







Preview text:
Chương 6
ĐƯỜNG LỐI XÂY DỰNG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ
MỤC ĐÍCH, YÊU CẦU: Mục đích:
Làm rõ đường lối xây dựng hệ thống chính trị của Đảng trong giai đoạn 1975-
1985. Phân tích cho sinh viên thấy đường lối được kế thừa và đúc rút từ quá trình
xây dựng hệ thống chính trị từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đến trước khi
đất nước thống nhất.
Làm rõ đường lối đổi mới hệ thống chính trị của Đảng sau năm 1986. Việc đổi mới
trong xây dựng hệ thống chính trị là một yêu cầu tất yếu, phù hợp với hoàn cảnh
thực tiễn của đất nước lúc đó, đi theo đường lối đổi mới toàn diện đất nước được
đề ra từ đại hội VI của đảng. Đây là trọng tâm của chương này. Yêu cầu:
Trong việc biên soạn và giảng dạy chương này ngoài việc dựa vào giáo trình môn
học cần căn cứ vào nguồn tư liệu của Đảng, nhất là văn kiện của Đảng từ Đại hội VI trở lại đây.
Với sinh viên, để nắm vững kiến thức của giai đoạn này cần đọc kỹ giáo trình,
nghiên cứu tài liệu tham khảo để củng cố và mở rộng kiến thức, tăng cường khả
năng tự nghiên cứu theo sự hướng dẫn của giáo viên NỘI DUNG:
I. Đường lối xây dựng hệ thống chính trị thời kỳ trước đổi mới (1945- 1985)
Khái niệm hệ thống chính trị: (GV giảng)
Khái niệm: Trong di sản lý luận của các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác-
Lênin chưa dùng phạm trù hệ thống chính trị. Đó là một nguyên nhân khiến cho
quan niệm về hệ thống chính trị không thống nhất trong nhận thức chính trị. 1
Hiện nay, có nhiều quan niệm khác nhau về hệ thống chính trị. Về cơ bản có hai cách hiểu:
+ Hiểu theo nghĩa hẹp: đồng nhất hệ thống chính trị với các yếu tố thực thể (tổ
chức) của hệ thống chính trị của giai cấp cầm quyền. Theo quan niệm này hệ thống
chính trị có nội dung trùng khớp với nội dung hệ thống chuyên chính của giai cấp cầm quyền.
+ Hiểu theo nghĩa rộng: ngoài các yếu tố thực thể người ta còn tính tới cả yếu tố
tinh thần của hệ thống chính trị bao gồm các quan điểm lý luận chính trị, hoạt động
chính trị, quan hệ chính trị, tư tưởng chính trị, văn hóa chính trị, các chuẩn mực
chính trị và pháp luật… tức là tất cả những gì có nội dung liên quan đến chính trị.
Có thể đưa ra một quan niệm: “Hệ thống chính trị là một cơ cấu bao gồm Nhà
nước, các đảng phái, các đoàn thể, các tổ chức xã hội-chính trị tồn tại và hoạt
động trong khuôn khổ pháp luật hiện hành được chế định theo tư tưởng của
giai cấp cầm quyền, nhằm tác động vào quá trình kinh tế-xã hội với mục đích
duy trì và phát triển chế độ xã hội đó” (Tìm hiểu nội dung Văn kiện Đại hội lần
thứ VII của Đảng, NXB Sự thật, Hà Nội, 1991, tr 108)
Theo quan niệm trên, hệ thống chính trị Việt Nam bao gồm những tổ chức sau:
Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam, Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp
phụ nữ Việt Nam, Tổng Liên đòan Lao động Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam,
Hội Cựu chiến binh Việt Nam và các tổ chức chính trị-xã hội hợp pháp khác của nhân dân.
Khái niệm hệ thống chính trị được sử dụng trong các văn kiện chính thức của Đảng:
Trước Đại hội VI, các văn kiện Đảng dùng khái niệm hệ thống chuyên chính vô
sản hoặc Nhà nước chuyên chính vô sản và diễn đạt cơ cấu tổ chức, vận hành xã
hội là Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ. Sau đó, ta dùng khái 2
niệm hệ thống chính trị. Thực tế hai khái niệm này về bản chất là giống nhau. Đây chỉ
là cách diễn đạt dưới hình thức khác, đồng thời có bổ sung và phát triển những nhận thức mới.
