



















Preview text:
Đề 1
THƠ TÌNH NGƯỜI LÍNH BIỂN Trần Đăng Khoa Anh ra khơi
Mây treo ngang trời những cánh buồm trắng
Phút chia tay, anh dạo trên bến cảng
Biển một bên và em một bên
Biển ồn ào, em lại dịu êm
Em vừa nói câu chi rồi mỉm cười lặng lẽ
Anh như con tàu lắng sóng từ hai phía
Biển một bên và em một bên
Ngày mai, ngày mai khi thành phố lên đèn
Tàu anh buông neo dưới chùm sao xa lắc
Thăm thẳm nước trời, nhưng anh không cô độc
Biển một bên và em một bên
Đất nước gian lao chưa bao giờ bình yên
Bão thổi chưa ngừng trong những vành tang trắng
Anh đứng gác. Trời khuya. Đảo vắng
Biển một bên và em một bên
Vòm trời kia có thể sẽ không em
Không biển nữa. Chỉ mình anh với cỏ
Cho dù thế thì anh vẫn nhớ
Biển một bên và em một bên. . Hải Phòng, 1981
Trần Đăng Khoa sinh năm 1958, quê ở tỉnh Hải Dương. Thế giới thơ ông chân thực, hồn nhiên,
có những bài chạm đến suy tư sâu sắc.
Nhà thơ Trần Đăng Khoa sáng tác bài Thơ tình người lính biển vào năm 1981, khi ông
đang là lính hải quân. Bài thơ đã được nhạc sĩ Hoàng Hiệp phổ nhạc thành bài hát Chút thơ tình người lính biển.
Đọc bài thơ trên và thực hiện các yêu cầu:
Câu 1. Xác định nhân vật trữ tình trong bài thơ.
Câu 2. Chỉ ra 01 biện pháp tu từ trong khổ thơ thứ hai.
Câu 3. Trong khổ thơ thứ ba có những hình ảnh nào được nhân vật trữ tình nhắc tới?
Câu 4. Nêu mạch cảm xúc của bài thơ?
Câu 5. Bạn hiểu như thế nào về hình ảnh “những vành tang trắng” trong câu thơ “Bão thổi
chưa ngừng trong những vành tang trắng”?
Câu 6. Bạn hãy nhận xét tình cảm của tác giả được thể hiện qua bài thơ?
Câu 7. Trong bài thơ, bạn ấn tượng nhất với câu thơ nào? Vì sao?
Câu 8. Nếu là cô gái trong bài thơ, bạn muốn nói điều gì với người yêu là lính biển trong cuộc chia tay lưu luyến này? ĐÁP ÁN Phần Câu Nội dung Điểm I ĐỌC HIỂU 10,0
Nhân vật trữ tình trong bài thơ: người lính biển/ nhân vật trữ tình “anh”.
1 Hướng dẫn chấm: 1,0
- Học sinh trả lời như đáp án: 1,0 điểm
- Học sinh trả lời không đúng như đáp án hoặc không trả lời: 0,0 điểm.
Trong khổ thơ thứ hai có sử dụng nhiều biện pháp tù từ: so
sánh, đối, điệp… HS cần: - Gọi tên 01 biện pháp.
- Chỉ rõ biểu hiện của biện pháp đó trong khổ thơ.
2 Hướng dẫn chấm: 1,0
- Học sinh trả lời như đáp án: 1,0 điểm
- Học sinh trả lời được một yêu cầu: 0,5 điểm
- Học sinh trả lời không đúng như đáp án hoặc không trả lời: 0,0 điểm. 3
Những hình ảnh được nhân vật trữ tình nhắc tới trong khổ 1,0
thơ thứ ba: thành phố lên đèn, tàu buông neo, chùm sao xa lắc,
nước trời thăm thẳm, anh, biển và em.
Hướng dẫn chấm:
- Học sinh trả lời như đáp án: 1,0 điểm
- Học sinh trả lời được 3 ý: 0,75
- Học sinh trả lời được 2 ý: 0,5 điểm
- Học sinh trả lời được 1 ý: 0,25 điểm
- Học sinh trả lời không đúng như đáp án hoặc không trả lời: 0,0 điểm.
Bài thơ diễn tả dòng cảm xúc từ lúc chia tay ở bến cảng cho
tới lúc người lính làm nhiệm vụ ở đảo xa; đồng thời, đan xen những
suy tư về cá nhân và đất nước. 4
Hướng dẫn chấm: - 1,0
Học sinh trả lời như đáp án: 1,0 điểm
- Học sinh trả lời 01 ý tương đương đáp án: 0,5 điểm
- Học sinh trả lời không đúng hoặc không trả lời: 0,0 điểm.
- HS diễn đạt tương đương vẫn cho điểm tuyệt đối.
HS nêu cách hiểu về hình ảnh “những vành tang trắng” trong
câu thơ “Bão thổi chưa ngừng trong những vành tang trắng”:
- Nghĩa thực: vành khăn trắng để tang những người đã mất vì thiên tai, bão tố.
- Nghĩa biểu tượng: những nỗi đau chung mà đất nước đã từng trải 5
qua không chỉ bởi thiên tai mà còn là biết bao mất mát bởi chiến 1,0
tranh. Nỗi đau ấy vẫn chưa nguôi ngoai trong lòng dân tộc…
Hướng dẫn chấm:
- Học sinh trả lời như đáp án: 1,0 điểm
- Học sinh trả lời được 1 ý: 0,5
- Học sinh trả lời không đúng như đáp án hoặc không trả lời: 0,0 điểm.
- HS diễn đạt tương đương vẫn cho điểm tuyệt đối. 6
HS đưa ra lời nhận xét của mình về tình cảm của tác giả được 2,0 thể hiện qua bài thơ:
- Tình cảm của tác giả:
+ Đồng cảm, sẻ chia với cảm xúc lưu luyến của người lính biển
trong phút chia tay người yêu.
+ Trân trọng, tự hào trước tâm hồn đẹp của người lính biển bởi ở họ
luôn có sự hài hòa giữa tình cảm cá nhân và trách nhiệm với Tổ quốc. - Nhận xét:
+ Đây là tình cảm chân thành, thể hiện trái tim sâu sắc, tinh tế của
nhà thơ gửi tới những người đồng đội của mình.
+ Tình cảm của tác giả cũng là tiếng lòng chung của biết bao người
Việt Nam yêu nước đối với những người lính biển.
Hướng dẫn chấm:
- Học sinh trả lời đúng như đáp án hoặc ý tương đương: 2,0 điểm
- Học sinh trả lời đúng được 01 ý trong đáp án hoặc 1 ý tương đương: 1,0 điểm.
