lOMoARcPSD| 22014077
CÂU 1: GIÁ TRỊ VẬT CHẤT? GIÁ TRỊ TINH THẦN? CHO VÍ DỤ CỤ THỂ?
Vật chất là gì?
Trong cuộc sống của chúng ta vật luôn sự tồn tại của vật chất, vật chất góp phần làm
cho cuộc sống của con người chúng ta thêm tiện nghi hiện đại và văn minh hơn.
Ví dụ về vật chất:
+ Các phương tiện giao thông như xe máy, xe ô tô, tàu hỏa, tàu điện ngầm…
+ Các vật dụng trong gia đình như: Bàn ghế, điều hòa, giường
+ Các vật phục vụ cho công việc của con người như: máy tính, điện thoại, máy in… Chủ
nghĩa duy vật biện chứng khẳng định rằng: Vật chất cái trước, ý thức cái sau,
vật chất nguồn gốc của ý thức, quyết định ý thức. Chúng ta có thể lấy 1 dụ nsau:
Đối với những đứa trẻ sinh điều kiện học tập bằng các phương tiện như máy chiếu, máy
tính bảng… thì những đứa trẻ này có nhiều kiến thức và hiểu biết hơn, còn những đứa trẻ
sinh ta trong hoàn cảnh điều kiện còn thiếu thốn nhiều về vật chất thì sẽ
hạn chế hơn. (Tuy nhiên đó chỉ là ví dụ về vật chất quyết định ý thức) Vậy
còn giá trị vật chất là gì?
Giá trị vật chất là một tập hợp các yếu tố cho phép con người đáp ứng nhu cầu cơ bản của
họ một cuộc sống thoải mái hơn. Nói cách khác, giá trị vật chất cho phép giúp
mọi người duy trì và duy trì chất lượng cuộc sống tốt hơn theo thời gian. Những giá trị này
được tạo thành từ thực phẩm, quần áo, thuốc men, tiền bạc và nhà ở. Những tài nguyên y
rất cần thiết để đáp ứng nhu cầu của con người về thực phẩm, sức khỏe, giải trí, quần áo,
cũng như để thực hiện các trách nhiệm và hoạt động khác nhau của cuộc sống hàng ngày.
Do đó, gtrị vật chất cung cấp một sự cân bằng sinh hoạt. Tuy nhiên, những lúc các
giá trị vật chất y bị vi phạm mọi người sửa đổi ý nghĩa thực sự của chúng. Nói cách
khác, họ cung cấp thêm một giá trị cho hàng hóa vật chất, điều này thường không cần thiết,
đặc biệt khi được tìm cách che lấp một khoảng trống tinh thần tình cảm bằng hàng
hóa vật chất hoặc tiền tệ.
Ví dụ: quần áo là vật chất; và những người bỏ công sức, thời gian ra để tạo ra bộ quần áo
đó thì họ những người tạo ra vật chất. Và thứ mang lại giá trị cho bquần áo đó những
người có nhu cầu mua quần áo. Đó là giá trị vật chất.
Trước khi qua đến phần m hiểu giá trị tinh thần thì mình cùng định nghĩa lại
tinh thần là gì:
Tinh: những suy nghĩ tinh tuý, phát ra từ con người. Thần: tâm linh, tâm thức, cảm xúc từ
con người. => Tinh thần là sống tích cực, tạo thái độ sống từ cảm xúc, suy nghĩ bên trong
tiềm thức con người. có nhiều cách để nói về tinh thần:
1. Tổng thể nói chung những ý nghĩ, tình cảm, v.v., những hoạt động thuộc về đời sốngnội
tâm của con người đời sống tinh thần (giúp đỡ cả về vật chất lẫn tinh thần)
2. Những thái độ, ý nghĩ định hướng cho hoạt động, quyết định hành động của con người
(nói tổng quát) (mất tinh thần, giữ vững tinh thần, chuẩn bị tinh thần)
3. Sự quan tâm thường xuyên trên cơ sở những nhận thức nhất định (tinh thần làm việctốt,
có tinh thần trách nhiệm cao). Đồng nghĩa: ý thức.
lOMoARcPSD| 22014077
Nói chung, người ta hiểu tinh thần nnhững hoạt động cảm xúc duy của con
người và những gì cốt lõi nhất cuả một điều gì đó.
Giá trị tinh thần là gì:
Giá trị tinh thần những thứ làm nên nhân cách, phẩm giá con người, với những giá trị
tiêu biểu, như: Yêu nước, tinh thần tự tôn dân tộc, ý chí tự lực tự cường, đoàn kết, nhân ái,
yêu thương lẫn nhau, coi trọng nghĩa tình; yêu lao động, cần chịu khó... Những giá trị
tinh thần đó được hình thành, trải qua hàng nghìn năm lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ
nước, lao động, sản xuất, chiến đấu, sáng tạo. Nhiều thế hệ nối tiếp nhau đã hình thành nên
những phẩm chất, bản lĩnh, bản chất, thể hiện tinh hoa của các giá trị truyền thống, m
nên cốt cách, bản sắc con người Việt Nam
Hồ Chí Minh luôn đề cao giá trị tinh thần của con người Việt Nam “tinh thần dân tộc” làm
nên sức mạnh Việt Nam. Những giá trị tinh thần của con người Việt Nam được Hồ Chí
Minh kế thừa, bổ sung, phát triển, nâng lên tầm cao mới, dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác
- Lênin: Từ lòng yêu nước truyền thống đã trthành chủ nghĩa yêu nước Việt Nam trong
thời đại cách mạng vô sản; từ truyền thống đoàn kết, nhân nghĩa đã nâng lên trở thành vấn
đề mang tính chiến lược của cách mạng, đoàn kết dân tộc gắn với đoàn kết quốc tế; từ lòng
nhân ái yêu thương con người được nâng lên thành chủ nghĩa nhân đạo cộng sản, mang
bản sắc Việt Nam.
dụ điển hình giá trị tinh thần yêu nước: Quá khứ - hiện tại - tương lai một dòng
chảy bất tận mà kết chứa nhiều giá trị. “Yêu nước” chính là một trong nhiều gtrị văn hóa
quốc gia - dân tộc Việt Nam, được kết tinh từ hàng ngàn năm trước, kể từ thời Hùng Vương
dựng nước và mãi mãi cho đến mai sau.
Yêu nước biểu đạt trạng thái m tình cảm hành động của con người, từ lòng yêu
nước, tinh thần yêu nước rồi nói một cách "triết lý" thì thành chủ nghĩa yêu nước.
giá trị văn hóa "muôn năm cũ" nhưng luôn tươi mới. Giá trị đó thật quý báu, cần được gìn
giữ cho luôn đầy kho tàng văn hóa dân tộc và nhân lên, lan tỏa ra cuộc sống muôn màu
tươi sắc
CÂU 2: MỐI LIÊN HỆ GIỮA VĂN HÓA - CHÍNH TRỊ - KINH TẾ TRONG TƯ
TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
I.Mở đầu
Đầu tiên khi phân tích mối liên hệ giữa văn hóa với các lĩnh vực trên, chúng ta cần tìm hiểu
quan niệm của chủ tịch Hồ Chí Minh về văn hóa.
Hồ Chí Minh có bốn cách tiếp cận chủ yếu về văn hóa: Thứ nhất, tiếp cận theo nghĩa rộng,
tổng hợp mọi phương thức sinh hoạt của con người. Thứ hai, tiếp cận theo nghĩa hẹp,
đời sống tinh thần của hội, thuộc kiến trúc thượng tầng. Thứ ba tiếp cận theo nghĩa
hẹp hơn bàn đến các trường học, số người đi học, xóa nạn chữ, biết đọc, biết viết
(chủ yếu xuất hiện trong các bài nói với đồng bào miền núi). Thứ tư, tiếp cận theo “phương
thức sử dụng công cụ sinh hoạt”.Tháng 8/1943, khi còn giai đoạn ở trong nhà của Tưởng
Giới Thạch, Hồ Chí Minh đã đưa ra quan niệm nhấn mạnh ý nghĩa của văn hóa. Từ những
cơ sở khách quan, khoa học, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã sớm đưa ra khái niệm văn
lOMoARcPSD| 22014077
hóa, quan điểm xây dựng nền văn hóa dân tộc. Người đúc kết nội hàm khái niệm văn hóa
như sau “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát
minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật khoa học, tôn giáo, văn học nghệ thuật,
những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về mặc, ăn, các phương thức sử dụng. Toàn
bộ những ng tạo phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương
thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng
những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn.”
Về vị trí, vai trò của văn hóa, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, văn hóa đứng ngang hàng với
các lĩnh vực hoạt động khác của xã hội: “Trong công cuộc kiến thiết nước nhà có bốn vấn
đề cùng phải chú ý đến, cùng phải coi trọng ngang nhau: chính trị, kinh tế, hội, văn
hóa”. Quan trọng hơn nữa, Người đã chỉ ra mối quan hệ chặt chẽ giữa văn hóa với các lĩnh
vực khác. Văn hóa không thể đứng ngoài “phải ở trong kinh tế chính trị” ngược
lại kinh tế, chính trị cũng nằm “trong văn hóa”. Đời sống hội được xây dựng, kết cấu
đan cài từ bốn lĩnh vực: chính trị, kinh tế, văn hóa, hội; trong đó, văn hóa nền tảng
tinh thần của đời sống xã hội, là lĩnh vực thuộc về kiến trúc thượng tầng của xã hội. Từ đó,
một trong những vấn đbản, hệ trọng đặt ra phải giải quyết đúng đắn mối quan hệ
giữa lĩnh vực văn hóa với chính trị, kinh tế, xã hội.
Trong cách mạng hội chủ nghĩa, thực hiện cách mạng trên lĩnh vực văn hóa một nhiệm
vụ rất quan trọng. Mặt trận văn hóa, văn nghệ không chỉ diễn ra trong chống giặc ngoại
xâm, còn cả công cuộc rất khó khăn, phức tạp là chống giặc nội xâm, giặc trong
lòng”, chủ nghĩa nhân với những biểu hiện như tham ô, nhũng nhiễu, lãng phí, ời
biếng, quan liêu, ... thế, mối quan hệ giữa chính trị và văn hóa trong cách mạng hội
chủ nghĩa thể hiện càng sâu sắc hơn, hai lĩnh vực phải được tiến hành cùng lúc, thúc đẩy
nhau cùng phát triển.
Từ sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, văn hóa được Hồ Chí Minh xác định là đời sống
tinh thần của xã hội, thuộc về kiến trúc thượng tầng. Văn hóa mối quan hệ mật thiết
với kinh tế, chính trị, xã hội, tạo thành bốn vấn đề chủ yếu của đời sống hội được
nhận thức như sau:
II. Phân tích mối quan hệ văn hóa- chính trị- kinh tế
a. Quan hệ giữa văn hóa với chính trị
Về mối quan hệ giữa văn hóa với chính trị, hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: văn a
phải phục vụ nhiệm vụ chính trị trong chính trị; chkhi chính trị, hội được giải
phóng thì văn hóa mới được giải phóng; chính trị mở đường cho văn hóa phát triển, để văn
hóa phát triển tự do, phải làm cách mạng chính trị trước. “Xã hội thế nào, văn nghệ thế
ấy... dưới chế độ thực dân và phong kiến, nhân dân ta bị lệ, thì văn nghệ cũng bị nô lệ,
bị tồi tàn, không thể phát triển được. Văn hóa phải tham gia vào nhiệm vụ chính trị tức là
tham gia vào các hoạt động cách mạng, tham gia kháng chiến xây dựng chủ nghĩa
hội. Văn hóa tham gia kháng chiến tức văn hóa không đứng ngoài trong cuộc kháng
chiến thần thánh của dân tộc và cuộc kháng chiến trở thành cuộc kháng chiến có văn hóa.
lOMoARcPSD| 22014077
Dưới chế độ thực dân và phong kiến nhân dân ta bị nô lệ, bị đàn áp, không thể phát triển.
