cuộc đời và tồn tại trong thời gian càng dài thì càng ổn định, vững chắc, khó phá vỡ. Chính vì vậy, tìm hiểu sự sai lệch
trong định hướng giá trị của người phạm tội sẽ giúp chúng ta xây dựng những biện pháp phòng ngừa sớm, thực hiện tác
động giáo dục từ gia đình, nhà trường, xã hội một cách hợp lý để xây dựng định hướng giá trị tích cực trong con người;
đồng thời, có thể kiểm soát, kịp thời cải tạo những định hướng sai lệch, biến dạng. Thứ tư, hứng thú.
“Hứng thú” là sự rung động tâm lý được bộc lộ qua thái độ đặc biệt của cá nhân đối với chính bản thân hoặc đối với đối
tượng nào đó, vừa có ý nghĩa trong cuộc sống, vừa có khả năng mang lại khoái cảm cho cá nhân trong quá trình hoạt động của bản thân.
Hứng thú được biểu hiện ở sự tập trung của cá nhân một cách cao độ trong một loại hoạt động nào đó. Đó là sự say mê,
sự hấp dẫn bởi nội dung của các hoạt động do bề rộng và bề sâu của ý thức và sự rung cảm. Hứng thú của con người sẽ
làm nảy sinh khát vọng hành động, làm tăng thêm tính hiệu quả cho hoạt động trong thực tế, tăng sức làm việc.
Khi nghiên cứu về đặc điểm hứng thú của người phạm tội, Tội phạm học nhận thấy ở họ thường tồn tại những hứng thú
thấp kém, thiên về những khoái cảm vật chất, hưởng thụ, thậm chí có sự lệch chuẩn nghiêm trọng trong những đam mê,
hấp dẫn của bản thân.
Hứng thú có vai trò quan trọng trong hành vi của con người nói chung, hành vi phạm tội nói riêng. Cùng với nhu cầu,
hứng thú được coi là một trong các hệ thống động lực của nhân cách.
Hứng thú có vai trò quan trọng trong cơ chế hành vi tội phạm phạm tội, nó tác động trực tiếp đến sự hình thành tính
động cơ của việc thực hiện tội phạm, nó tạo ra sự say mê, cuốn hút cao độ đối với cá nhân trong việc thực hiện những
hành vi chống đối xã hội. Thứ năm, ý thức đạo đức.
“Ý thức đạo đức” là một dạng của ý thức xã hội, thể hiện trong sự đánh giá về các giá trị như tốt – xấu, khen – chê, tốt
bụng – độc ác, chính – tà, cao thượng – thấp hèn.
Ý thức đạo đức hình thành dựa trên sự hiểu biết và tuân thủ nghiêm chỉnh những nguyên tắc, chuẩn mực điều khiển
hành vi, xử sự của con người trong xã hội. Những chuẩn mực này được xác lập bởi truyền thống, phong tục, tập quán,
ý thức xã hội và lương tâm của con người. Những giá trị của đạo đức xã hội khi đã chuyển hóa vào trong mỗi cá nhân
sẽ trở thành nền tảng đạo đức điều chỉnh hành vi của cá nhân.
Hiệu quả điều chỉnh của những quy phạm đạo đức đối với hành vi xử sự của con người thể hiện ở chỗ con người với
những nguyên tắc đạo đức thì phải xử sự phù hợp đối với đòi hỏi của đạo đức, các giá trị đạo đức trở thành rào cản khi
các cá nhân lựa chọn cho mình những hành vi được đánh giá là “xấu” và “ác”.
Khi nghiên cứu về ý thức đạo đức ở người phạm tội, Tội phạm học nhận thấy:
Một là, người phạm tội có sự hạn chế trong việc tiếp cận với những giá trị đạo đức.
Điều này thể hiện sự hiểu biết của họ về các giá trị đạo đức là không đầy, đủ thiếu chiều sâu. Môi trường hình thành và
phát triển nhân cách của người phạm tội có nhiều khuyết điểm, thiếu sót, họ không thể tiếp nhận một cách đầy đủ, toàn
diện về nội dung và các giá trị đạo đức. Không có sự hiểu biết đầy đủ, không nhận được những tác động giáo dục có hệ
thống sẽ dẫn đến những sai lệch trong ý thức đạo đức của họ. Ở người phạm tội, do không nhận thức được các giá trị
đạo đức lên vai trò kiềm chế và điều chỉnh hành vi cũng không đáng kể hoặc suy yếu đi rõ nét, điều này làm cho họ dễ
dàng hơn trong việc lựa chọn cho mình xử sự thống nhất chống đối xã hội.
