













Preview text:
CHUYÊN ĐỀ : THƠ VÀ ĐẶC TRƯNG CỦA THƠ. 1. Thơ ca là gì.
Thơ hay thơ ca hoặc thi ca, là một loại sản phẩm của sáng nghệ thuật ngôn từ theo những
cách thức nhất định dựa trên quy luật hài hòa về vần điệu, âm điệu. Thơ có đặc điểm ngắn
gọn, súc tích, cô đọng và hàm súc, có thể tạo nên cảm xúc thẩm mỹ cho người đọc, người
nghe. “Thơ là hình thức sáng tác văn học phản ánh cuộc sống, thể hiện tâm trạng, những
cảm xúc mạnh mẽ bằng ngôn ngữ hàm súc, giàu hình ảnh và nhất là có nhịp điệu” (Từ điển thuật ngữ văn học).
Thơ ca là tiếng nói của tâm hồn, là tiếng nói của tinh cảm con người, thuộc phương
thức trữ tinh, thơ lấy điểm tựa là sự bộc lộ thế giới nội cảm của nhà thơ, những rung động
mãnh liệt của trái tim si trước cuộc đời. Cảm xúc đóng vai trò quyết định, là nguồn cội của
mọi sáng tạo nghệ thuật.
Một bài văn cũng có thể là một bài thơ nếu sự chọn lọc các từ trong đó súc tích và gây cảm
xúc cho người đọc một cách nhanh chóng. Bên cạnh đó, một bài thơ thường còn mang tính
vần giữa câu nọ với câu kia và tổ hợp của các câu gây ra âm hưởng nhạc tính trong bài.
Thơ thường dùng như hinh thức biểu tả cảm xúc trữ tinh, hoặc tinh cảm xúc động
trước hiện tượng xảy ra trong cuộc sống, như khi người ta đứng trước phong cảnh ngoạn
mục, hoặc đứng trước thảm cảnh. Sự tương tác giữa tinh cảm con người và hoàn cảnh tạo
nên những cảm nghi mà người ta muốn bày tỏ với một phong độ chắt lọc, tinh khiết, không
rườm rà, song có mức thông tin cao, đột phát, nhưng cô đọng và khúc chiết.
Có thể coi thơ là một hinh thức sáng tác văn học đầu tiên của loài người. Chính vi
vậy mà có một thời gian rất, dài thuật ngữ thơ được dùng chỉ chung cho văn học. Thơ có
lịch sử lâu đời như thế nhưng để tim một định nghia thể hiện hết đặc trưng bản chất của nó
cho việc nghiên cứu thơ ngày nay thi thật không dễ.
Cách đây khoảng 1500 năm, trong cuốn Văn tâm điêu long, Lưu Hiệp đã đề cập đến
ba phương diện cơ bản cấu thành nên một bài thơ là tinh cảm, ý nghia (tinh văn), ngôn ngữ
(hinh văn) và âm thanh (thanh văn). Kế thừa quan niệm của Lưu Hiệp, đến đời Đường,
Bạch Cư Dị đã nêu lên các yếu tố then chốt tạo thành điều kiện tồn tại của thơ: “Cái cảm
hoá được lòng người chẳng gi trọng yếu bằng tinh cảm, chẳng gi đi trước được ngôn ngữ,
chẳng gi gần gũi bằng âm thanh, chẳng gi sâu sắc bằng ý nghia. Với thơ, gốc là tinh cảm,
mầm lá là ngôn ngữ, hoa là âm thanh, quả là ý nghia”. Quan niệm này không chỉ dừng lại ở
việc nêu lên các yếu tố cấu thành tác phẩm mà còn chỉ ra mối quan hệ gắn bó giữa chúng,
giống như gốc rễ, mầm lá, hoa, quả gắn liền với nhau trong một thể thống nhất hoàn chỉnh1
và sống động. Đây có thể coi là quan niệm về thơ toàn diện và sâu sắc nhất trong nền lý
luận văn học cổ điển Trung Hoa.