Theo Hồ Chí Minh, phải tiến hành cách mạng chính trị trước mà cụ thể ở Việt Nam là
tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc để giành chính quyền, giải phóng chính trị, giải
phóng xã hội, từ đó giải phóng văn hóa, mở đường cho văn hóa phát triển. Quan điểm của
Hồ Chí Minh đã được thực tiễn Cách mạng Tháng Tám năm 1945 chứng minh là hoàn
toàn đúng đắn. Để văn hoá phát triển tự do thì phải làm cách mạng chính trị trước. Ở Việt
Nam, tiến hành cách mạng chính trị, thực chất là tiến hành cuộc cách mạng giải phóng
dân tộc để giành chính quyền, giải phóng chính trị, giải phóng xã hội, từ đó giải phóng
văn hoá, mở đường cho văn hoá phát triển. Tuy nhiên, văn hóa không thể đứng ngoài
phải ở trong chính trị, tức là văn hóa phải phục vụ nhiệm vụ chính trị; đồng thời mọi hoạt
động của tổ chức và nhà chính trị phải có hàm lượng văn hóa. "Văn hóa ở trong chính trị"
tức văn hóa phải tham gia vào nhiệm vụ chính trị, tham gia cách mạng, kháng chiến và
xây dựng chủ nghĩa xã hội. Hồ Chí Minh nêu rõ: "Văn hóa hóa kháng chiến, kháng chiến
hóa văn hóa", hoặc đường lối kháng chiến toàn diện, thi đua trên mọi lĩnh vực, ... là với ý
nghĩa như vậy. Theo đó, một phong trào văn hóa cách mạng, văn hóa kháng chiến đã diễn
ra rất sôi động, góp phần đắc lực vào thắng lợi của sự nghiệp kháng chiến kiến quốc.
Tóm lại, Hồ Chí Minh cho rằng, nước Việt Nam thuộc địa, trước hết phải giải phóng dân
tộc, giành độc lập dân tộc, thiết lập nhà nước của dân, do dân, dân. Đó chính sự giải
phóng chính trị để mở đường cho văn hóa phát triển. b. Quan hệ giữa văn hóa với kinh
tế
Đối với mối quan hệ giữa văn hóa kinh tế, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra rằng: “Muốn
tiến lên chủ nghĩa hội thì phải phát triển kinh tế và văn hóa. Vì sao không nói phát triển
văn hóa kinh tế? Tục ngữ ta câu: thực mới vực được đạo; thế kinh tế phải đi
trước”. Quan điểm của Người chỉ rõ kinh tế chính là cơ sở của văn hóa; do đó, kinh tế phải
đi trước một bước, phải chú trọng y dựng kinh tế, xây dựng cơ sở hạ tầng để có điều kiện
xây dựng và phát triển văn hóa.
Văn a thuộc kiến trúc thượng tầng, thế phải dựa trên sự kiến thiết, phát triển của
sở hạ tầng của hội tmới kiến thiết được và đủ điều kiện để phát triển văn hóa. Đồng
thời, đứng trên lập trường của chủ nghĩa Mác - Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định:
“Trình độ văn hóa của nhân dân nâng cao sẽ giúp chúng ta đẩy mạnh công cuộc khôi phục
kinh tế, phát triển dân chủ. Nâng cao trình độ văn hóa của nhân dân cũng một việc cần
thiết để y dựng nước ta thành một nước hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ giàu
mạnh”. Quan điểm này của Người khẳng định rằng văn hóa tính tích cực, chủ động,
động lực của kinh tế và chính trị, vì thế văn hóa phải trong kinh tế, thúc đẩy sự phát triển
của kinh tế.
Từ những nguyên bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã chỉ kinh tế
thuộc về cơ sở hạ tầng,nền tảng của việc xây dựng văn hóa, xây dựng kiến trúc thượng
tầng. Người cho rằng, "cơ sở hạ tầng xã hộikiến thiết rồi, văn hóa mới kiến thiết được
đủ điều kiện phát triển được". Trong y dựng chủ nghĩa hội, Hồ Chí Minh đã
tổng kết: Muốn tiến lên chủ nghĩa hội thì phải phát triển kinh tế văn hóa... để nâng
lOMoARcPSD| 22014077
cao đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân ta". Văn hóa không thể đứng ngoài mà phải
đứng trong kinh tế, văn hóa không hoàn toàn phụ thuộc vào kinh tế, mà có vai trò tác động
tích cực trở lại kinh tế. Tóm lại, sự phát triển của chinh trị, kinh tế, xã hội, sẽ thúc đẩy văn
hóa phát triển; ngược lại, mỗi bước phát triển kinh tế, chính trị, xã hội đều có sự khai sáng
của văn hóa.
c. Quan hệ giữa văn hóa và xã hội
Theo Hồ Chí Minh, xã hội có được giải phóng thì văn hoá mới được giải phóng. Chính trị
giải phóng sẽ mở đường cho văn hoá phát triển. Người nói: “xã hội thế nào, văn nghệ thế
ấy”. Văn học nghệ thuật của dân tộc Việt Nam rất phong phú, nhưng chế độ nô lệ của kẻ
áp bức, thì văn nghệ ng bị nô lệ, bị tồi tàn không thể phát triển được. Phải làm cách mạng
giải phóng dân tộc, giành chính quyền về tay nhân dân, giải phóng chính trị, giải phóng xã
hội, đưa Đảng Cộng sản Việt Nam lên địa vị cầm quyền, thì mới giải phóng được văn hóa.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra các quan điểm cơ bản định hướng cho việc xây dựng nền
văn nghệ cách mạng: Văn hóa, n nghệ một mặt trận, người hoạt động văn hóa, nghệ
chiến trên mặt trận ấy, tác phẩm văn nghệ khí sắc bén trong đấu tranh cách
mạng. Nội dung y sự nhấn mạnh quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong khẳng
định vai trò, vị trí của văn hóa, văn nghệ trong sự nghiệp cách mạng, coi mặt trận văn hóa
cũng tầm quan trọng như mặt trận quân sự, chính trị, kinh tế. tưởng Hồ Chí Minh
được hình thành từ những năm 20 thế kỷ XX và tiếp tục được phát triển qua các giai đoạn
cách mạng sau này. Ý nghĩa của quan điểm về mặt trận văn hóa, chiến sĩ văn hóa là: “Văn
hóa, nghệ thuật cũng như mọi hoạt động khác, không thể đứng ngoài, mà phải ở trong kinh
tế chính trị”. “Cũng như các chiến khác, chiến sĩ nghệ thuật nhiệm vụ nhất định,
tức là phụng sự kháng chiến, phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân... Nóim tắt phải
đặt lợi ích của kháng chiến, của Tổ quốc, của nhân dân lên trên hết, trước hết”. Đối với
mối quan hệ giữa độc lập dân tộc tự do của văn nghệ sĩ, Người luôn chỉ rõ: dân tộc bị
áp bức thì văn nghệ sĩ cũng mất tự do. Văn nghệ muốn tự do phải tham gia cách mạng...
III. Tổng kết
Những luận điểm toàn diện sâu sắc này của Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt nền móng cho
quan điểm hiện nay của Đảng ta; khẳng định xuyên suốt quá trình lãnh đạo ch mạng, đất
nước, nhân dân, chủ trương của Đảng ta luôn nhất quán là: tăng trưởng kinh tế không phải
là mc tiêu duy nhất, tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với phát triển văn hóa, giữ gìn bản sắc
tốt đẹp của văn hóa dân tộc giải quyết những vấn đề an sinh hội; văn hóa nguồn
lực, động lực của phát triển. Văn hóa nền tảng tinh thần của hội vừa mục tiêu,
vừa là sức mạnh nội sinh, động lực quan trọng để phát triển đất nước, xác định phát triển
văn hóa đồng bộ, hài hòa với tăng trưởng kinh tế và tiến bộ xã hội là một định hướng căn
bản của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, thể hiện tính ưu việt của chế độ
ta”.
CÂU 3: TẠI SAO KINH TẾ LÀ NỀN TẢNG ĐỂ XÂY DỰNG VĂN HÓA VÀ KINH
TẾ PHẢI ĐI TRƯỚC VĂN HÓA MỘT BƯỚC? CHO VÍ DỤ CỤ THỂ?
lOMoARcPSD| 22014077
Một quốc gia nếu chỉ tập trung vào phát triển văn hóa không chú ý đến tăng trưởng
kinh tế thì sẽ dẫn tới nhiều hệ quả xấu cho xã hội, thậm chí kinh tế không tăng trưởng, hoặc
tăng trưởng không vì sự tiến bộ. Đảng ta đã khẳng định phải “phát triển toàn diện các lĩnh
vực văn hóa, hội hài hòa với phát triển kinh tế”. Ngay từ khi nước ta giành được độc
lập, Hồ Chí Minh đã có tư tưởng đúng đắn về sự phát triển đồng bộ cả kinh tế lẫn văn hóa.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh mong ước xây dựng một xã hội mới, một cuộc sống mới
ấm no, hạnh phúc cho nhân dân. Người đã thấy được mối quan hệ biện chứng giữa phát
triển kinh tế với y dựng nền văn hóa nhằm nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của
nhân dân đặc biệt: “Kinh tế nền tảng đxây dựng văn hóa kinh tế phải đi trước
văn hóa một bước”.
Khi miền Bắc được giải phóng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận định, nước ta một nước
thuộc địa nửa phong kiến, kinh tế rất lạc hậu gồm nhiều thành phần phức tạp, sức sản xuất
chưa phát triển, đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân thấp kém. Do vậy, để phát triển
kinh tế, Người yêu cầu: “…nhiệm vụ quan trọng nhất của chúng ta phải xây dựng nền
tảng vật chất và kỹ thuật… tiến dần lên chủ nghĩa hội, công nghiệp nông nghiệp
hiện đại, văn hóa khoa học tiên tiến. Trong quá trình cách mạng hội chủ nghĩa,
chúng ta phải cải tạo nền kinh tế y dựng nền kinh tế mới, mà y dựng nhiệm
vụ chủ chốt lâu dài”. Người thấy rõ, nền kinh tế hội chủ nghĩa có hai chân công
nghiệp và nông nghiệp, hai chân không đều nhau, không thể lớn mạnh được. Chủ tịch Hồ
Chí Minh còn nhấn mạnh vai trò của công nghiệp hóa trong quá trình xây dựng chủ nghĩa
hội. Trong bài Con đường phía trước (ngày 20-01-1960), Người viết: “Nước ta vốn
một nước nông nghiệp lạc hậu, công nghiệp chỉ mới chiếm không đầy hai phần, còn nông
nghiệp thủ công nghiệp chiếm đến già tám phần… Như vậy thì làm sao cho đời sống
nhân dân thật dồi dào được?”. Và Người đã trả lời rằng: Đời sống nhân dân chỉ có thể thật
dồi dào, khi chúng ta dùng máy móc để sản xuất một cách thật rộng rãi: dùng máy móc cả
trong công nghiệp trong nông nghiệp. Máy sẽ chắp thêm tay cho người, làm cho sức
người tăng lên gấp trăm, nghìn lần giúp người làm những việc phi thường. Muốn
nhiều y, tphải mở mang các ngành công nghiệp m ra máy, ra gang, thép, thang,
dầu... Đó là con đường phải đi của chúng ta: Con đường công nghiệp hóa nước nhà”.