Hai là, người phạm tội có những quan niệm, đánh giá riêng biệt về nội dung của những giá trị đạo đức, quan niệm của
họ về điều thiện – ác, tốt – xấu, chính – tà có sự sai lệch so với những chuẩn mực chung của xã hội, của giai cấp. Đây
chính là những xung đột, mâu thuẫn giữa những chuẩn mực riêng biệt của cá nhân với chuẩn mực chung của đời sống,
của cộng đồng. Người phạm tội không nhất trí, không bị thuyết phục bởi những chuẩn mực đạo đức của số đông, của
môi trường xã hội và vì thế những giá trị đạo đức không thực sự có ý nghĩa với họ.
Thứ tư, ý thức pháp luật.
“Ý thức pháp luật” được xem như một thể thống nhất gồm sự hiểu biết về pháp luật và thái độ đối với pháp luật của cá nhân.
Ý thức pháp luật và ý thức đạo đức có mối liên hệ rất chặt chẽ, bổ sung cho nhau trong sự điều chỉnh hành vi con người.
Nhiều đòi hỏi của những giá trị đạo đức được cụ thể hóa được quy định trong các quy phạm pháp luật, sự hiểu biết pháp
luật sẽ tạo điều kiện củng cố thêm những đòi hỏi của đạo đức xã hội và có thể làm suy yếu những sai lệch, khiếm khuyết lOMoAR cPSD| 61716317
của ý thức đạo đức. Tuy nhiên, trong những trường hợp cụ thể quan niệm về pháp luật có ý nghĩa một cách độc lập khi
những yêu cầu của pháp luật và của đạo đức chưa trở thành niềm tin, chính kiến của cá nhân. Ý thức pháp luật có ảnh
hưởng sâu sắc đối với mỗi cá nhân. Nó tham gia vào việc hình thành những đặc điểm về nhu cầu, lợi ích, định hướng
giá trị và những thuộc tính tâm lý khác của cá nhân. Đối với không ít người trong xã hội thì nhiều nội dung của ý thức
pháp luật (như quan niệm về sự hợp pháp) phù hợp với định hướng giá trị của cá nhân. Sự khiếm khuyết trong định
hướng giá trị của cá nhân là một phần rất lớn do những giá trị của pháp luật không mang lại một ý nghĩa đặc biệt nào
đối với cá nhân. Họ có quan niệm khác cách tiếp cận và đánh giá riêng biệt đối với những giá trị pháp luật, không có sự
thống nhất với những chuẩn mực chung của đời sống xã hội mà giai cấp cầm quyền đòi hỏi. Khi nghiên cứu về ý thức
pháp luật của người phạm tội, Tội phạm học nhận thấy phần lớn người phạm tội có sự hiểu biết về pháp luật rất hạn chế,
những quy định của pháp luật chưa thực sự có ý nghĩa đối với đời sống hàng ngày của họ, việc giải quyết các mối quan
hệ xã hội chủ yếu dựa trên thói quen, kinh nghiệm cá nhân hoặc những phong tục, tập quán của địa phương.
Học vấn thấp và hiệu quả của sự tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật trong cộng đồng còn nhiều hạn chế là những
lý do chủ yếu của vấn đề này. Tuy nhiên, đối với một số nhóm tội phạm như các tội xâm phạm an ninh quốc gia, các tội
phạm về kinh tế, tội phạm về chức vụ, các tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp... thì những người phạm tội thường
có hiểu biết rất cao về pháp luật và trong một số trường hợp người phạm tội còn lợi dụng sự hiểu biết đó để thực hiện
tội phạm. Những trường hợp này có rõ ràng có sự khác biệt về quan niệm đối với các giá trị pháp luật của người phạm
tội với những chuẩn mực chung của xã hội, người phạm tội không tôn trọng, không nhất trí với các giá trị pháp luật.
Đây là sự xung đột của những quan điểm, quan niệm riêng biệt của cá nhân, của một nhóm, một bộ phận người không
phù hợp với những chuẩn mực pháp luật của xã hội hiện tại trong khi tính hiệu quả, hiệu lực của việc thực thi và áp
dụng pháp luật trong đời sống xã hội còn chưa được nghiêm minh, đúng đắn.
