CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA
NGUYỄN MINH CHÂU
CHIC THUYN NGOÀI XA
A. PHẦN THUYẾT
I. Tìm hiểu chung
1. Tác gi
- Nguyễn Minh Châu (1930- 1989)
- Quê quán: Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An - làng quê nghèo, lam lũ, trở đi trở lại trong các tác phẩm của
Nguyễn Minh Châu
- Trưởng thành từ môi trường quân ngũ, là một nhà văn quân đội.
- Nguyễn Minh Châu một trong những gương mặt tiêu biểu của nền văn học VN hiện đại. Từng cây bút
xuất sắc của nền văn học sử thi thời kháng chiến chống Mĩ, từ sau 1975, Nguyễn Minh Châu trở thành nhà
văn tiên phong của sự nghiệp văn học thời đổi mới, một trong số “những nhà văn mở đường tinh anh
tài năng nhất” của văn học VN (Nguyên Ngọc).
2. Tác phẩm
a. Hoàn cảnh ra đời, xuất xứ
- Chiếc thuyền ngoài xa được viết năm 1983 khi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đã đi qua, đất
nước trở lại với cuộc sống hòa bình nhưng lại phải đối mặt với cuộc chiến không tiếng súng (cuộc chiến của
đói nghèo, tăm tối, lạc hậu) do tàn của chiến tranh để lại. Nhiều vấn đề của đời sống văn hóa nhân sinh
trước đây do hoàn cảnh chiến tranh chưa được chú ý, nay được đặt ra.
- Tác phẩm nằm trong xu hướng nghệ thuật chung của văn học thời kỳ đổi mới: hướng nội, khai thác sâu sắc
số phận con người trong cuộc sống đời - thế sự.
- Truyện ngắn lúc đầu in trong tập Bến Quê (1985) sau được nhà văn lấy tên chung cho một tuyển tập truyện
ngắn Chiếc thuyền ngoài xa (1987)
b. Tóm tt
- Truyện kể lại chuyến đi thực tế của một nghệ nhiếp ảnh những chiêm nghiệm sâu sắc của anh về nghệ
thuật cuộc đời.
c. Nhan đề
- Nhan đề chứa hai nội dung:
Đối tượng quan sát Chiếc thuyền
Cự li quan sát: ngoài xa
Cùng một người quan sát, một đối tượng quan sát, gần như cùng một thời điểm quan sát, nhưng
những cự li khác nhau sẽ cho những kết quả khác nhau, dẫn đến những xúc cảm nhận thức khác nhau.
- Chiếc thuyền xuất hiện trong truyện ngắn trước hết ngoài xa đó là hình ảnh cánh buồm nhòa mờ
trong màn sương huyền ảo của buổi sớm mai trên mặt biển xa, vẻ đẹp hài hòa toàn ch, “cái đẹp tuyệt
đỉnh của ngoại cảnh” khiến nghệ xúc động trong cảm nhận “cái Đẹp đạo đức!”
Chiếc thuyền ngoài xa là biểu tượng của nghệ thụât, đó thứ nghệ thụât đạt tới sự toàn thánh thiện
đến mức chiêm ngưỡng nó, người nghệ thấy tâm hồn nh được thanh lọc.
- Nhưng Chiếc thuyền khi về gần thì đó lại sự hiện hữu một không gian sống đầy bi kịch của những người
dân chài bị cầm bởi đói nghèo, tăm tối bạo lực (biết bao nghịch trớ trêu hiện ra trước mắt: người
chồng đánh vợ để giải tỏa những đau khổ bế tắc cùng quẫn, người vợ nhẫn nhục chịu đựng tình thương
CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA
NGUYỄN MINH CHÂU
con không biết rằng chính điều đó lại ám ảnh những đứa trẻ, đứa con muốn bảo vệ mẹ sẵn ng
cầm dao lao vào bố,...) một thực tế khiến người nghệ kinh hoàng phẫn nộ
Hình ảnh chiếc thuyền lúc này hiện thân của cuộc đời lam lũ, khó nhọc, thậm chí của những éo le, trái
ngang nghịch lí. Đó đối tượng muôn đời của nghệ thuật, cuộc sống với những nét vẽ đẹp đẽ t
mộng cả những nét khô cằn thô nhám.
Sự đối lập tàn nhẫn giữa ngoại cảnh hiện thực cuộc sống những cự li góc độ quan sát khác nhau
mang tới thông điệp: cuộc sống vốn nơi sinh ra cái đẹp nghệ thuật nhưng không đồng nhất với nghệ thuật.
Chiếc thuyền nghệ thuật thì ngoài xa nhưng cuộc đời thực thì lại rất gần. Người nghệ cần cái nhìn đa
chiều đa diện để khám phá thưởng thức vẻ đẹp đích thực của cuộc sống con người.
II. Tìm hiểu văn bản
1. Tình huống truyện
1.1. Khái niệm
- Tình huống truyện xét đến cùng là một sự kiện đặc biệt của đời sống được nhà văn sáng tạo trong tác phẩm
theo lối lạ hoá, qua đó làm nổi bật tính nhân vật tưởng, chủ đề tác phẩm.
- Giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh cho rằng: "Tình huống truyện thứ nước rửa ảnh làm nổi hình sắc của
các nhân vật".
1.2. Nhận diện tình huống
- Đây một “tình huống nhận thức”, gắn với quá trình nhận thức ý nghĩa khám phá, phát hiện về chân lí
đời sống, chân nghệ thuật qua nhân vật tưởng - Phùng.
1.3. Diễn biến tình huống
a. Hai phát hiện bên bờ biển
* Phát hiện ra “cái đẹp tuyệt đỉnh của ngoại cảnh
- Để làm một b lịch phong cảnh, Phùng được giao nhiệm vụ đi chụp một tấm cảnh biển buổi sáng sương,
một tấm ảnh không con người. Phùng đã chọn một vùng biển miền Trung để tìm kiếm cảm hứng sáng tạo.
Nơi đây vùng biển phong cảnh đẹp thơ mộng, lại sương tháng bẩy; cũng chiến trường
Phùng đã từng chiến đấu.
Phải chăng với lựa chọn đó, Phùng muốn tìm lại chính mình, nhìn lại mảnh đất anh đã từng gắn một thời
máu lửa để mong thấy những đổi thay của nó; hay để tìm lại những người bạn đã từng một thời vào sinh ra
tử với mình?
Thế nhưng, suốt một tuần kiên nhẫn, anh vẫn chưa chụp được bức nh nào ưng ý.
Thật ra, chụp được một bức ảnh theo yêu cầu của trưởng phòng thì không khó. Thế nhưng, với Phùng, nghệ
thuật đích thực không phải chỉ để hay phục vụ mục đích thương mại.
Chi tiết cho thấy những phẩm chất đang quý trọng của một nghệ trách nhiệm với sứ mệnh sáng tạo
nghệ thuật, ý thức nghiêm túc trong lao động nghệ thuật một công việc đòi hỏi tài năng, tâm huyết
công phu.
- Điều diệu bất chợt đến với Phùng vào một buổi sáng khi anh nhìn thấy một chiếc thuyền buồm trên mặt
biển xa: “mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe vào bầu sương trắng như sữa pha chút màu hồng do
ánh mặt trời chiếu vào”, từ đường nét cho đến ánh sáng đều đặc biệt ấn tượng.
Trong cảm nhận của Phùng, đó “cái đẹp tuyệt đỉnh của ngoại cảnh”, “cảnh đắt trời cho” quý giá, hi
hữu, diệu, “bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ” cái đẹp cổ điển, chuẩn mực tưởng ch
CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA
NGUYỄN MINH CHÂU
trong một thời quá vãng nay bất ngờ hiện hữu ngay trước mắt, trong hiện tại; một “vẻ đẹp đơn giản
toàn bích” vẻ đẹp nguyên sơ, thuần khiết, lí tưởng, thánh thiện.
- Cái đẹp đã đem đến những cảm xúc mãnh liệt, những khoảnh khắc ngập tràn hạnh phúc cho người nghệ sĩ,
anh thấy “bối rối, trong trái tim như cái bóp thắt vào” đó sự xúc động thấy mình vừa may mắn
được tạo hóa ân thưởng sự may mắn không nhiều trong cuộc đời những người luôn khao khát được
khám phá, chiêm ngưỡng ng tạo cái Đẹp. Những xúc cảm này cho thấy tư chất nghệ của Phùng con
người tâm hồn nhạy cảm, những rung động tinh tế trước cái Đẹp.
Trong giây phút thăng hoa của cảm xúc, thậm chí người nghệ còn như phát hiện ra “bản thân cái đẹp
chính là đạo đức”, anh như “khám phá thấy chân của sự toàn thiện, khám phá thấy cái khoảnh khắc trong
ngần của tâm hồn” khoảnh khắc con người thấy tâm hồn mình như được thanh lọc, gột rửa để trở nên
trong sáng thánh thiện khi đứng trước cái đẹp trong trẻo của thiên nhiên. Đó cũng chính sự giác ngộ, nhận
thức về sức mạnh diệu của cái đẹp, của nghệ thuật đối với con người “cái Đẹp cứu rỗi thế giới”
(Dostoiepxki) khi đứng trước cái đẹp, người ta thường không nghĩ đến cái xấu, cái ác, cái dung tục tầm
thường của cuộc đời để tâm hồn mình bay bổng hướng thiện.
Phát hiện thứ nhất diễn ra trong khoảng khắc gặp gỡ diệu giữa một tâm hồn nghệ say tận thiện,
tận với bức tranh thiên nhiên toàn bích khi chiếc thuyền được nhìn t ngoài xa qua làn sương huyền
ảo phát hiện đã giúp Phùng được một tác phẩm nghệ thuật có giá trị thẩm mãi mãi về sau, vẫn
được treo nhiều nơi, nhất trong các gia đình sành nghệ thuật.
* Phát hiện thứ hai: Phát hiện ra sự thật của cuộc sống
- Sự thật trần trụi, tàn nhẫn của cuộc sống khiến người nghệ kinh hoàng, sợ i phẫn nộ khi chiếc
thuyền ngoài xa tiến lại gần hiện hữu trên đó bi kịch của cuộc sống thường ngày, cái xấu, cái ác do
con người tạo ra khi từ chiếc thuyền ngư phủ đẹp như mơ, bước xuống những con người xấu xí, thô kệch:
một người đàn vùng biển cao lớn, với khuôn mặt mệt mỏi, tái ngắt, tấm lưng áo bạc phếch, rách ới,
một người đàn ông mái tóc tổ quạ, lưng rộng cong như lưng một chiếc thuyền. Hai vợ chồng hàng chài
rời thuyền người chồng đánh đập người vợ tàn nhẫn ngay trước mắt Phùng.
Sự thật còn đáng sợ hơn khi Phùng tiếp tục chứng kiến cảnh đứa con trai đánh lại bố để bênh vực mẹ, cảnh
người mẹ nhẫn nhục trước trận đòn khủng khiếp của chồng, xấu hổ đau đớn trước đứa con.
- Phùng hết sức kinh ngạc, mấy phút đầu anh cứ đứng mồm ra nhìn quan niệm về cái đẹp của
Phùng bắt đầu bị lung lay. Đằng sau cái đẹp tuyệt của ngoại cảnh cảnh tượng xấu xa phi đạo đức. Đó
một nửa quái đản làm cho những bức ảnh hiện nh ghê sợ chiếc thuyền đẹp như cũng biến mất. Và
ngay sau đó, anh đã “vứt chiếc máy ảnh xuống đất chạy nhào tới”.
Đó hành động rất tự nhiên thể hiện được tấm lòng nhân đạo sự dũng cảm ngăn chặn cái xấu xa,
tàn ác; bênh vực & bảo vệ cho kẻ yếu của người nghệ .
- Ba hôm sau, Phùng lại tiếp tục chứng kiến những cảnh tượng đau lòng y được biết đó chuyện
thường ngày của gia đình họ khi người chồng phu c đánh vợ ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận
nặng”. Không thể chịu được hơn, anh đã xông vào buộc đàn ông kia phải chấm dứt hành động tội ác của
mình. o đàn ông đánh trả, anh bị thương phải đưa vào trạm y tế của tòa án huyện.
Cùng một thời điểm, cùng một người quan sát & đối tượng quan t với hai cự li góc độ khác nhau,
người nghệ đã phát hiện hai bức tranh hoàn toàn ơng phản: phía sau cái đẹp thánh thiện trong trẻo của
ngoại cảnh lại là sự độc ác, xấu xa, u tối trong cuộc sống con người. Nghịch đau đớn này sẽ đưa đến
những nhận thức sâu sắc mới mẻ cho người nghệ về cách nhìn nhận hiện thực cuộc sống.
CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA
NGUYỄN MINH CHÂU
b. Phát hiện toà án huyện
* Với tấm lòng nhân hậu s bất bình trước cái xấu, cái ác; cả Phùng Đẩu đều hy vọng góp phần giải
thoát người đàn hàng chài khỏi người chồng phu, tàn nhẫn, thái độ của người đàn khốn khổ đã
khiến các anh phát hiện ra những nghịch không thể hiểu nổi trong cuộc sống con người. Cả Phùng Đẩu
đều tin rằng việc khuyên người đàn khốn khổ li hôn giải pháp đúng đắn nhân đạo nhất, họ cũng tin
rằng thiện chí của mình sẽ được người đàn chấp nhận, thậm chí biết ơn.
Nhưng họ đã kinh ngạc khi phát hiện ra một nghịch trớ trêu: người đàn ấy không hề muốn bỏ người
chồng tàn nhẫn, con người bị cầm bởi đói nghèo, tăm tối bạo lực ấy lại không muốn được giải thoát,
thậm chí còn khẩn thiết van xin: quí tòa bắt tội con cũng được, phạt con cũng được, đừng bắt con bỏ
”.
Với những con đẻ của văn học thời chiến, đánh giặc việc lớn; những câu chuyện cơm áo gạo tiền sẽ được
giải quyết bằng luật pháp, bằng thiện chí.
* Sau khi đã sự tin cậy, cảm thông; người đàn hàng chài đã kể cho Đẩu Phùng nghe về cuộc đời
mình. Chị giải thích cho họ hiểu sao khổ sở đến đâu chị cũng không thể bỏ chồng, không thể đi tìm
sự giải thoát cho riêng mình, giúp các anh phát hiện ra sự chua xót của nghịch lí.
Hiện thực với những lí lẽ giản dị nghiệt ngã, mâu thuẫn đầy éo le qua câu chuyện của người đàn quê
mùa, thất học nhưng sâu sắc từng trải khiến Đẩu Phùng bỗng trở thành những người nông nổi ngây thơ;
lòng tốt của các anh mới chỉ dừng lại những thuyết đẹp đẽ nhưng phi thực tế
Câu chuyện của người đàn làm “vỡ ra” nhiều điều trong suy nghĩ của Phùng Đẩu, đó chính là sự
nhận thức, giác ngộ về những nghịch vẫn luôn tồn tại đâu đó trong cuộc sống nghịch đau đớn
hay phẫn nộ con người nhiều khi vẫn buộc phải chấp nhận.
Đây những khoảnh khắc con người cuộc đời đã ban cho người nghệ sĩ. Phùng nhận ra một điều
cuộc đời đa sự, con người đa đoan, anh không thể nhìn cuộc sống một cách đơn giản, Phùng cần nhìn sâu
hơn về bản chất cuộc sống để khám phá những nghịch của cuộc đời đi m hạt ngọc ẩn sâu trong tâm
hồn những con người lao động. Anh phát hiện ra đằng sau vẻ bề ngoài của người đàn quê mùa thất học
trái tim yêu thương, giàu đức hi sinh, thấu hiểu lẽ đời.
c. Tình huống còn được đẩy tới cao độ của nhận thức xúc cảm qua trải nghiệm của Phùng với cuộc
sống người dân chài trước trận bão biển:
- Trong phần cuối tác phẩm, khi biển động, trời trở gió đột ngột, Phùng lang thang một mình trên bờ biển,
anh chia sẻ cảm giác lo lắng với ông lão m nghề sơn tràng, anh trăn trở trước một chiếc thuyền đang
đậu trơ trọi giữa phá nước, một mình “chống chọi với sóng gió”, anh “gào lên” nỗi lo lắng trước những
diễn biến bất ưng của cơn bão,…
- Đó những biểu hiện của một tâm hồn nghệ gắn sâu sắc với tất cả những buồn vui của cuộc đời
số phận con người.
- Khi miêu tả hình nh một nghệ đang bối rối vừa nhận ra những nghịch trớ trêu, những bất lực bế tắc
của cuộc đời: một ông lão sơn tràng ngoài sáu mươi tuổi vẫn phải lo lắng nhìn ra mặt phá, một chiếc thuyền
trơ trọi, một “cái bếp lửa cũng bị gió ném tung ra khắp bãi cát, những tàn lửa đỏ rực bay quẩn lên”, “một
xoong cơm đã sống nhăn”,.. tất cả đặt trong sự đối lập với một bức tranh thiên nhiên khủng khiếp khi
“những tảng y đen xếp ngổng ngang trên mặt biển đen ngòm biển gào thét, sóng bạc đầu ngoài lạch nổi
cồn lên, cao như những ngọn núi tuyết trắng”...
CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA
NGUYỄN MINH CHÂU
Nhà văn đã gieo vào lòng người đọc những dự cảm lo âu đầy bất ổn: trước cái mênh mông rộng lớn của
thiên nhiên, trước những đe dọa, cuồng nộ của sóng gió biển khơi bão táp, con người hình như vẫn thật
nhỏ bé, yếu đuối đơn độc.
- Khi đã “chạm” vào cuộc sống của những người dân làng chài, chỉ thoáng qua trong trận bão biển, với
những dự cảm lo âu, những mong manh chới với, có lẽ Phùng thấu hiểu thấm thía hơn câu nói của người đàn
hàng chài từng trải: “cũng khi biển động sóng gió ch chú”, ng thấu hiểu một cách chua xót rằng
hành trình m kiếm một bến bờ bình yên ấm áp hình như vẫn quá mong manh xa vời; có lẽ Phùng đã hiểu
thêm phần nào những nghịch trước đó cả anh Đẩu đều “không thể hiểu được”.
Không chỉ khi đứng trước cái đẹp, người ta mới quên đi cái xấu cái ác để say đắm hướng thiện; kể cả khi
đứng trước sự cuồng bạo khốc liệt của thiên nhiên, khi da diết hướng về sự sống, lúc ấy mọi sự tầm thường
xấu xa, mọi bi kịch đau khổ của con người trong cuộc sống đời thường cũng trở nên nhỏ, không đáng kể,
họ đều thể quên đi hoặc đơn giản là chấp nhận để cùng nhau chung vai t cánh, để nương tựa vào
nhau, bất chấp những đau khổ, nhục nhã, vượt qua cơn cuồng nộ của thiên nhiên, cùng nhau sống, cùng
nhau tồn tại.
1.4. Giá trị, ý nghĩa tình huống
a. Tình huống thể hiện nét số phận, phẩm chất, tính cách của các nhân vật: Người đàn ng chài,
Phùng Đẩu.
- Người đàn hàng chài: Mang vẻ đẹp phẩm chất, tâm hồn; dẫu vẻ đẹp y ban đầu ngỡ bị khuất lấp bởi
cuộc sống chồng chất những cay đắng khổ đau, một s phận chịu nhiều éo le thua thiệt: nhẫn nhịn, chịu
đựng hi sinh con, người đàn từng trải sâu sắc, thấu hiểu các lẽ đời, vị tha, nhân hậu, bao dung, biết
chắt chiu từng niềm vui nhỏ để làm nên ý nghĩa cuộc đời.
- Nghệ Phùng chánh án Đẩu:
+ Phùng người nghệ tâm huyết, m hồn nhạy cảm say cái đẹp, khả năng khám phá, phát
hiện tinh tế tấm lòng trăn trở, lo âu, về thân phận con người. Đây có thể xem mối quan tâm thường
trực sâu nặng của Phùng dành họ những cảnh đời đau khổ, thân phận bất hạnh cùng với những phản
ứng trước sự nhiễu nhương, ngang trái từ một người nghệ chân chính.
Phùng nhân vật tưởng, đồng thời cũng nhân vật tự nhận thức giàu suy về đời sống, trong sự
va đập với đời sống.
+ Đẩu vị Bao Công vùng biển: vừa đồng hương, vừa đồng đội của Phùng.
Đây vị chánh án tốt bụng, sống đầy trách nhiệm giàu lòng u thương con người. chánh án
huyện, Đẩu am hiêu luật pháp, anh đứa về phía nạn nhân để bênh vực họ. Lời khuyên bỏ chồng của anh
đối với người đàn hàng chài phần ngây thơ, nông nổi nhưng biểu hiện cho tinh thần hướng
thiện, bênh vực công lí.
những người chiến đã từng tham gia chiến đấu sự sống của dân tộc, trở về với cuộc sống đời
thường, vẫn say khám phá cái đẹp, vẫn tâm niệm đấu tranh với cái xấu cái ác để bảo vệ cái thiện. Hiện
thực trớ trêu, đầy nghịch của cuộc đời đã giúp cho họ phải “nhận thức lại” những vấn đề trước nay họ
lầm tưởng chân lí. họ những biến đổi với một quá trình nhận thức từ nông cạn đến sâu sắc, từ phiến
diện đến toàn diện, từ ngộ nhận đến nhận thức đúng đắn.
b. Thông điệp về cách nhìn cuộc sống con người
- Cuộc sống thời hậu chiến ngổn ngang, nghèo khổ, lạc hậu. Cuộc sống cũng tồn tại nhiều nghịch lý. Cuộc
đời đa sự, con người đa đoan.
CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA
NGUYỄN MINH CHÂU
- Muốn hiểu đúng về bản chất cuộc sống, con người phải cái nhìn thấu đáo, toàn diện, sâu sắc t nhiều
góc độ, không thể nhận xét đánh g giản đơn dễ dãi một chiều, căn cứ vào i nhìn hời hợt, nông cạn, cảm
tính từ biểu hiện bên ngoài sự vật hiện tượng.
- Từ câu chuyện của người đàn hàng chài, tình huống cũng đưa đến một nhận thức thấm thía: cái xấu cái
ác nhiều khi vẫn tồn tại trong cuộc sống con người, bởi vậy cần cái nhìn thấu đạt nhân tình, không phải
để chấp nhận dung túng để tìm ra cội nguồn phát sinh nhằm loại bỏ nó, đem lại sự bình yên tốt đẹp cho
cuộc sống con người.
- Để giải phóng con người khỏi cảnh đói nghèo, khổ đau, tăm tối, cần phải những pháp thiết thực mang
tính toàn hội chứ không phải bằng những thuyết đẹp đẽ xa rời thực tiễn, những phương cách cực
đoan duy ý chí.
c. Thông điệp về mối quan hệ giữa văn học hiện thực; trách nhiệm của người nghệ sứ mệnh
của nghệ thuật chân chính:
- Văn học phải bắt nguồn từ hiện thực cuộc sống, cuộc sống nơi bắt đầu, cũng đích hướng tới của n
học; bởi lẽ “Văn học đời sống hai vòng tròn đồng tâm tâm điểm con người”. Không thể tách rời
nghệ thuật với hiện thực cuộc sống con người, y rút ngắn khoảng cách giữa nghệ thuật với hiện thực bởi
nghệ thuật đích thực luôn gắn khăng khít phản ánh chân thực cuộc sống con người, nghệ thuật phải
cuộc đời, đó chính là nghệ thuật vị nhân sinh”. Hành trình cầm bút nh trình “đi tìm cái hạt ngọc ẩn
giấu trong bề sâu tâm hồn con người”, bởi lẽ: “Mỗi con người đều chứa đựng trong lòng những nét đẹp đẽ
kỳ diệu đến nỗi cả một đời người cũng chưa đủ để nhận thức khám phá tất cả những cái đó”.
- Người nghệ không chỉ cần những chất, phẩm chất đáng quí trong lao động nghệ thuật còn phải có
tấm lòng nhân ái, tình u thương sâu nặng với con người, biết trăn trở cho số phận con người, có đủ sự sắc
sảo, tinh tế để thể nhìn ra những mảng khuất tối trong cuộc sống, sự dũng cảm bản lĩnh trung thực
để khám phá phản ánh những hiện thực dẫu là tàn nhẫn của cuộc sống con người.
d. Giá trị hiện thực:
- Tình huống đã mở ra bức tranh về thời hậu chiến. Cuộc sống đói nghèo lạc hậu tăm tối nguyên nhân dẫn
tới nạn bạo hành gia đình. Cuộc chiến đấu bảo vệ quyền sống của cả dân tộc trải qua bao hi sinh gian khổ
nhưng cuộc đấu tranh bảo vệ quyền sống của từng con người cũng rất nhiều khó khăn, thử thách.
e. tưởng nhân đạo thể hiện qua truyện ngắn:
- Thấu hiểu, xót thương cho số phận con người trong cuộc sống mưu sinh, trong hành trình kiếm tìm hạnh
phúc sự bình yên.
- Biết quí trọng những vẻ đẹp dẫu khuất lấp trong tâm hồn, tình cảm những con người khốn khổ, bất hạnh.
- Thể hiện niềm tin vào sức mạnh con người có thể vượt qua những khó khăn, thử thách, gian truân để duy
trì sự sống tình yêu thương.
2. Nhân vật người đàn hàng chài
2.1. Tên gọi:
- Đi suốt chiều i thiên truyện, người đọc không hề biết đến tên của chị, khi thì nhà văn gọi bằng “chị ta”,
lúc thì gọi bằng “Mụ”, người đàn hàng chài”.
Chị cũng như bao người đàn vùng biển nghèo khổ này, chị người nhỏ, danh; chìm khuất
trong biển đời lam nhọc nhằn.
2.2. Ngoại hình, dáng vẻ
CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA
NGUYỄN MINH CHÂU
- Chị mang tới ấn tượng với người đọc bởi ngoại nh xấu xí, thô kệch của một người đàn vùng biển:
“Người đàn trạc ngoài bốn mươi, một thân nh quen thuộc của đàn vùng biển, cao lớn với những
đường nét thô kệch. Mụ rỗ mặt…”
- Ngoại hình của chị còn toát lên sự lam lũ, vất vả đau khổ sau một đêm nhọc nhằn trước một trận đòn
ê chề nhục nhã: “Tấm lưng áo bạc phếch, rách rưới, nửa thân dưới ướt sũng” tấm thân ngập sâu trong
lầm than của đời sống. “Khuôn mặt mệt mỏi, tái ngắt dường như đang buồn ngủ”, không còn mảy may
chút sức sống.
lẽ gánh nặng nhọc nhằn của cuộc mưu sinh đầy sóng gió trên biển cả cùng những bất hạnh cay đắng
trong cuộc đời đã lấy đi của chị tất cả sinh lực niềm vui.
Chỉ bằng vài nét phác ấy, nhà văn đã dự báo một số phận chẳng nh yên, nhất sự thua thiệt về ngoại
hình của người phụ nữ, thường dẫn đến sự thua thiệt về số phận.
- Dáng vẻ của thị còn thể hiện sự cam chịu, nhẫn nhục đến lạ của chị: sau khi xuống thuyền, người đàn
đi thẳng tới bãi xe tăng hỏng, trước lúc đến bên chiếc xe phá n, chị “đứng lại ngước mắt nhìn ra ngoài
mặt phá nước chỗ chiếc thuyền đậu một thoáng, rồi lại đưa cánh tay lên lẽ định gãi hay xõa lại mái tóc
rồi lại buông thõng xuống, đưa cặp mắt nhìn xuống chân”.
Đây nơi quá quen thuộc với chị, sự quen thuộc ghê sợ, khủng khiếp bởi những trận đòn đã thành lệ của
người chồng phu, thô bạo. thế nên đã chấp nhận, chị cũng không n nổi cảm giác cay đắng, chị
nhìn lại con thuyền dường như để tìm các con một chút an ủi ấm áp, mong được tiếp thêm chút sức lực để
vượt qua nỗi đau khổ nhục nhã sắp tới.
- Khi bị chồng đánh man, chị chịu đòn “với một vẻ cam chịu đầy nhẫn nhục, không hề kêu một tiếng,
không chống trả, cũng không tìm cách trốn chạy”. Đó thái độ của người nhẫn nhục, không oán thán, bất
bình hay tránh.
- Sự khốn khổ của chị còn hiện ra ngay trong dáng vẻ lúng túng, sợ sệt” lúc toàn án, trong chi tiết miêu
tả “người đàn chỉ quen sống giữa mặt nước vừa đặt chân vào phòng đầy bàn ghế giấy mà liền tìm đến
một góc tường để ngồi”, thậm chí khi Đẩu phải mời đến lần thứ hai, chị mới “dám rón rén đến ngồi ghé vào
mép chiếc ghế cố thu người lại”.
Dáng vẻ của một con người tội nghiệp luôn thấy sự mặt của nh trong cuộc đời này hình như phi
lí, dáng vẻ của một con người luôn phải nghe những lời nguyền rủa độc địa đau khổ: “mày chết đi cho
ông nhờ, chúng mày chết hết đi cho ông nhờ!”, thế luôn mang mặc cảm lỗi, luôn muốn giảm thiểu sự
vướng víu phiền phức hay khó chịu mình thể y ra cho mọi người xung quanh, hoặc cũng thể đó
thế tự vệ bản năng của một con người khốn khổ luôn gặp quá nhiều những rủi ro bất hạnh, luôn bị đe
dọa bởi những bất ưng hiểm họa từ c con người thiên nhiên sóng gió.
2.3. Số phận bất hạnh
          