- Học sinh trả lời có nội dung phù hợp, đảm bảo hai yêu cầu trên
nhưng diễn đạt chưa tốt: 1,5 điểm
- Học sinh trả lời không thuyết phục hoặc không trả lời: 0,0 điểm HS cần trình bày được:
- Nêu được câu thơ mà mình ấn tượng nhất.
- Lí giải lí do ấn tượng của bản thân.
- Khẳng định vai trò của câu thơ trong việc thể hiện chủ đề tư tưởng của tác phẩm. 7
Hướng dẫn chấm: 2,0
- Học sinh trả lời như đáp án và lý giải thuyết phục: 2,0 điểm
- Học sinh nêu được tình cảm của bản thân nhưng lý giải chưa rõ ràng: 1,5 điểm
- Học sinh nêu được ấn tượng nhưng chưa lý giải: 1,0 điểm
- Học sinh trả lời không hợp lí hoặc không trả lời: 0,0 điểm.
Học sinh có thể trả lời theo nhiều cách xử lí của bản thân trước tình
huống đặt ra, miễn sao có sức thuyết phục. Sau đây là gợi ý:
- Thể hiện sự lưu luyến, nhớ thương và niềm tự hào khi có người 1,0 yêu là lính biển. 8
- Khẳng định sẽ thường xuyên viết thư, nhắn tin, gọi điện…
- Động viên người yêu yên tâm công tác.
Hướng dẫn chấm:
- GV linh hoạt và tôn trọng các cách xử lí khác với gợi ý trong
đáp án. Các cách xử lí khá thuyết phục đều đạt: 1,0 điểm
- Học sinh trả lời không đúng hoặc không trả lời: 0,0 điểm. Đề 2 VƯỜN XƯA - Tế Hanh (1) -
Mảnh vườn xưa cây mỗi ngày mỗi
Một ngày xuân em trở lại nhà, xanh,
Nghe mẹ nói anh có về, anh hái ổi.
Bà mẹ già tóc mỗi ngày mỗi bạc.
Em nhìn lên vòm cây gió thổi,
Hai ta ở hai đầu công tác,
Lá như môi thầm thĩ gọi anh về.
Có bao giờ cùng trở lại vườn xưa?
Lần sau anh trở lại một ngày hè,
Hai ta như ngày nắng tránh ngày mưa, Nghe mẹ nói em có về, bên giếng
Như mặt trăng mặt trời cách trở, giặt.
Như sao Hôm sao Mai(2) không cùng ở, Anh nhìn giếng, giếng sâu trong vắt,
Có bao giờ cùng trở lại vườn xưa?
Nước như gương soi lẻ bóng hình anh…
Hai ta như sen mùa hạ, cúc mùa thu,
Như tháng mười hồng, tháng năm
Mảnh vườn xưa cây mỗi ngày mỗi nhãn; xanh,
Em theo chim em đi về tháng tám,
Bà mẹ già tóc mỗi ngày mỗi bạc.
Anh theo chim cùng với tháng ba qua.
Hai ta ở hai đầu công tác,
Có bao giờ cùng trở lại vườn xưa… --1957--
(Trích Thơ Quê hương và những lời bình – NXB ĐHQG
Hà Nội, 2007, tr 298 – 299)
(1) Tế Hanh: (1921- 2009), tên khai sinh là Trần Tế Hanh. Quê quán: xã Bình Dương, huyện
Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi. Ông có mặt trong phong trào thơ Mới ở chặng cuối với những bài
thơ mang nỗi buồn và tình yêu quê hương. Sau năm 1945, ông vẫn luôn tiếp tục bền bỉ sáng tác
nhằm phục vụ cách mạng và kháng chiến. Thơ ông chân thực với cách diễn đạt bằng ngôn ngữ
giản dị, tự nhiên và rất giàu hình ảnh, bình dị mà tha thiết. Bài thơ Vườn xưa được viết năm
1957 khi đất nước đang bị chia cắt, tiêu biểu cho hồn thơ Tế Hanh.
(2) Sao Hôm, sao Mai: là những tên gọi của sao Kim ở các thời điểm khác nhau. Mọc sớm từ
buổi chiều gọi là sao Hôm, đến sáng hôm sau lại hiện ra trên bầu trời gọi là sao Mai. Trong bài
thơ này, hình ảnh sao Hôm, sao Mai gợi sự cách trở của lứa đôi.
Đọc bài thơ trên và thực hiện các yêu cầu:
Câu 1. Xác định thể thơ của bài thơ trên.
Câu 2. Hình ảnh nào là trung tâm của bài thơ?
Câu 3. Gọi tên những mùa được nhắc đến trong bài thơ.
Câu 4. Anh/chị hiểu như thế nào về hai câu thơ sau:
Mảnh vườn xưa cây mỗi ngày mỗi xanh
Bà mẹ già tóc mỗi ngày mỗi bạc?
Câu 5. Người mẹ có vai trò gì đối với tình cảm của “anh” và “em” trong bài thơ?
Câu 6. Đánh giá vẻ đẹp hai câu thơ:Anhnhìngiếng,giếngsâutrongvắt,
Nước như gương soi lẻ bóng hình anh…
Câu 7. Hãy chỉ ra điểm riêng khi viết về hình ảnh khu vườn của Tế Hanh trong bài Vườn xưa và
Lưu Quang Vũ trong đoạn thơ sau:
Mảnh vườn em vẫn là mảnh vườn xanh
Nơi ban đầu lòng ta ươm tổ mật
Nơi ta hái những chùm thơ thứ nhất
Nơi thu sang mây trắng vẫn bay về (Vườn trong phố)
Câu 8. Theo bạn, tác giả muốn gửi gắm thông điệp gì qua bài thơ? ĐÁP ÁN ĐỀ 2 Phần Câu Nội dung Điểm I ĐỌC HIỂU 10,0
Thể thơ của bài thơ trên: thơ tự do.
Hướng dẫn chấm:
1 - Học sinh trả lời như đáp án: 1,0 điểm 1,0
- Học sinh trả lời không đúng như đáp án hoặc không
trả lời: 0,0 điểm.
Hình ảnh trung tâm của bài thơ: vườn xưa
Hướng dẫn chấm:
2 - Học sinh trả lời như đáp án: 1,0 điểm 1,0
- Học sinh trả lời không đúng như đáp án hoặc không
trả lời: 0,0 điểm. 3
Những mùa được nhắc đến trong bài thơ: mùa 1,0 xuân, mùa hạ, mùa thu
Hướng dẫn chấm:
- Học sinh trả lời như đáp án: 1,0 điểm
- Học sinh trả lời được 2 mùa: 0,75 điểm
- Học sinh trả lời được mỗi mùa: 0,25 điểm
- Học sinh trả lời không đúng như đáp án hoặc không trả lời: 0,0 điểm.