Tuy nhiên, trong mối quan hệ biện chứng giữa kinh tế văn hóa, Chủ tịch Hồ Chí Minh
nhấn mạnh kinh tế yếu tố quyết định tính chất diện mạo của văn hóa, kinh tế
phát triển sẽ tạo điều kiện vật chất nguồn sống cho phát triển văn hóa. Người chỉ
rõ: “Văn hóa một kiến trúc thượng tầng; những sở hạ tầng của hội kiến thiết
rồi, văn hóa mới đủ điều kiện phát triển được”. Kinh tế vai trò quyết định, do đó văn
hóa không bao giờ tách rời kinh tế, luôn bị chi phối bởi yếu tố kinh tế. Từ cách nhìn nhận
biện chứng về kinh tế văn hóa, Người khẳng định, “trong công cuộc kiến thiết nước nhà,
có bốn vấn đề phải chú ý đến; cùng phải coi trọng ngang nhau: chính trị, kinh tế, văn hóa,
xã hội”. Tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với phát triển văn hóa và giải quyết những vấn đề
hội; nếu chỉ coi tăng trưởng kinh tế mục tiêu duy nhất thì chẳng những môi trường
văn hóa - xã hội bị hủy hoại mà mục tiêu kinh tế cũng không đạt được. Song, kinh tế chính
lOMoARcPSD| 22014077
sở, điều kiện cho sự hình thành phát triển văn hóa, Người cho rằng: “Muốn tiến
lên chủ nghĩa xã hội thì phải phát triển kinh tế văn hóa…? Tục ngữ ta câu: thực
mới vực được đạo; vì thế, kinh tế phải đi trước. Nhưng phát triển để làm gì? Phát triển kinh
tế và văn hóa để nâng cao đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân ta”.
Cho ví dụ cụ thể
Có thể thấy nếu không có kinh tế con người mãi mãi không thể có điều kiện và cơ hội phát
triển đi lên, không thể có điều kiện để phát triển văn hóa. Từ thành thị cho đến những vùng
quê hẻo lánh, những vùng núi, hải đảo xa xôi… nếu không kinh tế thì khó lòng phát
triển được văn hóa.
Văn hóa chỉ có thể hình thành phát triển được khi văn hóa được giao u mở rộng ra với
bên ngoài, với sự giao thoa giữa các cộng đồng dân khác nhau, cũng như giữa các dân
tộc khác nhau.
Những con đường lớn nối liền giữa các ng đất không thể được xây dựng nếu không
kinh tế. Những sở vật chất, phúc lợi xã hội khó được hình thành nếu không có kinh tế.
Các hoạt động văn hóa khó lòng được tổ chức nếu thiếu kinh phí. Không kinh tế, văn
hóa khó được truyền tải rộng rãi phát triển. Nhiều vùng thôn quê, nhiều dân tộc sống
trên những vùng núi cao do kinh tế quá nghèo nàn nên văn hóa vẫn n nguyên sự lạc hậu.
Kinh tế vai trò quyết định góp phần thúc đẩy văn hóa phát triển. Sự tích lũy về lượng
của kinh tế nền tảng để cải biến vchất đối với văn hóa. Thực tế cho thấy, những nơi
giao thông đi lại khó khăn, thiếu trường học, thiếu các trung tâm văn hóa, thiếu bệnh viện
thì khó thể phát triển kinh tế và văn hóa. Kinh tế nghèo đói đã trói buộc con người lại,
không cho con người tiếp cận với những văn minh của nhân loại và với những tư duy sáng
tạo, những phát minh sáng chế. Thiếu kinh tế không thể tiến hành những sự đổi mới, cụ
thể là không thể công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước.
Trong thời kỳ đổi mới, nền kinh tế của Việt Nam đã nhiều chuyển biến đáng kể, đặc biệt
là với sự phát triển của ngành công nghiệp.
Cụ thể là: Sau khi thực hiện chính sách đổi mới hội nhập kinh tế vào đầu những năm
1990, Việt Nam đã mở cửa và tăng cường quan hệ thương mại với các quốc gia khác trên
thế giới. Điều này đã dẫn đến sự xuất hiện của nhiều nét văn hoá mới từ các quốc gia khác,
đặc biệt các nước phương y. Nhiều quán phê, nhà hàng, khách sạn trung m
thương mại có kiến trúc phương Tây đã xuất hiện tại các thành phố lớn Việt Nam, ảnh
hưởng đến phong cách sống văn hoá truyền thống của người Việt. Tiếp theo đó, Việt
Nam đã chuyển từ một nền kinh tế tập trung bao cấp sang mô hình kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa vào những năm 1990. Điều này đã dẫn đến sự phát triển của nhiều
ngành công nghiệp, đặc biệt là ngành dịch vụ, như du lịch, giải trí và thể thao. Nhiều công
ty nước ngoài đã đầu vào các ngành y mang đến nhiều sản phẩm trải nghiệm
lOMoARcPSD| 22014077
mới cho người dân Việt Nam. Với việc phát triển ngành du lịch, các món ăn địa phương
trở thành sản phẩm được quảng bá rộng rãi, dẫn đến sự đa dạng hóa và tối ưu hóa các món
ăn để phục vụ du khách. Thêm vào đó, để đáp ứng nhu cầu của du khách, nhà nước đã đầu
xây dựng các điểm đến du lịch mới như các khu nghỉ ỡng, c cụm resort hay các
công viên giải trí. Điều này kéo theo sự phát triển của ngành du lịch, tạo ra nhiều hội
việc làm đem lại lợi nhuận kinh tế cho quốc gia. Ngoài ra, việc giới thiệu các nét văn
hóa địa phương qua các tour du lịch và hoạt động giới thiệu văn hóa giúp du khách có thể
trải nghiệm tìm hiểu thêm về văn hóa địa phương, đồng thời cũng giúp giữ gìn và phát
huy giá trị văn hoá truyền thống của Việt Nam.
CÂU 4: TỪ “TRONG” Ở U “VĂN HÓA PHẢI Ở TRONG KINH TẾ VÀ CHÍNH
TRỊ” ĐƯỢC HIỂU NHƯ THẾ NÀO? CHO VÍ DỤ CỤ THỂ.
Vai trò và vị trí của văn hóa
Về vị trí, vai trò của văn hóa, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, văn hóa đứng ngang hàng với
các lĩnh vực hoạt động khác của xã hội: “Trong công cuộc kiến thiết ớc nhà có bốn vấn
đề cùng phải chú ý đến, cùng phải coi trọng ngang nhau: chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa”
(trích từ Hồ Chí Minh: Về văn hóa, Bảo tàng Hồ Chí Minh, Nội, 1997, tr. 11). Quan
trọng hơn nữa, Người đã chỉ ra mối quan hệ chặt chẽ giữa văn hóa với các lĩnh vực khác.
Văn hóa không thể đứng ngoài “mà phải ở trong kinh tế và chính trị” và ngược lại kinh tế,
chính trị cũng nằm “trong văn hóa”. Đời sống xã hội được y dựng, kết cấu đan cài từ bốn
lĩnh vực: chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội; trong đó, văn hóa là nền tảng tinh thần của đời
sống xã hội, là lĩnh vực thuộc về kiến trúc thượng tầng của xã hội. Từ đó, một trong những
vấn đề bản, hệ trọng đặt ra phải giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa lĩnh vực n
hóa với chính trị, kinh tế, xã hội.
Quan hệ giữa văn hóa và chính trị:
Hồ Chí Minh cho rằng, trong đời sống bốn vấn đề phải được coi quan trọng ngang
nhau và có sự tác động qua lại lấn nhau, đó chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Tuy nhiên,
ở nước Viết Nam thuộc địa, trước hết phải tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc, giành
độc lập dân tộc, xóa ách lệ, thiết lập nhà nước của dân, do dân, dân. Đó chính sự
giải phóng chính trị để mở đường cho văn hóa phát triển. Tuy nhiên, văn hóa không thể
đứng ngoài phải ở trong chính trị, tức là n hóa phải phục vụ nhiệm vụ chính trị; đồng
thời mọi hoạt động của tổ chức và nhà chính trị phải có hàm lượng văn hóa.
Quan hệ giữa văn hóa với kinh tế
Trong mối quan hệ với kinh tế, Hồ Chí Minh giải thích rằng, văn hóa thuộc kiến trúc thượng
tầng. Vì vậy, những cơ sở hạ tầng của xã hội có kiến thiết rồi, văn hóa mới kiến thiết được
có đủ điều kiện phát triển được. Tuy nhiên, văn hóa cũng không thể đứng ngoài mà phải
đứng trong kinh tế, nghĩa là văn hóa không hoàn toàn phụ thuộc vào kinh tế, mà có vai trò
tác động tích cực trở lại kinh tế Sự phát triển của chính trị, kinh tế, xã hội, sẽ thúc đẩy văn
lOMoARcPSD| 22014077
hóa phát triển; ngược lại, mỗi bước phát triển cảu kinh tế, chính trị, xã hội đều sự khai
sáng của văn hóa.
Như vậy “văn hóa phải ở trong kinh tế và chính trị”:
Văn a thuộc kiến trúc thượng tầng, thế phải dựa trên sự kiến thiết, phát triển của
sở hạ tầng của hội tmới kiến thiết được có đủ điều kiện để phát triển văn hóa. Đồng
thời, đứng trên lập trường của chủ nghĩa Mác - -nin, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định:
“Trình độ văn hóa của nhân dân nâng cao sẽ giúp chúng ta đẩy mạnh công cuộc khôi phục
kinh tế, phát triển dân chủ. Nâng cao trình độ văn hóa của nhân n cũng một việc cần
thiết để y dựng nước ta thành một nước hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ giàu
mạnh” (trích từ Hồ Chí Minh: Toàn tập, d, t. 10, tr. 458 - 459). Quan điểm y của
Người khẳng định rằng văn hóa tính tích cực, chủ động, động lực của kinh tế chính
trị, vì thế văn hóa phải ở trong kinh tế, thúc đẩy sự phát triển của kinh tế.
Câu "văn hóa phải ở trong kinh tế và chính trị" trong ngữ cảnh của Tư tưởng Hồ Chí Minh
thường mang ý nghĩa của sự ơng tác tương thích giữa văn hóa, kinh tế, chính trị
trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước. Hồ Chí Minh thường nhấn mạnh sự đồng
thuận tương tác chặt chẽ giữa các lĩnh vực này để đảm bảo sự phát triển toàn diện
bền vững.