3.4. Các đặc điểm nhân thân có tính pháp lý hình sự:
“Đặc điểm nhân thân có tính pháp lý hình sự” là nhóm dấu hiệu thể hiện tính chất nguy hiểm của tội phạm và của nhân
thân người phạm tội, bao gồm:
+ Người phạm tội lần đầu;
+ Người tái phạm, tái phạm nguy hiểm, lưu manh chuyên nghiệp;
+ Người tổ chức, cầm đầu và những đồng phạm khác; + Người
chưa thành niên phạm tội.
Nhóm dấu hiệu này liên quan trực tiếp đến hành vi phạm tội, có giá trị làm tăng hoặc giảm mức độ nguy hiểm cho xã
hội của hành vi. Những dấu hiệu này thường được quy định là tình tiết định khung, các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ
TNHS được quy định tại các Điều 51, Điều 52 BLHS 2015, sửa đổi, bổ sung 2017, có ý nghĩa khi quyết định hình phạt
cũng như xây dựng các biện pháp giáo dục cải tạo người phạm tội.
CHƯƠNG 6: PHÒNG NGỪA TỘI PHẠM 1.
KHÁI NIỆM PHÒNG NGỪA TỘI PHẠM: 1.1 Khái niệm:
Về phạm vi nội dung khái niệm phòng ngừa tội phạm, phòng ngừa tội phạm nên được hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm:
ngừa tội phạm trước khi nó xảy ra đồng thời kết hợp với các biện pháp phát hiện, xử lý tội phạm, chứ không nên hiểu
theo nghĩa hẹp, tức chỉ bao gồm ngừa tội phạm. Bởi lẽ thực tiễn phòng ngừa tội phạm đòi hỏi có sự phối hợp giữa
“ngừa” với phát hiện, xử lý (chống) tội phạm.
“Phòng ngừa tội phạm” là việc sử dụng hệ thống các biện pháp mang tính xã hội và tính nhà nước nhằm khắc phục (tác
động) các nguyên nhân và điều kiện tình hình tội phạm, hạn chế và loại trừ tội phạm ra khỏi đời sống xã hội.
1.2 Nội dung phòng ngừa tội phạm:
“Nội dung phòng ngừa tội phạm”là tất cả các vấn đề, các khía cạnh cần tiến hành các hoạt động phòng ngừa tội phạm.
Phòng ngừa tội phạm tập trung vào các hoạt động sau đây:
Thứ nhất, ở khía cạnh nội dung, tiến hành các hoạt động ngừa tội phạm – phòng ngừa xã hội.
Nội dung: Khắc phục các nguyên nhân và điều kiện phạm tội bằng việc cải thiện các quan hệ xã hội, hoàn thiện hệ thống
pháp luật, xóa bỏ các tình huống, hoàn cảnh phạm tội làm cho tình hình tội phạm không có cơ sở phát sinh và tồn tại.
Biểu hiện: Tác động của các biện pháp đến các quan hệ xã hội như quan hệ việc làm, quản lý, giáo dục, lập pháp… làm
vô hiệu hóa khả năng làm phát sinh tội phạm; đồng thời, kết hợp giáo dục, giúp đỡ các thành viên trong cộng đồng để phòng ngừa tội phạm.
Ý nghĩa: Mang tính tích cực, chủ động và đem lại hiệu quả cao, có khả năng xóa bỏ tận gốc tội phạm nên cần được ưu
tiên nghiên cứu và áp dụng trong thực tiễn.
Thứ hai, phát hiện, xử lý tội phạm mà trọng tâm là các hoạt động điều tra, xét xử, cải tạo người phạm tội – phòng ngừa bằng sự cưỡng chế.
Tác dụng ngừa tội phạm phát huy ngay khi áp dụng các biện pháp ngăn chặn, tiến hành đúng các thủ tục tố tụng và đặc
biệt là hiệu quả răn đe phòng ngừa riêng, phòng ngừa chung từ việc áp dụng các biện pháp trách nhiệm hình sự.
Lưu ý: Không phải lúc nào áp dụng các biện pháp phòng ngừa tội phạm cũng đem lại hiệu quả tuyệt đối.
1.3 Ý nghĩa của hoạt động phòng ngừa tội phạm: lOMoAR cPSD| 61716317
Thứ nhất, phòng ngừa tội phạm có ý nghĩa nhân đạo và tiến bộ xã hội.
Phòng ngừa tội phạm không có nghĩa là trừng phạt hay trả thù người phạm tội mà là góp phần ngăn ngừa tình trạng một
người bình thường thực hiện hành vi phạm tội và phải chịu hình phạt và các hậu quả pháp lý khác. Việc phạm tội có
một phần nguyên nhân từ cá nhân con người, nhưng nguyên nhân sâu xa và có tính quyết định là ở môi trường xã hội.