HS nêu cách hiểu về hai câu thơ:
Mảnh vườn xưa cây mỗi ngày mỗi xanh
Bà mẹ già tóc mỗi ngày mỗi bạc? Có thể theo hướng:
- Hai câu thơ bộc lộ sức mạnh của thời gian. Chính
thời gian đã làm cho cây cối ngày mỗi xanh thêm, tốt
tươi. Cũng chính thời gian đã làm tóc bà mẹ mỗi ngày
mỗi bạc thêm, già nua thêm… 4
- Qua đó, nhân vật trữ tình bộc lộ nỗi niềm bâng 1,0
khuâng, xao xuyến về sự thay đổi của thiên nhiên, đặc
biệt là xót xa đến chạnh lòng về hình ảnh người mẹ già
tóc mỗi ngày mỗi bạc…
Hướng dẫn chấm:
- Học sinh trả lời như đáp án: 1,0 điểm
- Học sinh trả lời 01 ý tương đương đáp án: 0,5 điểm
- Học sinh trả lời không đúng hoặc không trả lời: 0,0 điểm.
- HS diễn đạt tương đương nhưng hợp lí vẫn cho điểm tuyệt đối. 5
HS trình bày về vai trò của người mẹ đối với tình cảm 1,0
của “anh” và “em” trong bài thơ. Có thể theo hướng:
- Bà mẹ trong bài thơ là một người hiền từ, nhân hậu.
- Bà cũng chính là người làm chứng cho cuộc
tình của lứa đôi này, một cuộc tình thủy chung, tuy đẹp mà buồn.
- Bà mẹ già như một ngọn lửa nhỏ, dù nhen
nhóm nhưng ít nhiều làm ấm lại lòng của cô gái,
của chàng trai và làm nồng ấm cả bài thơ.
Hướng dẫn chấm:
- Học sinh trả lời như đáp án: 1,0 điểm
- Học sinh trả lời được 1 ý: 0,5
- Học sinh trả lời không đúng như đáp án hoặc không
trả lời: 0,0 điểm.
* Lưu ý: HS diễn đạt tương đương nhưng hợp lí vẫn
cho điểm tuyệt đối.
HS đánh giá vẻ đẹp hai câu thơ:Anhnhìngiếng,
giếng sâu trong vắt, Nước như gương soi lẻ bóng hình anh…
HS cần đánh giá được vẻ đẹp nội dung và nghệ thuật
của hai câu thơ. Có thể theo hướng:
- Nội dung: hai câu thơ bộc lộ nỗi niềm của nhân vật trữ
tình “anh” về một tình yêu chân thành, đằm thắm. Qua
đó, cho thấy nỗi buồn nhớ, khao khát được gặp lại
người thương của chàng trai. 6
- Nghệ thuật: hai câu thơ có sử dụng yếu tố điệp, so 2,0
sánh, nhịp điệu linh hoạt… góp phần khắc sâu tâm
trạng của chàng trai khi phải đối diện với bóng mình
đơn lẻ dưới giếng, cùng niềm đau đáu về khát khao gặp
gỡ lại người thương…
- Học sinh trả lời đúng như đáp án hoặc ý tương đương: 2,0 điểm
- Học sinh trả lời đúng được 01 ý trong đáp án hoặc 1
ý tương đương: 1,0 điểm.
- Học sinh trả lời có nội dung phù hợp nhưng diễn đạt
chưa tốt: 1,5 điểm
- Học sinh trả lời không thuyết phục hoặc không trả lời: 0,0 điểm 7
Điểm riêng khi viết về hình ảnh vườn của Tế Hanh 2,0
trong bài Vườn xưa và Lưu Quang Vũ:
- Vườn trong thơ Tế Hanh là mảnh vườn của nghĩa tình
sâu nặng với mẹ, với vợ, với những kỷ niệm thiêng
liêng mà lứa đôi đều thầm giữ vẹn trong lòng .
- Vườn trong thơ Lưu Quang Vũ lại là một góc nhìn
khác, gắn với tình yêu lứa đôi, niềm tin và hy vọng.
- Lý giải về sự khác biệt trên.
Hướng dẫn chấm:
- Học sinh trả lời như đáp án và lý giải thuyết phục: 2,0 điểm
- Học sinh đưa ra được nét riêng nhưng lý giải chưa
rõ ràng, thuyết phục: 1,5 điểm
- Học sinh đưa ra được nét riêng nhưng chưa lý giải: 1,25 điểm
- Học sinh chỉ lý giải mà không nêu được sự khác biệt: 0.75 điểm
- Học sinh trả lời không hợp lí hoặc không trả lời: 0,0 điểm.
Học sinh chỉ ra thông điệp ý nghĩa qua bài thơ.
Lưu ý: thông điệp phải xuất phát từ giá trị nội dung tư tưởng của bài thơ. 1,0
Hướng dẫn chấm: 8
- Học sinh trả lời đảm bảo các yêu cầu trên: 1,0 điểm
- Học sinh rút ra thông điệp nhưng không nêu được
nội dung của bài thơ, hoặc ngược lại: 0,5 điểm
- Học sinh trả lời không đúng hoặc không trả lời: 0,0 điểm.
Đề 3. [1] Khi viết những dòng này, tôi đã thức tỉnh trong vài người quen những cảm xúc mà
thời gian đã xóa nhòa, và tôi đã xâm phạm đến cõi yên tĩnh nấm mồ của chính cha tôi. Tôi buộc
lòng làm vậy, và xin người đọc nể nang những tình cảm đã thúc đẩy tôi viết mà lượng thứ cho
ngòi bút kém cỏi của tôi. Tình cảm này, tôi xin nói trước, là sự bênh vực của tôi đối với cha
mình. Cha tôi tên là Thuấn, con trưởng họ Nguyễn. Trong làng, họ Nguyễn là họ lớn, số lượng
trai đinh có lẽ chỉ thua họ Vũ. Ông nội tôi trước kia học Nho, sau về dạy học. Ông nội tôi có
hai vợ. Bà cả sinh được cha tôi ít ngày thì mất, vì vậy ông tôi phải tục huyền. Bà hai làm nghề
nhuộm vải, tôi không tường mặt, chỉ nghe nói là một người đàn bà cay nghiệt vô cùng. Sống với
dì ghẻ, cha tôi trong tuổi niên thiếu đã phải chịu đựng nhiều điều cay đắng. Năm mười hai tuổi,
cha tôi trốn nhà ra đi. Ông vào bộ đội, ít khi về nhà.