Trong tiểu luận “Thơ là gi”, Jacobson viết: “Nhưng tính thơ được biểu hiện ra như
thế nào? Theo cái cách từ ngữ được cảm nhận như là từ ngữ chứ không phải như vật thay
thế đơn giản của đối tượng được chỉ định, theo cách những từ, những cú pháp, những ngữ
nghia của chúng, hinh thức bên trong và bên ngoài của chúng không phải là các dấu hiệu vô
hồn của hiện thực mà còn có trọng lượng riêng, giá trị riêng”. “Chức năng thi ca đem
nguyên lý tương đương của trục tuyển lựa chiếu lên trục kết hợp”. Jacobson nhấn mạnh ý
nghia của đối tượng gọi tên và ý nghia ngữ pháp nảy sinh từ những mối quan hệ giữa các
thành tố cấu trúc có tính chất khép kín của văn bản. Điều đó cũng có nghia là khái niệm ý
nghia được hiểu một cách hạn hẹp. Bởi trong thực tế, như ta thấy, ý nghia của thơ nhiều khi
đã vượt ra ngoài giới hạn của văn bản. Lý giải về bản chất của thơ, các tác giả nhóm Xuân
thu nhã tập cho rằng: “Thơ là một cái gi huyền ảo, tinh khiết, thâm thuý, cao siêu”. Còn nhà
thơ Tố Hữu thi quan niệm: “Thơ là cái nhụy của cuộc sống”.
Nhật chiêu trong “Ba nghin thế giới thơm” cho rằng: “Thơ ca trong bản chất của nó
là mây. Một hình thể vô định và huyền ảo. Và thơ ca cũng còn là bão tố”.
Dưới cái nhin cấu trúc, nhà nghiên cứu Phan Ngọc định nghia: “Thơ là cách tổ chức
ngôn ngữ hết sức quái đản để bắt người tiếp nhận phải nhớ, phải cảm xúc và suy nghi do
chính hinh thức ngôn ngữ này”. Định nghia này của giáo sư Phan Ngọc đã kế thừa được
những khám phá quan trọng về thơ của nhiều nhà nghiên cứu thuộc các trường phái khác
nhau của Tây Âu trong mấy chục năm qua. Đặc biệt, đã gợi ra một trường nghiên cứu thơ
hết sức rộng rãi: thơ không chỉ là hiện tượng ngôn ngữ học thuần túy mà chủ yếu là hiện
tượng giao tiếp nghệ thuật, một phát ngôn trong ý nghia đầy đủ của từ này.
2. Đăc trưng của thơ ca.
a. Cũng như văn học, thơ phản ánh cuộc sống bằng hình tương. Nhưng hinh tượng
trong thơ không phải được xây dựng nên từ óc quan sát, chiều sâu nhận thức, tư duy lô gic
của lý trí mà nó gắn với cảm xúc, với tâm hồn. Thơ sinh ra từ tinh cảm: “Thơ là ngươi thư
ký trung thành của những trái tim” (Đuybray). Một tác phẩm thơ đích thực có giá trị phải
đạt đến đỉnh cao cả nội dung lân hỉnh thức: cả lời (ngôn từ, hinh thức nghệ thuật), cả tư
tưởng, cảm xúc phải đạt đển độ chín muồi, đẹp đẽ nhất, mãnh liệt nhất (chín đỏ). Xuân Diệu
cho rằng: “Thơ hay, lời thơ chín đỏ trong cảm xúc”.
Như vậy, một tác phẩm thơ hay yêu cầu:
– Lời thơ phải đẹp (giàu hinh ảnh, tinh tuý, hàm súc, có âm thanh nhịp điệu rõ rệt…) 2
– Lời thơ phải chứa đựng cảm xúc mãnh liệt, cao đẹp, những suy ngâm sâu sắc về con người cuộc đời.