Thứ hai, ở khía cạnh kinh tế, phòng ngừa tội phạm đem lại hiệu quả kinh tế nhất định.
Phòng ngừa tội phạm có hiệu quả ngăn chặn những thiệt hại to lớn về kinh tế do tội phạm gây ra, kể cả những thiệt hại
gián tiếp mà nhà nước và xã hội phải bỏ kinh phí để khắc phục hậu quả. Mặt khác, tỷ lệ phạm tội giảm sẽ kéo theo khả
năng giảm ngân sách nhà nước dành cho hoạt động điều tra, xét xử, cải tạo người phạm tội. Thứ ba, ở khía cạnh quản
lý, phòng ngừa tội phạm được xem là “kênh” quản lý xã hội có hiệu quả.
Thông qua hoạt động phòng ngừa tội phạm, các cơ quan chức năng kiểm soát được một “mảng tối” của xã hội, đó là
tình hình tội phạm. Mặt khác, các biện pháp phòng ngừa tội phạm góp phần duy trì trật tự xã hội bằng các biện pháp
chuyên môn nghiệp vụ, thậm chí có tính cưỡng chế.
2. PHÂN LOẠI CÁC BIỆN PHÁP PHÒNG NGỪA TỘI PHẠM:
2.1 Căn cứ vào phạm vi, mức độ tác động của biện pháp:
“Biện pháp phòng ngừa chung đối với tình hình tội phạm” là những biện pháp loại trừ nguyên nhân và điều kiện chung
của tình hình tội phạm, hạn chế khả năng phát sinh nhiều loại tội phạm. Loại biện pháp này tác động làm giảm bớt các
mâu thuẫn xã hội, xóa bỏ các hiện tượng xã hội tiêu cực, vì thế tình hình tội phạm nói chung không có cơ sở để phát sinh, tồn tại.
∘ Ví dụ: Biện pháp giải quyết tình trạng thất nghiệp, tuyên truyền pháp luật, quản lý dân cư...
“Biện pháp phòng ngừa loại tội phạm” là những biện pháp tác động căn bản đến một hoặc một số lĩnh vực, loại trừ
nguyên nhân và điều kiện quan trọng của một loại tội phạm, hạn chế khả năng làm phát sinh loại tội phạm đó. Loại biện
pháp này có mức độ tác động sâu sắc đến loại tội phạm cần phòng ngừa.
∘ Ví dụ: Biện pháp kiểm tra, giám sát cán bộ để phòng ngừa tham nhũng.
“Biện pháp phòng ngừa tội phạm cụ thể” là những biện pháp tác động đến từng cá nhân và loại trừ từng tình huống tội
phạm của một tội phạm cụ thể. Tuy có phạm vi tác động hẹp, nhưng loại biện pháp này có mức độ tác động sâu sắc, cụ
thể đến từng tội phạm, hạn chế khả năng làm phát sinh tội phạm đó.
∘ Ví dụ: Tuyên truyền pháp luật giao thông và trang bị hệ thống tín hiệu giao thông tốt sẽ có tác dụng phòng ngừa tội vi
phạm các quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ.
Để phòng ngừa tội phạm có hiệu quả, cần kết hợp các biện pháp phòng ngừa chung đối
với tình hình tội phạm và phòng ngừa riêng từng loại tội phạm và tội phạm cụ thể.
2.2 Căn cứ vào nội dung, tính chất của biện pháp:
“Biện pháp kinh tế – xã hội”là những biện pháp có tính chất kinh tế, tác động chủ yếu đến
lĩnh vực kinh tế, làm hạn chế khả năng làm phát sinh tình hình tội phạm, đặc biệt là
các tội xâm phạm sở hữu, các tội phạm kinh tế, tham nhũng…
∘ Ví dụ: Biện pháp cải cách chế độ lương cho cán bộ và thu nhập người dân nói chung nhằm thỏa mãn nhu cầu vật chất
của con người, có tác dụng phòng ngừa tình trạng tham nhũng, trộm cắp, kể cả giết người.
“Biện pháp chính trị – xã hội” là những biện pháp có tính chất chính trị - tư tưởng, tác động chủ yếu đến lĩnh vực chính
trị. Loại biện pháp này làm hạn chế khả năng làm phát sinh tình hình tội phạm, đặc biệt là các tội phạm an ninh quốc
gia, các tội xâm phạm các quyền tự do dân chủ của công dân, các tội phạm tham nhũng, chức vụ...