Khoảng năm… cha tôi về làng lấy vợ. Chắc chắn cuộc hôn nhân này không do tình yêu.
Mười ngày nghỉ phép bề bộn công việc. Tình yêu đòi hỏi điều kiện, trong đó thời gian cũng cần.
Khi lớn lên, tôi chẳng biết gì về cha mình cả. Tôi chắc mẹ tôi hiểu về cha tôi cũng ít. Cả
đời cha tôi gắn với súng đạn, chiến tranh.
Tôi đi làm, lấy vợ, sinh con. Mẹ tôi già đi. Cha tôi vẫn đi biền biệt. Thỉnh thoảng cha tôi
cũng ghé về nhà, nhưng những lần về đều ngắn. Cả những bức thư cha tôi gửi về cũng ngắn,
dầu rằng dưới những dòng chữ, tôi biết ở đấy ẩn chứa nhiều tình thương cùng với âu lo.
Tôi là con một, tôi đã chịu ơn cha tôi về đủ mọi mặt. Tôi được học hành, được du ngoại.
Cả những cơ sở vật chất gia đình cũng do cha tôi lo liệu. Ngôi nhà tôi ở ven nội, xây dựng
trước khi cha tôi về hưu tám năm. Đấy là một biệt thự đẹp nhưng khá bất tiện, tôi đã xây cất
dựa theo thiết kế của một chuyên gia kiến trúc trứ danh, bạn của cha tôi, ông này đại tá, chỉ
thạo việc xây doanh trại.
Năm bảy mươi tuổi, cha tôi về hưu với hàm thiếu tướng.
Mặc dầu biết trước, tôi vẫn ngỡ ngàng khi cha tôi về. Mẹ tôi đã lẫn (bà hơn cha tôi sáu
tuổi), vì vậy thực ra ở nhà chỉ có mình tôi có những tình cảm đặc biệt với sự kiện này. Mấy đứa
con tôi còn bé. Vợ tôi biết ít về ông, vì hai chúng tôi lấy nhau khi mà cha tôi đang bặt tin tức.
Bấy giờ đang có chiến tranh. Tuy thế, ở trong gia đình, cha tôi bao giờ cũng là hình ảnh của
niềm vinh dự, tự hào. Cả ở trong họ, trong làng, tên tuổi cha tôi cũng được mọi người ngưỡng
vọng. Chatôivềnhà,đồđạc đơnsơ.Chatôikhỏe.Ôngbảo:“Việclớntrongđờichalàmxong
rồi!” Tôi bảo: “Vâng”. Cha tôi cười. Tâm trạng xúc động lây sang cả nhà, mọi người chuếnh
choáng đến nửa tháng trời, sinh hoạt tùy tiện, có hôm mười hai giờ đêm mới ăn cơm chiều.
Khách khứa đến chơi nườm nượp. Vợ tôi bảo: “Không để thế được”. Tôi cho mổ lợn, đi mời họ
hàng làng nước đến để chia vui. Làng tôi tuy gần thành phố nhưng mà tập tục nông thôn còn
giữ. Đúng một tháng sau, tôi mới có dịp ngồi với cha tôi bàn chuyện gia đình[…].
[2] Cha tôi bảo: “Nghỉ rồi, cha làm gì?” Tôi bảo: “Viết hồi ký”. Cha tôi bảo:
“Không!”. Vợ tôi bảo: “Cha nuôi vẹt xem”. Trên phố dạo này nhiều người nuôi chim hoạ mi,
chim vẹt. Cha tôi bảo: “Kiếm tiền à?” Vợ tôi không trả lời. Cha tôi bảo: “Để xem đã!” Cha tôi
cho mỗi người trong nhà bốn mét vải lính. Ông Cơ và cả cô Lài (ông Cơ và cô Lài là hai bố
con được Thủy cho ở trong nhà như người giúp việc) cũng thế. Tôi cười: “Cha bình quân!”
Cha tôi bảo: “Đấy là lẽ sống”. Vợ tôi bảo: “Cả nhà đồng phục thì thành doanh trại”. Mọi người cười ồ.
Cha tôi muốn ở một phòng dưới dãy nhà ngang giống như mẹ tôi. Vợ tôi không chịu. Cha
tôi buồn. Việc để mẹ tôi ăn riêng, ở riêng làm ông bứt rứt. Vợ tôi bảo: “Tại mẹ lẫn”. Cha tôi
đăm chiêu. Tôi cũng không hiểu sao hai đứa con gái của tôi ít gần ông nội. Tôi cho chúng học
ngoại ngữ, học nhạc. Chúng lúc nào cũng bận. Cha tôi bảo: “Các cháu có sách gì mang cho
ông đọc”. Cái Mi cười. Còn cái Vi bảo: “Ông thích đọc gì?” Cha tôi bảo: “Cái gì dễ đọc”.
Hai đứa bảo: “Thế thì không có”. Tôi đặt báo hàng ngày cho ông. Cha tôi không thích văn học.
Văn chương nghệ thuật bây giờ đọc rất khó vào.
Một hôm tôi đi làm về, cha tôi đứng ở dãy nhà vợ tôi nuôi chó và gà công nghiệp. Trông
ông không vui. Tôi hỏi: “Có chuyện gì thế?” Ông bảo: “ông Cơ và cô Lài vất vả quá. Họ làm
không hết việc, cha muốn giúp họ được không?” Tôi bảo: “Để con hỏi Thủy”. Vợ tôi bảo:
“Cha là tướng, về hưu cha vẫn là tướng. Cha là chỉ huy. Cha mà làm lính thì dễ loạn cờ”. Cha
tôi không nói năng gì. Cha tôi nghỉ hưu nhưng khách khứa nhiều. Điều đó làm tôi ngạc nhiên,
thậm chí thích thú. Vợ tôi bảo: “Đừng mừng… họ chỉ nhờ vả. Cha ạ, cha đừng làm gì quá
sức”. Cha tôi cười: “Chẳng có gì đâu… cha chỉ viết thư. Thí dụ: “Thân gửi N. tư lệnh quân
khu… Tôi viết thư này cho cậu… Hơn năm mươi năm, đây là lần đầu tôi ăn tết mồng ba tháng
ba dưới mái nhà mình. Hồi ở chiến trường, hai đứa chúng mình đã từng mơ ước v. v… Cậu nhớ
cái xóm ven đường, cô Huệ đã làm bánh trôi bằng bột mì mốc. Bột mì bê bết trên lưng v.v…
Nhân đây M. là người tôi quen, muốn được công tác dưới quyền của cậ u v.v… “. Cha viết như
thế được không?”. Tôi bảo: “Được”. Vợ tôi bảo: “Không được!”. Cha tôi gãi cằm: “Người ta nhờ mình”. […].