+ Những lời đẹp đẽ ấy chính là sự thăng hoa cảm xúc mãnh liệt của nhà thơ trước
cuộc đời. Ngược lại, cảm xúc mãnh liệt, suy ngâm sâu sắc phải được thể hiện qua lời đẹp.
“Tài gia tinh chi phát” (tài do tinh mà ra). Chỉ khi cái đẹp của ngôn từ của hinh thức nghệ
thuật chứa đựng, thể hiện cảm xúc, suy ngâm mãnh liệt sâu sắc của nhà thơ trước cuộc sống
thi mới có thơ đích thực– thơ hay. Sự sáng tạo của người nghệ sĩ là sức sống của thơ ca.
b. Tình cam trong thơ.
Phải chăng, từ bao giờ người ta luôn bằng lòng với việc quan niệm: thi si suốt đời đi
tim cái đẹp và chỉ đi tim cái đẹp? Thơ luôn bắt nguồn từ một men say, một tia chớp lóe sáng,
một mạch nước ngầm âm ỉ từ bao giờ? Vi thế thi si Hàn Mặc Tử cũng từng tự nhận xét “Tôi
làm thơ? Nghia là tôi mất trí. Tôi phát điên”. Với ai kia, thơ tôn sùng nghệ thuật trong sự
thăng hoa của cảm xúc. Với ai kia, thơ là sự say đắm trong một thế giới vô thức – thế giới
của thi si. Sinh ra từ tâm hồn và trái tim con người, thơ đã trở thành tri âm của nhân loại từ
bao thế kỷ qua. Thơ là một phần của thế giới nội tâm, của đời sống tâm linh con người. Yêu
thơ và coi thơ như người bạn tri kỷ của minh, người ta đã tim cho thơ nhiều cách lý giải,
định nghia. Ai đó đã từng coi thơ là “rượu của quỷ sa tăng”, “thơ là địa hạt huyền bí và thần
thánh”. Cũng có người cho rằng “thơ là lửa”, “thơ là sự sung mãn của tình cảm mãnh liệt” (Ban zắc)
Nói đến Thơ, người đọc không quên thơ là cảm xúc, là tâm hồn. Trong thơ, “tinh là
gốc” (Bạch Cư Dị), thơ phải sinh ra từ sự thôi thúc mạnh mẽ của tâm hồn. Đồng thời, cảm
xúc trong thơ ở dạng tính chất chọn lọc. Ngôn ngữ thơ hàm súc và đa nghia. “Thơ là rươu
của thế gian” (Huy Trực). Thơ thăng hoa và xuất thần từ đống tài liệu thực tế, như một
thanh kim loại sáng bóng được gạn ra từ hàng tấn quặng ủ trong lòng đất bao nhiêu tháng năm…
Cây không thể thiếu gốc, thơ ca cũng không thể thiếu được cốt tủy của riêng minh.
Người cho thơ cái gốc cũng như kẻ đang ươm mầm hạt giống của sự sống, cần phải có tâm
hồn dạt dào, trù phú để thơ đâm chồi, bám rễ. Thơ ca là sản phẩm của cảm xúc con người,
chính vi thế mà tâm hồn người viết có trong, có sáng, có phong phú dạt dào thi mới tạo nên
được những bài thơ hay. Tâm hồn con người ta không đơn thuần chỉ là những cảm xúc yêu,
ghét, giận hờn, nó còn là cảm quan, cách đánh giá và cái nhin của mỗi người vào cuộc sống này.
Đặc biệt hơn nữa đối với người nghệ si, đó còn là nơi khởi sự, xuất phát của mỗi tác
phẩm mà minh viết ra, là nền tảng để tạo nên cái gốc vững chắc cho một tác phẩm nghệ3
thuật của minh. Khởi sự từ tâm hồn cũng đồng thời là nơi soi chiếu và phản ánh tâm hồn
nghệ si đến với người đọc, thơ ca đòi hỏi một nền tảng vững chắc bắt rễ từ cảm xúc chân
thực, khách quan nhất của người làm thơ.