     

   


      
    
 
   
           

     
               
     
  

       
     
CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA
NGUYỄN MINH CHÂU

        
      
      

          
   
 
 
    
 
 
                
  
              
               
 
     
                 
        
        
2.4.
     
    
 
  
            
     
    
 

    
           

 

 
  

   
  
     
      
      
                

   
  
   
           



             



            
      
     
         
    
    
    
      
 
 
    
         
      
 

 
          
    
   


   

 
    
        
      
CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA
NGUYỄN MINH CHÂU
                
  
     
       
   

  
  
         

 

    
 
      
  
    
      

   
   
       
  
      

       


  


 
         
 
            
      
  
   
     
            

 
      

   
   

  
           
   
   
  
        
           
  
   
        
 
 
    



 
   

   
     
  
  
   

    


  

 

 
 

Với cách người mẹ: người đàn ánh lên vẻ đẹp của tình mẫu tử thiêng liêng & đức hi
sinh
- Người đàn đã khóc khi nghe Phùng nhắc đến thằng Phác.
- Tình mẫu tử được chị ý thức sâu sắc như một thiên tính tự nhiên của người phụ nữ ông trời sinh ra người
đàn để đẻ con, rồi nuôi con đến khi khôn lớn nên phải gánh lấy cái khổ”. Cuộc sống trên mặt biển đầy
sóng gió, những đứa trẻ luôn cần sự che chở bảo vệ của người mẹ, đó cũng là nguyên nhân khiến chị cho
rằng: “Đàn thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không thể sống cho mình như trên đất liền
được!” Ba chữ “sống cho con” biểu hiện cảm động của tình mẫu tử khi yêu thương đã biến thành đức hi
sinh, thành sự quên mình.
CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA
NGUYỄN MINH CHÂU
- Chính tình yêu thương sâu sắc dành cho con đã khiến chị thể nhẫn nhục chịu đựng sự đày ải tàn nhẫn
của người chồng để con thuyền có người đàn ông khỏe mạnh, biết nghề, quan trọng hơn, đó người bố
của những đứa con người duy nhất thể tận tâm tận lực cùng ch chèo chống khi phong ba, để cùng làm
ăn nuôi nấng đặng một sắp con”. Người đàn chấp nhận tất cả thua thiệt về mình để đổi lấy mái ấm gia
đình cho con.
- Cũng thương con, muốn bảo vệ các con khỏi bị tổn thương đau đớn mà chị phải xin chồng đưa mình lên
bờ đánh; rồi cũng lo những phản ứng dữ dội của thằng Phác ch phải cắn răng gửi thằng con chị
yêu thương nhất lên rừng sống với ông ngoại.
Đó một cách ứng xử rất nhân hậu. Chị không muốn gieo vào lòng các con thái độ căm thù đối với cha
của chúng.
- Tình mẫu tử thiêng liêng cũng là nguyên nhân cho những đau đớn tột cùng của người mẹ.
- Khi bị chồng đánh đập tàn nhẫn, chị đã lặng lẽ như một người câm, vậy khi thằng Phát lao đến đánh bố
để bảo vệ mẹ, chị không nén nổi nỗi đau đớn, chị “mếu máo gọi con”, chị “ngồi xệp xuống trước mặt thằng
bé, ôm chầm lấy rồi lại buông ra, chắp tay vái lấy vái để, rồi lại ôm chầm lấy,…” Thằng đã xuất hiện
trước mặt mẹ với sự non nớt ngây thơ của cả tình yêu thương người mẹ niềm căm giận u tối cùng những
hành động khiến lương tri người làm cha mẹ phải đau đớn hãi hùng. chị kinh hãi nghĩ đến cái vòng luẩn
quẩn: chồng mình bị đời sống p nặn trở thành kẻ hung ác, con mình liệu thoát được tương lai ấy không?
Thằng xuất hiện như “một viên đạn bắn vào người đàn ông bây giờ đang xuyên qua tâm hồn người
đàn bà, làm rỏ xuống những dòng nước mắt”.
Tình thương con đã khiến người mẹ vừa đau đớn vừa vùng xấu hổ nhục nhã: nỗi đau khi không che
chắn cho tuổi thơ của các con được trong sáng, đau thêm nỗi đau của các con khi phải chứng kiến cảnh bố
hành hạ mẹ tàn nhẫn, càng đau hơn nữa bởi từng ngày chứng kiến một cách bất lực sự phát triển tính cách
của con trong một môi trường tăm tối, bạo lực.
(Hình ảnh nước mắt chảy tràn, người mẹ khóc như thổ ra nước mắt, như người ta bóp kiệt một quả chanh.
Nếu gương mặt ấy không đầy những vết r thì nước mắt s chảy đi đâu? Liệu những ngón tay nhỏ của
Phát đủ sức lau khô những dòng nước mắt trên khuôn mặt mẹ? Hào quang của quá khứ xem ra không đủ
vững chãi để hiện tại dựa vào…)
- Tình mẫu tử của chị không chỉ được thể hiện qua nước mắt còn hiện ra qua niềm vui, dẫu là hiếm hoi,
ít ỏi. Người đàn bất hạnh đã biết chắt chiu niềm hạnh phúc nhỏ nhoi, bình dị từ cuộc đời cực, lam
để khỏa lấp những nỗi đau, để xoa dịu nỗi đời cay cực.
- Khi nhắc tới những lúc vợ chồng con cái sống hòa thuận trên thuyền, “khuôn mặt xấu của mụ ửng
sáng lên như một nụ cười” đó ánh sáng diệu tỏa ra từ vẻ đẹp cảm động của tình mẫu tử. Mọi nỗi buồn
niềm vui của chị đều xuất phát từ con cái: “Vui nhất lúc ngồi nhìn đàn con tôi chúng được ăn no”.