∘ Ví dụ: Biện pháp tuyên truyền, vận động quần chúng cảnh giác với các thế lực thù địch để phòng ngừa các tội phạm
trong lĩnh vực an ninh, chính trị.
“Biện pháp văn hóa – tâm lý xã hội” là những biện pháp tác động đến đời sống tinh thần của xã hội, nhằm nâng cao
trình độ nhận thức, hình thành nhân cách, lối sống, thói quen phù hợp, giải trí lành mạnh. Loại biện pháp này làm hạn
chế khả năng phát sinh tình hình tội phạm, đặc biệt là các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm con
người, các tội xâm phạm an ninh công cộng, các tội xâm phạm chế độ hôn nhân gia đình, các tội về ma túy… ∘ Ví dụ:
Biện pháp tạo sân chơi lành mạnh cho các thanh niên để phòng ngừa tội phạm ma túy, mại dâm...
“Biện pháp tổ chức, quản lý xã hội” là những biện pháp thiết lập cơ chế kiểm tra giám sát con người trong xã hội để kịp
thời phát hiện, xử lý những sai sót và vi phạm. Loại biện pháp này làm hạn chế khả năng làm phát sinh tình hình tội
phạm, đặc biệt là các tội phạm tham nhũng, các tội phạm chức vụ, các tội xâm phạm trật tự quản lý hành chính, các tội
phạm do người chưa thành niên phạm tội, do những người tái phạm, người có nhân thân xấu thực hiện...
∘ Ví dụ: Biện pháp kiểm tra, giám sát cán bộ để phòng ngừa tham nhũng, biện pháp quản lý dân cư tạm trú để phòng
ngừa tội phạm trong cộng đồng...
“Biện pháp pháp luật” là sử dụng pháp luật như một phương tiện để phòng ngừa tội phạm. Sự hiện diện của pháp luật
và hiệu quả điều chỉnh các quan hệ xã hội của nó có thể loại trừ các khả năng phạm tội. Để nâng cao vai trò phòng ngừa
tội phạm của pháp luật, nhà làm luật cần xây dựng và hoàn thiện pháp luật kịp thời. lOMoAR cPSD| 61716317
“Biện pháp phát hiện, xử lý tội phạm” hay còn gọi là các biện pháp “chống” tội phạm, thể hiện ở khả năng điều tra, xét
xử tội phạm khi có tội phạm xảy ra. Nếu tất cả các tội phạm thực hiện đều bị phát hiện, xử lý kịp thời, đúng người, đúng
tội, đúng pháp luật thì hiệu quả phòng ngừa tội phạm được nâng cao.
2.3 Căn cứ vào chủ thể chịu tác động của biện pháp:
“Biện pháp áp dụng chung cho tất cả mọi người” là những biện pháp mang tính định hướng, tuyên truyền, giúp đỡ phù
hợp với điều kiện chung của nhiều người.
∘ Ví dụ: Biện pháp tổ chức dạy nghề cho lao động, tuyên truyền xóa bỏ phong tục tập quán lạc hậu...
“Biện pháp phòng ngừa những người có đặc điểm nhân thân xấu, dễ phạm tội” như những người tái phạm, phạm tội
chuyên nghiệp, có quan hệ với các tệ nạn xã hội... Những biện pháp này đòi hỏi mức độ sâu sắc hơn về chuyên môn nghiệp vụ.
∘ Ví dụ: Biện pháp dạy nghề sau cai nghiện...
“Biện pháp phòng ngừa đối với những người đã phạm tội” là những biện pháp trách nhiệm hình sự, có tính cưỡng
chế, áp dụng riêng biệt cho từng người phạm tội và trên cơ sở quy định của pháp luật.
“Biện pháp phòng ngừa đối với cán bộ, công chức – viên chức”. Những người này có điều kiện phạm tội cao do có
quyền lực, có quyền quản lý tài sản công, khả năng phát hiện xử lý khó. Những biện pháp này đòi hỏi tính chất chuyên
môn nghiệp vụ cao, có cơ chế phối hợp thực hiện giữa các cơ quan quản lý, giám sát một cách chặt chẽ.
“Biện pháp phòng ngừa đối với người chưa thành niên”. Người chưa thành niên cũng có nguy cơ phạm tội cao do những
hạn chế về tâm sinh lý. Vì vậy biện pháp phòng ngừa tội phạm cần chú ý tính chất giáo dục, quản lý, giúp đỡ và tránh
những tác động gây tổn thương thể chất, tinh thần đối với người chưa thành niên.