Tóm lại:
Từ "trong" ở câu "văn hóa phải ở trong kinh tế và chính trị" thể hiện văn hóa không chỉ là
một yếu tố độc lập còn một phần quan trọng của cấu trúc hội, tương tác gắn
kết với kinh tế chính trị mối quan hệ sâu sắc không thể tách rời giữa các lĩnh vực
này, đồng thời nhấn mạnh mối liên kết sâu sắc giữa văn hóa hai lĩnh vực quan trọng:
kinh tế và chính trị. "Trong" ở đây thể hiện sự tương tác và sự ảnh hưởng của văn hóa đối
với kinh tế và chính trị, đồng thời cũng thể hiện sự phản ánh, tác động của kinh tế và chính
trị lên văn hóa. Kinh tế chính trị không thể đạt được sự phát triển bền vững không
sự đóng góp tích cực chủ động của văn hóa, ngược lại, văn hóa cần nền tảng
vững chắc từ kinh tế chính trị để phát triển. Từ "trong" nói lên sự quan trọng của việc
đặt văn hóa "ở trong" kinh tế và chính trị như một điều kiện tiên quyết để đạt được sự cân
đối và phát triển toàn diện của xã hội, nhấn mạnh cần phải xem xét và hiểu đúng mối quan
hệ y để xây dựng một hội mạnh mẽ ổn định. Chính văn a giúp hình thành
duy, ý thức cộng đồng định hình giá trị hội, đóng vai trò quan trọng trong việc xây
dựng một xã hội có tính nhân văn công bằng. Sự quan trọng của sự đồng thuận và tương
tác đúng đắn để xây dựng một xã hội phát triển toàn diện, cân đối và bền vững.
Ví dụ:
1. Trong q trình y dựng phát triển nền kinh tế hội Việt Nam, văn hóa
thườngđược coi một yếu tố quan trọng để định hình ý thức cộng đồng và tạo nên giá trị
xã hội. Ví dụ, trong chiến tranh giành độc lập, văn hóa Việt Nam đã chơi một vai trò quan
lOMoARcPSD| 22014077
trọng trong việc kích thích tinh thần đoàn kết, ý chí chiến đấu, lòng yêu nước. Các tác
phẩm văn hóa như nhạc, thơ, nghệ thuật hình ảnh đã truyền đạt thông điệp về tình yêu
quê hương và lòng dũng cảm của nhân dân.
2. Trong giai đoạn đổi mới Việt Nam, chính phủ đã khuyến khích sự đa dạng sángtạo
trong lĩnh vực văn hóa. Việc tạo ra các sự kiện nghệ thuật, triển lãm, và festivals không chỉ
giúp giới thiệu văn hóa Việt Nam mà còn thúc đẩy ngành du lịch và kinh tế văn hóa. Ví dụ
như Hội chợ Du lịch Quốc tế Việt Nam (VITM) là một sự kiện hàng năm, không chỉ là nơi
thúc đẩy du lịch mà còn là cơ hội để văn hóa và kinh tế gặp nhau, tạo nên một môi trường
phát triển toàn diện cho đất nước.
CÂU 5: NHẬN THỨC VỀ CÁC TÍNH CHẤT CỦA NỀN VĂN HÓA TRONG GIAI
ĐOẠN HIỆN NAY? CHO VÍ DỤ CỤ THỂ?
Nền văn hóa chúng ta đã đang xây dựng một nền văn a “mở”. n a luôn
được coi một mặt trận như Bác Hđã nói: “Văn hóa, văn nghệ một mặt trận,
anh chị em văn nghệ sỹ là chiến sỹ trên mặt trận ấy”. Văn hóa luôn song hành và phục
vụ chính trị, phục vụ cách mạng luôn được đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đặc biệt,
trong 7 thập kqua, văn hóa Việt Nam luôn đảm bảo được 3 nguyên tắc (cũng người
gọi là 3 tính chất) đó dân tộc, khoa học và đại chúng. Ngoài việc kế thừa và phát huy
các truyền thống văn hóa tốt đẹp, ta còn tiếp thu tinh hoa của nhân loại nhằm làm dồi
dào và đa dạng nền văn hóa Việt Nam.
Thứ nhất, về tính dân tộc: nền văn hóa dân tộc Việt Nam hiện nay đã có những thay đổi
mới mẻ qua việc du nhập những tinh hoa của nhân loại. Song đó các hành động cứng
rắn đối với những tư tưởng, thông tin vi phạm chủ quyền, tự do của dân tộc.
VD:
-Phim Barbie 2023 bị cấm chiếu ở Việt Nam do có đoạn phim chứa đường lưỡi bò.
Thứ hai, về tính khoa học: Chống lại tất cả những gì trái khoa học, phản tiến bộ. Nền văn
hóa của chúng ta suốt 7 thập k qua đã đưa đến một duy khoa học cho mọi tầng lớp nhân
dân, giúp nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, ứng dụng KHKT vào sản
xuất và đời sống, bài trừ hủ tục lạc hậu, đấu tranh với tư tưởng bảo thủ, trì trệ.
VD:
-Luật an ninh mạng
-Chiến dịch Đốt của Tổng Bí tĐảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng nhằm
chống tham nhũng trong bộ máy nhà nước.
-Tích cực bài trừ thủ tục cướp vợ, tảo hôn ở các miền núi, vùng sâu vùng xa
-Tích cực bài trừ các hoạt động tuyên truyền tín dị đoan, lừa đảo trá hình tôn giáo,
tín ngưỡng như Pháp Luân Công, Hội thánh Đức Chúa Trời Mẹ…
-Hằng năm, Việt Nam có nhiều học sinh, sinh viên đoạt được các giải quốc tế v
KHTN.
lOMoARcPSD| 22014077
Thứ ba, về tính đại chúng: Ngoài việc kế thừa phát huy các truyền thống văn hóa tốt
đẹp, ta còn tiếp thu tinh hoa của nhân loại nhằm làm dồi dào và đa dạng nền văn hóa Việt
Nam.
VD:
-Về trang phục: n cạnh việc du nhập áo vest, đồ tây, T-shirt(đồ tây, áo vest thời
thượng, sang trọng; T-shirt hiện đại, thoải mái, thoáng mát), ta vẫn giữ được những nét đẹp
truyền thống của áo dài, áo bà ba qua việc tổ chức các buổi giao lưu văn hóa, biểu diễn thời
trang…
-Về văn hóa, nghệ thuật:
Truyền thống của dân tộc ta dân Đông Anh, múa cồng chiêng Bên cạnh đó,
với những bước ngoặt nỗ lực hội nhập quốc tế không chỉ về mặt kinh tế, chính trị
còn cả văn hóa: tiếp thu thêm văn hoá nghệ thuật của các nước khác như hiphop,
ballet… hay Opera, Jazz (còn các lọại hình âm nhạc truyền thống của Việt Nam là:
đờn ca tài tử, ca trù, nhạc cung đình Huế) nhằm làm đa dạng và phong phú hơn nền
văn hóa, nghệ thuật nhưng song đó vẫn gìn giữ và bảo tồn được các di sản văn hóa lâu
đời.
Sách ngữ văn từ cấp một đến cấp ba của học sinh Việt Nam ngoài những tác phẩm
về tình yêu quê hương tổ quốc như Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm, Lượm của Tố
Hữu; thực trạng đời sống của nhân dân nVợ Nhặt của Kim Lân, Chiếc thuyền
ngoài xa của Nguyễn Minh Châu… thì còn có các tác phẩm nổi tiếng thế giới như bài
Tôi yêu em Pushkin, Chiếc lá cuối cùng của O. Henry…
-Về ngôn ngữ: Ngoài việc gìn giữ và phát triển vẻ đẹp vốn có của Tiếng Việt (ngữ văn
môn thi bắt buộc kì thi THCS, THPTQG), các bậc phụ huynh cũng bắt đầu chú ý
hơn về việc cho con em mình học ngoại ngữ như tiếng Anh, Trung, Pháp (Nhiều đại
học bắt buộc đầu ra phải có bằng ngoại ngữ) nhằm tiện hơn trong việc giao lưu với
bạn bè quốc tế trong thời buổi hội nhập.
CÂU 6:TRONG CÁC CHỨC NĂNG CỦA VĂN HÓA THÌ CHỨC NĂNG NÀO
QUAN TRỌNG NHẤT? SAO? ĐÁNH GIÁ CHỨC NĂNG ĐÓ TRONG GIAI
ĐOẠN HIỆN NAY
Văn hóa có ba chức năng chủ yếu:
Một là, bồi dưỡng tư tưởng đạo đức đúng đắn và tình cảm cao đẹp cho con người. Văn hóa
thuộc đời sống tinh thần của hội. Người thường xuyên quan tâm đến việ bồi dưỡng
tưởng cho cán bộ Đảng viên các tầng lớp nhân dân. Đó chức năng cao quý của văn
hóa
Hai là, nâng cao dân trí. Người đã răn dạy “một dân tộc dốt dân tộc yếu”. Chính thế
“mọi người phải hiểu biết quyền lợi của mình… phải có kiến thức mới có thể tham gia vào
công cuộc xây dựng nước nhà”
Ba là, bồi ỡng những phẩm chất tốt đẹp, những phong cách, lối sống lành mạnh. Một là,
bồi dưỡng tư tưởng đúng đắn và tình cảm cao đẹp. Tư tưởng và tình cảm là vấn đề chủ yếu
lOMoARcPSD| 22014077
nhất của đời sống tinh thần của hội con người. vậy, theo Hồ Chí Minh, văn hóa
phải thấm sâu vào tâm lý quốc dân để thực hiện chức năng hàng đầu là bồi ỡng nâng cao
ởng đúng đắn tình cảm cao đẹp cho con người, đồng thời loại bỏ những tưởng
sai lầm.
Chức năng quan trọng nhất là bồi dưỡng tưởng đạo đức đúng đắn tình cảm cao đẹp
cho con người.
Trong giai đoạn hiện nay việc phát triển bồi dưỡng tưởng đạo đức tình cảm cao đẹp
cho con người vẫn cùng cần thiết. chính sự phát triển tưởng này đối với một bộ
phận cán bộ, Đảng viên góp phần để các cán bộ, Đảng viên tuyên truyền thực hiện
tốt phẩm chất của mình để quần chúng nhân dân noi theo. Chính đời sống tinh thần xã hội
của con người là vô cùng cần thiết đối với một đất nước phát triển hiện nay
BẢNG ĐÁNH GIÁ
STT
TÊN
MSSV
Đánh giá
1
Trần Nguyễn Đức Huy
48.01.903.017
90%
2
Đinh Quốc Hùng
48.01.608.021
90%
3
Lê Mỹ Linh
47.01.901.154
90%
4
Hoàng Thị Thúy Nga
48.01.602.033
90%
5
Dương Hoài Ngọc
48.01.606.041
90%
6
Nguyễn Hoàng Phong
48.01.104.106
90%
7
Lê Hồng Quân
48.01.104.108
90%
8
Phan Nguyệt Thanh (NT)
48.01.607.057
95%
9
Trần Nhật Trí
48.01.607.076
90%
10
Đỗ Khiết Vy
48.01.754.190
90%
lOMoARcPSD| 22014077
11
Lý Hoàng Việt Tiến
48.01.607.071
90%

Preview text:

lOMoAR cPSD| 22014077
CÂU 1: GIÁ TRỊ VẬT CHẤT? GIÁ TRỊ TINH THẦN? CHO VÍ DỤ CỤ THỂ? Vật chất là gì?