Với cách một con người: Chị là người đàn sâu sắc, từng trải, thấu hiểu lẽ đời luôn
mang trong mình một sức mạnh kiên cường
* Chị người đàn sâu sắc, từng trải, thấu hiểu lẽ đời:
- Trong tòa án huyện, ban đầu người đàn xuất hiện với vẻ lúng túng, sợ sệt. Nhưng chỉ trong khoảnh khắc
chi ta đã nhận ra Phùng Đẩu chỉ những người sách vở. Từ hình ảnh một người dân nghèo, lam sợ sệt
lúng túng “tìm một góc ờng để ngồi” bỗng chốc thay đổi hẳn. Nếu lúc đầu người đàn xưng “con”, gọi
“quý tòa” thì đến khi đối thoại với Đẩu, Phùng lại ng “chị”, gọi “mấy chú”, “các chú”.
CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA
NGUYỄN MINH CHÂU
- Bằng sự thấu trải, bằng thứ ngôn ngữ không phải dễ nghe của người lao động, chị kể lại câu chuyện của
đời mình, không phải than nghèo kể khổ; không chỉ để giãi y cho việc xin không bỏ chồng còn chia
sẻ của một người phụ nữ từng trải sâu sắc.
- Nói chuyện với Đẩu Phùng, người đàn hàng chài quê mùa thất học nhưng lại “con mắt như đang
nhìn suốt cả đời mình”, sự “thâm trầm trong việc thấu hiểu các lẽ đời” đã khiến các anh trở thành những
người nông nổi, ngây thơ.
- Những nhận xét, giận dữ, bất bình hay lời khuyên đầy thiện chí của các anh lần lượt đều vấp phải những
lẽ bình dị nhưng nghiệt ngã không thể thay đổi của hiện thực cuộc sống qua những thấu hiểu, trải nghiệm
sâu sắc của người đàn bà.
- Chị đã giúp họ hiểu ra những nghiệt ngã của cuộc đời, chỉ sự thiếu thực tế của họ: “lòng các chú tốt,
nhưng các chú đâu phải người làm ăn, đâu hiểu được cái việc của các người làm ăn lam lũ, khó nhọc,...
- Chị cũng cho họ thấy sự khó khăn gấp bội của những người đàn trong cuộc mưu sinh bấp bênh luôn
tiềm ẩn những đe dọa bất ưng trên mặt biển: “các chú không phải đàn bà, chưa bao gi các chú biết như
thế nào nỗi vất vả của người đàn trên một chiếc thuyền không đàn ông”.
- Chị cũng giúp họ hiểu rằng với người đàn thuyền thì hạnh phúc không quan trọng bằng sự sống, sự
tồn tại: “đám đàn hàng chài chúng tôi cần người đàn ông để chèo chống khi phong ba, để cùng làm
ăn nuôi nấng đặng một sắp con”. Chị đã giúp Phùng Đẩu nhận ra tình trạng luẩn quẩn bế tắc trong cuộc
sống của ngư dân: thuyền thì chật chội, bức bối, bấp nh nhưng lên bờ thì lại phải bỏ nghề sự tồn tại
của ngư dân thì gắn chặt với nghề. vậy, nhiều chính sách nhân đạo tốt đẹp của Nhà nước khi vẫn bất
cập với thực tế cuộc sống của họ.
Phía sau tâm thế yếu đuối của một nạn nhân của cảnh bạo lực lại nghị lực sống, phía sau nhận thức
tưởng chừng tối tăm dốt nát lại sự thấu hiểu lẽ đời.
Những lời chia sẻ từ đáy lòng của người đàn ng chài khiến Phùng nhận ra chân lí: không thể giản
đơn, dễ dãi trong việc nhìn nhận sự việc, hiện tượng của đời sống. Đừng nhìn đánh giá từ cái nhìn bề
ngoài bởi cuộc sống luôn chứa đựng những nghịch , những bất công mất mát. Anh đã phát hiện ra bên
trong người đàn vẻ ngoài xấu thô kệch ấy một trái tim nhân hậu, một vẻ đẹp m hồn không
phải ai cũng thể nhận ra được.
- Trước kết luận chua chát của Đẩu về nghịch xót xa: “bây giờ tôi đã hiểu…dù hắn man rợ tàn bạo”,
người đàn sông nước đã lời đáp nhẹ nhàng,thấm thía, sâu sắc, chân tình thắt lòng vào lòng người
khi những chiêm nghiệm được rút ra từ cuộc đời đầy những gian truân vất vả: “cũng khi biển động sóng
gió chứ chú!”
- Tiếng thở dài của Đẩu, câu hỏi băn khoăn ái ngại của Phùng, cảm giác bất lực của cả hai khi những giải
pháp xuất phát từ lòng tốt thiện chí của họ trở nên phi thực tế đã tạo ra một đối sánh với người đàn
từng trải hiểu đời, hiểu người, hiểu tất cả những sự thể không thể của cuộc sống đời thường.
Sự sâu sắc của chị khiến người đọc cảm phục nhưng cũng xót thương hơn cho một kiếp người khi sự u
sắc được đổi bằng biết bao m hôi nước mắt cay đắng nhọc nhằn…
* Người đàn mang trong mình một sức mạnh kiên cường:
- Luôn ý thức sâu sắc về thân phận, ý nghĩa cuộc sống của mình, đó nguyên nhân khiến chị được sức
mạnh để thể chịu đựng tất cả những khó khăn thử thách, từ những lam vất vả trong cuộc mưu sinh,
những cay đắng giày của cuộc sống đói nghèo đến những đau đớn về tinh thần, thể xác trong bi kịch gia
đình,…
CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA
NGUYỄN MINH CHÂU
- Lấy sức chịu đựng phi thường của mình cố gắng che chắn cho sự bình yên của gia đình, bảo vệ niềm tin
trong trẻo ngây thơ cho tâm hồn con trẻ, gánh đỡ cho chồng những nhọc nhằn cay đắng, lo cho các con
cơm ăn áo mặc,… - tất cả những c gắng ấy vẫn luôn thất bại ê chề trước sự khắc nghiệt của cuộc sống.
- Nhiều năm sau, mỗi khi nhìn lại bức ảnh về “chiếc thuyền ngoài xa”, Phùng luôn thấy “người đàn ấy
bước ra khỏi tấm ảnh, đó người đàn vùng biển cao lớn với nhưng đường nét t kệch,…Mụ ớc
những bước chậm rãi, bàn chân dậm trên mặt đất chắc chắn, hòa lẫn vào đám đông”.
Hình ảnh của những con người danh, khốn khổ trong cuộc sống lầm lụi đời thường, họ đã kiên cường
vượt lên trên tất cả những gian truân cay đắng của cuộc đời, không phải mình những người thân
yêu, những người làm n ý nghĩa cuộc sống của họ, do để họ sống chịu đựng, cũng cội nguồn sức
mạnh của họ.
* Nhận xét nghệ thuật:
- Đặt nhân vật vào tình huống đó bộc lộ mọi mối quan hệ, khả năng ứng xử, thử thách phẩm chất, tính
cách
- Nhân vật được khắc họa n tượng qua những chi tiết về ngoại hình, dáng vẻ, lời nói, hành động.
- Nghệ thuật trần thuật: Tạo ra điểm nhìn trần thuật sắc sảo, tăng cường khả năng khám phá đời sống, lời kể
trở nên khách quan, chân thật, giàu sức thuyết phục.
- Ngôn ngữ giản dị sâu sắc, thấm thía.
* Đánh giá:
- Qua những t khắc họa ấn tượng từ ngoại hình dáng vẻ đến cử chỉ, lời nói, nh động,… nhân vật người
đàn hàng chài đã trở thành một biểu tượng đầy ám nh, giúp nhà văn thể hiện tưởng nhân đạo sâu sắc.
Đó niềm cảm thương nỗi lo âu cho số phận những con người bất hạnh, khốn khổ trong cuộc sống đói
nghèo, m tối & niềm trân trọng, tin yêu với những phẩm chất tốt đẹp trong tâm hồn, tính cách những con
người nhân hậu, vị tha, sâu sắc dũng cảm.
- Đồng thời, nhà văn cũng mang đến bài học về cách nhìn cuộc sống con người: cách nhìn đa diện, đa
chiều thấu hiểu để thấy được những “hạt ngọc ẩn giấu” bên trong mỗi con người, dẫu thường bị khuất
lấp bởi vẻ ngoài lam lũ, xì, góc cạnh. Truyện của Nguyễn Minh Châu, thế, chan chứa nỗi lo âu, sự cảm
thương niềm tin yêu vào cái đẹp trong cuộc đời.
3. Một số nhân vật khác
a. Nhân vật người đàn ông
- Bề ngoài: Thô kệch, dữ dằn; hung hãn, phu
- Bản chất:
+ Hiền lành, cục tính nhưng không bao giờ đánh vợ con
+ Bế tắc, khốn khổ đơn
Bi kịch của những người lao động nghèo.
b. Nhân vật thằng Phác
- Bề ngoài: Hành động trái với đạo đánh cha
- Bản chất: Hiếu thảo, thương mẹ
* Tiểu kết:
- Thể hiện một hiện thực ngổn ngang, đầy bi kịch của con người thời hậu chiến.
Cái nhìn thấu hiểu, yêu thương, trĩu nặng nỗi lo âu đối với con người
Cần nhìn cuộc đời đa chiều, cần nhìn con người trong mối quan hệ đa diện
CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA
NGUYỄN MINH CHÂU
4. Một số hình ảnh biểu tượng
a. Màn sương hồng
Biểu tượng cho thứ nghệ thuật hồng, thi vị hóa cuộc sống, cách nhìn phiến diện một chiều chỉ quan tâm
tới biểu hiện bên ngoài không thấy cả những cái t cằn nhức nhối bên trong.
b. Chiếc xe tăng han gỉ
Những chiếc xe phá bom n đang cố gắng thu gọn những xót lại của cuộc chiến tranh thể tình
gây thêm nỗi đau; lẽ nhà văn muốn gợi ra những suy ngẫm: cuộc chiến đấu chống lại đói nghèo, tăm tối
bạo lực lẽ sẽ còn gian nan, lâu dài hơn cả cuộc chiến đấu chống ngoại xâm, chừng nào chưa thoát
khỏi cuộc sống đói nghèo tăm tối, chừng đó con người còn phải sống chung với cái xấu cái ác. Chúng ta đã
đổ xương máu trong bao m qua để giành độc lập tự do trong cuộc chiến đấu cho quyền sống của n tộc;
nhưng chúng ta sẽ còn phải tiếp tục làm đây trong cuộc chiến đấu cho quyền sống của từng con người,
làm để đem đến cơm ăn áo mặc, ánh sáng văn hóa hạnh phúc cho biết bao con người vẫn đang chìm
đắm trong kiếp sống đói nghèo, lam u tối?
c. Chi tiết chiếc máy ảnh của Phùng, chiếc bàn lớn của Đẩu biểu tượng gửi gắm thông điệp:
- Chiếc máy ảnh nghệ thuật, đang bay bổng với nghệ thuật thì Phùng nhìn thấy hiện thực cuộc sống, ngạc
nhiên, như một phản xạ, vất máy ảnh xuống bãi cát, chạy tới…
Thông điệp: trước khi một nghệ biết yêu cái đẹp, hãy là một con người biết vui buồn yêu ghét trước
những sự đời tình đời cảnh đời, sống đã rồi hãy viết”, đừng nghệ thuật bỏ quên, xa cách cuộc đời bởi
nghệ thuật chân chính luôn cuộc đời, cuộc đời, xuất phát đi đến cuộc đời.
- Chiếc bàn lớn xếp phát ngốt những hồ giấy điều luật biểu tượng cho bộ máy hành chính, thuyết;
được 3 lần nhắc đến:
+ Khi người đàn đến, Đẩu rời ghế đến gần hơn với người đàn
+ Bất bình tự ái khi người đàn từ chối lời khuyên thiện chí, Đẩu rời về chiếc n
+ Sau đó nghe xong câu chuyện thì lại rời bàn đi đi lại lại với những thức nhận giác ngộ: câu tr lời cho
những bi kịch cuộc sống ko phải lúc nào cũng tìm thấy bên những chiếc bàn lớn, trong những điều luật
bộ máy hành chính s vụ, giải pháp cực đoan duy ý chí, chỉ thể tìm thấy giữa cuộc đời, hãy đến
gần hơn với cuộc đời những nỗi đau, tâm của những con người nghèo khổ.
CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA
NGUYỄN MINH CHÂU
B. PHẦN LUYỆN ĐỀ
I. Dạng 1: Phân tích/ cảm nhận 1 đoạn văn (+ yêu cầu nâng cao)
1. Nhận diện dạng bài:
- Phân tích/ cảm nhận 1 đoạn n
- Phân tích/ cảm nhận 1 đoạn văn, từ đó làm một u cầu của đề i
2. Kỹ năng làm i
a. Tìm hiểu đề
- Vấn đề cần nghị luận gì?
- Thao tác NL cần sử dụng?
- Phạm vi dẫn chứng?
b. Lập dàn ý
* MB: trực tiếp/ gián tiếp: giới thiệu tác giả (vị trí, đặc điểm sáng tác), tác phẩm (vị trí, khái quát nội dung
tưởng chủ đề); giới thiệu đoạn văn.
* Thân i:
- Bước 1: khái quát chung:
+ Hoàn cảnh sáng tác, xuất xứ, chủ đề tác phẩm…
+ Vị trí, nội dung chính của đoạn trích ( phần đầu/ giữa/ cuối? vai trò ra sao trong dòng cốt truyện kết
cấu nghệ thuật?
+ (Tóm tắt phần trước)
- Bước 2: Phân tích nội dung đoạn trích
(Đoạn văn viết về cảnh tượng, tình huống nào? được gợi ra qua các chi tiết về thời gian không gian &
nhân vật ? Diễn biến sự việc được kể trong đoạn văn chú ý đến từ ngữ chi tiết nghệ thuật tiêu biểu;
Nhân vật được tái hiện qua những khía cạnh/ đặc điểm/ phẩm chất/ ngôn ngữ/ nh động/ tính cách/ tâm
trạng/ mối quan hệ với các nhân vật khác thế nào? Qua đó hoàn thiện bức chân dung nhân vật ra sao?)
- Bước 3: Nhận xét đặc sắc nghệ thuật
(Nghệ thuật trần thuật: điểm nhìn của ai? Tại sao? Ngôn ngữ trần thuật giản di mộc mạc hay tài hoa uyên
bác? Giọng điệu trần thuật thế nào?
Nghệ thuật xây dựng nhân vật: thông qua ngoại hiện hay nội m?
Lựa chọn, sáng tạo các chi tiết nghệ thuật: chi tiết nào được đặc tả kĩ, mang nghĩa biểu tượng? Các biện
pháp NT nào được sử dụng? Hiệu quả ra sao?)
- Bước 4: đánh giá chung:
+ Về nội dung (đoạn trích góp phần hoàn thiện tưởng chủ đề của tác phẩm như thế nào; thể hiện thái độ
tưởng của nhà văn trước vấn đề phản ánh ra sao? Toát lên giá trị hiện thực nhân đạo o? Đem tới nhận thức
về cuộc đời, con người?)
+ Về nghệ thuật (đoạn trích góp phần thể hiện phong ch nghệ thuật hoặc thành công nghệ thuật nào của
nhà n?)
- Bước 5: Thực hiện yêu cầu nâng cao (nếu )
* Kết bài: Khẳng định lại vấn đề NL
Lưu ý: Một số yêu cầu nâng cao thường hay xuất hiện trong yêu cầu của đề bài:
* Nhận xét tình huống nhận thức trong tác phẩm.
CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA
NGUYỄN MINH CHÂU
- Khái niệm tình huống
- Trong tác phẩm, nhà văn đã xây dựng thành công “tình huống nhận thức”, gắn với quá trình nhận thức có
ý nghĩa khám phá, phát hiện về chân đời sống, chân nghệ thuật qua nhân vật tưởng- Phùng. Tình
huống được tạo dựng bởi những phát hiện đầy nghịch lý của nhân vật bên bờ biển trong tòa án huyện.
- Đoạn trích đã thể hiện nội dung/ diễn biến của tình huống
- Ý nghĩa của tình huống
* Nhận xét v mối quan hệ giữa văn học hiện thực đời sống
- “Văn học đời sống hai vòng tròn đồng tâm tâm điểm là con người. Mỗi tác phẩm văn học chỉ
một lát cắt, một tờ biên bản của một chặng đời sống con người ta, trên con đường dài dằng dặc đi đến cõi
hoàn thiện” (Nguyễn Minh Châu)
Văn học phải bắt nguồn từ hiện thực cuộc sống, cuộc sống nơi bắt đầu, cũng đích hướng tới của n
học. Tuy nhiên hiện thực cuộc sống được đưa vào tác phẩm văn chương không phải hiện thực được sao chép
một cách nguyên si, sống sượng đó hiện thực đã được tái tạo, chiêm nghiệm, sáng tạo, kiến giải qua
lăng kính nhà văn, “hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan”. Đối tượng trung tâm của n học phản
ánh con người.
- Trong tác phẩm, từ sự đối lập “cái đẹp tuyệt đỉnh của ngoại cảnh” với hiện thực phũ phàng của cuộc sống,
nhà văn cho thấy không phải bao gi i đẹp cũng thống nhất với cái thiện, không phải bao giờ cái bên ngoài
cũng sự thể hiện bản chất cái bên trong. Cuộc đời đa sự, con người đa đoan. Cuộc sống không đơn giản,
xuôi chiều luôn chứa đựng những nghịch lí, mâu thuẫn.
Muốn hiểu đúng về bản chất cuộc sống con người, phải i nhìn đa chiều đa diện; thấu đáo, sâu sắc từ
nhiều góc độ, không thể nhận t đánh giá giản đơn dễ dãi một chiều, căn cứ o cái nhìn hời hợt, nông cạn,
cảm tính từ biểu hiện bên ngoài sự vật hiện tượng. như vậy, người nghệ những tác phẩm văn học
chân chính mới có thể thực hiện được sứ mệnh cao quý của mình.
* Nhận xét cái nhìn/ tấm lòng của n văn dành cho con người:
- Bằng cảm hứng thế sự với những trăn trở về cuộc đời, nhân thế; nỗi quan hoài sâu sắc về thân phận con
người; Nguyễn Minh Châu quan sát, khám phá miêu tả những con người của đời thường bình dị trong
cuộc hành trình mưu sinh nhọc nhằn để kiếm tìm hạnh phúc hoàn thiện nhân cách.
- Với Nguyễn Minh Châu, con người không phải những khuôn mẫu phẳng dẹt, phi chiều sâu, đơn giản,
phiến diện con người một thực thể phức tạp giữa những thăng trầm, biến động của cuộc sống đầy éo le,
nghịch lí. Để nhìn hiểu con người, phải cái nhìn sâu sắc, toàn diện, thấu hiểu, cảm thông.
- Cuộc sống con người thời hậu chiến còn nhiều khó khăn, éo le, ngịch lí; con người dường như vẫn thật
nhỏ, yếu đuối, đơn độc trước thiên nhiên bao la. Hành trình tìm kiếm bến bờ nh yên hạnh phúc của con
người vẫn thật mong manh, xa vời. S mệnh của người cầm bút chuyển từ cuộc chiến đấu cho quyền sống
của cả dân tộc sang cuộc chiến đấu cho quyền sống của từng con người.
- Với quan niệm nghệ thuật về con người: “Mỗi con người đều chứa đựng trong lòng những nét đẹp đẽ kỳ
diệu đến nỗi cả một đời người cũng chưa đủ để nhận thức khám phá tất cả những cái đó”.
Hành trình sáng c của Nguyễn Minh Châu như nhà văn nói hành trình “cố đi tìm cái hạt ngọc ẩn
giấu trong bề sâu tâm hồn con người”.
+ giai đoạn sáng tác đầu, “hạt ngọc nhà văn khám phá, thể hiện chính những biểu hiện của
phẩm chất anh hùng cách mạng.
CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA
NGUYỄN MINH CHÂU
+ giai đoạn sáng tác về sau, “hạt ngọc” nhà văn tìm thấy lại ngay trong chính cuộc sống hiện
thực, bị khuất lấp đằng sau vẻ xì, khô cằn, thô nhám của cuộc sống.
Đó cái nhìn mới mẻ, sâu sắc, đồng thời cũng cho thấy tấm lòng yêu thương, trân trọng của nhà n
dành cho những con người bình dị, danh, cực.
Giá trị nhân văn, nhân đạo trong sáng tác của “người mở đường tinh anh tài năng của văn học thời
đổi mới”.
* Nhận xét về nội dung/ giá trị/ tinh thần nhân đạo:
- Nội dung nhân đạo: một trong những nội dung bản, xuyên suốt của văn học. Những tác phẩm lớn
thường thể hiện sâu sắc giá trị y bởi mỗi người nghệ chân chính người “nhân đạo từ trong cốt tủy” -
Sê-khốp) - Những người luôn dành mối quan hoài thường trực đến cuộc sống con người, bởi lẽ “văn học
nhân học”.
- Giá trị nhân đạo giá trị bản của tác phẩm văn học chân chính, được tạo nên bởi niềm cảm thông sâu
sắc đối với nỗi khổ đau của con người, sự nâng niu, trân trọng những nét đẹp trong tâm hồn con người; đồng
thời tác phẩm cũng cũng lên án, tố cáo các thế lực tàn bạo đã chà đạp lên hạnh phúc, quyền sống phẩm
giá của con người.
- Biểu hiện của giá trị nhân đạo trong tác phẩm::
+ Thể hiện sự thấu hiểu, xót thương lo âu cho số phận bất hạnh nh trạng sống tăm tối của con
người
Nỗi xót xa cho những con người khốn khổ hiện ra ngay qua những đường nét miêu tả ngoại nh
dáng vẻ
Xót thương sâu sắc, lo âu với những ngư dân bị cầm trong cuộc sống nghèo khổ, tăm tối, bạo
lực
+ Biết quí trọng những vẻ đẹp dẫu là khuất lấp trong tâm hồn, tình cảm những con người khốn khổ, bất
hạnh; Thể hiện niềm tin vào sức mạnh con người thể vượt qua những khó khăn, thử thách, gian truân
để duy trì sự sống tình yêu thương
VD: Người đàn hàng chài:
Cảm phục trước sự sâu sắc của người đàn từng trải
Trân trọng, ngợi ca tấm lòng nhân hậu bao dung của chị
Ca ngợi, cảm phục sức mạnh kiên cường của người phụ nữ
+ Thông qua những suy tư, đăc biệt giác ngộ của Phùng, nhà văn đã gửi gắm những thông điệp sâu
sắc về tưởng nhân đạo
Những trạng thái cảm xúc suy nhận thức của Đẩu Phùng: đều biểu hiện nhất: nhạc
nhiên, phẫn nộ, giận dữ
hãy biết phẫn nộ trước cái xấu, cái ác.
Chua xót trước những điều thể ko thể của cuộc sống con người, trước những nghịch
đau đớn con người vẫn phải chấp nhận
Niềm yêu thương da diết với con người, nỗi quan hoài thường trực hướng tới con người.
3. dụ minh ho
VD1: Phân tích đoạn trích sau:
“Lúc bấy giờ trời đầy từ ngoài biển bay vào. Lại lác đác mấy hạt mưa. Tôi rúc vào bên bánh xích của
một chiếc xe tăng để tránh mưa, đang lúi húi tha phim, lúc ngẩng lên thấy một chuyện hơi lạ : một chiếc
thuyền ới tôi đoán trong nhóm đánh ban nãy đang chèo thẳng vào trước mặt tôi.
CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA
NGUYỄN MINH CHÂU
l suốt một đời cầm máy ảnh chưa bao giờ tôi được thấy một cảnh “đắt” trời cho như vậy : trước mặt
tôi một bức tranh mực tàu của một dan hoạ thời cổ. Mũi thuyền in một nét hồ loè nhoè vào bầu sương
như sữa pha đôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào. Vài bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im
phăng phắc như ợng trên chiếc mui khum khum, đang hướng mặt vào bờ. Tất cả khung cảnh ấy nhìn qua
những cái mắt lưới tấm ới nằm giữa hai chiếc gọng hiện ra dưới một hình thù y hệ cánh một con dơi,
toàn bộ khung cảnh từ đường nét đến ánh sáng đều hài hoà và đẹp, một vẻ đẹp thực đơn giản toàn bích
khiến đứng trước tôi trở n bối rối, trong trái tim như cái bóp thắt vào. Chẳng biết ai đó lần đầu
đã phát hiện ra bản thân cái đẹp chính đạo đức ? Trong giây phút bối rối, tôi tưởng chính mình vừa
khám phá thấy cái chân của sự toàn thiện, khám phá thấy cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn.
Chẳng phải lựa chọn dịch nữa, tôi gác máy lên bánh xích của chiếc xe tăng hỏng bấm “liên thanh”
một hồi hết một phần cuốn phim, thu vào chiếc Pra-ti-ca” cái khoảnh khác hạnh phúc trận ngập tâm hồn
mình, do cái đẹp tuyệt đỉnh của ngoại cảnh vừa mang lại. Tôi chắc mẩm ngay trong ngày hôm nay hoặc
sáng mai đã thể nhảy lên tàu hoả trở về, nếu cái anh bạn đồng ngũ không níu giữ chơi thêm vài
bữa”.
Gợi ý phần thân i:
* Bước 1: Khái quát chung:
- Khái quát về tác phẩm
- Trong tác phẩm, Nguyễn Minh Châu đã xây dựng thành công tình huống truyện đặc sắc gắn với quá trình
nhận thức ý nghĩa khám phá, phát hiện về chân đời sống, chân nghệ thuật qua nhân vật tưởng-
Phùng. Tình huống được tạo dựng bởi những phát hiện đầy nghịch của chính nhân vật bên bờ biển
trong tòa án huyện.
- Đoạn trích thuộc phần mở đầu của truyện ngắn, miêu tả phát hiện đầu tiên của Phùng về vẻ đẹp tuyệt đỉnh
của ngoại cảnh.
* Bước 2: Cảm nhận đoạn văn:
- Để làm một b lịch phong cảnh, Phùng được giao nhiệm vụ đi chụp một tấm cảnh biển buổi sáng sương,
một tấm ảnh không con người. Phùng đã chọn một vùng biển miền Trung để tìm kiếm cảm hứng sáng tạo.
Nơi đây vùng biển phong cảnh đẹp thơ mộng, lại sương tháng bẩy; cũng chiến trường
Phùng đã từng chiến đấu. Phải chăng với lựa chọn đó, Phùng muốn tìm lại chính mình, nhìn lại mảnh đất
anh đã từng gắn một thời máu lửa để mong thấy những đổi thay của nó; hay để tìm lại những người bạn
đã từng một thời vào sinh ra t với mình. Thế nhưng, suốt một tuần kiên nhẫn, anh vẫn chưa chụp được bức
ảnh o ưng ý.
- Thật ra, chụp được một bức ảnh theo yêu cầu của trưởng phòng thì không khó. Thế nhưng, với Phùng,
nghệ thuật đích thực không phải chỉ để hay phục vụ mục đích thương mại.
Chi tiết cho thấy những phẩm chất đang quý trọng của một nghệ trách nhiệm với sứ mệnh sáng tạo
nghệ thuật, ý thức nghiêm túc trong lao động nghệ thuật một công việc đòi hỏi tài năng, tâm huyết
công phu.
- Điều diệu bất chợt đến với Phùng vào một buổi ng khi anh nhìn thấy một chiếc thuyền buồm trên mặt
biển xa: “mũi thuyền in một nét hồ lòe nhòe vào bầu sương trắng như sữa pha chút màu hồng do
ánh mặt trời chiếu vào”, t đường nét cho đến ánh sáng đều đặc biệt ấn tượng. Trong cảm nhận của Phùng,
đó “cái đẹp tuyệt đỉnh của ngoại cảnh”, “cảnh đắt trời cho” quý giá, hi hữu, diệu, bức tranh
mực tàu của một danh họa thời cổ” cái đẹp cổ điển, chuẩn mực tưởng ch có trong một thời quá vãng nay
CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA
NGUYỄN MINH CHÂU
bất ngờ hiện hữu ngay trước mắt, trong hiện tại; một vẻ đẹp đơn giản toàn bích” vẻ đẹp nguyên sơ,
thuần khiết, tưởng, thánh thiện.
Cái đẹp đã đem đến những cảm xúc mãnh liệt, những khoảnh khắc ngập tràn hạnh phúc cho người ngh
sĩ, anh thấy “bối rối, trong trái tim như cái bóp thắt vào” đó sự xúc động thấy mình vừa may
mắn được tạo hóa ân thưởng sự may mắn không nhiều trong cuộc đời những người luôn khao khát
được khám phá, chiêm ngưỡng sáng tạo cái Đẹp. Những xúc cảm này cho thấy chất nghệ của Phùng
con người tâm hồn nhạy cảm, những rung động tinh tế trước cái Đẹp.
       