(Nguyễn Huy Thiệp(1), Tướng về hưu(2), https:/ vanvn.vn) Chú giải:
(1) Nguyễn Huy Thiệp (1950-2021), quê quán Thanh Trì, Hà Nội. Ông xuất hiện khá
muộn trên văn đàn Việt Nam với vài truyện ngắn đăng trên báo Văn nghệ năm 1986. Tác phẩm
của Nguyễn Huy Thiệp in dấu ấn khá đậm nét về nông thôn và những người lao động. Sở
trường của ông là truyện ngắn mảng đề tài đa dạng gồm lịch sử và văn học, hơi hướng huyền
thoại và cổ tích, xã hội Việt Nam đương đại, xã hội làng quê và những người lao động.
(2) Tướng về hưu lần đầu được in trên tuần báo Văn Nghệ số 20 /6/1987 của Hội Nhà văn
Việt Nam. Nó lập tức trở thành một hiện tượng văn học và được Nhà xuất bản Trẻ tuyển chọn
in trong tập truyện ngắn với tựa đề Tướng về hưu. Tuy mới xuất hiện nhưng Tướng về hưu được
xem như một truyện ngắn đỉnh cao trong sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp.
Đọc văn bản trên và thực hiện các yêu cầu:
Câu 1. Xác định người kể chuyện trong văn bản trên?
Câu 2. Đề tài của văn bản là gì?
Câu 3. Những biểu hiện nào trong phần [2] cho thấy nhân vật “cha tôi” lạc loài ngay trong chính gia đình mình?
Câu 4. Nêu nội dung chính của văn bản?
Câu 5. Nhận xét về ngôn ngữ kể chuyện của Nguyễn Huy Thiệp qua văn bản trên?
Câu 6. Văn bản đem đến cho bạn cảm nhận như thế nào về nhân vật “cha tôi”?
Câu 7. Nếu là con trai của ông Thuấn trong câu chuyện, bạn sẽ làm gì khi bố được về hưu?
Câu 8. Văn bản thể hiện giá trị nhân sinh nào? Bạn có đồng tình với quan điểm đó không? ĐÁP ÁN ĐỀ 4 Phần Câu Nội dung Điểm I ĐỌC HIỂU 10,0
Người kể chuyện trong văn bản trên là: người kể chuyện hạn tri/ nhân vật “tôi”. 1
Hướng dẫn chấm: 1,0
- Học sinh trả lời như đáp án: 1,0 điểm
- Học sinh trả lời không đúng như đáp án hoặc không trả lời: 0,0 điểm.
Đề tài chính của văn bản: người lính thời hậu chiến (sau năm 1975)
Hướng dẫn chấm: 2
- Học sinh trả lời như đáp án: 1,0 điểm 1,0
- Học sinh trả lời không đúng như đáp án hoặc không trả lời: 0,0 điểm.
Những biểu hiện trong phần [2] cho thấy nhân vật “cha tôi”
lạc loài ngay trong chính gia đình mình:
- Điều mà ông cho là lẽ sống bị con cái xem là “bình quân” -
cào bằng, không phù hợp.
- Bị con dâu ngăn cản việc ông muốn ở một phòng dưới dãy
nhà ngang giống như vợ (bà bị lẫn nặng).
- Không tìm được tiếng nói chung với các cháu nội.
- Dù người con dâu nói “về hưu cha vẫn là tướng”, nhưng ông 3
vẫn bị nhạt nhòa, thụ động, có phần lệ thuộc trước quyền năng 1,0 của cô con dâu.
Hướng dẫn chấm:
- Học sinh trả lời như đáp án: 1,0 điểm
- Học sinh trả lời được mỗi ý: 0,25 điểm
- Học sinh chép lại y nguyên các câu văn trong văn bản: 0,5 điểm
- Học sinh trả lời không đúng như đáp án hoặc không trả lời: 0,0 điểm. 4
Nội dung chính: Văn bản nói về sự cô độc trong cuộc sống của 1,0
tướng Thuấn sau khi về hư, khi mà những giá trị chuẩn mực
đạo lí đã thay đổi theo sức mạnh của nền kinh tế thị trường. Hướng dẫn chấm:
- Học sinh trả lời như đáp án: 1,0 điểm
- Học sinh trả lời theo ý tương đương đáp án: 0,5 điểm
- Học sinh trả lời không đúng như đáp án hoặc không trả lời: 0,0 điểm.
Học sinh trình bày nhận xét về ngôn ngữ kể chuyện của
Nguyễn Huy Thiệp. Có thể theo hướng:
- Câu chữ gãy gọn, súc tích.
- Đa phần là câu đơn, gọn, chắc.
- Ít sử dụng đối thoại. .
-> Các yếu tố đó góp phần khắc sâu bi kịch lạc loài của nhân 5 vật chính. 1,0
Hướng dẫn chấm:
- Học sinh trả lời như đáp án hoặc ý tương đương phù hợp: 1,0 điểm
- Học sinh trả lời được 1 ý: 0,5 điểm
- Học sinh trả lời không đúng như đáp án hoặc không trả lời: 0,0 điểm. 6
Học sinh nêu cảm nhận về nhân vật “cha tôi” qua văn bản. 2,0
Cần đảm bảo các yêu cầu: - Trước khi về hưu:
+ Ông Thuấn từng là một người lính, một vị chỉ huy mẫu mực,
một tấm gương sáng trong mắt mọi người.
+ Từ rèn luyện quân đội, ông có một lối sống trong sạch, ngay thẳng, không vụ lợi. - Sau khi về hưu:
+ Ông không thể hòa hợp được với cái lạ lùng, cái lạnh lùng
của lối sống thực dụng.
+ Ông dần trở nên lạc lõng, cô đơn giữa gia đình mình.
- Nguyên nhân: ở ông Thuấn có sự mâu thuẫn giữa lí tưởng
cao đẹp một thời với sự thật trần trụi của một thời đại mới.
Ông trở nên hoang mang, bơ vơ giữa một cái thế giới mới rối rắm, xấu xí, méo mó.
- Bộc lộ thái độ, tình cảm và đánh giá chung của bản thân đối
với nhân vật. Có thể là: trân trọng, cảm thông, xót xa và chia
sẻ với nhân vật - một con người đáng trọng nhưng cũng là một con người bi kịch.
Hướng dẫn chấm:
- Học sinh trả lời đúng như đáp án hoặc ý tương đương: 2,0 điểm
- Học sinh trả lời có nội dung phù hợp nhưng diễn đạt chưa tốt: 1,5 điểm
- Học sinh trả lời đúng được 01 ý trong đáp án hoặc 1 ý tương đương: 0,5 điểm.