Người làm thơ không phải chỉ để cho minh đọc mà là để tim sự đồng cảm giữa những
người tri âm tri ngộ. Vi thế mà những vần thơ có nổi bật, có bay cao, bay xa mới dễ dàng
tim được tri kỉ. Và người làm thơ phải gửi vào đó tầm nhin cao rộng, để bài thơ vượt qua
bước chuyển thời gian, năm tháng để trường tồn và bất tử.
Người làm thơ càng có tầm nhin bao quát hướng ra sự sống và biết thu hẹp, soi chiếu,
chắt lọc điểm nhin của minh vào những sự kiện nổi bật giữa bộn bề cuộc sống thi tác phẩm
nghệ thuật của họ càng có giá trị. Giữa cuộc sống bộn bề, có rất nhiều sự việc diễn ra muôn
hinh vạn trạng. Người tầm thường sẽ nhin tất cả những gi có thể và cố gắng ghi nhớ tất cả.
Nhưng thơ ca không cần những thứ hỗn độn, xô bồ như thế. Tầm nhin để đưa thơ vượt lên
phải có sự dịch chuyển, điều chỉnh linh hoạt, biết mở ra khi cần thiết và biết thu hẹp lại để
quay cận cảnh, để soi chiếu từng kiếp người. Có như vậy, vần thơ mới trở nên sâu sắc, ý
nghia và có sức lay động tâm hồn người đọc.
Như Sê-khốp đã nói: “Nhà văn chân chinh là nhà nhân đạo từ trong cốt tủy”. Mỗi
tác phẩm thơ, đằng sau ngôn từ, hinh ảnh, nội dung đều phải song song tồn tại giá trị hiện
thực và nhân đạo thi mới có sức sống lâu dài giữa cuộc sống. Thứ thơ hay bằng lời lẽ nhưng
vô cảm, lạnh lẽo chứng tỏ người làm thơ không đặt minh vào trong cuộc sống, để cảm nhận
được tất cả cay đắng, ngọt bùi, niềm vui và nước mắt. “Thơ phát sinh từ trong lòng người”
(Lê Quý Đôn). Quy luật của thế giới nội tâm chiếu ứng với những vòng sáng cảm xúc chân
thực, điển hinh và mãnh liệt dội lên trên câu chữ. Người xưa nói thơ ưa đạm không ưa nồng,
nhưng là cái đạm sau khi đã nồng, thơ ưa phát không ưa xảo, nhưng là cái phác sau khi xảo.
Bởi vậy, tinh sâu là sức đẩy bồn chứa bên trong để tạo hồn cốt cho ngôn từ và cái thần của người làm thơ.
Dòng chảy cuộc đời ngàn năm xưa vân thế, chỉ có những rung động sâu xa mới trả lại
cho chữ vẻ đẹp mới mẻ, độc đáo như lần đầu. Cái tâm là điểm sáng trung tâm khơi nguồn
cho ý thức trong thơ. Phải chú trọng đến quy cách nhưng làm thơ gốc phải là tinh cảm (Cao
Bá Quát). Sáng tạo nghệ thuật xuất phát từ chân tâm thực ý thi nhà thơ mới có thể nối liền
những tư tưởng cảm xúc của minh trong một từ “thơ” muôn đời. TÂM SÁNG – TÌNH SÂU
chính là mạch ngầm gắn kết một trái tim với triệu tâm hồn. Sức đồng cảm quảng đại và
mãnh liệt của thơ cũng là ở chỗ đó.
c. Thơ ca trong mối quan hệ với hiện thực. 4
Đặc trưng của thơ là gi? Cũng như văn học, thơ ca phản ánh cuộc sống bằng hinh
tượng. Nhưng hinh tượng trong thơ không phải được xây nên từ óc quan sát, chiều sâu nhận
thức, tư duy lôgic của lý trí, mà nó gắn với cảm xúc, với tâm hồn. Thơ sinh ra từ tinh cảm.