 
  

      
    
    
 

 
   
 


     

  
       

      


ơ

       
      
  

           
     

 
     
         
         
 
    







   

    
   
  
 
         
 
     

  
* Bước 3: Nhận xét nghệ thuật:
- Xây dựng tình huống độc đáo, đặc sắc.
- Nghệ thuật trần thuật ấn tượng; ngôn ngữ: đời thường, mộc mạc, giản dị, nhưng đậm triết lý, suy tư.
- Giọng điệu: chiêm nghiệm, sâu lắng
- Xây dựng chi tiết, hình ảnh mang tính biểu tượng: chiếc thuyền ngoài xa
* Bước 4: Đánh giá:
- Nội dung: Đoạn trích đóng vai t quan trọng trong việc thể hiện tưởng, chủ đề tác phẩm, đồng thời đưa
đến những thông điệp sâu sắc về vai trò, trách nhiệm của người nghệ cùng sứ mệnh của nghệ thuật chân
chính.
- Nghệ thuật: Đoạn trích góp phần tạo nên thành công của nh huống truyện độc đáo thể hiện phong cách
nghệ thuật của nhà văn Nguyễn Minh Châu “người mở đường tinh anh tài năng” của văn học thời đổi
mới.
VD 2: Cảm nhận của em về đoạn trích sau:
“Những tấm ảnh tôi mang về, đã được chọn lấy một tấm. Trưởng phòng rất bằng lòng về i.
Không những trong bộ lịch năm ấy mãi mãi về sau, tấm ảnh chụp của tôi vẫn còn được treo nhiều nơi,
nhất là trong các gia đình sành nghệ thuật. Quái lạ, tuy ảnh đen trắng nhưng mỗi lần ngắm kỹ, tôi vẫn
CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA
NGUYỄN MINH CHÂU
thấy hiện lên màu hồng hồng của ánh sương mai lúc bấy giờ tôi nhìn thấy từ bãi xe tăng hỏng, nếu nhìn
lâu hơn, bao giờ tôi cũng thấy người đàn ấy đang bước ra khỏi tấm ảnh, đó một người đàn vùng
biển cao lớn với những đường nét thô kệch, tấm lưng áo bạc phết miếng vá, nửa thân dưới ướt sũng,
khuôn mặt rỗ đã nhợt trắng kéo lưới suốt đêm. Mụ bước những bước chậm rãi, bàn chân dậm trên mặt
đất chắc chắn, hòa lẫn trong đám đông…
(Trích Chiếc thuyền ngoài xa Nguyễn Minh Châu, SGK Ngữ văn 12, tập 2, NXB Giáo dục, tr 77,78)
Gợi ý phần thân bài
* Bước 1: Khái quát chung:
- Khái quát về tác phẩm
- Tóm lược phần trước khái quát về đoạn trích:
+ Để làm một bộ lịch phong cảnh, Phùng được giao nhiệm vụ đi chụp một tấm cảnh biển buổi sáng
sương, một tấm ảnh không con người. Phùng đã chọn một vùng biển miền Trung để tìm kiếm cảm
hứng sáng tạo. Vậy mà, suốt một tuần kiên nhẫn, anh vẫn chưa chụp được bức ảnh nào ưng ý. Điều
diệu bất chợt đến với Phùng vào một buổi sáng khi anh nhìn thấy một chiếc thuyền buồm trên mặt biển
xa. Trong cảm nhận của Phùng, đó “cái đẹp tuyệt đỉnh của ngoại cảnh”, là “cảnh đắt trời cho” quý
giá, hi hữu. Thế nhưng, ngay sau đó, sự thật trần trụi, tàn nhẫn của cuộc sống khiến người nghệ kinh
hoàng, sợ hãi phẫn nộ khi chiếc thuyền ngoài xa tiến lại gần Phùng phải chứng kiến bi kịch của
gia đình người hàng chài. Với thiện chí của mình, Phùng Đẩu mời người đàn hàng chài tới để
khuyên ch ta bỏ chồng, nhưng chị ta từ chối, câu chuyện của chị đã khiến Phùng Đẩu thay đổi
nhận thức.
+ Đoạn trích : phần kết truyện, không chỉ khép lại câu chuyện còn mở ra một hướng mới cho những
suy tư, trăn trở về số phận của con người; về trách nhiệm của người nghệ sứ mệnh của nghệ thuật.
* Bước 2: Cảm nhận đoạn n
- Phát hiện của Phùng bên bờ biển diễn ra trong khoảng khắc gặp gỡ diệu giữa một tâm hồn nghệ say
tận thiện, tận với bức tranh thiên nhiên toàn bích khi chiếc thuyền được nhìn từ ngoài xa qua làn
sương huyền ảo phát hiện đã giúp Phùng được một tác phẩm nghệ thuật giá trị thẩm mãi
mãi về sau, vẫn được treo nhiều nơi, nhất trong các gia đình nh nghệ thuật. Thành quả lao động nghệ
thuật đó không chỉ khiến “trưởng phòng rất bằng lòng” về Phùng, còn giúp anh được mọi người biết
đến.
- Tuy nhiên, với Phùng, bức nh đó vẫn luôn khiến anh trăn trở ám ảnh:
+ Ngắm kĩ, nhìn lâu Phùng luôn nhìn thấy: Tuy bức ảnh đen trắng nhưng Phùng vẫn thấy màu hồng
hồng của ánh sương mai vẻ đẹp lãng mạn trên bãi biển sớm mai những trải nghiệm của Phùng khi
được chiêm ngưỡng “cảnh đắt trời cho” quý giá, hi hữu, diệu.
+ Những nếu nhìn lâu hơn, bao giờ tôi cũng thấy người đàn ấy đang bước ra khỏi tấm ảnh, đó một
người đàn vùng biển cao lớn với những đường nét thô kệch, tấm lưng áo bạc phết miếng vá, nửa
thân dưới ướt sũng, khuôn mặt rỗ đã nhợt trắng o lưới suốt đêm hiện thực với những nghịch lí, số
phận bất hạnh, cuộc sống lam lũ, nhọc nhằn, bi kịch cả vẻ đẹp khuất lấp của con người. Cuộc sống
của những ngư dân trên biển không hề thơ mộng lãng mạn như những bức họa xưa này về hình ảnh
“thuyền ngư phủ lạc trong sương” mà vất vả lam gánh nặng mưu sinh; bế tắc cùng quẫn hơn
chục con người chen chúc trên một chiếc thuyền chật chội bấp bênh trên mặt biển đầy sóng gió; tăm tối
nhục nhã tình trạng thất học, bạo lực nặng nề. Hình ảnh người đàn cùng câu chuyện của chị ta đã
CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA
NGUYỄN MINH CHÂU
trở thành ức đầy ám ảnh trong tâm trí Phùng khi nghĩ về vùng biển này, nhắc nhớ những điều
Phùng đã được chứng kiến, những xúc cảm nhân vật đã trải qua, những nhận thức đã thay đổi.
- Hình ảnh: “bàn chân chị giậm lên mặt đất chắc chắn, hòa lẫn trong đám đông”
Hình ảnh của người đàn hàng chài chính hình ảnh của những con người danh, khốn khổ trong
cuộc sống lầm lụi đời thường. Dẫu cuộc sống của họ còn nhiều éo le, nghịch lí góc khuất, nhưng tác giả
vẫn luôn đặt niềm tin o con người. Họ đã kiên cường vượt lên trên tất cả những gian truân cay đắng của
cuộc đời, không phải mình những người thân yêu, những người làm nên ý nghĩa cuộc sống của họ,
do để họ sống chịu đựng, cũng là cội nguồn sức mạnh của họ.
Nhận t:
- Đoạn trích đã đưa đến thông điệp về cách nhìn cuộc sống & con người: Đừng chỉ nhìn cuộc đời từ xa qua
lớp màn sương màu hồng, để thi vị hóa, đơn giản hóa nó. Cuộc sống không đơn giản xuôi chiều luôn
chứa đựng những nghịch lí, mâu thuẫn. Muốn hiểu đúng về cuộc sống & con người, phải cái nhìn đa
chiều đa diện; thấu đáo, sâu sắc từ nhiều góc độ, không thể nhận xét đánh giá giản đơn dễ dãi một chiều, căn
cứ o cái nhìn hời hợt, nông cạn, cảm tính từ biểu hiện bên ngoài sự vật hiện tượng.
- Thông điệp về mối quan hệ giữa n học hiện thực; trách nhiệm của người nghệ chân chính:
+ Văn học phải bắt nguồn từ hiện thực cuộc sống, cuộc sống nơi bắt đầu, cũng đích hướng tới của
văn học; bởi l “Văn học đời sống hai vòng tròn đồng tâm tâm điểm con người”. Không thể
tách rời nghệ thuật với hiện thực cuộc sống con người; nghệ thuật đích thực luôn gắn khăng khít
phản ánh chân thực cuộc sống con người, nghệ thuật phải cuộc đời, “vị nhân sinh”. Hành trình cầm
bút hành trình “đi tìm cái hạt ngọc ẩn giấu trong bề sâu tâm hồn con người”, bởi l : “Mỗi con
người đều chứa đựng trong lòng những nét đẹp đẽ kỳ diệu đến nỗi cả một đời người cũng chưa đủ để
nhận thức khám phá tất cả những cái đó”.
+ Người nghệ không chỉ cần những chất, phẩm chất đáng quí trong lao động nghệ thuật còn
phải tấm lòng nhân ái, tình yêu thương sâu nặng với con người, biết trăn trở cho số phận con người,
đủ s sắc sảo, tinh tế để thể nhìn ra những mảng khuất tối trong cuộc sống, sự dũng cảm bản
lĩnh trung thực để khám phá phản ánh hiện thực của cuộc sống con người.
* Bước 3: Nhận xét nghệ thuật:
- Nghệ thuật trần thuật đặc sắc; điểm nhìn: từ nhân vật Phùng: vừa nhân vật vừa người kể chuyện (ngôi
thứ nhất) qua đó gửi gắm sự quan t sự việc đồng thời bộc lộ s thay đổi trong cảm xúc, nhận thức của bản
than nhân vật.
- Ngôn ngữ: đời thường, mộc mạc, giản dị, nhưng đậm triết lý, suy
- Giọng điệu: chiêm nghiệm, suy sâu lắng;
- Kết truyện bằng chi tiết nghệ thuật đặc sắc, giàu sức gợi.
* Bước 4: Đánh giá:
- Nội dung: Đoạn trích tiêu biểu, kết tinh giá trị hiện thực tưởng nhân đạo của nhà n, đồng thời đưa
đến những thông điệp sâu sắc về ch nhìn cuộc sống, con người vai trò, trách nhiệm của người nghệ
cùng sứ mệnh của nghệ thuật chân chính.
- Nghệ thuật: Đoạn trích góp phần tạo nên thành công của tình huống truyện độc đáo góp phần thể hiện
phong cách nghệ thuật của nhà văn Nguyễn Minh Châu “người mở đường tinh anh tài năng” của văn
học thời đổi mới.
II. DẠNG 2: Phân tích/ cảm nhận 1 đoạn văn (có định hướng nghị luận) (+ yêu cầu nâng cao)

Preview text:

CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA NGUYỄN MINH CHÂU
CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA A. PHẦN LÝ THUYẾT I. Tìm hiểu chung 1. Tác giả
- Nguyễn Minh Châu (1930- 1989)
- Quê quán: Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An - làng quê nghèo, lam lũ, trở đi trở lại trong các tác phẩm của Nguyễn Minh Châu
- Trưởng thành từ môi trường quân ngũ, là một nhà văn quân đội.
- Nguyễn Minh Châu là một trong những gương mặt tiêu biểu của nền văn học VN hiện đại. Từng là cây bút
xuất sắc của nền văn học sử thi thời kháng chiến chống Mĩ, từ sau 1975, Nguyễn Minh Châu trở thành nhà
văn tiên phong của sự nghiệp văn học thời kì đổi mới, là một trong số “những nhà văn mở đường tinh anh
và tài năng nhất”
của văn học VN (Nguyên Ngọc). 2. Tác phẩm
a. Hoàn cảnh ra đời, xuất xứ
- Chiếc thuyền ngoài xa được viết năm 1983 – khi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đã đi qua, đất
nước trở lại với cuộc sống hòa bình nhưng lại phải đối mặt với cuộc chiến không tiếng súng (cuộc chiến của
đói nghèo, tăm tối, lạc hậu)
do tàn dư của chiến tranh để lại. Nhiều vấn đề của đời sống văn hóa nhân sinh
mà trước đây do hoàn cảnh chiến tranh chưa được chú ý, nay được đặt ra.
- Tác phẩm nằm trong xu hướng nghệ thuật chung của văn học thời kỳ đổi mới: hướng nội, khai thác sâu sắc
số phận con người trong cuộc sống đời tư - thế sự.
- Truyện ngắn lúc đầu in trong tập Bến Quê (1985) sau được nhà văn lấy tên chung cho một tuyển tập truyện
ngắn Chiếc thuyền ngoài xa (1987) b. Tóm tắt
- Truyện kể lại chuyến đi thực tế của một nghệ sĩ nhiếp ảnh và những chiêm nghiệm sâu sắc của anh về nghệ thuật và cuộc đời. c. Nhan đề
- Nhan đề chứa hai nội dung:
 Đối tượng quan sát là Chiếc thuyền
 Cự li quan sát: ngoài xa
 Cùng một người quan sát, một đối tượng quan sát, và gần như cùng một thời điểm quan sát, nhưng ở
những cự li khác nhau sẽ cho những kết quả khác nhau, dẫn đến những xúc cảm và nhận thức khác nhau.
- Chiếc thuyền xuất hiện trong truyện ngắn trước hết là ở ngoài xa – đó là hình ảnh cánh buồm nhòa mờ
trong màn sương huyền ảo của buổi sớm mai trên mặt biển xa, vẻ đẹp hài hòa và toàn bích, “cái đẹp tuyệt
đỉnh của ngoại cảnh”
khiến nghệ sĩ xúc động trong cảm nhận “cái Đẹp là đạo đức!”
Chiếc thuyền ngoài xa là biểu tượng của nghệ thụât, đó là thứ nghệ thụât đạt tới sự toàn mĩ và thánh thiện
đến mức mà chiêm ngưỡng nó, người nghệ sĩ thấy tâm hồn mình được thanh lọc.
- Nhưng Chiếc thuyền khi về gần thì đó lại là sự hiện hữu một không gian sống đầy bi kịch của những người
dân chài bị cầm tù bởi đói nghèo, tăm tối và bạo lực (biết bao nghịch lý trớ trêu hiện ra trước mắt: người
chồng đánh vợ để giải tỏa những đau khổ bế tắc cùng quẫn, người vợ nhẫn nhục chịu đựng vì tình thương CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA NGUYỄN MINH CHÂU
con mà không biết rằng chính điều đó lại ám ảnh những đứa trẻ, đứa con vì muốn bảo vệ mẹ mà sẵn sàng
cầm dao lao vào bố,. .) – một thực tế khiến người nghệ sĩ kinh hoàng và phẫn nộ
 Hình ảnh chiếc thuyền lúc này là hiện thân của cuộc đời lam lũ, khó nhọc, thậm chí của những éo le, trái
ngang và nghịch lí. Đó là đối tượng muôn đời của nghệ thuật, là cuộc sống với những nét vẽ đẹp đẽ thơ
mộng và cả những nét khô cằn thô nhám.
 Sự đối lập tàn nhẫn giữa ngoại cảnh và hiện thực cuộc sống ở những cự li và góc độ quan sát khác nhau
mang tới thông điệp: cuộc sống vốn là nơi sinh ra cái đẹp nghệ thuật nhưng không đồng nhất với nghệ thuật.
Chiếc thuyền nghệ thuật thì ở ngoài xa nhưng cuộc đời thực thì lại rất gần. Người nghệ sĩ cần có cái nhìn đa
chiều đa diện để khám phá và thưởng thức vẻ đẹp đích thực của cuộc sống con người.
II. Tìm hiểu văn bản
1. Tình huống truyện 1.1. Khái niệm
- Tình huống truyện xét đến cùng là một sự kiện đặc biệt của đời sống được nhà văn sáng tạo trong tác phẩm
theo lối lạ hoá, qua đó làm nổi bật tính nhân vật và tư tưởng, chủ đề tác phẩm.
- Giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh cho rằng: "Tình huống truyện là thứ nước rửa ảnh làm nổi rõ hình sắc của các nhân vật". 1.2.
Nhận diện tình huống
- Đây là một “tình huống nhận thức”, gắn với quá trình nhận thức có ý nghĩa khám phá, phát hiện về chân lí
đời sống, chân lí nghệ thuật qua nhân vật tư tưởng - Phùng. 1.3.
Diễn biến tình huống
a. Hai phát hiện bên bờ biển
* Phát hiện ra “cái đẹp tuyệt đỉnh của ngoại cảnh”
- Để làm một bộ lịch phong cảnh, Phùng được giao nhiệm vụ đi chụp một tấm cảnh biển buổi sáng có sương,
một tấm ảnh không có con người. Phùng đã chọn một vùng biển miền Trung để tìm kiếm cảm hứng sáng tạo.
Nơi đây là vùng biển có phong cảnh đẹp thơ mộng, lại có sương mù tháng bẩy; cũng là chiến trường cũ
Phùng đã từng chiến đấu.
Phải chăng với lựa chọn đó, Phùng muốn tìm lại chính mình, nhìn lại mảnh đất anh đã từng gắn bó một thời
máu lửa để mong thấy những đổi thay của nó; hay để tìm lại những người bạn đã từng một thời vào sinh ra tử với mình?
Thế nhưng, suốt một tuần kiên nhẫn, anh vẫn chưa chụp được bức ảnh nào ưng ý.
Thật ra, chụp được một bức ảnh theo yêu cầu của trưởng phòng thì không khó. Thế nhưng, với Phùng, nghệ
thuật đích thực không phải chỉ để có hay phục vụ mục đích thương mại.
 Chi tiết cho thấy những phẩm chất đang quý trọng của một nghệ sĩ có trách nhiệm với sứ mệnh sáng tạo
nghệ thuật, có ý thức nghiêm túc trong lao động nghệ thuật – một công việc đòi hỏi tài năng, tâm huyết và công phu.
- Điều kì diệu bất chợt đến với Phùng vào một buổi sáng khi anh nhìn thấy một chiếc thuyền buồm trên mặt
biển xa: “mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe vào bầu sương mù trắng như sữa có pha chút màu hồng do
ánh mặt trời chiếu vào”,
từ đường nét cho đến ánh sáng đều đặc biệt ấn tượng.
Trong cảm nhận của Phùng, đó là “cái đẹp tuyệt đỉnh của ngoại cảnh”, “cảnh đắt trời cho” quý giá, hi
hữu, kì diệu, là “bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ” – cái đẹp cổ điển, chuẩn mực tưởng chỉ có CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA NGUYỄN MINH CHÂU
trong một thời quá vãng nay bất ngờ hiện hữu ngay trước mắt, trong hiện tại; là một “vẻ đẹp đơn giản và
toàn bích”
– vẻ đẹp nguyên sơ, thuần khiết, lí tưởng, thánh thiện.
- Cái đẹp đã đem đến những cảm xúc mãnh liệt, những khoảnh khắc ngập tràn hạnh phúc cho người nghệ sĩ,
anh thấy “bối rối, trong trái tim như có cái gì bóp thắt vào” – đó là sự xúc động vì thấy mình vừa may mắn
được tạo hóa ân thưởng – sự may mắn không có nhiều trong cuộc đời những người luôn khao khát được
khám phá, chiêm ngưỡng và sáng tạo cái Đẹp. Những xúc cảm này cho thấy tư chất nghệ sĩ của Phùng – con
người có tâm hồn nhạy cảm, những rung động tinh tế trước cái Đẹp.
Trong giây phút thăng hoa của cảm xúc, thậm chí người nghệ sĩ còn như phát hiện ra “bản thân cái đẹp
chính là đạo đức”,
anh như “khám phá thấy chân lí của sự toàn thiện, khám phá thấy cái khoảnh khắc trong
ngần của tâm hồn”
– khoảnh khắc con người thấy tâm hồn mình như được thanh lọc, gột rửa để trở nên
trong sáng thánh thiện khi đứng trước cái đẹp trong trẻo của thiên nhiên. Đó cũng chính là sự giác ngộ, nhận
thức về sức mạnh kì diệu của cái đẹp, của nghệ thuật đối với con người “cái Đẹp cứu rỗi thế giới”
(Dostoiepxki) – khi đứng trước cái đẹp, người ta thường không nghĩ đến cái xấu, cái ác, cái dung tục tầm
thường của cuộc đời mà để tâm hồn mình bay bổng hướng thiện.
 Phát hiện thứ nhất diễn ra trong khoảng khắc gặp gỡ kì diệu giữa một tâm hồn nghệ sĩ say mê tận thiện,
tận mĩ với bức tranh thiên nhiên toàn bích khi chiếc thuyền được nhìn từ ngoài xa qua làn sương mù huyền
ảo – phát hiện đã giúp Phùng có được một tác phẩm nghệ thuật có giá trị thẩm mĩ mà mãi mãi về sau, vẫn
được treo ở nhiều nơi, nhất là trong các gia đình sành nghệ thuật.
* Phát hiện thứ hai: Phát hiện ra sự thật của cuộc sống
- Sự thật trần trụi, tàn nhẫn của cuộc sống khiến người nghệ sĩ kinh hoàng, sợ hãi và phẫn nộ khi chiếc
thuyền ngoài xa tiến lại gần và hiện hữu trên đó là bi kịch của cuộc sống thường ngày, là cái xấu, cái ác do
con người tạo ra khi từ chiếc thuyền ngư phủ đẹp như mơ, bước xuống những con người xấu xí, thô kệch:
một người đàn bà vùng biển cao lớn, với khuôn mặt mệt mỏi, tái ngắt, tấm lưng áo bạc phếch, rách rưới,
một người đàn ông mái tóc tổ quạ, lưng rộng và cong như lưng một chiếc thuyền
. Hai vợ chồng hàng chài
rời thuyền và người chồng đánh đập người vợ tàn nhẫn ngay trước mắt Phùng.
Sự thật còn đáng sợ hơn khi Phùng tiếp tục chứng kiến cảnh đứa con trai đánh lại bố để bênh vực mẹ, cảnh
người mẹ nhẫn nhục trước trận đòn khủng khiếp của chồng, xấu hổ và đau đớn trước đứa con.
- Phùng hết sức kinh ngạc, mấy phút đầu anh cứ đứng há mồm ra mà nhìn vì quan niệm về cái đẹp của
Phùng bắt đầu bị lung lay. Đằng sau cái đẹp tuyệt mĩ của ngoại cảnh là cảnh tượng xấu xa phi đạo đức. Đó
là một nửa quái đản làm cho những bức ảnh hiện hình ghê sợ và chiếc thuyền đẹp như mơ cũng biến mất. Và
ngay sau đó, anh đã “vứt chiếc máy ảnh xuống đất chạy nhào tới”.
 Đó là hành động rất tự nhiên và thể hiện được tấm lòng nhân đạo và sự dũng cảm ngăn chặn cái xấu xa,
tàn ác; bênh vực & bảo vệ cho kẻ yếu của người nghệ sĩ.
- Ba hôm sau, Phùng lại tiếp tục chứng kiến những cảnh tượng đau lòng ấy và được biết đó là chuyện
thường ngày của gia đình họ khi người chồng vũ phu cứ đánh vợ “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận
nặng”.
Không thể chịu được hơn, anh đã xông vào buộc gã đàn ông kia phải chấm dứt hành động tội ác của
mình. Lão đàn ông đánh trả, anh bị thương và phải đưa vào trạm y tế của tòa án huyện.
 Cùng một thời điểm, cùng một người quan sát & đối tượng quan sát với hai cự li và góc độ khác nhau,
người nghệ sĩ đã phát hiện hai bức tranh hoàn toàn tương phản: phía sau cái đẹp thánh thiện trong trẻo của
ngoại cảnh lại là sự độc ác, xấu xa, u tối trong cuộc sống con người. Nghịch lí đau đớn này sẽ đưa đến
những nhận thức sâu sắc mới mẻ cho người nghệ sĩ về cách nhìn nhận hiện thực cuộc sống. CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA NGUYỄN MINH CHÂU
b. Phát hiện ở toà án huyện
* Với tấm lòng nhân hậu và sự bất bình trước cái xấu, cái ác; cả Phùng và Đẩu đều hy vọng góp phần giải
thoát người đàn bà hàng chài khỏi người chồng vũ phu, tàn nhẫn, và thái độ của người đàn bà khốn khổ đã
khiến các anh phát hiện ra những nghịch lí không thể hiểu nổi trong cuộc sống con người. Cả Phùng và Đẩu
đều tin rằng việc khuyên người đàn bà khốn khổ li hôn là giải pháp đúng đắn và nhân đạo nhất, họ cũng tin
rằng thiện chí của mình sẽ được người đàn bà chấp nhận, thậm chí biết ơn.
Nhưng họ đã kinh ngạc khi phát hiện ra một nghịch lí trớ trêu: người đàn bà ấy không hề muốn bỏ người
chồng tàn nhẫn, con người bị cầm tù bởi đói nghèo, tăm tối và bạo lực ấy lại không muốn được giải thoát,
thậm chí còn khẩn thiết van xin: “quí tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó”.
Với những con đẻ của văn học thời chiến, đánh giặc là việc lớn; những câu chuyện cơm áo gạo tiền sẽ được
giải quyết bằng luật pháp, bằng thiện chí.
* Sau khi đã có sự tin cậy, cảm thông; người đàn bà hàng chài đã kể cho Đẩu và Phùng nghe về cuộc đời
mình. Chị giải thích cho họ hiểu vì sao dù có khổ sở đến đâu chị cũng không thể bỏ chồng, không thể đi tìm
sự giải thoát cho riêng mình, giúp các anh phát hiện ra sự chua xót của nghịch lí.
Hiện thực với những lí lẽ giản dị mà nghiệt ngã, mâu thuẫn đầy éo le qua câu chuyện của người đàn bà quê
mùa, thất học nhưng sâu sắc từng trải khiến Đẩu và Phùng bỗng trở thành những người nông nổi ngây thơ;
lòng tốt của các anh mới chỉ dừng lại ở những lý thuyết đẹp đẽ nhưng phi thực tế
Câu chuyện của người đàn bà làm “vỡ ra” nhiều điều trong suy nghĩ của Phùng và Đẩu, đó chính là sự
nhận thức, giác ngộ về những nghịch lí vẫn luôn tồn tại đâu đó trong cuộc sống – nghịch lí mà dù đau đớn
hay phẫn nộ con người nhiều khi vẫn buộc phải chấp nhận.
 Đây là những khoảnh khắc mà con người và cuộc đời đã ban cho người nghệ sĩ. Phùng nhận ra một điều
cuộc đời đa sự, con người đa đoan, anh không thể nhìn cuộc sống một cách đơn giản, Phùng cần nhìn sâu
hơn về bản chất cuộc sống để khám phá những nghịch lý của cuộc đời và đi tìm hạt ngọc ẩn sâu trong tâm
hồn những con người lao động. Anh phát hiện ra đằng sau vẻ bề ngoài của người đàn bà quê mùa thất học là
trái tim yêu thương, giàu đức hi sinh, thấu hiểu lẽ đời.
c. Tình huống còn được đẩy tới cao độ của nhận thức và xúc cảm qua trải nghiệm của Phùng với cuộc
sống người dân chài trước trận bão biển:
- Trong phần cuối tác phẩm, khi biển động, trời trở gió đột ngột, Phùng lang thang một mình trên bờ biển,
anh chia sẻ cảm giác lo lắng với ông lão làm nghề sơn tràng, anh trăn trở trước một chiếc thuyền vó bè đang
đậu trơ trọi giữa phá nước, một mình “chống chọi với sóng gió”, anh “gào lên” vì nỗi lo lắng trước những
diễn biến bất ưng của cơn bão,…
- Đó là những biểu hiện của một tâm hồn nghệ sĩ gắn bó sâu sắc với tất cả những buồn vui của cuộc đời và số phận con người.
- Khi miêu tả hình ảnh một nghệ sĩ đang bối rối vì vừa nhận ra những nghịch lí trớ trêu, những bất lực bế tắc
của cuộc đời: một ông lão sơn tràng ngoài sáu mươi tuổi vẫn phải lo lắng nhìn ra mặt phá, một chiếc thuyền
trơ trọi, một “cái bếp lửa cũng bị gió ném tung ra khắp bãi cát, những tàn lửa đỏ rực bay quẩn lên”, “một
xoong cơm đã sống nhăn”
,. tất cả đặt trong sự đối lập với một bức tranh thiên nhiên khủng khiếp khi
“những tảng mây đen xếp ngổng ngang trên mặt biển đen ngòm biển gào thét, sóng bạc đầu ngoài lạch nổi
cồn lên, cao như những ngọn núi tuyết trắng”. . CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA NGUYỄN MINH CHÂU
 Nhà văn đã gieo vào lòng người đọc những dự cảm lo âu đầy bất ổn: trước cái mênh mông rộng lớn của
thiên nhiên, trước những đe dọa, cuồng nộ của sóng gió biển khơi và bão táp, con người hình như vẫn thật
nhỏ bé, yếu đuối và đơn độc.
- Khi đã “chạm” vào cuộc sống của những người dân làng chài, dù chỉ thoáng qua trong trận bão biển, với
những dự cảm lo âu, những mong manh chới với, có lẽ Phùng thấu hiểu thấm thía hơn câu nói của người đàn
bà hàng chài từng trải: “cũng có khi biển động sóng gió chứ chú”, càng thấu hiểu một cách chua xót rằng
hành trình tìm kiếm một bến bờ bình yên ấm áp hình như vẫn quá mong manh xa vời; có lẽ Phùng đã hiểu
thêm phần nào những nghịch lí mà trước đó cả anh và Đẩu đều “không thể hiểu được”.
 Không chỉ khi đứng trước cái đẹp, người ta mới quên đi cái xấu cái ác để say đắm hướng thiện; kể cả khi
đứng trước sự cuồng bạo khốc liệt của thiên nhiên, khi da diết hướng về sự sống, lúc ấy mọi sự tầm thường
xấu xa, mọi bi kịch đau khổ của con người trong cuộc sống đời thường cũng trở nên bé nhỏ, không đáng kể,
họ đều có thể quên đi hoặc đơn giản là chấp nhận nó để cùng nhau chung vai sát cánh, để nương tựa vào
nhau, bất chấp những đau khổ, nhục nhã, vượt qua cơn cuồng nộ của thiên nhiên, cùng nhau sống, cùng nhau tồn tại. 1.4.
Giá trị, ý nghĩa tình huống
a. Tình huống thể hiện rõ nét số phận, phẩm chất, tính cách của các nhân vật: Người đàn bà hàng chài, Phùng và Đẩu.
- Người đàn bà hàng chài: Mang vẻ đẹp phẩm chất, tâm hồn; dẫu vẻ đẹp ấy ban đầu ngỡ bị khuất lấp bởi
cuộc sống chồng chất những cay đắng khổ đau, một số phận chịu nhiều éo le thua thiệt: nhẫn nhịn, chịu
đựng hi sinh vì con, là người đàn bà từng trải sâu sắc, thấu hiểu các lẽ đời, vị tha, nhân hậu, bao dung, biết
chắt chiu từng niềm vui nhỏ để làm nên ý nghĩa cuộc đời.
- Nghệ sĩ Phùng và chánh án Đẩu:
+ Phùng là người nghệ sĩ tâm huyết, có tâm hồn nhạy cảm và say mê cái đẹp, khả năng khám phá, phát
hiện tinh tế và tấm lòng trăn trở, lo âu, về thân phận con người. Đây có thể xem là mối quan tâm thường
trực và sâu nặng của Phùng dành họ những cảnh đời đau khổ, thân phận bất hạnh cùng với những phản
ứng trước sự nhiễu nhương, ngang trái từ một người nghệ sĩ chân chính.
 Phùng là nhân vật tư tưởng, đồng thời cũng là nhân vật tự nhận thức – giàu suy tư về đời sống, trong sự va đập với đời sống.
+ Đẩu – vị Bao Công vùng biển: vừa là đồng hương, vừa là đồng đội cũ của Phùng.
Đây là vị chánh án tốt bụng, sống đầy trách nhiệm và giàu lòng yêu thương con người. Là chánh án
huyện, Đẩu am hiêu luật pháp, anh đứa về phía nạn nhân để bênh vực họ. Lời khuyên bỏ chồng của anh
đối với người đàn bà hàng chài có phần ngây thơ, nông nổi nhưng là biểu hiện cho tinh thần hướng
thiện, bênh vực công lí.
 Là những người chiến sĩ đã từng tham gia chiến đấu vì sự sống của dân tộc, trở về với cuộc sống đời
thường, vẫn say mê khám phá cái đẹp, vẫn tâm niệm đấu tranh với cái xấu cái ác để bảo vệ cái thiện. Hiện
thực trớ trêu, đầy nghịch lí của cuộc đời đã giúp cho họ phải “nhận thức lại” những vấn đề mà trước nay họ
lầm tưởng là chân lí. Ở họ có những biến đổi với một quá trình nhận thức từ nông cạn đến sâu sắc, từ phiến
diện đến toàn diện, từ ngộ nhận đến nhận thức đúng đắn.
b. Thông điệp về cách nhìn cuộc sống và con người
- Cuộc sống thời hậu chiến ngổn ngang, nghèo khổ, lạc hậu. Cuộc sống cũng tồn tại nhiều nghịch lý. Cuộc
đời đa sự, con người đa đoan. CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA NGUYỄN MINH CHÂU
- Muốn hiểu đúng về bản chất cuộc sống, con người phải có cái nhìn thấu đáo, toàn diện, sâu sắc từ nhiều
góc độ, không thể nhận xét đánh giá giản đơn dễ dãi một chiều, căn cứ vào cái nhìn hời hợt, nông cạn, cảm
tính từ biểu hiện bên ngoài sự vật hiện tượng.
- Từ câu chuyện của người đàn bà hàng chài, tình huống cũng đưa đến một nhận thức thấm thía: cái xấu cái
ác nhiều khi vẫn tồn tại trong cuộc sống con người, bởi vậy cần có cái nhìn thấu đạt nhân tình, không phải
để chấp nhận dung túng mà để tìm ra cội nguồn phát sinh nhằm loại bỏ nó, đem lại sự bình yên tốt đẹp cho cuộc sống con người.
- Để giải phóng con người khỏi cảnh đói nghèo, khổ đau, tăm tối, cần phải có những pháp thiết thực mang
tính toàn xã hội chứ không phải bằng những lí thuyết đẹp đẽ mà xa rời thực tiễn, những phương cách cực đoan duy ý chí.
c. Thông điệp về mối quan hệ giữa văn học và hiện thực; trách nhiệm của người nghệ sĩ và sứ mệnh
của nghệ thuật chân chính:
- Văn học phải bắt nguồn từ hiện thực cuộc sống, cuộc sống là nơi bắt đầu, cũng là đích hướng tới của văn
học; bởi lẽ “Văn học và đời sống là hai vòng tròn đồng tâm mà tâm điểm là con người”. Không thể tách rời
nghệ thuật với hiện thực cuộc sống con người, hãy rút ngắn khoảng cách giữa nghệ thuật với hiện thực bởi
nghệ thuật đích thực luôn gắn bó khăng khít và phản ánh chân thực cuộc sống con người, nghệ thuật phải vì
cuộc đời, đó chính là nghệ thuật “vị nhân sinh”. Hành trình cầm bút là hành trình “đi tìm cái hạt ngọc ẩn
giấu trong bề sâu tâm hồn con người”,
bởi lẽ: “Mỗi con người đều chứa đựng trong lòng những nét đẹp đẽ
kỳ diệu đến nỗi cả một đời người cũng chưa đủ để nhận thức khám phá tất cả những cái đó”.
- Người nghệ sĩ không chỉ cần những tư chất, phẩm chất đáng quí trong lao động nghệ thuật mà còn phải có
tấm lòng nhân ái, tình yêu thương sâu nặng với con người, biết trăn trở cho số phận con người, có đủ sự sắc
sảo, tinh tế để có thể nhìn ra những mảng khuất tối trong cuộc sống, có sự dũng cảm và bản lĩnh trung thực
để khám phá và phản ánh những hiện thực dẫu là tàn nhẫn của cuộc sống con người. d. Giá trị hiện thực:
- Tình huống đã mở ra bức tranh về thời hậu chiến. Cuộc sống đói nghèo lạc hậu tăm tối là nguyên nhân dẫn
tới nạn bạo hành gia đình. Cuộc chiến đấu bảo vệ quyền sống của cả dân tộc trải qua bao hi sinh gian khổ
nhưng cuộc đấu tranh bảo vệ quyền sống của từng con người cũng rất nhiều khó khăn, thử thách.
e. Tư tưởng nhân đạo thể hiện qua truyện ngắn:
- Thấu hiểu, xót thương cho số phận con người trong cuộc sống mưu sinh, trong hành trình kiếm tìm hạnh phúc và sự bình yên.
- Biết quí trọng những vẻ đẹp dẫu là khuất lấp trong tâm hồn, tình cảm những con người khốn khổ, bất hạnh.
- Thể hiện niềm tin vào sức mạnh con người có thể vượt qua những khó khăn, thử thách, gian truân để duy
trì sự sống và tình yêu thương.
2. Nhân vật người đàn bà hàng chài 2.1. Tên gọi:
- Đi suốt chiều dài thiên truyện, người đọc không hề biết đến tên của chị, khi thì nhà văn gọi bằng “chị ta”,
lúc thì gọi bằng “Mụ”, “người đàn bà hàng chài”.
 Chị cũng như bao người đàn bà ở vùng biển nghèo khổ này, chị là người bé nhỏ, vô danh; chìm khuất
trong biển đời lam lũ nhọc nhằn. 2.2.
Ngoại hình, dáng vẻ CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA NGUYỄN MINH CHÂU
- Chị mang tới ấn tượng với người đọc bởi ngoại hình xấu xí, thô kệch của một người đàn bà vùng biển:
“Người đàn bà trạc ngoài bốn mươi, một thân hình quen thuộc của đàn bà vùng biển, cao lớn với những
đường nét thô kệch. Mụ rỗ mặt…”
- Ngoại hình của chị còn toát lên sự lam lũ, vất vả và đau khổ sau một đêm nhọc nhằn và trước một trận đòn
ê chề nhục nhã: “Tấm lưng áo bạc phếch, rách rưới, nửa thân dưới ướt sũng” – tấm thân ngập sâu trong
lầm than của đời sống. “Khuôn mặt mệt mỏi, tái ngắt và dường như đang buồn ngủ”, không còn mảy may chút sức sống.
 Có lẽ gánh nặng nhọc nhằn của cuộc mưu sinh đầy sóng gió trên biển cả cùng những bất hạnh cay đắng
trong cuộc đời đã lấy đi của chị tất cả sinh lực và niềm vui.
 Chỉ bằng vài nét phác ấy, nhà văn đã dự báo một số phận chẳng bình yên, nhất là sự thua thiệt về ngoại
hình của người phụ nữ, thường dẫn đến sự thua thiệt về số phận.
- Dáng vẻ của thị còn thể hiện sự cam chịu, nhẫn nhục đến kì lạ của chị: sau khi xuống thuyền, người đàn bà
đi thẳng tới bãi xe tăng hỏng, trước lúc đến bên chiếc xe rà phá mìn, chị “đứng lại ngước mắt nhìn ra ngoài