- Học sinh trả lời không đúng hoặc không trả lời: 0,0 điểm
Đây là câu hỏi mở, học sinh căn cứ vào nội dung văn bản, tính
chất vấn đề để bộc lộ cách làm của mình, có lí giải hợp lí.
Dưới đây là một vài gợi ý:
- Giống như nhân vật “tôi” đã làm trong truyện: vẫn để vợ
quyết định mọi thứ trong nhà, kể cả việc sắp xếp cuộc sống cho bố mình.
- Làm khác nhân vật “tôi”:
+ Sắp xếp lại cuộc sống gia đình, tạo không gian thoải mái cho bố khi về nghỉ hưu.
+ Dành nhiều thời gian trò chuyện cùng bố. 7
+ Mạnh mẽ, quyết đoán việc trong nhà, không phụ thuộc vào 2,0
vợ; tôn trọng những quyết định của bố.
Hướng dẫn chấm:
- Học sinh trả lời như đáp án và lý giải thuyết phục: 2,0 điểm.
- Học sinh nêu được điều bản thân muốn nói nhưng lý giải
chưa rõ ràng: 1,5 điểm.
- Học sinh nêu được điều bản thân muốn nói nhưng chưa lý giải: 1,0 điểm.
- Học sinh trả lời không đúng như đáp án hoặc không trả lời: 0,0 điểm. 8
- Văn bản thể hiện những giá trị nhân sinh: 1,0
+ Mặt trái của nền kinh tế thị trường làm tha hóa một tầng lớp
xã hội cuốn theo đồng tiền, làm băng hoại những giá trị chuẩn
mực. Từ đó, dấy lên hồi chuông cảnh tỉnh sâu sắc.
+ Giữa những thật giả, trắng đen của lòng người, vẫn sáng
ngời một nhân cách cao đẹp luôn sống trọn đời mình vì lí
tưởng với đất nước, nhân dân. Đó là cái đẹp, cái thiện luôn tồn tại ở mọi thời. .
- Học sinh đưa ra quan điểm của mình, đồng tình hay không đồng tình và lí giải.
Hướng dẫn chấm:
- Học sinh trả lời đảm bảo 2 ý: 1,0 điểm
- Học sinh trả lời được 1 ý: 0,5 điểm
- Học sinh trả lời không đúng hoặc không trả lời: 0,0 điểm.
Đề 4 (Lược đoạn đầu: Đậm là người phụ nữ hai mươi chín tuổi. Vì trót bồng bột mà có con
rồi phải bỏ nhà ra đi. Đến khi ba mất, má Đậm mới rước con về. Những ngày giáp Tết, cô bán
dưa hấu ở chợ thị xã. Bên trái là vạt bông của ông Chín từ miệt Sa Đéc xuống. Chỉ mình Đậm
bán dưa một mình, may có Quí, một anh chàng chạy xe lam gần nhà, ít hơn Đậm bốn tuổi, tới
giúp. Thấy thế, già Chín cũng cười chéo mắt vui lây…)
(1) Thời gian bị người ta chở kĩu kịt đi. Khiếp, mới đó đã hai mươi chín Tết. Bánh mứt,
dưa hành, quần mới, áo mới như nước tràn lên phố. Đây là thời điểm rộn rịp nhất, phơi phới
nhất trong năm. Tết này không có ba mươi, hai chín rồi tới mùng một, như người ta bước hụt,
thấy thiếu đi một ngày. Những khóm vàng hoa của ông Chín nở sớm từ hai bốn, hai lăm đã ngả
màu vàng sậm. Bốn giờ sáng, ông đi qua bên kia đường gánh nước về tưới, than, "Thời tiết
năm nay kỳ cục quá". Ông vấn điếu thuốc, phà khói, bảo: "Con biết không, nghề bán bông Tết
cũng như bán lồng đèn Trung thu, qua rằm tháng Tám, có cho người ta cũng không thèm lấy.
Buôn bán kiểu vậy như con gái có thì, qua rồi, khó lắm. .”. Ông nói tới đây, thấy Đậm ngẩng
đầu ngó sao muộn, ông thôi không nói nữa. Đậm nhớ con gái quá. Nghe Quí đem đồ về lại đem
tin ra bảo, “Bộ đồ bé Lý mặc vừa lắm, nó đòi ra với Đậm, buôn bán như vầy cực quá, chở nó
ra tội nghiệp. .”. Rồi Quí bảo mớ bông mồng gà Đậm gieo sao mà khéo quá, bông đỏ bông vàng trổ ngay Tết.
(2) Đó là lúc chờ sáng, còn rỗi rãi xẻ dưa mời nhau, chứ ngày hai chín là một ngày tất
bật, nói theo dân đá banh là thắng với thua. Người mua xúm xa xúm xít. Mới một buổi đã lử lả.
Đậm một mình phải coi trước coi sau. Tưởng dưa hấu đắp đập ngăn sông mà đã vợi đi quá nửa.
Nhưng chắc phải đợi cho tới giao thừa. Người ta chờ tới đó sẽ rẻ nữa. Chạy xong mấy chuyến
xe buổi sáng, Quí lại giúp. Từ bến xe lam lại đằng chợ chừng một trăm mét. Quí kêu, "Có ai
mua nhiều, Đậm hứa đi, tôi chở tới nhà cho". Đậm thấy vui, phần thì bớt lo dưa ế, phần thấy
nao nao trong lòng. Cái không khí đẹp thế này, ấm thế này, không vui sao được. Quí hỏi, "Nhà
Đậm có gói bánh tét không?". Đậm hỏi lại, "Có, mà chi?". "Tôi cho, má tôi gói nhiều lắm".
Quí mặc áo đứt mất tiêu cái nút trên, lồ lộ ra mảng ngực ram ráp nắng. Trong Đậm
nhiều khi dậy lên một cái gì rưng rức khó tả, chỉ mong nép đầu vào đó để quên nhọc nhằn, để
quên nỗi cô độc lùi lũi trong đời.
(3) Lúc ngẩng lên được đã năm mới mất rồi. Nghe được tiếng trống giao thừa vọng về từ
trung tâm thị xã. Ở đó có một lễ hội thật tưng bừng. Ông Chín đốt sáu nén nhang, chia cho
Đậm nửa, biểu, "Con cúng giao thừa đi. Cầu an khang, sức khỏe, cầu năm tới giàu hơn năm
nay". Mùi nhang thơm xà quần trong gió sực lên mũi Đậm một nỗi nhớ nhà. Dù đây về đấy
chưa tới một tiếng đi xe. Ở chợ, người muốn về trước giao thừa thì đã bán thốc tháo để về,
những người còn lại cũng cố dọn dẹp làm sao mùng một có mặt ở nhà, pha bình trà cúng tổ
tiên. Ông Chín đứng chỉ huy cho con trai ông bưng mươi chậu hoa còn lại lên xe hàng, quyến
luyến, "Hồi nãy con tặng bác dưa ăn, giờ bác tặng lại con với cậu nhỏ hai chậu cúc đại đóa
này. Năm tới, bác có xuống không biết được ngồi gần con như vầy không. Cha, đây về Sa Đéc
chắc phải nhâm nhi dài dài cho đỡ buồn quá".