Trong cuộc sống của chúng ta vật luôn có sự tồn tại của vật chất, vật chất góp phần làm
cho cuộc sống của con người chúng ta thêm tiện nghi hiện đại và văn minh hơn. Ví dụ về vật chất:
+ Các phương tiện giao thông như xe máy, xe ô tô, tàu hỏa, tàu điện ngầm…
+ Các vật dụng trong gia đình như: Bàn ghế, điều hòa, giường
+ Các vật phục vụ cho công việc của con người như: máy tính, điện thoại, máy in… Chủ
nghĩa duy vật biện chứng khẳng định rằng: Vật chất là cái có trước, ý thức là cái có sau,
vật chất là nguồn gốc của ý thức, quyết định ý thức. Chúng ta có thể lấy 1 ví dụ như sau:
Đối với những đứa trẻ sinh có điều kiện học tập bằng các phương tiện như máy chiếu, máy
tính bảng… thì những đứa trẻ này có nhiều kiến thức và hiểu biết hơn, còn những đứa trẻ
sinh ta trong hoàn cảnh điều kiện còn thiếu thốn nhiều về vật chất thì sẽ
hạn chế hơn. (Tuy nhiên đó chỉ là ví dụ về vật chất quyết định ý thức) Vậy
còn giá trị vật chất là gì?
Giá trị vật chất là một tập hợp các yếu tố cho phép con người đáp ứng nhu cầu cơ bản của
họ và có một cuộc sống thoải mái hơn. Nói cách khác, giá trị vật chất cho phép và giúp
mọi người duy trì và duy trì chất lượng cuộc sống tốt hơn theo thời gian. Những giá trị này
được tạo thành từ thực phẩm, quần áo, thuốc men, tiền bạc và nhà ở. Những tài nguyên này
rất cần thiết để đáp ứng nhu cầu của con người về thực phẩm, sức khỏe, giải trí, quần áo,
cũng như để thực hiện các trách nhiệm và hoạt động khác nhau của cuộc sống hàng ngày.
Do đó, giá trị vật chất cung cấp một sự cân bằng sinh hoạt. Tuy nhiên, có những lúc các
giá trị vật chất này bị vi phạm vì mọi người sửa đổi ý nghĩa thực sự của chúng. Nói cách
khác, họ cung cấp thêm một giá trị cho hàng hóa vật chất, điều này thường không cần thiết,
đặc biệt là khi nó được tìm cách che lấp một khoảng trống tinh thần tình cảm bằng hàng
hóa vật chất hoặc tiền tệ.
Ví dụ: quần áo là vật chất; và những người bỏ công sức, thời gian ra để tạo ra bộ quần áo
đó thì họ là những người tạo ra vật chất. Và thứ mang lại giá trị cho bộ quần áo đó là những
người có nhu cầu mua quần áo. Đó là giá trị vật chất.
Trước khi qua đến phần tìm hiểu giá trị tinh thần là gì thì mình cùng định nghĩa lại tinh thần là gì:
Tinh: những suy nghĩ tinh tuý, phát ra từ con người. Thần: tâm linh, tâm thức, cảm xúc từ
con người. => Tinh thần là sống tích cực, tạo thái độ sống từ cảm xúc, suy nghĩ bên trong
tiềm thức con người. có nhiều cách để nói về tinh thần:
1. Tổng thể nói chung những ý nghĩ, tình cảm, v.v., những hoạt động thuộc về đời sốngnội
tâm của con người đời sống tinh thần (giúp đỡ cả về vật chất lẫn tinh thần)
2. Những thái độ, ý nghĩ định hướng cho hoạt động, quyết định hành động của con người
(nói tổng quát) (mất tinh thần, giữ vững tinh thần, chuẩn bị tinh thần)
3. Sự quan tâm thường xuyên trên cơ sở những nhận thức nhất định (tinh thần làm việctốt,
có tinh thần trách nhiệm cao). Đồng nghĩa: ý thức. lOMoAR cPSD| 22014077
Nói chung, người ta hiểu tinh thần như là những hoạt động cảm xúc và tư duy của con
người và những gì cốt lõi nhất cuả một điều gì đó.
Giá trị tinh thần là gì:
Giá trị tinh thần là những thứ làm nên nhân cách, phẩm giá con người, với những giá trị
tiêu biểu, như: Yêu nước, tinh thần tự tôn dân tộc, ý chí tự lực tự cường, đoàn kết, nhân ái,
yêu thương lẫn nhau, coi trọng nghĩa tình; yêu lao động, cần cù chịu khó... Những giá trị
tinh thần đó được hình thành, trải qua hàng nghìn năm lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ
nước, lao động, sản xuất, chiến đấu, sáng tạo. Nhiều thế hệ nối tiếp nhau đã hình thành nên
những phẩm chất, bản lĩnh, bản chất, thể hiện tinh hoa của các giá trị truyền thống, làm
nên cốt cách, bản sắc con người Việt Nam
Hồ Chí Minh luôn đề cao giá trị tinh thần của con người Việt Nam “tinh thần dân tộc” làm
nên sức mạnh Việt Nam. Những giá trị tinh thần của con người Việt Nam được Hồ Chí
Minh kế thừa, bổ sung, phát triển, nâng lên tầm cao mới, dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác
- Lênin: Từ lòng yêu nước truyền thống đã trở thành chủ nghĩa yêu nước Việt Nam trong
thời đại cách mạng vô sản; từ truyền thống đoàn kết, nhân nghĩa đã nâng lên trở thành vấn
đề mang tính chiến lược của cách mạng, đoàn kết dân tộc gắn với đoàn kết quốc tế; từ lòng
nhân ái yêu thương con người được nâng lên thành chủ nghĩa nhân đạo cộng sản, mang bản sắc Việt Nam.
Ví dụ điển hình là giá trị tinh thần yêu nước: Quá khứ - hiện tại - tương lai là một dòng
chảy bất tận mà kết chứa nhiều giá trị. “Yêu nước” chính là một trong nhiều giá trị văn hóa
quốc gia - dân tộc Việt Nam, được kết tinh từ hàng ngàn năm trước, kể từ thời Hùng Vương
dựng nước và mãi mãi cho đến mai sau.
Yêu nước biểu đạt trạng thái tâm lý tình cảm và hành động của con người, từ lòng yêu
nước, tinh thần yêu nước rồi nói một cách "triết lý" thì thành chủ nghĩa yêu nước. Nó là
giá trị văn hóa "muôn năm cũ" nhưng luôn tươi mới. Giá trị đó thật quý báu, cần được gìn
giữ cho luôn đầy kho tàng văn hóa dân tộc và nhân lên, lan tỏa ra cuộc sống muôn màu tươi sắc
CÂU 2: MỐI LIÊN HỆ GIỮA VĂN HÓA - CHÍNH TRỊ - KINH TẾ TRONG TƯ
TƯỞNG HỒ CHÍ MINH I.Mở đầu
Đầu tiên khi phân tích mối liên hệ giữa văn hóa với các lĩnh vực trên, chúng ta cần tìm hiểu
quan niệm của chủ tịch Hồ Chí Minh về văn hóa.
Hồ Chí Minh có bốn cách tiếp cận chủ yếu về văn hóa: Thứ nhất, tiếp cận theo nghĩa rộng,
tổng hợp mọi phương thức sinh hoạt của con người. Thứ hai, tiếp cận theo nghĩa hẹp, là
đời sống tinh thần của xã hội, thuộc kiến trúc thượng tầng. Thứ ba là tiếp cận theo nghĩa
hẹp hơn là bàn đến các trường học, số người đi học, xóa nạn mù chữ, biết đọc, biết viết
(chủ yếu xuất hiện trong các bài nói với đồng bào miền núi). Thứ tư, tiếp cận theo “phương
thức sử dụng công cụ sinh hoạt”.Tháng 8/1943, khi còn giai đoạn ở trong nhà tù của Tưởng
Giới Thạch, Hồ Chí Minh đã đưa ra quan niệm nhấn mạnh ý nghĩa của văn hóa. Từ những
cơ sở khách quan, khoa học, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã sớm đưa ra khái niệm văn lOMoAR cPSD| 22014077
hóa, quan điểm xây dựng nền văn hóa dân tộc. Người đúc kết nội hàm khái niệm văn hóa
như sau “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát
minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật khoa học, tôn giáo, văn học nghệ thuật,
những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn
bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương
thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng
những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn.”
Về vị trí, vai trò của văn hóa, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, văn hóa đứng ngang hàng với
các lĩnh vực hoạt động khác của xã hội: “Trong công cuộc kiến thiết nước nhà có bốn vấn
đề cùng phải chú ý đến, cùng phải coi trọng ngang nhau: chính trị, kinh tế, xã hội, văn
hóa”. Quan trọng hơn nữa, Người đã chỉ ra mối quan hệ chặt chẽ giữa văn hóa với các lĩnh
vực khác. Văn hóa không thể đứng ngoài “mà phải ở trong kinh tế và chính trị” và ngược
lại kinh tế, chính trị cũng nằm “trong văn hóa”. Đời sống xã hội được xây dựng, kết cấu
đan cài từ bốn lĩnh vực: chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội; trong đó, văn hóa là nền tảng
tinh thần của đời sống xã hội, là lĩnh vực thuộc về kiến trúc thượng tầng của xã hội. Từ đó,
một trong những vấn đề cơ bản, hệ trọng đặt ra là phải giải quyết đúng đắn mối quan hệ
giữa lĩnh vực văn hóa với chính trị, kinh tế, xã hội.
Trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, thực hiện cách mạng trên lĩnh vực văn hóa là một nhiệm
vụ rất quan trọng. Mặt trận văn hóa, văn nghệ không chỉ diễn ra trong chống giặc ngoại
xâm, mà còn cả ở công cuộc rất khó khăn, phức tạp là chống giặc nội xâm, “giặc ở trong
lòng”, chủ nghĩa cá nhân với những biểu hiện như tham ô, nhũng nhiễu, lãng phí, lười
biếng, quan liêu, ... Vì thế, mối quan hệ giữa chính trị và văn hóa trong cách mạng xã hội
chủ nghĩa thể hiện càng sâu sắc hơn, hai lĩnh vực phải được tiến hành cùng lúc, thúc đẩy nhau cùng phát triển.
Từ sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, văn hóa được Hồ Chí Minh xác định là đời sống
tinh thần của xã hội, là thuộc về kiến trúc thượng tầng. Văn hóa có mối quan hệ mật thiết
với kinh tế, chính trị, xã hội, tạo thành bốn vấn đề chủ yếu của đời sống xã hội và được nhận thức như sau: II.
Phân tích mối quan hệ văn hóa- chính trị- kinh tế a.
Quan hệ giữa văn hóa với chính trị
Về mối quan hệ giữa văn hóa với chính trị, xã hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: văn hóa
phải phục vụ nhiệm vụ chính trị và ở trong chính trị; chỉ khi chính trị, xã hội được giải
phóng thì văn hóa mới được giải phóng; chính trị mở đường cho văn hóa phát triển, để văn
hóa phát triển tự do, phải làm cách mạng chính trị trước. “Xã hội thế nào, văn nghệ thế
ấy... dưới chế độ thực dân và phong kiến, nhân dân ta bị nô lệ, thì văn nghệ cũng bị nô lệ,
bị tồi tàn, không thể phát triển được. Văn hóa phải tham gia vào nhiệm vụ chính trị tức là
tham gia vào các hoạt động cách mạng, tham gia kháng chiến và xây dựng chủ nghĩa xã
hội. Văn hóa tham gia kháng chiến tức là văn hóa không đứng ngoài mà ở trong cuộc kháng
chiến thần thánh của dân tộc và cuộc kháng chiến trở thành cuộc kháng chiến có văn hóa. lOMoAR cPSD| 22014077
Dưới chế độ thực dân và phong kiến nhân dân ta bị nô lệ, bị đàn áp, không thể phát triển.