Lần đầu tiên văn kiện chính thức của Đảng dùng khái niệm hệ thống chính trị thành
một tiêu đề và được trình bày thành một chương là Hội nghị lần thứ sáu BCHTW
khóa VI (3-1989): “xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa; đổi mới tổ chức và
phương thức hoạt động của hệ thống chính trị.
Cương lĩnh đại hội VII của Đảng giành cả chương 4 trình bày về “ hệ thống chính trị
và sự lãnh đạo của Đảng”
Hiến pháp từ năm 1946-1992 dùng khái niệm: chế độ chính trị (chương I), trình bày
chủ yếu bản chất và tổ chức của nhà nước.
Đường lối xây dựng hệ thống chính trị Việt Nam trước năm 1975 (SV tự n/c)
Hệ thống chính trị nước ta được thiết lập từ cuộc cách mạng tháng Tám 1945,
không ngừng bổ sung, phát triển theo tiến trình của cách mạng. Song các yếu tố của
nó đã được thai nghén và dần hình thành từ khi Đảng cộng sản Việt Nam ra đời, lãnh
đạo đấu tranh giành chính quyền 1930-1945:
- Từ 1930-1945: tạo dựng tiền đề của hệ thống chính trị kiểu mới + Về nhận thức:
. Ngay từ năm 1927, Nguyễn Ái Quốc đã chỉ ra rằng: khi cách mạng thành công rồi
thì quyền lực nhà nước phải giao cho “dân chúng số nhiều”, không thể để trong tay thiểu số bọn bóc lột
. Trong Cương lĩnh tháng 2-1930: “dựng ra chính phủ công nông binh”. đồng thời, chỉ
ra yêu cầu xây dựng các tổ chức quần chúng như công hội, nông hội, phụ nữ, thanh
niên để tập hợp đông đảo quần chúng trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc.
. Trong Hội nghị BCHTW lần thứ 8 (1941) đã xác định thay khẩu hiệu “thành lập
chính phủ công nông binh” bằng khẩu hiệu “thành lập chính phủ cộng hòa dân chủ” 3
+ Trong thực tiễn: (xây dựng các tổ chức chính trị, hình thành các yếu tố tạo tiền đề
cho sự định hình hệ thống chính trị kiểu mới sau khi cách mạng thành công):
. Chính quyền: Trong phong trào cách mạng 1930-1931, với sự ra đời của chính
quyền Xô Viết thì hình thức chính quyền cách mạng đầu tiên được thành lập ở một số địa phương.
Chính quyền cách mạng ở khu giải phóng Việt Bắc đã giúp nhân dân thực hiện phổ
thông đầu phiếu, tập dần công việc quản lý. Đây là hình thức qúa độ, đặt nền móng
cho sự hình thành Nhà nước Việt Nam mới.
Sau khi phát lệnh Tổng khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân, 16-8-1945,
Quốc dân Đại hội được triệu tập tại Tân Trào và bầu ra Ủy ban dân tộc giải phóng (coi
như Chính phủ lâm thời của nước Việt Nam mới). Quốc dân Đại hội Tân Trào được coi
là hình thức “tiền Quốc hội”. Đây là một sáng tạo độc đáo của Đảng và Hồ Chí Minh
. Mặt trận: Ngày 18-11-1930, Hội phản đế đồng minh Đông Dương, hình thức đầu
tiên của mặt trận dân tộc thống nhất được thành lập. Sau đó, Mặt trận dân chủ Đông
Dương thời kỳ 1936-1939. Đến phong trào cách mạng giải phóng dân tộc 1939-1941,
Mặt trận việt Minh ra đời cùng các tổ chức cứu quốc.