- Dạ, bác về mạnh giỏi, ăn Tết cho thiệt vui.
Đậm vén tóc, cười, thấy thương ông quá. Ông Chín leo lên xe còn ngoắt Quí lại nói thì
thào, "Ê cậu nhỏ, tôi nói cậu nghe, ông bà mình có câu “Ra đường thấy cánh hoa rơi - Hai tay
nâng lấy, cũ người mới ta”. Mạnh dạn lên, cậu thương con gái người ta mà cà lơ phất phơ thấy
rầu quá. Cháu Đậm, thấy vậy mà như trái dưa, xanh vỏ đỏ lòng". Nói rồi xe vọt đi, mấy người
nữa lên xe vỗ vào thùng xe thùm thùm như gửi lại lời chào tạm biệt. Khói xe xoắn ra từng ngọn
tròn tròn như con cúi.
(Lược đoạn cuối: Đậm quét dọn chỗ của mình rồi cùng Quí ra về. Quí cho xe chạy thật
chậm, với ánh nhìn rất lạ về phía Đậm. Anh không biết vì một nỗi gì mà tới bây giờ anh chưa
nói lời thương với người ta. Anh không ngại đứa con, anh không ngại chuyện lỡ lầm xưa cũ,
tuổi tác cũng không thèm nghĩ đến. Còn Đậm thì luống cuống. Quí im lặng, dừng xe hẳn. Lúc
này anh thấy cần nắm lấy bàn tay lạnh tái của Đậm, rất cần. Khi ấy giao thừa đã đi qua…).
(Nguyễn Ngọc Tư(1), Giao thừa, NXB Trẻ, TPHCM, 2022, tr.91-99) Chú giải:
(1) Nguyễn Ngọc Tư sinh năm 1976 tại Đầm Dơi, Cà Mau. Là nữ nhà văn trẻ của Hội
nhà văn Việt Nam. Với niềm đam mê viết lách, chị miệt mài viết như một cách giải tỏa và thể
nghiệm, chị biết rằng chị muốn viết về những điều gần gũi nhất xung quanh cuộc sống của
mình. Giọng văn chị đậm chất Nam bộ, là giọng kể mềm mại mà sâu cay về những cuộc đời éo
le, những số phận chìm nổi. Cái chất miền quê sông nước ngấm vào các tác phẩm, thấm đẫm
cái tình của làng, của đất, của những con người chân chất hồn hậu nhưng ít nhiều gặp những bất hạnh.
Đọc văn bản trên và thực hiện các yêu cầu:
Câu 1. Xác định ngôi kể của văn bản trên.
Câu 2. Chỉ ra biện pháp tu từ nổi bật trong hai câu văn: “Bánh mứt, dưa hành, quần mới, áo
mới như nước tràn lên phố. Đây là thời điểm rộn rịp nhất, phơi phới nhất trong năm.”
Câu 3. Những chi tiết nào trong đoạn (1) cho thấy Quí có tình ý với Đậm?
Câu 4. Nêu tác dụng của chi tiết: Ông Chín leo lên xe còn ngoắt Quí lại nói thì thào, “Ê cậu
nhỏ, tôi nói cậu nghe, ông bà mình có câu “Ra đường thấy cánh hoa rơi - Hai tay nâng lấy, cũ
người mới ta”. Mạnh dạn lên, cậu thương con gái người ta mà cà lơ phất phơ thấy rầu quá.
Cháu Đậm, thấy vậy mà như trái dưa, xanh vỏ đỏ lòng”.
Câu 5. Lí giải mối quan hệ giữa nhan đề với nội dung văn bản?
Câu 6. Nhận xét tình cảm của tác giả đối với nhân vật Đậm.
Câu 7. Nếu có thể can thiệp vào câu chuyện, bạn muốn nói gì với nhân vật anh Quí?
Câu 8. Từ nhân vật Đậm, bạn hãy nêu quan điểm về thái độ đối với phút sai lầm của tuổi trẻ. ĐÁP ÁN ĐỀ 4 Phần Câu Nội dung Điểm I ĐỌC HIỂU 10,0
Ngôi kể của văn bản: ngôi kể thứ 3.
Hướng dẫn chấm:
1 - Học sinh trả lời như đáp án: 1,0 điểm 1,0
- Học sinh trả lời không đúng như đáp án hoặc không trả lời: 0,0 điểm.
- Gọi tên biện pháp tu từ nổi bật.
- Nêu biểu hiện cụ thể của biện pháp tu từ đó trong hai câu văn.
(Hai câu văn có sử dụng các biện pháp tu từ: điệp, liệt kê, so
sánh… Tuy nhiên, cần nhận thấy liệt kê là biện pháp tu từ
nổi bật nhất bởi đã nhấn mạnh sự phong phú, đa dạng của 2
hàng hóa và không khí tươi vui, tấp nập, háo hức khi Tết đến rất gần). 1,0
Hướng dẫn chấm:
- Học sinh trả lời đầy đủ như đáp án: 1,0 điểm
- Học sinh chỉ ra biện pháp tu từ khác (ngoài liệt kê): 0.5 điểm
- Học sinh trả lời không đúng như đáp án hoặc không trả lời: 0,0 điểm.
3 Những chi tiết trong đoạn (1) cho thấy Quí có tình ý với 1,0 Đậm:
- Giúp Đậm mang đồ về cho con gái, rồi lại đem tin vui ra cho cô.
- Khen mớ bông mồng gà Đậm gieo khéo.
- Chạy xong mấy chuyến xe lam, Quí tới giúp Đậm bán hàng.
- Bày tỏ mong muốn sẽ cho nhà Đậm bánh tét để ăn Tết.
Hướng dẫn chấm:
- Học sinh trả lời như đáp án: 1,0 điểm
- Học sinh trả lời được 3 ý: 0,75
- Học sinh trả lời được 2 ý: 0,5 điểm
- Học sinh trả lời được 1 ý: 0,25 điểm
- Học sinh chép lại y nguyên các câu văn trong văn bản: 0,5 điểm
- Học sinh trả lời không đúng như đáp án hoặc không trả lời: 0,0 điểm. Tác dụng của chi tiết:
- Chi tiết cho thấy phẩm chất của nhân vật ông Chín: là
người trải đời, mộc mạc, rất quan tâm đến những người xung quanh.