Theo Hồ Chí Minh, phải tiến hành cách mạng chính trị trước mà cụ thể ở Việt Nam là
tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc để giành chính quyền, giải phóng chính trị, giải
phóng xã hội, từ đó giải phóng văn hóa, mở đường cho văn hóa phát triển. Quan điểm của
Hồ Chí Minh đã được thực tiễn Cách mạng Tháng Tám năm 1945 chứng minh là hoàn
toàn đúng đắn. Để văn hoá phát triển tự do thì phải làm cách mạng chính trị trước. Ở Việt
Nam, tiến hành cách mạng chính trị, thực chất là tiến hành cuộc cách mạng giải phóng
dân tộc để giành chính quyền, giải phóng chính trị, giải phóng xã hội, từ đó giải phóng
văn hoá, mở đường cho văn hoá phát triển. Tuy nhiên, văn hóa không thể đứng ngoài mà
phải ở trong chính trị, tức là văn hóa phải phục vụ nhiệm vụ chính trị; đồng thời mọi hoạt
động của tổ chức và nhà chính trị phải có hàm lượng văn hóa. "Văn hóa ở trong chính trị"
tức văn hóa phải tham gia vào nhiệm vụ chính trị, tham gia cách mạng, kháng chiến và
xây dựng chủ nghĩa xã hội. Hồ Chí Minh nêu rõ: "Văn hóa hóa kháng chiến, kháng chiến
hóa văn hóa", hoặc đường lối kháng chiến toàn diện, thi đua trên mọi lĩnh vực, ... là với ý
nghĩa như vậy. Theo đó, một phong trào văn hóa cách mạng, văn hóa kháng chiến đã diễn
ra rất sôi động, góp phần đắc lực vào thắng lợi của sự nghiệp kháng chiến kiến quốc.
Tóm lại, Hồ Chí Minh cho rằng, nước Việt Nam thuộc địa, trước hết phải giải phóng dân
tộc, giành độc lập dân tộc, thiết lập nhà nước của dân, do dân, vì dân. Đó chính là sự giải
phóng chính trị để mở đường cho văn hóa phát triển. b. Quan hệ giữa văn hóa với kinh tế
Đối với mối quan hệ giữa văn hóa và kinh tế, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra rằng: “Muốn
tiến lên chủ nghĩa xã hội thì phải phát triển kinh tế và văn hóa. Vì sao không nói phát triển
văn hóa và kinh tế? Tục ngữ ta có câu: Có thực mới vực được đạo; vì thế kinh tế phải đi
trước”. Quan điểm của Người chỉ rõ kinh tế chính là cơ sở của văn hóa; do đó, kinh tế phải
đi trước một bước, phải chú trọng xây dựng kinh tế, xây dựng cơ sở hạ tầng để có điều kiện
xây dựng và phát triển văn hóa.
Văn hóa thuộc kiến trúc thượng tầng, vì thế phải dựa trên sự kiến thiết, phát triển của cơ
sở hạ tầng của xã hội thì mới kiến thiết được và có đủ điều kiện để phát triển văn hóa. Đồng
thời, đứng trên lập trường của chủ nghĩa Mác - Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định:
“Trình độ văn hóa của nhân dân nâng cao sẽ giúp chúng ta đẩy mạnh công cuộc khôi phục
kinh tế, phát triển dân chủ. Nâng cao trình độ văn hóa của nhân dân cũng là một việc cần
thiết để xây dựng nước ta thành một nước hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu
mạnh”. Quan điểm này của Người khẳng định rằng văn hóa có tính tích cực, chủ động, là
động lực của kinh tế và chính trị, vì thế văn hóa phải ở trong kinh tế, thúc đẩy sự phát triển của kinh tế.
Từ những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ kinh tế
thuộc về cơ sở hạ tầng, là nền tảng của việc xây dựng văn hóa, xây dựng kiến trúc thượng
tầng. Người cho rằng, "cơ sở hạ tầng xã hội có kiến thiết rồi, văn hóa mới kiến thiết được
và có đủ điều kiện phát triển được". Trong xây dựng chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh đã
tổng kết: Muốn tiến lên chủ nghĩa xã hội thì phải phát triển kinh tế và văn hóa... để nâng lOMoAR cPSD| 22014077
cao đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân ta". Văn hóa không thể đứng ngoài mà phải
đứng trong kinh tế, văn hóa không hoàn toàn phụ thuộc vào kinh tế, mà có vai trò tác động
tích cực trở lại kinh tế. Tóm lại, sự phát triển của chinh trị, kinh tế, xã hội, sẽ thúc đẩy văn
hóa phát triển; ngược lại, mỗi bước phát triển kinh tế, chính trị, xã hội đều có sự khai sáng của văn hóa. c.
Quan hệ giữa văn hóa và xã hội
Theo Hồ Chí Minh, xã hội có được giải phóng thì văn hoá mới được giải phóng. Chính trị
giải phóng sẽ mở đường cho văn hoá phát triển. Người nói: “xã hội thế nào, văn nghệ thế
ấy”. Văn học nghệ thuật của dân tộc Việt Nam rất phong phú, nhưng chế độ nô lệ của kẻ
áp bức, thì văn nghệ cũng bị nô lệ, bị tồi tàn không thể phát triển được. Phải làm cách mạng
giải phóng dân tộc, giành chính quyền về tay nhân dân, giải phóng chính trị, giải phóng xã
hội, đưa Đảng Cộng sản Việt Nam lên địa vị cầm quyền, thì mới giải phóng được văn hóa.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra các quan điểm cơ bản định hướng cho việc xây dựng nền
văn nghệ cách mạng: Văn hóa, văn nghệ là một mặt trận, người hoạt động văn hóa, nghệ
sĩ là chiến sĩ trên mặt trận ấy, tác phẩm văn nghệ là vũ khí sắc bén trong đấu tranh cách
mạng. Nội dung này là sự nhấn mạnh quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong khẳng
định vai trò, vị trí của văn hóa, văn nghệ trong sự nghiệp cách mạng, coi mặt trận văn hóa
cũng có tầm quan trọng như mặt trận quân sự, chính trị, kinh tế. Tư tưởng Hồ Chí Minh
được hình thành từ những năm 20 thế kỷ XX và tiếp tục được phát triển qua các giai đoạn
cách mạng sau này. Ý nghĩa của quan điểm về mặt trận văn hóa, chiến sĩ văn hóa là: “Văn
hóa, nghệ thuật cũng như mọi hoạt động khác, không thể đứng ngoài, mà phải ở trong kinh
tế và chính trị”. “Cũng như các chiến sĩ khác, chiến sĩ nghệ thuật có nhiệm vụ nhất định,
tức là phụng sự kháng chiến, phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân... Nói tóm tắt là phải
đặt lợi ích của kháng chiến, của Tổ quốc, của nhân dân lên trên hết, trước hết”. Đối với
mối quan hệ giữa độc lập dân tộc và tự do của văn nghệ sĩ, Người luôn chỉ rõ: dân tộc bị
áp bức thì văn nghệ sĩ cũng mất tự do. Văn nghệ muốn tự do phải tham gia cách mạng... III. Tổng kết
Những luận điểm toàn diện và sâu sắc này của Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt nền móng cho
quan điểm hiện nay của Đảng ta; khẳng định xuyên suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, đất
nước, nhân dân, chủ trương của Đảng ta luôn nhất quán là: tăng trưởng kinh tế không phải
là mục tiêu duy nhất, tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với phát triển văn hóa, giữ gìn bản sắc
tốt đẹp của văn hóa dân tộc và giải quyết những vấn đề an sinh xã hội; văn hóa là nguồn
lực, động lực của phát triển. “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội vừa là mục tiêu,
vừa là sức mạnh nội sinh, động lực quan trọng để phát triển đất nước,
xác định phát triển
văn hóa đồng bộ, hài hòa với tăng trưởng kinh tế và tiến bộ xã hội là một định hướng căn
bản của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam,
thể hiện tính ưu việt của chế độ ta”.
CÂU 3: TẠI SAO KINH TẾ LÀ NỀN TẢNG ĐỂ XÂY DỰNG VĂN HÓA VÀ KINH
TẾ PHẢI ĐI TRƯỚC VĂN HÓA MỘT BƯỚC? CHO VÍ DỤ CỤ THỂ? lOMoAR cPSD| 22014077
Một quốc gia nếu chỉ tập trung vào phát triển văn hóa mà không chú ý đến tăng trưởng
kinh tế thì sẽ dẫn tới nhiều hệ quả xấu cho xã hội, thậm chí kinh tế không tăng trưởng, hoặc
tăng trưởng không vì sự tiến bộ. Đảng ta đã khẳng định phải “phát triển toàn diện các lĩnh
vực văn hóa, xã hội hài hòa với phát triển kinh tế”. Ngay từ khi nước ta giành được độc
lập, Hồ Chí Minh đã có tư tưởng đúng đắn về sự phát triển đồng bộ cả kinh tế lẫn văn hóa.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh mong ước xây dựng một xã hội mới, một cuộc sống mới
ấm no, hạnh phúc cho nhân dân. Người đã thấy được mối quan hệ biện chứng giữa phát
triển kinh tế với xây dựng nền văn hóa nhằm nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của
nhân dân và đặc biệt: “Kinh tế là nền tảng để xây dựng văn hóa và kinh tế phải đi trước văn hóa một bước”.
Khi miền Bắc được giải phóng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận định, nước ta là một nước
thuộc địa nửa phong kiến, kinh tế rất lạc hậu gồm nhiều thành phần phức tạp, sức sản xuất
chưa phát triển, đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân thấp kém. Do vậy, để phát triển
kinh tế, Người yêu cầu: “…nhiệm vụ quan trọng nhất của chúng ta là phải xây dựng nền
tảng vật chất và kỹ thuật… tiến dần lên chủ nghĩa xã hội, có công nghiệp và nông nghiệp
hiện đại, có văn hóa và khoa học tiên tiến. Trong quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa,
chúng ta phải cải tạo nền kinh tế cũ và xây dựng nền kinh tế mới, mà xây dựng là nhiệm
vụ chủ chốt và lâu dài”. Người thấy rõ, nền kinh tế xã hội chủ nghĩa có hai chân là công
nghiệp và nông nghiệp, hai chân không đều nhau, không thể lớn mạnh được. Chủ tịch Hồ
Chí Minh còn nhấn mạnh vai trò của công nghiệp hóa trong quá trình xây dựng chủ nghĩa
xã hội. Trong bài Con đường phía trước (ngày 20-01-1960), Người viết: “Nước ta vốn là
một nước nông nghiệp lạc hậu, công nghiệp chỉ mới chiếm không đầy hai phần, còn nông
nghiệp và thủ công nghiệp chiếm đến già tám phần… Như vậy thì làm sao cho đời sống
nhân dân thật dồi dào được?”. Và Người đã trả lời rằng: “Đời sống nhân dân chỉ có thể thật
dồi dào, khi chúng ta dùng máy móc để sản xuất một cách thật rộng rãi: dùng máy móc cả
trong công nghiệp và trong nông nghiệp. Máy sẽ chắp thêm tay cho người, làm cho sức
người tăng lên gấp trăm, nghìn lần và giúp người làm những việc phi thường. Muốn có
nhiều máy, thì phải mở mang các ngành công nghiệp làm ra máy, ra gang, thép, thang,
dầu... Đó là con đường phải đi của chúng ta: Con đường công nghiệp hóa nước nhà”.