mặt phá nước chỗ chiếc thuyền đậu một thoáng, rồi lại đưa cánh tay lên có lẽ định gãi hay xõa lại mái tóc
rồi lại buông thõng xuống, đưa cặp mắt nhìn xuống chân”.
 Đây là nơi quá quen thuộc với chị, sự quen thuộc ghê sợ, khủng khiếp bởi những trận đòn đã thành lệ của
người chồng vũ phu, thô bạo. Vì thế nên dù đã chấp nhận, chị cũng không nén nổi cảm giác cay đắng, chị
nhìn lại con thuyền dường như để tìm ở các con một chút an ủi ấm áp, mong được tiếp thêm chút sức lực để
vượt qua nỗi đau khổ nhục nhã sắp tới.
- Khi bị chồng đánh dã man, chị chịu đòn “với một vẻ cam chịu đầy nhẫn nhục, không hề kêu một tiếng,
không chống trả, cũng không tìm cách trốn chạy”
. Đó là thái độ của người nhẫn nhục, không oán thán, bất bình hay né tránh.
- Sự khốn khổ của chị còn hiện ra ngay trong dáng vẻ “lúng túng, sợ sệt” lúc ở toàn án, trong chi tiết miêu
tả “người đàn bà chỉ quen sống giữa mặt nước vừa đặt chân vào phòng đầy bàn ghế và giấy mà liền tìm đến
một góc tường để ngồi”,
thậm chí khi Đẩu phải mời đến lần thứ hai, chị mới “dám rón rén đến ngồi ghé vào
mép chiếc ghế và cố thu người lại”.
 Dáng vẻ của một con người tội nghiệp luôn thấy sự có mặt của mình trong cuộc đời này hình như là phi
lí, là dáng vẻ của một con người luôn phải nghe những lời nguyền rủa độc địa và đau khổ: “mày chết đi cho
ông nhờ, chúng mày chết hết đi cho ông nhờ!”,
vì thế luôn mang mặc cảm có lỗi, luôn muốn giảm thiểu sự
vướng víu phiền phức hay khó chịu mà mình có thể gây ra cho mọi người xung quanh, hoặc cũng có thể đó
là tư thế tự vệ bản năng của một con người khốn khổ luôn gặp quá nhiều những rủi ro bất hạnh, luôn bị đe
dọa bởi những bất ưng hiểm họa từ cả con người và thiên nhiên sóng gió. 2.3.
Số phận bất hạnh
- Xuâ t thân trong mọt gia đinh kha gia , sau mọt trân bẹnh đạu mua chi bi rô mạt không lâ y đu c chô ng, chi co
mang v i mọt anh hang chai, rô i thanh v chô ng.
- Cung v i gia đình, ngu i đan ba pha i chi u nh ng vâ t va nho c nhă n cu a cuọc sô ng mu u sinh v i nh ng “đem th c
tră ng keo lu i”;
nh ng day vo đau khô b i tinh tra ng sô ng bâ p benh đoi ngheo tăm tô i keo dai tren mạt bie n gây ra
tâm li be tă c u uâ t. Tru c năm 1975, “co khi ong tr i lam bie n đọng ca thang tr i v cho ng con cai chi ăn xu o ng
ro ng luọc châ m muo i”,
t khi cach ma ng ve , cuọc sô ng cu a ho đ đoi khô ho n nhu ng nô i lo co m ao ga o tie n
vâ n chu a luc nao buông tha. CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA NGUYỄN MINH CHÂU
 Cuọc sô ng cu a nh ng ngu dân tren bie n không he tho mọng lang ma n nhu nh ng b c ho a xu a nay ve hinh a nh
“thuye n ngu phu la c trong su o ng” ma vâ t va lam lu vi ganh nạng mu u sinh; be tă c cung quâ n vi ho n chu c con
ngu i chen chuc tren mọt chie c thuye n chạt chọi bâ p benh tren mạt bie n đâ y song gio; tăm tô i nhu c nha vi tinh tra ng
thâ t ho c, ba o l c nạng ne
- Ngu i đan ba con la na n nhân cu a tâ n bi ki ch gia đinh khi thu ng xuyen pha i chi u đ ng nô i nhu c nha, đau đ n b i
nh ng trạn đon tan ba o cu a ngu i chô ng vu phu, khô s khi no m n p lo s con cai bi tô n thu o ng, luôn s hai; đau đ n
khi pha i ch ng kie n ca nh đ a con trai vi qua thu o ng me ma căm ghet, đanh la i bô . Du ng nhu trong ngu i đan ba
luôn mang mọt nô i khô đau câm nin.
- Mieu ta hinh a nh mọt ngu i me v a khoc v a chă p tay vai lâ y vai đe đ a con đe no đ ng pha m pha i tọi ac trai v i luân
thu ng đa o li, nha văn đa the hiẹn s xot thu o ng vô cung cho nô i đau khô tu ng nhu qua s c chi u đ ng cu a con ngu i. 2.4.
Ve đe p khuâ t lâ p trong tâm hô n, tinh cach
- Ve đe p phâ m châ t, tâm hô n cu a ngu i đan ba the hiẹn tạp trung qua câu chuyẹn toa an huyẹn:
- toa an huyẹn, luc đâ u thi chi xuâ t hiẹn bă ng hinh a nh ru t re, s sẹt, lung tung. Chi tim đe n goc công đu ng đe ngô i.
Chi ngô i trong the ngô i bi đọng, nhu mọt con thu xu lông đe t vẹ mạc du đa đu c Phung va Đâ u ca m thông, chia se .
- Luc đâ u chi xu ng hô “Con - quy toa”, sau khi sau đa bình tinh va hie u li do th c s minh đu c m i đe n thi chi đọt
ngọt chuye n đô i cach xu ng hô: “Chi - cac chu” va đôi mă t nhin thâ u suô t cuọc đ i la tâm đie m to a sang tâm hô n chi .
 Nguye n Minh Châu đa nhâ n ma nh s thay đô i ngôn ng va vi the ngu i đan ba v i y
nghia: Gi đây chinh chi la quan toa đang phan xet Phung va Đâ u, da y cho Phung va Đâ u mọt bai ho c ve cach nhin
đ i, nhin cuọc sô ng. Qua câu chuyẹn cu a ngu i đan ba nha văn đa lam toat len nh ng phâ m châ t đang trân tro ng cu a nhân vạt.
a. V i tu cach ngu i v : ngu i đan ba hang chai mang ve đe p cu a long bao dung, vi tha & nhân hạu
- Đô i v i ngu i chô ng vu phu thô ba o: ngu i đan ba nhân hạu â y thâ u hie u cọi nguô n; ca m thông va xot thu o ng cho
nô i khô s u uâ t trong long chô ng:
- “Bâ t c khi nao kho qua la lao xach toi ra đanh”  bie t ră ng nô i khô cu a minh sau nô i khô cu a chô ng.
- Trong tâm th c cu a chi lao chô ng vu phu đa ban cho chi ân huẹ. Chi t nhạn th c: vi minh xâ u, bi cai xâ u đeo đuô i
nhu đi nh mẹnh t luc con nho , trạn đạu mua đe la i di ch ng tren mạt chi la nh ng nô t rô chă ng chi t, theo năm thang
cang l n la i cang xâ u, cang gia đi la i cang kho coi.Va vi the nen viẹc co mang v i anh hang chai la mọt ân huẹ va ngu i
chô ng cu a chi chinh la ân nhân đa đem đe n cho chi mai â m gia đinh.
- Chi thâ u hie u vi tri tru cọt cu a ngu i đan ông trong mọt gia đình sô ng lenh đenh tren mạt bie n đâ y song gio, va ca
nô i vâ t va co c c ne u “tren mọt chie c thuye n khong co ngu i đan ong” khi phong ba bao tô . Chi cung hie u
cuọc sô ng mu u sinh vâ t va nho c CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA NGUYỄN MINH CHÂU
nhă n, s ngheo đoi khô n quâ n tren mọt con thuye n chạt chọi, nh ng cay đă ng, phâ n uâ t trie n mien đa vu t kho i
gi i ha n chi u đ ng cu a con ngu i, khie n mọt “anh con trai cu c tinh nhu ng hie n lanh” dâ n tr thanh vu phu đọc ac.
- Ngu i đan ba con cho ră ng lô i mọt phâ n cung la do minh: “Cung ta i đan ba thuye n chung toi đe nhie u qua”. Va vi
thuye n chạt con đông nen cuọc sô ng vô n đa kho khăn la i cang them be tă c.
- Trong suô t câu chuyẹn dai cu a đ i minh, tuy kho khăn nhu ng ngu i đan ba không to ra oan giạn chô ng, chi hie u
lao đanh v không pha i thu ghet gi v ma chi nhu mọt phu o ng th c gia i to a nh ng phâ n uâ t cu a cuọc đ i, nhu ngu i
khac uô ng ru u cho nguôi quen nô i khô s cu a minh; đanh v nhu mọt cach vu t thoat kho i s cung quâ n,cung
giô ng nhu cach hoa tan bi kịch trong ru u cu a nh ng ngu i đan ông khac; bi kịch â y co pha i cu a rieng ai đâu. (so
sanh v i hanh động đanh v cu a A S đe thâ y mô i khi đanh ngu i đan ông đe u ren ri đâ y đau khô nhu mọt viẹc lam bâ t đă c di)
 Ngu i đan ba râ t hie u chô ng, thu o ng chô ng, v i chi , ngu i chô ng v a la tọi nhân
v a la na n nhân - na n nhân cu a s đoi ngheo thâ t ho c.
- Do đo, chi chi u đ ng nh ng trạn đon tan nhâ n cu a chô ng cung nhu mọt cach giup ngu i chô ng khô n khô vo i đi
nh ng u uâ t khô s dô n nen châ t ch a trong long. Chinh vi the ma chi hoan toan t nguyẹn, lạng le len b , đi sâu vao
phia sau bai xe tăng ho ng, đ ng ch trạn đon giạn d nhu l a chay cu a chô ng, lạng le chi u đon v i “ve cam chi u đâ y
nhâ n nhu c, khong he keu mọt tie ng, khong cho ng tra , cung khong tim cach tro n cha y”
va đe rô i sau đo,
“la i đi thạt nhanh ra kho i bai xe tăng ho ng, đuo i theo lao đan ong, ca hai ngu i la i tr ve thuye n”.
 Cach ng x cu a mọt ngu i phu n vi tha nhân hạu, co đ c hy sinh t i ki la , cô gă ng
th c hiẹn bô n phạn nghia vu cu a minh cho xong, dâ u đo la nh ng bô n phạn nghia vu phi li, phi nhân tinh.
 Ne u ca Đâ u va Phung đa kinh nga c, bâ t bình tru c s cam chi u, nhâ n nhu c cu a
ngu i v bi chô ng hanh ha thi khi hie u nguyen nhân cu a thai đọ â y ho cang kinh nga c vi s nhân hạu vi tha trong long
ngu i đan ba â y cung l n lao, ki la đe n m c “khong the nao hie u đu c”.
 Cai nhin duy li không the soi đu c, nghi ch li nă m ngoai luạt phap va y chi con ngu i.
b. Với tư cách là người mẹ: người đàn bà ánh lên vẻ đẹp của tình mẫu tử thiêng liêng & đức hi sinh
- Người đàn bà đã khóc khi nghe Phùng nhắc đến thằng Phác.
- Tình mẫu tử được chị ý thức sâu sắc như một thiên tính tự nhiên của người phụ nữ “ông trời sinh ra người
đàn bà để đẻ con, rồi nuôi con đến khi khôn lớn nên phải gánh lấy cái khổ”.
Cuộc sống trên mặt biển đầy
sóng gió, những đứa trẻ luôn cần sự che chở bảo vệ của người mẹ, đó cũng là nguyên nhân khiến chị cho
rằng: “Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không thể sống cho mình như ở trên đất liền
được!”
Ba chữ “sống cho con” là biểu hiện cảm động của tình mẫu tử khi yêu thương đã biến thành đức hi sinh, thành sự quên mình. CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA NGUYỄN MINH CHÂU
- Chính tình yêu thương sâu sắc dành cho con đã khiến chị có thể nhẫn nhục chịu đựng sự đày ải tàn nhẫn
của người chồng để con thuyền có người đàn ông khỏe mạnh, biết nghề, và quan trọng hơn, đó là người bố
của những đứa con – người duy nhất có thể tận tâm tận lực cùng chị “chèo chống khi phong ba, để cùng làm
ăn nuôi nấng đặng một sắp con”
. Người đàn bà chấp nhận tất cả thua thiệt về mình để đổi lấy mái ấm gia đình cho con.
- Cũng vì thương con, muốn bảo vệ các con khỏi bị tổn thương đau đớn mà chị phải xin chồng đưa mình lên
bờ mà đánh; rồi cũng vì lo những phản ứng dữ dội của thằng Phác mà chị phải cắn răng gửi thằng con chị
yêu thương nhất lên rừng sống với ông ngoại.
 Đó là một cách ứng xử rất nhân hậu. Chị không muốn gieo vào lòng các con thái độ căm thù đối với cha của chúng.
- Tình mẫu tử thiêng liêng cũng là nguyên nhân cho những đau đớn tột cùng của người mẹ.
- Khi bị chồng đánh đập tàn nhẫn, chị đã lặng lẽ như một người câm, vậy mà khi thằng Phát lao đến đánh bố
để bảo vệ mẹ, chị không nén nổi nỗi đau đớn, chị “mếu máo gọi con”, chị “ngồi xệp xuống trước mặt thằng
bé, ôm chầm lấy nó rồi lại buông ra, chắp tay vái lấy vái để, rồi lại ôm chầm lấy,…”
Thằng bé đã xuất hiện
trước mặt mẹ với sự non nớt ngây thơ của cả tình yêu thương người mẹ và niềm căm giận u tối cùng những
hành động khiến lương tri người làm cha mẹ phải đau đớn hãi hùng. chị kinh hãi nghĩ đến cái vòng luẩn
quẩn: chồng mình bị đời sống bóp nặn trở thành kẻ hung ác, con mình liệu có thoát được tương lai ấy không?
Thằng bé xuất hiện như “một viên đạn bắn vào người đàn ông và bây giờ đang xuyên qua tâm hồn người
đàn bà, làm rỏ xuống những dòng nước mắt”.
 Tình thương con đã khiến người mẹ vừa đau đớn vừa vô vùng xấu hổ và nhục nhã: nỗi đau khi không che
chắn cho tuổi thơ của các con được trong sáng, đau thêm nỗi đau của các con khi phải chứng kiến cảnh bố
hành hạ mẹ tàn nhẫn, càng đau hơn nữa bởi từng ngày chứng kiến một cách bất lực sự phát triển tính cách
của con trong một môi trường tăm tối, bạo lực.
(Hình ảnh nước mắt chảy tràn, người mẹ khóc như thổ ra nước mắt, như người ta bóp kiệt một quả chanh.
Nếu gương mặt ấy không đầy những vết rỗ thì nước mắt sẽ chảy đi đâu? Liệu những ngón tay bé nhỏ của
Phát có đủ sức lau khô những dòng nước mắt trên khuôn mặt mẹ? Hào quang của quá khứ xem ra không đủ
vững chãi để hiện tại dựa vào…)
- Tình mẫu tử của chị không chỉ được thể hiện qua nước mắt mà còn hiện ra qua niềm vui, dẫu là hiếm hoi,
ít ỏi. Người đàn bà bất hạnh đã biết chắt chiu niềm hạnh phúc nhỏ nhoi, bình dị từ cuộc đời cơ cực, lam lũ
để khỏa lấp những nỗi đau, để xoa dịu nỗi đời cay cực.
- Khi nhắc tới những lúc vợ chồng con cái sống hòa thuận ở trên thuyền, “khuôn mặt xấu xí của mụ ửng
sáng lên như một nụ cười”
– đó là ánh sáng kì diệu tỏa ra từ vẻ đẹp cảm động của tình mẫu tử. Mọi nỗi buồn
và niềm vui của chị đều xuất phát từ con cái: “Vui nhất là lúc ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó được ăn no”.
c. Với tư cách một con người: Chị là người đàn bà sâu sắc, từng trải, thấu hiểu lẽ đời và luôn
mang trong mình một sức mạnh kiên cường
* Chị là người đàn sâu sắc, từng trải, thấu hiểu lẽ đời:
- Trong tòa án huyện, ban đầu người đàn bà xuất hiện với vẻ lúng túng, sợ sệt. Nhưng chỉ trong khoảnh khắc
chi ta đã nhận ra Phùng và Đẩu chỉ là những người sách vở. Từ hình ảnh một người dân nghèo, lam lũ sợ sệt
lúng túng “tìm một góc tường để ngồi” bỗng chốc thay đổi hẳn. Nếu lúc đầu người đàn bà xưng “con”, gọi
“quý tòa” thì đến khi đối thoại với Đẩu, Phùng lại xưng “chị”, gọi “mấy chú”, “các chú”. CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA NGUYỄN MINH CHÂU
- Bằng sự thấu trải, bằng thứ ngôn ngữ không phải dễ nghe của người lao động, chị kể lại câu chuyện của
đời mình, không phải than nghèo kể khổ; không chỉ để giãi bày cho việc xin không bỏ chồng mà còn là chia
sẻ của một người phụ nữ từng trải và sâu sắc.
- Nói chuyện với Đẩu và Phùng, người đàn bà hàng chài quê mùa thất học nhưng lại có “con mắt như đang
nhìn suốt cả đời mình”
, có sự “thâm trầm trong việc thấu hiểu các lẽ đời” đã khiến các anh trở thành những
người nông nổi, ngây thơ.
- Những nhận xét, giận dữ, bất bình hay lời khuyên đầy thiện chí của các anh lần lượt đều vấp phải những lí
lẽ bình dị nhưng nghiệt ngã và không thể thay đổi của hiện thực cuộc sống qua những thấu hiểu, trải nghiệm
sâu sắc của người đàn bà.
- Chị đã giúp họ hiểu ra những nghiệt ngã của cuộc đời, chỉ rõ sự thiếu thực tế của họ: “lòng các chú tốt,
nhưng các chú đâu phải người làm ăn, đâu có hiểu được cái việc của các người làm ăn lam lũ, khó nhọc,. .”
- Chị cũng cho họ thấy sự khó khăn gấp bội của những người đàn bà trong cuộc mưu sinh bấp bênh và luôn
tiềm ẩn những đe dọa bất ưng trên mặt biển: “các chú không phải là đàn bà, chưa bao giờ các chú biết như
thế nào là nỗi vất vả của người đàn bà trên một chiếc thuyền không có đàn ông”.
- Chị cũng giúp họ hiểu rằng với người đàn bà ở thuyền thì hạnh phúc không quan trọng bằng sự sống, sự
tồn tại: “đám đàn bà hàng chài chúng tôi cần có người đàn ông để chèo chống khi phong ba, để cùng làm
ăn nuôi nấng đặng một sắp con”.
Chị đã giúp Phùng và Đẩu nhận ra tình trạng luẩn quẩn bế tắc trong cuộc
sống của ngư dân: ở thuyền thì chật chội, bức bối, bấp bênh nhưng lên bờ thì lại phải bỏ nghề mà sự tồn tại
của ngư dân thì gắn chặt với nghề. Vì vậy, nhiều chính sách nhân đạo tốt đẹp của Nhà nước có khi vẫn bất
cập với thực tế cuộc sống của họ.
 Phía sau tâm thế yếu đuối của một nạn nhân của cảnh bạo lực lại là nghị lực sống, phía sau nhận thức
tưởng chừng là tối tăm dốt nát lại là sự thấu hiểu lẽ đời.
 Những lời chia sẻ từ đáy lòng của người đàn bà hàng chài khiến Phùng nhận ra chân lí: không thể giản
đơn, dễ dãi trong việc nhìn nhận sự việc, hiện tượng của đời sống. Đừng nhìn và đánh giá từ cái nhìn bề
ngoài bởi cuộc sống luôn chứa đựng những nghịch lí, những bất công và mất mát. Anh đã phát hiện ra bên
trong người đàn bà có vẻ ngoài xấu xí thô kệch ấy là một trái tim nhân hậu, một vẻ đẹp tâm hồn mà không
phải ai cũng có thể nhận ra được.
- Trước kết luận chua chát của Đẩu về nghịch lí xót xa: “bây giờ tôi đã hiểu…dù hắn man rợ tàn bạo”,
người đàn bà sông nước đã có lời đáp nhẹ nhàng,thấm thía, sâu sắc, chân tình mà thắt lòng vào lòng người
khi những chiêm nghiệm được rút ra từ cuộc đời đầy những gian truân vất vả: “cũng có khi biển động sóng gió chứ chú!”
- Tiếng thở dài của Đẩu, câu hỏi băn khoăn ái ngại của Phùng, cảm giác bất lực của cả hai khi những giải
pháp xuất phát từ lòng tốt và thiện chí của họ trở nên phi thực tế đã tạo ra một đối sánh với người đàn bà
từng trải hiểu đời, hiểu người, hiểu tất cả những sự có thể và không thể của cuộc sống đời thường.
 Sự sâu sắc của chị khiến người đọc cảm phục nhưng cũng xót thương hơn cho một kiếp người khi sự sâu
sắc được đổi bằng biết bao mồ hôi nước mắt và cay đắng nhọc nhằn…
* Người đàn bà mang trong mình một sức mạnh kiên cường:
- Luôn ý thức sâu sắc về thân phận, ý nghĩa cuộc sống của mình, đó là nguyên nhân khiến chị có được sức
mạnh để có thể chịu đựng tất cả những khó khăn thử thách, từ những lam lũ vất vả trong cuộc mưu sinh,
những cay đắng giày vò của cuộc sống đói nghèo đến những đau đớn về tinh thần, thể xác trong bi kịch gia đình,… CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA NGUYỄN MINH CHÂU
- Lấy sức chịu đựng phi thường của mình cố gắng che chắn cho sự bình yên của gia đình, bảo vệ niềm tin
trong trẻo ngây thơ cho tâm hồn con trẻ, gánh đỡ cho chồng những nhọc nhằn cay đắng, lo cho các con có
cơm ăn áo mặc,… - dù tất cả những cố gắng ấy vẫn luôn thất bại ê chề trước sự khắc nghiệt của cuộc sống.
- Nhiều năm sau, mỗi khi nhìn lại bức ảnh về “chiếc thuyền ngoài xa”, Phùng luôn thấy “người đàn bà ấy
bước ra khỏi tấm ảnh, đó là người đàn bà vùng biển cao lớn với nhưng đường nét thô kệch,…Mụ bước
những bước chậm rãi, bàn chân dậm trên mặt đất chắc chắn, hòa lẫn vào đám đông”.
 Hình ảnh của những con người vô danh, khốn khổ trong cuộc sống lầm lụi đời thường, họ đã kiên cường
vượt lên trên tất cả những gian truân cay đắng của cuộc đời, không phải vì mình mà vì những người thân
yêu, những người làm nên ý nghĩa cuộc sống của họ, là lí do để họ sống và chịu đựng, cũng là cội nguồn sức mạnh của họ.
* Nhận xét nghệ thuật:
- Đặt nhân vật vào tình huống mà ở đó bộc lộ mọi mối quan hệ, khả năng ứng xử, thử thách phẩm chất, tính cách
- Nhân vật được khắc họa ấn tượng qua những chi tiết về ngoại hình, dáng vẻ, lời nói, hành động.
- Nghệ thuật trần thuật: Tạo ra điểm nhìn trần thuật sắc sảo, tăng cường khả năng khám phá đời sống, lời kể
trở nên khách quan, chân thật, giàu sức thuyết phục.
- Ngôn ngữ giản dị mà sâu sắc, thấm thía. * Đánh giá:
- Qua những nét khắc họa ấn tượng từ ngoại hình dáng vẻ đến cử chỉ, lời nói, hành động,… nhân vật người
đàn bà hàng chài đã trở thành một biểu tượng đầy ám ảnh, giúp nhà văn thể hiện tư tưởng nhân đạo sâu sắc.
Đó là niềm cảm thương và nỗi lo âu cho số phận những con người bất hạnh, khốn khổ trong cuộc sống đói
nghèo, tăm tối & niềm trân trọng, tin yêu với những phẩm chất tốt đẹp trong tâm hồn, tính cách những con
người nhân hậu, vị tha, sâu sắc và dũng cảm.
- Đồng thời, nhà văn cũng mang đến bài học về cách nhìn cuộc sống và con người: cách nhìn đa diện, đa
chiều và thấu hiểu để thấy được những “hạt ngọc ẩn giấu” bên trong mỗi con người, dẫu nó thường bị khuất
lấp bởi vẻ ngoài lam lũ, xù xì, góc cạnh. Truyện của Nguyễn Minh Châu, vì thế, chan chứa nỗi lo âu, sự cảm
thương và niềm tin yêu vào cái đẹp trong cuộc đời.
3. Một số nhân vật khác
a. Nhân vật người đàn ông
- Bề ngoài: Thô kệch, dữ dằn; hung hãn, vũ phu - Bản chất:
+ Hiền lành, cục tính nhưng không bao giờ đánh vợ con
+ Bế tắc, khốn khổ và cô đơn
 Bi kịch của những người lao động nghèo. b. Nhân vật thằng Phác
- Bề ngoài: Hành động trái với đạo lý – đánh cha
- Bản chất: Hiếu thảo, thương mẹ * Tiểu kết:
- Thể hiện một hiện thực ngổn ngang, đầy bi kịch của con người thời hậu chiến.
 Cái nhìn thấu hiểu, yêu thương, trĩu nặng nỗi lo âu đối với con người
 Cần nhìn cuộc đời đa chiều, cần nhìn con người trong mối quan hệ đa diện CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA NGUYỄN MINH CHÂU
4. Một số hình ảnh biểu tượng a. Màn sương hồng
Biểu tượng cho thứ nghệ thuật tô hồng, thi vị hóa cuộc sống, cách nhìn phiến diện một chiều chỉ quan tâm
tới biểu hiện bên ngoài mà không thấy cả những cái xù xì thô cằn nhức nhối bên trong. b. Chiếc xe tăng han gỉ
Những chiếc xe rà phá bom mìn đang cố gắng thu gọn những gì xót lại của cuộc chiến tranh có thể vô tình
gây thêm nỗi đau; có lẽ nhà văn muốn gợi ra những suy ngẫm: cuộc chiến đấu chống lại đói nghèo, tăm tối
và bạo lực có lẽ sẽ còn gian nan, lâu dài hơn cả cuộc chiến đấu chống ngoại xâm, và chừng nào chưa thoát
khỏi cuộc sống đói nghèo tăm tối, chừng đó con người còn phải sống chung với cái xấu cái ác. Chúng ta đã
đổ xương máu trong bao năm qua để giành độc lập tự do trong cuộc chiến đấu cho quyền sống của dân tộc;
nhưng chúng ta sẽ còn phải tiếp tục làm gì đây trong cuộc chiến đấu cho quyền sống của từng con người,
làm gì để đem đến cơm ăn áo mặc, ánh sáng văn hóa và hạnh phúc cho biết bao con người vẫn đang chìm
đắm trong kiếp sống đói nghèo, lam lũ và u tối?
c. Chi tiết chiếc máy ảnh của Phùng, chiếc bàn lớn của Đẩu – biểu tượng gửi gắm thông điệp:
- Chiếc máy ảnh – nghệ thuật, đang bay bổng với nghệ thuật thì Phùng nhìn thấy hiện thực cuộc sống, ngạc
nhiên, như một phản xạ, vất máy ảnh xuống bãi cát, chạy tới…
 Thông điệp: trước khi là một nghệ sĩ biết yêu cái đẹp, hãy là một con người biết vui buồn yêu ghét trước
những sự đời tình đời cảnh đời, “sống đã rồi hãy viết”, đừng vì nghệ thuật mà bỏ quên, xa cách cuộc đời bởi
nghệ thuật chân chính luôn là cuộc đời, vì cuộc đời, xuất phát và đi đến cuộc đời.
- Chiếc bàn lớn xếp phát ngốt những hồ sơ giấy má điều luật – biểu tượng cho bộ máy hành chính, lý thuyết;
được 3 lần nhắc đến:
+ Khi người đàn bà đến, Đẩu rời ghế đến gần hơn với người đàn bà
+ Bất bình tự ái khi người đàn bà từ chối lời khuyên thiện chí, Đẩu rời về chiếc bàn
+ Sau đó nghe xong câu chuyện thì lại rời bàn đi đi lại lại với những thức nhận giác ngộ: câu trả lời cho
những bi kịch cuộc sống ko phải lúc nào cũng tìm thấy bên những chiếc bàn lớn, trong những điều luật
bộ máy hành chính sự vụ, giải pháp cực đoan duy ý chí, chỉ có thể tìm thấy ở giữa cuộc đời, hãy đến
gần hơn với cuộc đời và những nỗi đau, tâm tư của những con người nghèo khổ. CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA NGUYỄN MINH CHÂU B. PHẦN LUYỆN ĐỀ
I. Dạng 1: Phân tích/ cảm nhận 1 đoạn văn (+ yêu cầu nâng cao)