- Chi tiết có thể xem như một chiếc chìa khóa giúp tháo cởi
những ngập ngừng, e ngại của Quí, giúp anh vững lòng hơn 4 để đến với Đậm. 1,0
- Chi tiết đã lột tả chất Nam Bộ ở người nông dân trong nhân
vật ông Chín, mang đến màu sắc trữ tình cho lời kể.
Hướng dẫn chấm:
- Học sinh trả lời như đáp án hoặc ý tương đương: 1,0 điểm
- Học sinh trả lời 2 ý theo ý tương đương đáp án: 0,5 điểm
- Học sinh trả lời không đúng hoặc không trả lời: 0,0 điểm. 5
- Nêu cách hiểu về nhan đề: “Giao thừa” – khoảnh khắc 1,0
thiêng liêng chuyển giao từ năm cũ sang năm mới.
- Lí giải mối quan hệ giữa nhan đề với nội dung văn bản.
Học sinh cần thấy được:
+ Đây là mối quan hệ mật thiết, hé mở nội dung, ý nghĩa tác phẩm.
+ Góp phần thể hiện rõ nét thông điệp tư tưởng của nhà văn.
Hướng dẫn chấm:
- Học sinh trả lời đảm bảo 2 ý: 1,0 điểm
- Học sinh trả lời được 1 ý: 0,5 điểm
- Học sinh trả lời không đúng hoặc không trả lời: 0,0 điểm.
* Lưu ý: Học sinh có cách diễn đạt khác nhưng hợp lí, thuyết ph ục
vẫn cho điểm tuyệt đối.
- Đậm hiện lên qua văn bản: là một cô gái chăm chỉ, yêu con,
thương mẹ; chịu nhiều xét nét, dị nghị từ lỗi lầm thời trẻ của mình…
- Tình cảm của tác giả đối với nhân vật Đậm: cảm thông, chia
sẻ, xót xa và cũng rất trân trọng; đồng tình với khát vọng hạnh
phúc chính đáng của nhân vật.
- Nhận xét tình cảm của tác giả đối với nhân vật Đậm. Có thể
theo hướng: đó là tình cảm chân thành, xuất phát từ cái nhìn
thấu hiểu của một người cùng giới và một trái tim đôn hậu, 6 giàu lòng trắc ẩn. 2,0
Hướng dẫn chấm:
- Học sinh trả lời đúng như đáp án hoặc ý tương đương: 2,0 điểm
- Học sinh trả lời có nội dung phù hợp nhưng diễn đạt chưa tốt: 1,5 điểm
- Học sinh trả lời đúng được 01 ý trong đáp án hoặc 1 ý tương đương: 0,75 điểm.
- Học sinh trả lời không thuyết phục hoặc không trả lời: 0,0 điểm
- Nêu bật điều bản thân muốn nói với nhân vật anh Quí.
- Lí giải được lí do về những điều muốn nói đó.
Hướng dẫn chấm:
- Học sinh trả lời như đáp án và lý giải thuyết phục: 2,0 điểm 7
- Học sinh nêu được điều bản thân muốn nói nhưng lý giải 2,0
chưa rõ ràng: 1,5 điểm
- Học sinh nêu được điều bản thân muốn nói nhưng chưa lý giải: 1,0 điểm
- Học sinh trả lời không đúng như đáp án hoặc không trả lời: 0,0 điểm. 8
Từ nhân vật Đậm, học sinh nêu quan điểm về thái độ đối với 1,0
phút sai lầm của tuổi trẻ.
Câu trả lời cần đảm bảo:
- Lí giải tại sao tuổi trẻ thường mắc sai lầm.
- Nêu quan điểm của bản thân về thái độ đối với phút sai lầm của tuổi trẻ.
Hướng dẫn chấm:
- Học sinh trả lời đảm bảo 2 ý: 1,0 điểm
- Học sinh trả lời được 1 ý: 0,5 điểm
- Học sinh trả lời không đúng hoặc không trả lời: 0,0 điểm. Đề 5
Đọc đoạn trích trên và thực hiện các yêu cầu:
(Lược dẫn: Vợ của nhân vật xưng “tôi” mua một con chó, nhưng nó rất xấu xí nên chẳng ai
dám đến gần. Mấy người quen của nhân vật “tôi” định bụng sẽ giết thịt nó để làm một chầu
nhậu, nhưng rồi giặc đến, mọi người đều phải bỏ làng chạy giặc. Vì vướng víu nên gia đình,
nhân vật “tôi” đành phải bỏ con chó lại nhà cụ bếp Móm và nhờ cụ nuôi hộ. Trước khi ra đi, vợ
của nhân vật “tôi” đã xích con chó vào gốc cây để nó khỏi chạy theo).
“Ắng!… Ắng! Ắng!…” Tiếng con chó lồng lộn, cuống quít đằng sau bước chân tôi. Nó như
gọi tôi, nó như kêu cứu, như than khóc, oán trách…
Ra khỏi ngõ tôi thoảng nghe tiếng chị vợ cảnói với chồng:
– Vợ chồng nhà ấy họ đi đấy à? Này, họ bỏ lại con chó cậu ạ.
Và tiếng anh chồng dấm dẳn:
– Đến người cũng chả chắc giữ được nữa là con chó!…
Tôi xóc lại cái quai ba lô, bước theo hút cái bóng nhà tôi đang đi xăm xắm xuống đồi. […]
Tiếng con chó từ trong nhà cụ bếp Móm đưa ra vẫn nghe rõ mồn một “Ắng!… Ắng! Ắng!
…”. Tiếng con chó da diết, nhọn hoắt xói vào ruột gan tôi. “Thôi để chuyến này về tao nuôi.
Tao sẽ nuôi mày, tao không bỏ mày đâu…”.
Tôi nhủ thầm với tôi một lần nữa như vậy.
(Lược một đoạn: sau khi giặc rút, gia đình nhân vật “tôi” về lại làng, nhưng nhân vật “tôi” đã quên bẵng con chó).
Một hôm tôi chợt thấy cặp kính trắng lấp loáng của Đặng “cồn” từ đầu ngõ đi vào, bấy giờ
tôi mới giật mình, sực nhớ đến con chó. Tôi quay lại hỏi nhà tôi:
– À, mình này! Con chó nhà ta đâu nhỉ? Mình chưa vào trong cụ bếp dắt nó về à?
Nhà tôi đứng ngẩn ra một lúc. Có lẽ nhà tôi cũng không ngờ rằng tôi đã về bằng ấy ngày
giời rồi vẫn không nói chuyện con chó ấy với tôi.