Tuy nhiên, trong mối quan hệ biện chứng giữa kinh tế và văn hóa, Chủ tịch Hồ Chí Minh
nhấn mạnh kinh tế là yếu tố quyết định tính chất và diện mạo của văn hóa, kinh tế
phát triển sẽ tạo điều kiện vật chất và nguồn sống cho phát triển văn hóa.
Người chỉ
rõ: “Văn hóa là một kiến trúc thượng tầng; những cơ sở hạ tầng của xã hội có kiến thiết
rồi, văn hóa mới đủ điều kiện phát triển được”. Kinh tế có vai trò quyết định, do đó văn
hóa không bao giờ tách rời kinh tế, luôn bị chi phối bởi yếu tố kinh tế. Từ cách nhìn nhận
biện chứng về kinh tế và văn hóa, Người khẳng định, “trong công cuộc kiến thiết nước nhà,
có bốn vấn đề phải chú ý đến; cùng phải coi trọng ngang nhau: chính trị, kinh tế, văn hóa,
xã hội”. Tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với phát triển văn hóa và giải quyết những vấn đề
xã hội; nếu chỉ coi tăng trưởng kinh tế là mục tiêu duy nhất thì chẳng những môi trường
văn hóa - xã hội bị hủy hoại mà mục tiêu kinh tế cũng không đạt được. Song, kinh tế chính lOMoAR cPSD| 22014077
là cơ sở, điều kiện cho sự hình thành và phát triển văn hóa, Người cho rằng: “Muốn tiến
lên chủ nghĩa xã hội thì phải phát triển kinh tế và văn hóa…? Tục ngữ ta có câu: Có thực
mới vực được đạo; vì thế, kinh tế phải đi trước. Nhưng phát triển để làm gì? Phát triển kinh
tế và văn hóa để nâng cao đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân ta”.
Cho ví dụ cụ thể
Có thể thấy nếu không có kinh tế con người mãi mãi không thể có điều kiện và cơ hội phát
triển đi lên, không thể có điều kiện để phát triển văn hóa. Từ thành thị cho đến những vùng
quê hẻo lánh, những vùng núi, hải đảo xa xôi… nếu không có kinh tế thì khó lòng phát triển được văn hóa.
Văn hóa chỉ có thể hình thành và phát triển được khi văn hóa được giao lưu mở rộng ra với
bên ngoài, với sự giao thoa giữa các cộng đồng dân cư khác nhau, cũng như giữa các dân tộc khác nhau.
Những con đường lớn nối liền giữa các vùng đất không thể được xây dựng nếu không có
kinh tế. Những cơ sở vật chất, phúc lợi xã hội khó được hình thành nếu không có kinh tế.
Các hoạt động văn hóa khó lòng được tổ chức nếu thiếu kinh phí. Không có kinh tế, văn
hóa khó được truyền tải rộng rãi và phát triển. Nhiều vùng thôn quê, nhiều dân tộc sống
trên những vùng núi cao do kinh tế quá nghèo nàn nên văn hóa vẫn còn nguyên sự lạc hậu.
Kinh tế có vai trò quyết định góp phần thúc đẩy văn hóa phát triển. Sự tích lũy về lượng
của kinh tế là nền tảng để cải biến về chất đối với văn hóa. Thực tế cho thấy, những nơi
giao thông đi lại khó khăn, thiếu trường học, thiếu các trung tâm văn hóa, thiếu bệnh viện
thì khó có thể phát triển kinh tế và văn hóa. Kinh tế nghèo đói đã trói buộc con người lại,
không cho con người tiếp cận với những văn minh của nhân loại và với những tư duy sáng
tạo, những phát minh sáng chế. Thiếu kinh tế không thể tiến hành những sự đổi mới, cụ
thể là không thể công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước.
Trong thời kỳ đổi mới, nền kinh tế của Việt Nam đã có nhiều chuyển biến đáng kể, đặc biệt
là với sự phát triển của ngành công nghiệp.
Cụ thể là: Sau khi thực hiện chính sách đổi mới và hội nhập kinh tế vào đầu những năm
1990, Việt Nam đã mở cửa và tăng cường quan hệ thương mại với các quốc gia khác trên
thế giới. Điều này đã dẫn đến sự xuất hiện của nhiều nét văn hoá mới từ các quốc gia khác,
đặc biệt là các nước phương Tây. Nhiều quán cà phê, nhà hàng, khách sạn và trung tâm
thương mại có kiến trúc phương Tây đã xuất hiện tại các thành phố lớn ở Việt Nam, ảnh
hưởng đến phong cách sống và văn hoá truyền thống của người Việt. Tiếp theo đó, Việt
Nam đã chuyển từ một nền kinh tế tập trung bao cấp sang mô hình kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa vào những năm 1990. Điều này đã dẫn đến sự phát triển của nhiều
ngành công nghiệp, đặc biệt là ngành dịch vụ, như du lịch, giải trí và thể thao. Nhiều công
ty nước ngoài đã đầu tư vào các ngành này và mang đến nhiều sản phẩm và trải nghiệm lOMoAR cPSD| 22014077
mới cho người dân Việt Nam. Với việc phát triển ngành du lịch, các món ăn địa phương
trở thành sản phẩm được quảng bá rộng rãi, dẫn đến sự đa dạng hóa và tối ưu hóa các món
ăn để phục vụ du khách. Thêm vào đó, để đáp ứng nhu cầu của du khách, nhà nước đã đầu
tư xây dựng các điểm đến du lịch mới như các khu nghỉ dưỡng, các cụm resort hay các
công viên giải trí. Điều này kéo theo sự phát triển của ngành du lịch, tạo ra nhiều cơ hội
việc làm và đem lại lợi nhuận kinh tế cho quốc gia. Ngoài ra, việc giới thiệu các nét văn
hóa địa phương qua các tour du lịch và hoạt động giới thiệu văn hóa giúp du khách có thể
trải nghiệm và tìm hiểu thêm về văn hóa địa phương, đồng thời cũng giúp giữ gìn và phát
huy giá trị văn hoá truyền thống của Việt Nam.
CÂU 4: TỪ “TRONG” Ở CÂU “VĂN HÓA PHẢI Ở TRONG KINH TẾ VÀ CHÍNH
TRỊ” ĐƯỢC HIỂU NHƯ THẾ NÀO? CHO VÍ DỤ CỤ THỂ.
Vai trò và vị trí của văn hóa
Về vị trí, vai trò của văn hóa, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, văn hóa đứng ngang hàng với
các lĩnh vực hoạt động khác của xã hội: “Trong công cuộc kiến thiết nước nhà có bốn vấn
đề cùng phải chú ý đến, cùng phải coi trọng ngang nhau: chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa”
(trích từ Hồ Chí Minh: Về văn hóa, Bảo tàng Hồ Chí Minh, Hà Nội, 1997, tr. 11). Quan
trọng hơn nữa, Người đã chỉ ra mối quan hệ chặt chẽ giữa văn hóa với các lĩnh vực khác.
Văn hóa không thể đứng ngoài “mà phải ở trong kinh tế và chính trị” và ngược lại kinh tế,
chính trị cũng nằm “trong văn hóa”. Đời sống xã hội được xây dựng, kết cấu đan cài từ bốn
lĩnh vực: chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội; trong đó, văn hóa là nền tảng tinh thần của đời
sống xã hội, là lĩnh vực thuộc về kiến trúc thượng tầng của xã hội. Từ đó, một trong những
vấn đề cơ bản, hệ trọng đặt ra là phải giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa lĩnh vực văn
hóa với chính trị, kinh tế, xã hội.
Quan hệ giữa văn hóa và chính trị:
Hồ Chí Minh cho rằng, trong đời sống có bốn vấn đề phải được coi là quan trọng ngang
nhau và có sự tác động qua lại lấn nhau, đó là chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Tuy nhiên,
ở nước Viết Nam thuộc địa, trước hết phải tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc, giành
độc lập dân tộc, xóa ách nô lệ, thiết lập nhà nước của dân, do dân, vì dân. Đó chính là sự
giải phóng chính trị để mở đường cho văn hóa phát triển. Tuy nhiên, văn hóa không thể
đứng ngoài mà phải ở trong chính trị, tức là văn hóa phải phục vụ nhiệm vụ chính trị; đồng
thời mọi hoạt động của tổ chức và nhà chính trị phải có hàm lượng văn hóa.
Quan hệ giữa văn hóa với kinh tế
Trong mối quan hệ với kinh tế, Hồ Chí Minh giải thích rằng, văn hóa thuộc kiến trúc thượng
tầng. Vì vậy, những cơ sở hạ tầng của xã hội có kiến thiết rồi, văn hóa mới kiến thiết được
và có đủ điều kiện phát triển được. Tuy nhiên, văn hóa cũng không thể đứng ngoài mà phải
đứng trong kinh tế, nghĩa là văn hóa không hoàn toàn phụ thuộc vào kinh tế, mà có vai trò
tác động tích cực trở lại kinh tế Sự phát triển của chính trị, kinh tế, xã hội, sẽ thúc đẩy văn lOMoAR cPSD| 22014077
hóa phát triển; ngược lại, mỗi bước phát triển cảu kinh tế, chính trị, xã hội đều có sự khai sáng của văn hóa.
Như vậy “văn hóa phải ở trong kinh tế và chính trị”:
Văn hóa thuộc kiến trúc thượng tầng, vì thế phải dựa trên sự kiến thiết, phát triển của cơ
sở hạ tầng của xã hội thì mới kiến thiết được và có đủ điều kiện để phát triển văn hóa. Đồng
thời, đứng trên lập trường của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định:
“Trình độ văn hóa của nhân dân nâng cao sẽ giúp chúng ta đẩy mạnh công cuộc khôi phục
kinh tế, phát triển dân chủ. Nâng cao trình độ văn hóa của nhân dân cũng là một việc cần
thiết để xây dựng nước ta thành một nước hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu
mạnh” (trích từ Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 10, tr. 458 - 459). Quan điểm này của
Người khẳng định rằng văn hóa có tính tích cực, chủ động, là động lực của kinh tế và chính
trị, vì thế văn hóa phải ở trong kinh tế, thúc đẩy sự phát triển của kinh tế.