“Thơ là người thư ki trung thành của những trái tim” (Đuybrlay). Đến với thơ, tâm hồn ta
phải được chan hòa trong thế giới cảm xúc. Thơ là cơn gió. Tâm hồn ta là mặt nước phẳng
lặng và binh yên. Cơn gió thơ có đủ mạnh để làm mặt nước tâm hồn ta xao động, đó mới thực sự là thơ.
Nhưng thơ đâu phải chỉ có thế. Hơn 2000 năm trước, Trang Tử đã có một triết lý rất
hay về biển cả: “Biển cả là nơi mà tất cả các nguồn nước trên thế gian này đều đi ra từ đó
nhưng nó không vơi, và nó cũng là nơi đón nhận tất cả các nguồn nước nhưng nó không
đầy”. Văn học cũng như những nguồn nước, đều đi ra từ biển ca cuộc đơi. Hàng ngày,
tiếng sóng thủy triều vân âm vang chuyên chở sóng biển đời thường đến với trang thơ.
Những sự chuyên chở ấy có bao giờ ngừng nghỉ, cũng như mảnh đất hiện thực có bao giờ
vơi đi, khi người nghệ si đến đó để chở nắng gió cuộc đời tưới mát muôn cây. Thơ ca phải
gắn minh vào nguồn mạch cuộc sống và nhịp nối giữa thơ với cuộc đời chính là tâm hồn, trí tuệ nhà thơ.
Người, làm thơ, binh thơ xưa và nay đã bộc lộ rất nhiều quan niệm về thơ. Thơ là
“thần hứng” (Platông), là “ngọn lửa thần”, là “cơn điên loạn thần thánh”, “thơ là sự tuôn
trào bộc phá những tinh cảm mãnh liệt”. Thơ ca không phải thuộc về một cõi huyền nhiệm,
mông lung, diệu vợi; thơ ca lại càng không phải là “một thứ nghề chơi”, là trò đùa cảm
hứng. Thơ gần gũi và thân thiết biết bao, thơ gắn với cuộc đời ta đang sống, thơ phản ánh
cuộc đời theo quy luật văn chương.
Cuộc sống bao giờ cũng là nguồn cảm hứng mênh mông bất tận của tâm hồn người
nghệ si. Thơ ca nói riêng và nghệ thuật nói chung bao giờ cũng đi ra từ cuộc đời, cũng lớn
lên từ hiện thực và rồi từ đó cánh diều nghệ thuật sẽ nhờ gió đời mà cất cánh bay cao. Sẽ
“chẳng có thơ đâu giữa lòng đóng khép” (Chế Lan Viên); “sẽ chẳng có thơ khi người làm
thơ không tìm đươc sơi dây giao cảm đối với cuộc đời, không tìm đến những cánh đồng
phì nhiêu để từ đấy hạt giống thơ ca đươc ươm trồng, nảy nở.”
Lục Du đời Tống người đã viết hàng trăm câu thơ, lúc sắp mất đã tâm sự với con, lời
tâm sự của một hồn thơ đi trọn cuộc đời mới hiểu cái lẽ “công phu của thơ là ở ngoài thơ”.
Sức nặng của những trang thơ chính từ cuộc đời đầy nắng gió ngoài kia. Nhà thơ phải đến
đó để viết lên từ thứ mực được chưng cất từ chính cuộc sống. Gắn với cuộc sống, đấy là đặc
trưng thẩm mi của văn học, của tác phẩm văn chương mà nhịp nối là nhà văn. 5
Cuộc sống với những hiện tượng phong phú, phức tạp vừa là đối tượng hướng tới,
vừa là nguồn mạch nuôi dưỡng văn học. Quay lưng lại với cuộc sống, mải mê với chuyện
đúc chữ, luyện câu, mọi giá trị văn chương chỉ còn là kỹ xảo. Cuộc sống mênh mông vô tận
sẽ là nơi cung cấp chất liệu cho Thơ. Cuộc sống với hơi thở ấm nóng sẽ tô điểm cho những
câu thơ, cho nghệ thuật: “Hãy nhặt lấy chữ đời mà góp nên trang” (Chế Lan Viên).