1. Nhận diện dạng bài:
- Phân tích/ cảm nhận 1 đoạn văn
- Phân tích/ cảm nhận 1 đoạn văn, từ đó làm rõ một yêu cầu của đề bài 2. Kỹ năng làm bài a. Tìm hiểu đề
- Vấn đề cần nghị luận là gì?
- Thao tác NL cần sử dụng? - Phạm vi dẫn chứng? b. Lập dàn ý
* MB: trực tiếp/ gián tiếp: giới thiệu tác giả (vị trí, đặc điểm sáng tác), tác phẩm (vị trí, khái quát nội dung
tư tưởng chủ đề); giới thiệu đoạn văn. * Thân bài:
- Bước 1: khái quát chung:
+ Hoàn cảnh sáng tác, xuất xứ, chủ đề tác phẩm…
+ Vị trí, nội dung chính của đoạn trích ( phần đầu/ giữa/ cuối? vai trò ra sao trong dòng cốt truyện và kết cấu nghệ thuật? + (Tóm tắt phần trước)
- Bước 2: Phân tích nội dung đoạn trích
(Đoạn văn viết về cảnh tượng, tình huống nào? được gợi ra qua các chi tiết gì về thời gian không gian &
nhân vật ? Diễn biến sự việc được kể trong đoạn văn chú ý đến từ ngữ chi tiết nghệ thuật tiêu biểu;
Nhân vật được tái hiện qua những khía cạnh/ đặc điểm/ phẩm chất/ ngôn ngữ/ hành động/ tính cách/ tâm
trạng/ mối quan hệ với các nhân vật khác thế nào? Qua đó hoàn thiện bức chân dung nhân vật ra sao?)
- Bước 3: Nhận xét đặc sắc nghệ thuật
(Nghệ thuật trần thuật: điểm nhìn của ai? Tại sao? Ngôn ngữ trần thuật giản di mộc mạc hay tài hoa uyên
bác? Giọng điệu trần thuật thế nào?
Nghệ thuật xây dựng nhân vật: thông qua ngoại hiện hay nội tâm?
Lựa chọn, sáng tạo các chi tiết nghệ thuật: chi tiết nào được đặc tả kĩ, mang nghĩa biểu tượng? Các biện
pháp NT nào được sử dụng? Hiệu quả ra sao?)
- Bước 4: đánh giá chung:
+ Về nội dung (đoạn trích góp phần hoàn thiện tư tưởng chủ đề của tác phẩm như thế nào; thể hiện thái độ tư
tưởng của nhà văn trước vấn đề phản ánh ra sao? Toát lên giá trị hiện thực nhân đạo nào? Đem tới nhận thức
gì về cuộc đời, con người?)
+ Về nghệ thuật (đoạn trích góp phần thể hiện phong cách nghệ thuật hoặc thành công nghệ thuật nào của nhà văn?)
- Bước 5: Thực hiện yêu cầu nâng cao (nếu có)
* Kết bài: Khẳng định lại vấn đề NL
Lưu ý: Một số yêu cầu nâng cao thường hay xuất hiện trong yêu cầu của đề bài:
* Nhận xét tình huống nhận thức trong tác phẩm. CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA NGUYỄN MINH CHÂU - Khái niệm tình huống
- Trong tác phẩm, nhà văn đã xây dựng thành công “tình huống nhận thức”, gắn với quá trình nhận thức có
ý nghĩa khám phá, phát hiện về chân lí đời sống, chân lí nghệ thuật qua nhân vật tư tưởng- Phùng. Tình
huống được tạo dựng bởi những phát hiện đầy nghịch lý của nhân vật bên bờ biển và trong tòa án huyện.
- Đoạn trích đã thể hiện nội dung/ diễn biến gì của tình huống
- Ý nghĩa của tình huống
* Nhận xét về mối quan hệ giữa văn học và hiện thực đời sống
- “Văn học và đời sống là hai vòng tròn đồng tâm mà tâm điểm là con người. Mỗi tác phẩm văn học chỉ là
một lát cắt, một tờ biên bản của một chặng đời sống con người ta, trên con đường dài dằng dặc đi đến cõi
hoàn thiện”
(Nguyễn Minh Châu)
 Văn học phải bắt nguồn từ hiện thực cuộc sống, cuộc sống là nơi bắt đầu, cũng là đích hướng tới của văn
học. Tuy nhiên hiện thực cuộc sống được đưa vào tác phẩm văn chương không phải hiện thực được sao chép
một cách nguyên si, sống sượng mà đó là hiện thực đã được tái tạo, chiêm nghiệm, sáng tạo, kiến giải qua
lăng kính nhà văn, là “hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan”. Đối tượng trung tâm của văn học phản ánh là con người.
- Trong tác phẩm, từ sự đối lập “cái đẹp tuyệt đỉnh của ngoại cảnh” với hiện thực phũ phàng của cuộc sống,
nhà văn cho thấy không phải bao giờ cái đẹp cũng thống nhất với cái thiện, không phải bao giờ cái bên ngoài
cũng là sự thể hiện bản chất cái bên trong. Cuộc đời đa sự, con người đa đoan. Cuộc sống không đơn giản,
xuôi chiều mà luôn chứa đựng những nghịch lí, mâu thuẫn.
 Muốn hiểu đúng về bản chất cuộc sống con người, phải có cái nhìn đa chiều đa diện; thấu đáo, sâu sắc từ
nhiều góc độ, không thể nhận xét đánh giá giản đơn dễ dãi một chiều, căn cứ vào cái nhìn hời hợt, nông cạn,
cảm tính từ biểu hiện bên ngoài sự vật hiện tượng. Có như vậy, người nghệ sĩ và những tác phẩm văn học
chân chính mới có thể thực hiện được sứ mệnh cao quý của mình.
* Nhận xét cái nhìn/ tấm lòng của nhà văn dành cho con người:
- Bằng cảm hứng thế sự với những trăn trở về cuộc đời, nhân thế; nỗi quan hoài sâu sắc về thân phận con
người; Nguyễn Minh Châu quan sát, khám phá và miêu tả những con người của đời thường bình dị trong
cuộc hành trình mưu sinh nhọc nhằn để kiếm tìm hạnh phúc và hoàn thiện nhân cách.
- Với Nguyễn Minh Châu, con người không phải những khuôn mẫu phẳng dẹt, phi chiều sâu, đơn giản,
phiến diện mà con người là một thực thể phức tạp giữa những thăng trầm, biến động của cuộc sống đầy éo le,
nghịch lí. Để nhìn và hiểu con người, phải có cái nhìn sâu sắc, toàn diện, thấu hiểu, cảm thông.
- Cuộc sống con người thời hậu chiến còn nhiều khó khăn, éo le, ngịch lí; con người dường như vẫn thật bé
nhỏ, yếu đuối, đơn độc trước thiên nhiên bao la. Hành trình tìm kiếm bến bờ bình yên và hạnh phúc của con
người vẫn thật mong manh, xa vời. Sứ mệnh của người cầm bút chuyển từ cuộc chiến đấu cho quyền sống
của cả dân tộc sang cuộc chiến đấu cho quyền sống của từng con người.
- Với quan niệm nghệ thuật về con người: “Mỗi con người đều chứa đựng trong lòng những nét đẹp đẽ kỳ
diệu đến nỗi cả một đời người cũng chưa đủ để nhận thức khám phá tất cả những cái đó”.
 Hành trình sáng tác của Nguyễn Minh Châu như nhà văn nói là hành trình “cố đi tìm cái hạt ngọc ẩn
giấu trong bề sâu tâm hồn con người”.