Câu "văn hóa phải ở trong kinh tế và chính trị" trong ngữ cảnh của Tư tưởng Hồ Chí Minh
thường mang ý nghĩa của sự tương tác và tương thích giữa văn hóa, kinh tế, và chính trị
trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước. Hồ Chí Minh thường nhấn mạnh sự đồng
thuận và tương tác chặt chẽ giữa các lĩnh vực này để đảm bảo sự phát triển toàn diện và bền vững. Tóm lại:
Từ "trong" ở câu "văn hóa phải ở trong kinh tế và chính trị" thể hiện văn hóa không chỉ là
một yếu tố độc lập mà còn là một phần quan trọng của cấu trúc xã hội, tương tác và gắn
kết với kinh tế và chính trị mối quan hệ sâu sắc và không thể tách rời giữa các lĩnh vực
này, đồng thời nhấn mạnh mối liên kết sâu sắc giữa văn hóa và hai lĩnh vực quan trọng:
kinh tế và chính trị. "Trong" ở đây thể hiện sự tương tác và sự ảnh hưởng của văn hóa đối
với kinh tế và chính trị, đồng thời cũng thể hiện sự phản ánh, tác động của kinh tế và chính
trị lên văn hóa. Kinh tế và chính trị không thể đạt được sự phát triển bền vững mà không
có sự đóng góp tích cực và chủ động của văn hóa, và ngược lại, văn hóa cần có nền tảng
vững chắc từ kinh tế và chính trị để phát triển. Từ "trong" nói lên sự quan trọng của việc
đặt văn hóa "ở trong" kinh tế và chính trị như một điều kiện tiên quyết để đạt được sự cân
đối và phát triển toàn diện của xã hội, nhấn mạnh cần phải xem xét và hiểu đúng mối quan
hệ này để xây dựng một xã hội mạnh mẽ và ổn định. Chính văn hóa giúp hình thành tư
duy, ý thức cộng đồng và định hình giá trị xã hội, đóng vai trò quan trọng trong việc xây
dựng một xã hội có tính nhân văn và công bằng. Sự quan trọng của sự đồng thuận và tương
tác đúng đắn để xây dựng một xã hội phát triển toàn diện, cân đối và bền vững. Ví dụ:
1. Trong quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế xã hội ở Việt Nam, văn hóa
thườngđược coi là một yếu tố quan trọng để định hình ý thức cộng đồng và tạo nên giá trị
xã hội. Ví dụ, trong chiến tranh giành độc lập, văn hóa Việt Nam đã chơi một vai trò quan lOMoAR cPSD| 22014077
trọng trong việc kích thích tinh thần đoàn kết, ý chí chiến đấu, và lòng yêu nước. Các tác
phẩm văn hóa như nhạc, thơ, và nghệ thuật hình ảnh đã truyền đạt thông điệp về tình yêu
quê hương và lòng dũng cảm của nhân dân.
2. Trong giai đoạn đổi mới ở Việt Nam, chính phủ đã khuyến khích sự đa dạng và sángtạo
trong lĩnh vực văn hóa. Việc tạo ra các sự kiện nghệ thuật, triển lãm, và festivals không chỉ
giúp giới thiệu văn hóa Việt Nam mà còn thúc đẩy ngành du lịch và kinh tế văn hóa. Ví dụ
như Hội chợ Du lịch Quốc tế Việt Nam (VITM) là một sự kiện hàng năm, không chỉ là nơi
thúc đẩy du lịch mà còn là cơ hội để văn hóa và kinh tế gặp nhau, tạo nên một môi trường
phát triển toàn diện cho đất nước.
CÂU 5: NHẬN THỨC VỀ CÁC TÍNH CHẤT CỦA NỀN VĂN HÓA TRONG GIAI
ĐOẠN HIỆN NAY? CHO VÍ DỤ CỤ THỂ?
Nền văn hóa mà chúng ta đã và đang xây dựng là một nền văn hóa “mở”. Văn hóa luôn
được coi là một mặt trận như Bác Hồ đã nói: “Văn hóa, văn nghệ là một mặt trận,
anh chị em văn nghệ sỹ là chiến sỹ trên mặt trận ấy”
. Văn hóa luôn song hành và phục
vụ chính trị, phục vụ cách mạng và luôn được đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đặc biệt,
trong 7 thập kỷ qua, văn hóa Việt Nam luôn đảm bảo được 3 nguyên tắc (cũng có người
gọi là 3 tính chất) đó là dân tộc, khoa học và đại chúng. Ngoài việc kế thừa và phát huy
các truyền thống văn hóa tốt đẹp, ta còn tiếp thu tinh hoa của nhân loại nhằm làm dồi
dào và đa dạng nền văn hóa Việt Nam.

Thứ nhất, về tính dân tộc: nền văn hóa dân tộc Việt Nam hiện nay đã có những thay đổi
mới mẻ qua việc du nhập những tinh hoa của nhân loại. Song đó là các hành động cứng
rắn đối với những tư tưởng, thông tin vi phạm chủ quyền, tự do của dân tộc. VD:
-Phim Barbie 2023 bị cấm chiếu ở Việt Nam do có đoạn phim chứa đường lưỡi bò.
Thứ hai, về tính khoa học: Chống lại tất cả những gì trái khoa học, phản tiến bộ. Nền văn
hóa của chúng ta suốt 7 thập kỷ qua đã đưa đến một tư duy khoa học cho mọi tầng lớp nhân
dân, giúp nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, ứng dụng KHKT vào sản
xuất và đời sống, bài trừ hủ tục lạc hậu, đấu tranh với tư tưởng bảo thủ, trì trệ. VD: -Luật an ninh mạng
-Chiến dịch Đốt lò của Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng nhằm
chống tham nhũng trong bộ máy nhà nước.
-Tích cực bài trừ thủ tục cướp vợ, tảo hôn ở các miền núi, vùng sâu vùng xa
-Tích cực bài trừ các hoạt động tuyên truyền mê tín dị đoan, lừa đảo trá hình tôn giáo,
tín ngưỡng như Pháp Luân Công, Hội thánh Đức Chúa Trời Mẹ…
-Hằng năm, Việt Nam có nhiều học sinh, sinh viên đoạt được các giải quốc tế về KHTN. lOMoAR cPSD| 22014077
Thứ ba, về tính đại chúng: Ngoài việc kế thừa và phát huy các truyền thống văn hóa tốt
đẹp, ta còn tiếp thu tinh hoa của nhân loại nhằm làm dồi dào và đa dạng nền văn hóa Việt Nam. VD:
-Về trang phục: Bên cạnh việc du nhập áo vest, đồ tây, T-shirt… (đồ tây, áo vest thời
thượng, sang trọng; T-shirt hiện đại, thoải mái, thoáng mát), ta vẫn giữ được những nét đẹp
truyền thống của áo dài, áo bà ba qua việc tổ chức các buổi giao lưu văn hóa, biểu diễn thời trang…
-Về văn hóa, nghệ thuật:
Truyền thống của dân tộc ta có dân vũ Đông Anh, múa cồng chiêng Bên cạnh đó,
với những bước ngoặt và nỗ lực hội nhập quốc tế không chỉ về mặt kinh tế, chính trị mà
còn ở cả văn hóa: tiếp thu thêm văn hoá nghệ thuật của các nước khác như hiphop,
ballet… hay Opera, Jazz
(còn các lọại hình âm nhạc truyền thống của Việt Nam là:
đờn ca tài tử, ca trù, nhạc cung đình Huế
) nhằm làm đa dạng và phong phú hơn nền
văn hóa, nghệ thuật
nhưng song đó vẫn gìn giữ và bảo tồn được các di sản văn hóa lâu đời.
Sách ngữ văn từ cấp một đến cấp ba của học sinh Việt Nam ngoài những tác phẩm
về tình yêu quê hương tổ quốc như Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm, Lượm của Tố
Hữu; thực trạng đời sống của nhân dân như Vợ Nhặt của Kim Lân, Chiếc thuyền
ngoài xa của Nguyễn Minh Châu… thì còn có các tác phẩm nổi tiếng thế giới như bài
Tôi yêu em Pushkin, Chiếc lá cuối cùng của O. Henry…

-Về ngôn ngữ: Ngoài việc gìn giữ và phát triển vẻ đẹp vốn có của Tiếng Việt (ngữ văn
là môn thi bắt buộc ở kì thi THCS, THPTQG), các bậc phụ huynh cũng bắt đầu chú ý
hơn về việc cho con em mình học ngoại ngữ như tiếng Anh, Trung, Pháp (Nhiều đại
học bắt buộc đầu ra phải có bằng ngoại ngữ)
… nhằm tiện hơn trong việc giao lưu với
bạn bè quốc tế trong thời buổi hội nhập.
CÂU 6:TRONG CÁC CHỨC NĂNG CỦA VĂN HÓA THÌ CHỨC NĂNG NÀO
QUAN TRỌNG NHẤT? VÌ SAO? ĐÁNH GIÁ CHỨC NĂNG ĐÓ TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
Văn hóa có ba chức năng chủ yếu:
Một là, bồi dưỡng tư tưởng đạo đức đúng đắn và tình cảm cao đẹp cho con người. Văn hóa
thuộc đời sống tinh thần của xã hội. Người thường xuyên quan tâm đến việ bồi dưỡng lý
tưởng cho cán bộ Đảng viên và các tầng lớp nhân dân. Đó là chức năng cao quý của văn hóa
Hai là, nâng cao dân trí. Người đã răn dạy “một dân tộc dốt là dân tộc yếu”. Chính vì thế
“mọi người phải hiểu biết quyền lợi của mình… phải có kiến thức mới có thể tham gia vào
công cuộc xây dựng nước nhà”
Ba là, bồi dưỡng những phẩm chất tốt đẹp, những phong cách, lối sống lành mạnh. Một là,
bồi dưỡng tư tưởng đúng đắn và tình cảm cao đẹp. Tư tưởng và tình cảm là vấn đề chủ yếu lOMoAR cPSD| 22014077
nhất của đời sống tinh thần của xã hội và con người. Vì vậy, theo Hồ Chí Minh, văn hóa
phải thấm sâu vào tâm lý quốc dân để thực hiện chức năng hàng đầu là bồi dưỡng nâng cao
tư tưởng đúng đắn và tình cảm cao đẹp cho con người, đồng thời loại bỏ những tư tưởng sai lầm.
Chức năng quan trọng nhất là bồi dưỡng tư tưởng đạo đức đúng đắn và tình cảm cao đẹp cho con người.
Trong giai đoạn hiện nay việc phát triển bồi dưỡng tư tưởng đạo đức và tình cảm cao đẹp
cho con người vẫn vô cùng cần thiết. Vì chính sự phát triển tư tưởng này đối với một bộ
phận cán bộ, Đảng viên là góp phần để các cán bộ, Đảng viên tuyên truyền và thực hiện
tốt phẩm chất của mình để quần chúng nhân dân noi theo. Chính đời sống tinh thần xã hội
của con người là vô cùng cần thiết đối với một đất nước phát triển hiện nay BẢNG ĐÁNH GIÁ STT TÊN MSSV Đánh giá 1 Trần Nguyễn Đức Huy 48.01.903.017 90% 2 Đinh Quốc Hùng 48.01.608.021 90% 3 Lê Mỹ Linh 47.01.901.154 90% 4 Hoàng Thị Thúy Nga 48.01.602.033 90% 5 Dương Hoài Ngọc 48.01.606.041 90% 6 Nguyễn Hoàng Phong 48.01.104.106 90% 7 Lê Hồng Quân 48.01.104.108 90% 8 Phan Nguyệt Thanh (NT) 48.01.607.057 95% 9 Trần Nhật Trí 48.01.607.076 90% 10 Đỗ Khiết Vy 48.01.754.190 90% lOMoAR cPSD| 22014077 11 Lý Hoàng Việt Tiến 48.01.607.071 90%