Cách mạng tháng Tám thành công, Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra
đời. Đảng trở thành đảng cầm quyền, lãnh đạo xây dựng hệ thống chính trị mới. Qua
giai đoạn 1930-1945, chúng ta có thể rút ra một số nhận xét về quá trình tạo dựng tiền
đề của hệ thống chính trị kiểu mới ở nước ta:
+ Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính quyền cách mạng được khẳng định trong thực tế.
+ Trong chính thể dân chủ cộng hòa, Nhà nước đại diện cho quyền lợi của tất cả thành
phần kinh tế, xã hội có khuynh hướng độc lập dân tộc chống đế quốc.
+ Mặt trận người đại diện cho nhân dân đã được hình thành và luôn luôn là chỗ dựa
vững chắc của chính quyền.
- Từ 9-1945 đến 12-1946: chủ trương xây dựng, củng cố hệ thống chính trị kiểu mới 4
+ Chủ trương của Đảng thể hiện qua Chỉ thị “Kháng chiến, kiến quốc” ngày 25-11-
1945: xác định xây dựng và củng cố chính quyền là nhiệm vụ trọng tâm trong năm
đầu sau cách mạng Tháng Tám. Để thực hiện nhiệm vụ này văn kiện cũng xác định
biện pháp cụ thể trong lĩnh vực chính trị, quân sự, ngoại giao. Đặc biệt để tăng tính
pháp lý cho chính quyền mới Đảng chủ trương phải tiến hành tổng tuyển cử, bầu
quốc hội và thiết lập bản Hiến pháp của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. + Thực hiện:
. Xây dựng chính quyền Trung ương (tiến hành tổng tuyển cử, bầu quốc hội, lập Hiến
pháp ..); chính quyền địa phương (Hội đồng nhân dân các cấp và Ủy ban hành chính
các cấp. Bên cạnh hệ thống hành chính-dân sự còn có hệ thóng hành chính-quân sự)
. Củng cố phát triển các tổ chức đoàn thể quần chúng (Hội Liên hiệp quốc dân Việt
Nam. Các tổ chức đoàn thể và đảng phái dân chủ lần lượt ra đời). Cơ cấu các tổ chức
chính trị-xã hội của một hệ thống chính trị kiểu mới định hình rõ rệt.
. Duy trì hệ thống tổ chức Đảng: gồm 6 cấp theo quy định từ Đại hội I (Trung ương,
xứ ủy, tỉnh-thành ủy, đặc khu ủy, huyện ủy-cấp tương đương, tổng (xã), chi bộ.
Như vậy, trong năm đầu sau cách mạng tháng Tám, chính quyền cách mạng đã được
hoàn chỉnh cả về mặt hệ thống tổ chức và cơ sở pháp lý, đủ tư cách đại diện cho nhân
dân Việt Nam trong công tác đối nội và đối ngoại, chuẩn bị điều kiện cho cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp xâm lược sau đó.
- Từ 12-1946 đến 7-1954: chủ trương xây dựng, củng cố hệ thống chính trị trong thời
kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược
+ Xây dựng Đảng vững mạnh trên cả ba mặt: chính trị (đường lối đúng), tư tưởng; tổ
chức ( mỗi xứ ủy có tổ chức các cấp khác nhau)
+ Xây dựng chính quyền dân chủ nhân dân
+ Xây dựng Mặt trận dân tộc thống nhất, củng cố các đoàn thể quần chúng (Mặt trận Liên Việt 3-1951) 5
- Từ 1954-1975 củng cố và tăng cường hệ thống chính trị:
+ Chủ trương của Đảng: việc xây dựng hệ thống chính trị bị chi phối bởi hoàn cảnh
đất nước tạm thời bị chia cắt làm hai miền.