+ Ở giai đoạn sáng tác đầu, “hạt ngọc” mà nhà văn khám phá, thể hiện chính là những biểu hiện của
phẩm chất anh hùng cách mạng. CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA NGUYỄN MINH CHÂU
+ Ở giai đoạn sáng tác về sau, “hạt ngọc” mà nhà văn tìm thấy lại có ở ngay trong chính cuộc sống hiện
thực, nó bị khuất lấp đằng sau vẻ xù xì, khô cằn, thô nhám của cuộc sống.
 Đó là cái nhìn mới mẻ, sâu sắc, đồng thời cũng cho thấy tấm lòng yêu thương, trân trọng của nhà văn
dành cho những con người bình dị, vô danh, cơ cực.
 Giá trị nhân văn, nhân đạo trong sáng tác của “người mở đường tinh anh và tài năng của văn học thời kì đổi mới”.
* Nhận xét về nội dung/ giá trị/ tinh thần nhân đạo:
- Nội dung nhân đạo: một trong những nội dung cơ bản, xuyên suốt của văn học. Những tác phẩm lớn
thường thể hiện sâu sắc giá trị này bởi mỗi người nghệ sĩ chân chính là người “nhân đạo từ trong cốt tủy” -
Sê-khốp) - Những người luôn dành mối quan hoài thường trực đến cuộc sống và con người, bởi lẽ “văn học là nhân học”.
- Giá trị nhân đạo là giá trị cơ bản của tác phẩm văn học chân chính, được tạo nên bởi niềm cảm thông sâu
sắc đối với nỗi khổ đau của con người, sự nâng niu, trân trọng những nét đẹp trong tâm hồn con người; đồng
thời tác phẩm cũng cũng lên án, tố cáo các thế lực tàn bạo đã chà đạp lên hạnh phúc, quyền sống và phẩm giá của con người.
- Biểu hiện của giá trị nhân đạo trong tác phẩm::
+ Thể hiện sự thấu hiểu, xót thương và lo âu cho số phận bất hạnh và tình trạng sống tăm tối của con người
 Nỗi xót xa cho những con người khốn khổ hiện ra ngay qua những đường nét miêu tả ngoại hình dáng vẻ
 Xót thương sâu sắc, lo âu với những ngư dân bị cầm tù trong cuộc sống nghèo khổ, tăm tối, bạo lực
+ Biết quí trọng những vẻ đẹp dẫu là khuất lấp trong tâm hồn, tình cảm những con người khốn khổ, bất
hạnh; Thể hiện niềm tin vào sức mạnh con người có thể vượt qua những khó khăn, thử thách, gian truân
để duy trì sự sống và tình yêu thương
VD: Người đàn bà hàng chài:
Cảm phục trước sự sâu sắc của người đàn từng trải
Trân trọng, ngợi ca tấm lòng nhân hậu bao dung của chị
Ca ngợi, cảm phục sức mạnh kiên cường của người phụ nữ
+ Thông qua những suy tư, đăc biệt là giác ngộ của Phùng, nhà văn đã gửi gắm những thông điệp sâu
sắc về tư tưởng nhân đạo
 Những trạng thái cảm xúc suy tư nhận thức của Đẩu và Phùng: đều là biểu hiện rõ nhất: nhạc
nhiên, phẫn nộ, giận dữ  hãy biết phẫn nộ trước cái xấu, cái ác.
 Chua xót trước những điều có thể và ko thể của cuộc sống con người, trước những nghịch lý mà
dù đau đớn con người vẫn phải chấp nhận
 Niềm yêu thương da diết với con người, nỗi quan hoài thường trực hướng tới con người. 3. Ví dụ minh hoạ
VD1: Phân tích đoạn trích sau:
“Lúc bấy giờ trời đầy mù từ ngoài biển bay vào. Lại lác đác mấy hạt mưa. Tôi rúc vào bên bánh xích của
một chiếc xe tăng để tránh mưa, đang lúi húi tha phim, lúc ngẩng lên thấy một chuyện hơi lạ : một chiếc
thuyền lưới vó mà tôi đoán là trong nhóm đánh cá ban nãy đang chèo thẳng vào trước mặt tôi.
CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA NGUYỄN MINH CHÂU
Có lẽ suốt một đời cầm máy ảnh chưa bao giờ tôi được thấy một cảnh “đắt” trời cho như vậy : trước mặt
tôi là một bức tranh mực tàu của một dan hoạ thời cổ. Mũi thuyền in một nét mơ hồ loè nhoè vào bầu sương
như sữa có pha đôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào. Vài bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im
phăng phắc như tượng trên chiếc mui khum khum, đang hướng mặt vào bờ. Tất cả khung cảnh ấy nhìn qua
những cái mắt lưới và tấm lưới nằm giữa hai chiếc gọng vó hiện ra dưới một hình thù y hệ cánh một con dơi,
toàn bộ khung cảnh từ đường nét đến ánh sáng đều hài hoà và đẹp, một vẻ đẹp thực đơn giản và toàn bích
khiến đứng trước nó tôi trở nên bối rối, trong trái tim như có cái gì bóp thắt vào. Chẳng biết ai đó lần đầu
đã phát hiện ra bản thân cái đẹp chính là đạo đức ? Trong giây phút bối rối, tôi tưởng chính mình vừa
khám phá thấy cái chân lí của sự toàn thiện, khám phá thấy cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn.
Chẳng phải lựa chọn xê dịch gì nữa, tôi gác máy lên bánh xích của chiếc xe tăng hỏng bấm “liên thanh”
một hồi hết một phần tư cuốn phim, thu vào chiếc Pra-ti-ca” cái khoảnh khác hạnh phúc trận ngập tâm hồn
mình, do cái đẹp tuyệt đỉnh của ngoại cảnh vừa mang lại. Tôi chắc mẩm ngay trong ngày hôm nay hoặc
sáng mai đã có thể nhảy lên tàu hoả trở về, nếu cái anh bạn đồng ngũ không có níu giữ ở chơi thêm vài bữa”.
Gợi ý phần thân bài:
* Bước 1: Khái quát chung: - Khái quát về tác phẩm
- Trong tác phẩm, Nguyễn Minh Châu đã xây dựng thành công tình huống truyện đặc sắc gắn với quá trình
nhận thức có ý nghĩa khám phá, phát hiện về chân lí đời sống, chân lí nghệ thuật qua nhân vật tư tưởng-
Phùng. Tình huống được tạo dựng bởi những phát hiện đầy nghịch lí của chính nhân vật bên bờ biển và trong tòa án huyện.
- Đoạn trích thuộc phần mở đầu của truyện ngắn, miêu tả phát hiện đầu tiên của Phùng về vẻ đẹp tuyệt đỉnh của ngoại cảnh.
* Bước 2: Cảm nhận đoạn văn:
- Để làm một bộ lịch phong cảnh, Phùng được giao nhiệm vụ đi chụp một tấm cảnh biển buổi sáng có sương,
một tấm ảnh không có con người. Phùng đã chọn một vùng biển miền Trung để tìm kiếm cảm hứng sáng tạo.
Nơi đây là vùng biển có phong cảnh đẹp thơ mộng, lại có sương mù tháng bẩy; cũng là chiến trường cũ
Phùng đã từng chiến đấu. Phải chăng với lựa chọn đó, Phùng muốn tìm lại chính mình, nhìn lại mảnh đất
anh đã từng gắn bó một thời máu lửa để mong thấy những đổi thay của nó; hay để tìm lại những người bạn
đã từng một thời vào sinh ra tử với mình. Thế nhưng, suốt một tuần kiên nhẫn, anh vẫn chưa chụp được bức ảnh nào ưng ý.
- Thật ra, chụp được một bức ảnh theo yêu cầu của trưởng phòng thì không khó. Thế nhưng, với Phùng,
nghệ thuật đích thực không phải chỉ để có hay phục vụ mục đích thương mại.
 Chi tiết cho thấy những phẩm chất đang quý trọng của một nghệ sĩ có trách nhiệm với sứ mệnh sáng tạo
nghệ thuật, có ý thức nghiêm túc trong lao động nghệ thuật – một công việc đòi hỏi tài năng, tâm huyết và công phu.
- Điều kì diệu bất chợt đến với Phùng vào một buổi sáng khi anh nhìn thấy một chiếc thuyền buồm trên mặt
biển xa: “mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe vào bầu sương mù trắng như sữa có pha chút màu hồng do
ánh mặt trời chiếu vào”,
từ đường nét cho đến ánh sáng đều đặc biệt ấn tượng. Trong cảm nhận của Phùng,
đó là “cái đẹp tuyệt đỉnh của ngoại cảnh”, “cảnh đắt trời cho” quý giá, hi hữu, kì diệu, là “bức tranh
mực tàu của một danh họa thời cổ”
– cái đẹp cổ điển, chuẩn mực tưởng chỉ có trong một thời quá vãng nay CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA NGUYỄN MINH CHÂU
bất ngờ hiện hữu ngay trước mắt, trong hiện tại; là một “vẻ đẹp đơn giản và toàn bích” – vẻ đẹp nguyên sơ,
thuần khiết, lí tưởng, thánh thiện.
 Cái đẹp đã đem đến những cảm xúc mãnh liệt, những khoảnh khắc ngập tràn hạnh phúc cho người nghệ
sĩ, anh thấy “bối rối, trong trái tim như có cái gì bóp thắt vào” – đó là sự xúc động vì thấy mình vừa may
mắn được tạo hóa ân thưởng – sự may mắn không có nhiều trong cuộc đời những người luôn khao khát
được khám phá, chiêm ngưỡng và sáng tạo cái Đẹp. Những xúc cảm này cho thấy tư chất nghệ sĩ của Phùng
– con người có tâm hồn nhạy cảm, những rung động tinh tế trước cái Đẹp.
 Trong giây phut thăng hoa cu a ca m xuc, thạm chi ngu i nghẹ si con nhu phat hiẹn
ra “ba n thân cai đe p chinh la đa o đ c”, anh nhu “kham pha thâ y chân li cu a s toan thiẹn, kham pha thâ y cai
khoa nh khă c trong ngâ n cu a tâm ho n”
– khoa nh khă c con ngu i thâ y tâm hô n minh nhu đu c thanh
lo c, gọt r a đe tr nen trong sang thanh thiẹn khi đ ng tru c cai đe p trong tre o cu a thien nhien. Đo cung chinh la s giac
ngọ, nhạn th c ve s c ma nh ki diẹu cu a cai đe p, cu a nghẹ thuạt đô i v i con ngu i “cai Đe p c u ro i the giới” (Dostoiepxki)
– khi đ ng tru c cai đe p, ngu i ta thu ng không nghi đe n cai xâ u, cai ac, cai dung tu c tâ m thu ng cu a cuọc đ i
ma đe tâm hô n minh bay bô ng hu ng thiẹn.
- Hanh đọng: “Chă ng pha i l a cho n xe di ch gi n a, toi gac may len banh xich cu a chie c xe tăng ho ng bâ m “lien
thanh” mọt ho i he t mọt phâ n tu cuo n phim, thu vao chie c Pra-ti-ca” cai khoa nh khac ha nh phuc trạn ngạp
tâm ho n minh, do cai đe p tuyẹt đi nh cu a ngoa i ca nh v a mang la i.”
 Phat hiẹn th nhâ t die n ra trong khoa ng khă c gạp g ki diẹu gi a mọt tâm hô n
nghẹ si say me tạn thiẹn, tạn mi v i b c tranh thien nhien toan bích khi chie c thuye n đu c nhin t ngoai xa qua lan su o ng
mu huye n a o – phat hiẹn đa giup Phung co đu c mọt tac phâ m nghẹ thuạt co gia tri thâ m mi ma mai mai ve sau, vâ n đu c
treo nhie u no i, nhâ t la trong cac gia đình sanh nghẹ thuạt.
* Bước 3: Nhận xét nghệ thuật:
- Xây dựng tình huống độc đáo, đặc sắc.
- Nghệ thuật trần thuật ấn tượng; ngôn ngữ: đời thường, mộc mạc, giản dị, nhưng đậm triết lý, suy tư.
- Giọng điệu: chiêm nghiệm, sâu lắng
- Xây dựng chi tiết, hình ảnh mang tính biểu tượng: chiếc thuyền ngoài xa
* Bước 4: Đánh giá:
- Nội dung: Đoạn trích đóng vai trò quan trọng trong việc thể hiện tư tưởng, chủ đề tác phẩm, đồng thời đưa
đến những thông điệp sâu sắc về vai trò, trách nhiệm của người nghệ sĩ cùng sứ mệnh của nghệ thuật chân chính.
- Nghệ thuật: Đoạn trích góp phần tạo nên thành công của tình huống truyện độc đáo và thể hiện phong cách
nghệ thuật của nhà văn Nguyễn Minh Châu – “người mở đường tinh anh và tài năng” của văn học thời kì đổi mới.
VD 2: Cảm nhận của em về đoạn trích sau:
“Những tấm ảnh tôi mang về, đã được chọn lấy một tấm. Trưởng phòng rất bằng lòng về tôi.
Không những trong bộ lịch năm ấy mà mãi mãi về sau, tấm ảnh chụp của tôi vẫn còn được treo ở nhiều nơi,
nhất là trong các gia đình sành nghệ thuật. Quái lạ, tuy là ảnh đen trắng nhưng mỗi lần ngắm kỹ, tôi vẫn
CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA NGUYỄN MINH CHÂU
thấy hiện lên màu hồng hồng của ánh sương mai lúc bấy giờ tôi nhìn thấy từ bãi xe tăng hỏng, và nếu nhìn
lâu hơn, bao giờ tôi cũng thấy người đàn bà ấy đang bước ra khỏi tấm ảnh, đó là một người đàn bà vùng
biển cao lớn với những đường nét thô kệch, tấm lưng áo bạc phết có miếng vá, nửa thân dưới ướt sũng,
khuôn mặt rỗ đã nhợt trắng vì kéo lưới suốt đêm. Mụ bước những bước chậm rãi, bàn chân dậm trên mặt
đất chắc chắn, hòa lẫn trong đám đông…”
(Trích Chiếc thuyền ngoài xa – Nguyễn Minh Châu, SGK Ngữ văn 12, tập 2, NXB Giáo dục, tr 77,78) Gợi ý phần thân bài
* Bước 1: Khái quát chung: - Khái quát về tác phẩm
- Tóm lược phần trước và khái quát về đoạn trích:
+ Để làm một bộ lịch phong cảnh, Phùng được giao nhiệm vụ đi chụp một tấm cảnh biển buổi sáng có
sương, một tấm ảnh không có con người. Phùng đã chọn một vùng biển miền Trung để tìm kiếm cảm
hứng sáng tạo. Vậy mà, suốt một tuần kiên nhẫn, anh vẫn chưa chụp được bức ảnh nào ưng ý. Điều kì
diệu bất chợt đến với Phùng vào một buổi sáng khi anh nhìn thấy một chiếc thuyền buồm trên mặt biển
xa. Trong cảm nhận của Phùng, đó là “cái đẹp tuyệt đỉnh của ngoại cảnh”, “cảnh đắt trời cho” quý
giá, hi hữu. Thế nhưng, ngay sau đó, sự thật trần trụi, tàn nhẫn của cuộc sống khiến người nghệ sĩ kinh
hoàng, sợ hãi và phẫn nộ khi chiếc thuyền ngoài xa tiến lại gần và Phùng phải chứng kiến bi kịch của
gia đình người hàng chài. Với thiện chí của mình, Phùng và Đẩu mời người đàn bà hàng chài tới để
khuyên chị ta bỏ chồng, nhưng chị ta từ chối, và câu chuyện của chị đã khiến Phùng và Đẩu thay đổi nhận thức.
+ Đoạn trích : phần kết truyện, không chỉ khép lại câu chuyện mà còn mở ra một hướng mới cho những
suy tư, trăn trở về số phận của con người; về trách nhiệm của người nghệ sĩ và sứ mệnh của nghệ thuật.
* Bước 2: Cảm nhận đoạn văn
- Phát hiện của Phùng bên bờ biển diễn ra trong khoảng khắc gặp gỡ kì diệu giữa một tâm hồn nghệ sĩ say
mê tận thiện, tận mĩ với bức tranh thiên nhiên toàn bích khi chiếc thuyền được nhìn từ ngoài xa qua làn
sương mù huyền ảo – phát hiện đã giúp Phùng có được một tác phẩm nghệ thuật có giá trị thẩm mĩ mà mãi
mãi về sau, vẫn được treo ở nhiều nơi, nhất là trong các gia đình sành nghệ thuật. Thành quả lao động nghệ
thuật đó không chỉ khiến “trưởng phòng rất bằng lòng” về Phùng, mà còn giúp anh được mọi người biết đến.
- Tuy nhiên, với Phùng, bức ảnh đó vẫn luôn khiến anh trăn trở và ám ảnh:
+ Ngắm kĩ, nhìn lâu Phùng luôn nhìn thấy: Tuy bức ảnh đen trắng nhưng Phùng vẫn thấy màu hồng
hồng của ánh sương mai – vẻ đẹp lãng mạn trên bãi biển sớm mai – những trải nghiệm của Phùng khi
được chiêm ngưỡng “cảnh đắt trời cho” quý giá, hi hữu, kì diệu.
+ Những nếu nhìn lâu hơn, bao giờ tôi cũng thấy người đàn bà ấy đang bước ra khỏi tấm ảnh, đó là một
người đàn bà vùng biển cao lớn với những đường nét thô kệch, tấm lưng áo bạc phết có miếng vá, nửa
thân dưới ướt sũng, khuôn mặt rỗ đã nhợt trắng vì kéo lưới suốt đêm – hiện thực với những nghịch lí, số
phận bất hạnh, cuộc sống lam lũ, nhọc nhằn, bi kịch và cả vẻ đẹp khuất lấp của con người. Cuộc sống
của những ngư dân trên biển không hề thơ mộng lãng mạn như những bức họa xưa này về hình ảnh
“thuyền ngư phủ lạc trong sương” mà vất vả lam lũ vì gánh nặng mưu sinh; bế tắc cùng quẫn vì hơn
chục con người chen chúc trên một chiếc thuyền chật chội bấp bênh trên mặt biển đầy sóng gió; tăm tối
nhục nhã vì tình trạng thất học, bạo lực nặng nề. Hình ảnh người đàn bà cùng câu chuyện của chị ta đã CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA NGUYỄN MINH CHÂU
trở thành kí ức đầy ám ảnh trong tâm trí Phùng khi nghĩ về vùng biển này, nó nhắc nhớ những điều
Phùng đã được chứng kiến, những xúc cảm nhân vật đã trải qua, những nhận thức đã thay đổi.
- Hình ảnh: “bàn chân chị giậm lên mặt đất chắc chắn, hòa lẫn trong đám đông”
 Hình ảnh của người đàn bà hàng chài chính là hình ảnh của những con người vô danh, khốn khổ trong
cuộc sống lầm lụi đời thường. Dẫu cuộc sống của họ còn nhiều éo le, nghịch lí và góc khuất, nhưng tác giả
vẫn luôn đặt niềm tin vào con người. Họ đã kiên cường vượt lên trên tất cả những gian truân cay đắng của
cuộc đời, không phải vì mình mà vì những người thân yêu, những người làm nên ý nghĩa cuộc sống của họ,
là lí do để họ sống và chịu đựng, cũng là cội nguồn sức mạnh của họ.  Nhận xét:
- Đoạn trích đã đưa đến thông điệp về cách nhìn cuộc sống & con người: Đừng chỉ nhìn cuộc đời từ xa qua
lớp màn sương màu hồng, để thi vị hóa, đơn giản hóa nó. Cuộc sống không đơn giản xuôi chiều mà luôn
chứa đựng những nghịch lí, mâu thuẫn. Muốn hiểu đúng về cuộc sống & con người, phải có cái nhìn đa
chiều đa diện; thấu đáo, sâu sắc từ nhiều góc độ, không thể nhận xét đánh giá giản đơn dễ dãi một chiều, căn
cứ vào cái nhìn hời hợt, nông cạn, cảm tính từ biểu hiện bên ngoài sự vật hiện tượng.
- Thông điệp về mối quan hệ giữa văn học và hiện thực; trách nhiệm của người nghệ sĩ chân chính:
+ Văn học phải bắt nguồn từ hiện thực cuộc sống, cuộc sống là nơi bắt đầu, cũng là đích hướng tới của
văn học; bởi lẽ “Văn học và đời sống là hai vòng tròn đồng tâm mà tâm điểm là con người”. Không thể
tách rời nghệ thuật với hiện thực cuộc sống con người; nghệ thuật đích thực luôn gắn bó khăng khít và
phản ánh chân thực cuộc sống con người, nghệ thuật phải vì cuộc đời, “vị nhân sinh”. Hành trình cầm
bút là hành trình “đi tìm cái hạt ngọc ẩn giấu trong bề sâu tâm hồn con người”, bởi lẽ : “Mỗi con
người đều chứa đựng trong lòng những nét đẹp đẽ kỳ diệu đến nỗi cả một đời người cũng chưa đủ để
nhận thức khám phá tất cả những cái đó”.
+ Người nghệ sĩ không chỉ cần những tư chất, phẩm chất đáng quí trong lao động nghệ thuật mà còn
phải có tấm lòng nhân ái, tình yêu thương sâu nặng với con người, biết trăn trở cho số phận con người,
có đủ sự sắc sảo, tinh tế để có thể nhìn ra những mảng khuất tối trong cuộc sống, có sự dũng cảm và bản
lĩnh trung thực để khám phá và phản ánh hiện thực của cuộc sống con người.
* Bước 3: Nhận xét nghệ thuật:
- Nghệ thuật trần thuật đặc sắc; điểm nhìn: từ nhân vật Phùng: vừa là nhân vật vừa là người kể chuyện (ngôi
thứ nhất) qua đó gửi gắm sự quan sát sự việc đồng thời bộc lộ sự thay đổi trong cảm xúc, nhận thức của bản than nhân vật.
- Ngôn ngữ: đời thường, mộc mạc, giản dị, nhưng đậm triết lý, suy tư
- Giọng điệu: chiêm nghiệm, suy tư sâu lắng;
- Kết truyện bằng chi tiết nghệ thuật đặc sắc, giàu sức gợi.
* Bước 4: Đánh giá:
- Nội dung: Đoạn trích tiêu biểu, kết tinh giá trị hiện thực và tư tưởng nhân đạo của nhà văn, đồng thời đưa
đến những thông điệp sâu sắc về cách nhìn cuộc sống, con người và vai trò, trách nhiệm của người nghệ sĩ
cùng sứ mệnh của nghệ thuật chân chính.
- Nghệ thuật: Đoạn trích góp phần tạo nên thành công của tình huống truyện độc đáo và góp phần thể hiện
phong cách nghệ thuật của nhà văn Nguyễn Minh Châu – “người mở đường tinh anh và tài năng” của văn học thời kì đổi mới.
II. DẠNG 2: Phân tích/ cảm nhận 1 đoạn văn (có định hướng nghị luận) (+ yêu cầu nâng cao)