Miền Bắc: Sau khi miền Bắc được giải phóng, hệ thống chính trị nói chung, Nhà nước
dân chủ nhân dân nói riêng ở miền Bắc sẽ chuyển sang làm nhiệm vụ chuyên chính vô
sản. Nói cách khác, xác lập quyền lãnh đạo toàn xã hội của giai cấp công nhân, trên cơ
sở liên minh với nông dân và nhân dân lao động. Tại Đại hội III của Đảng chỉ rõ : “
Phải sử dụng chính quyền dân chủ nhân dân, dựa trên nền tảng liên minh công nông
do giai cấp công nhân lãnh đạo…Bảo đảm đưa miền Bắc nước ta lên chủ nghĩa xã
hội… làm cơ sở cho cuộc đấu tranh hòa bình thống nhất nước nhà”
Miền Nam: Đảng chủ trương xây dựng từng bước một hệ thống chính trị cách mạng
ngay trên địa bàn miền Nam, tạo thế đối đầu hợp pháp với kẻ thù ngay ở sào huyệt của chúng. + Thực hiện:
. Miền Bắc: Xây dựng Đảng (thêm Đảng bộ khu tự trị Tây Bắc, Việt Bắc 1955-1956;
xây dựng chính quyền (tăng cường pháp chế XHCN bằng việc thông qua Hiến pháp
mới năm 1959 nhấn mạnh tư tưởng xây dựng thiết chế dân chủ, về chính quyền địa
phương thành lập thêm khu tự trị Thái-Mèo); xây dựng mặt trận dân tộc thống nhất và
các đoàn thể quần chúng.
. Miền Nam: Xây dựng đảng (thành lập Trung ương cục miền Nam là một bộ phận
của BCHTW, đặt dưới sự chỉ đạo của BCHTW và Bộ Chính trị); thành lập Mặt trân
dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam 12-1960, 4-1968 thành lập Liên minh các lực
lượng dân tộc dân chủ và hòa bình miền Nam Việt Nam.; 6-1969 Chính phủ cách
mạng lâm thời cộng hòa miền Nam Việt Nam thành lập (có tổ chức bộ máy từ cấp
miền đến làng xã tại những vùng giải phóng).
Trong giai đoạn 1954-1975, ở Việt Nam tồn tại song song hai hệ thống chính trị cách
mạng ở miền Bắc và miền Nam. Thực chất, đây là hai bộ phận hữu cơ của 6
một nền chính trị thống nhất do một Đảng Cộng sản duy nhất lãnh đạo. Hai bộ phận
này có cách lựa chọn phương thức tổ chức và hoạt động khác nhau để phù hợp với
điều kiện chính trị từng miền. Hệ thống chính trị cách mạng giai đoạn 1954-1975 đã
hoàn thành xuất sắc vai trò của nó, đem lại thắng lợi vĩ đại của sự nghiệp chống Mỹ
cứu nước, giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà.
Đường lối xây dựng hệ thống chính trị thời kỳ trước đổi mới 1975-1985:
Hoàn cảnh lịch sử (SV tự n/c)
Cả nước hòa bình, độc lập, thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng
Nước ta từ nền sản xuất nông nghiệp, lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua
giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa.
Nước ta tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa trong một hoàn cảnh quốc tế thuận lợi.
Những đặc điểm trên đòi hỏi nhân dân phải phát huy cao độ tính chủ động, sáng tạo
và tự giác trong quá trình cách mạng XHCN. Muốn đưa sự nghiệp cách mạng đến
toàn thắng điều kiện tiên quyết trước tiên phải thiết lập và không ngừng tăng cường
chuyên chính vô sản, thực hiện và không ngừng phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động.
Chủ trương xây dựng hệ thống chính trị (GV giảng)
Cơ sở hình thành chủ trương: + Cơ sở lý luận:
Các Mác chỉ ra rằng: giữa xã hội tư bản với xã hội cộng sản là một thời kỳ cải biến
cách mạng từ xã hội nọ đến xã hội kia. Tương ứng với nó là một thời kỳ quá độ chính
trị, và nhà nước của thời kỳ ấy không thể là cái gì khác hơn là nền chuyên chính cách
mạng của giai cấp vô sản.
Lê nin nói rằng: muốn chuyển từ CNTB lên CNXH phải chịu đựng lâu dài nỗi đau
đớn của thời kỳ sinh đẻ, phải có một thời kỳ chuyên chính vô sản lâu dài. Bản chất
của chuyên chính vô sản là sự tiếp tục đấu tranh giai cấp dưới hình thức mới. 7