Thơ ca khơi nguồn từ cuộc sống nên thơ bao giờ cũng chứa đựng bóng hinh cuộc đời,
bóng dáng con người. Thơ mang trong minh những buồn vui đau khổ, rạo rực đắm say. Thơ
nói riêng và văn chương nói chung sẽ làm nên nhịp cầu nôi trái tim trở về với trái tim, đưa
tâm hồn đi tim những tâm hồn đồng điệu. Thơ ca là cuộc đời nhưng thơ ca không phải là
những trang giấy in nguyên vẹn bóng hinh cuộc sống.
d. Sáng tạo trong thơ ca.
Sáng tạo là kết quả của quá trinh dấn thân, nhập cuộc, tích lũy, hun đúc, một tiến
trinh cọ xát dữ dội. Sáng tạo không có nghia là bịa đặt. Sáng tạo nghệ thuật giống như sáng
tạo cuộc sống, cần có yếu tố thẩm mỹ, tính chân thực cao, có khả năng tác động mạnh mẽ
vào nhận thức của người đọc.
Bản chất của lao động nghệ thuật là sáng tạo, một sự lao động miệt mài không ngừng
nghỉ. Văn chương sẽ ra sao nếu tác phẩm này là bản sao của tác phẩm kia? Nếu mỗi người
nghệ si đều bằng lòng với những điều có sẵn? Câu chữ mòn sáo, lời văn đơn điệu, quen
nhàm? Ấy là cái chết của nghệ thuật, cái chết của người nghệ si trong mỗi nhà văn. Bởi
“Văn chương không cần đến những ngươi thơ khéo tay làm theo một vài kiểu mâu đưa cho.
Văn chương chỉ dung nạp những ai biết đào sâu, tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi và
sáng tạo những gì chưa có” (Nam Cao).
Khi tim đến yêu cầu sáng tạo đối với nghệ thuật, đã có người băn khoăn tự hỏi: Văn
học cùng bắt nguồn từ hiện thực cuộc sống, vậy tại sao không có sự gặp gỡ, trùng lặp? Thật
vậy, cuộc đời là lạch ngầm nơi dòng sông văn chương bắt nước. Thế nhưng hiện thực ấy
được chảy qua bầu cảm xúc mãnh liệt của mỗi nhà thơ, nhà văn. Mỗi người nghệ si là một
tiểu vũ trụ, tác phẩm văn học là sự phản ánh tiểu vũ trụ ấy. Vi vậy, không có những tác
phẩm “song sinh” dù tâm hồn anh cùng đồng điệu, tri kỷ với tâm hồn tôi.
Mặt khác, người đọc tim đến với văn học nói chung, thơ ca nói riêng để đắm minh
trong vẻ đẹp của sự sáng tạo. Có ai yêu những áng thơ mòn cũ, quen nhàm; có ai nhớ những
vần điệu nhạt nhẽo, sáo rỗng. Không đi theo con đường sáng tạo, nhà thơ sẽ chỉ còn lại một
minh giữa sự thờ ơ, quên lãng của người đọc. Như thế, cuộc đời cầm bút của anh trở nên vô
nghia. Bởi “điều còn lại đối với mỗi nhà văn chính là cái giọng nói riêng của minh”. Yêu 6
cầu về sáng tạo ấy gợi nhắc trong lòng người đọc nỗi nhớ khôn nguôi về những nhà thơ đã
dành trọn cuộc đời minh cho văn chương, nghệ thuật.
Chợt nhớ tới chủ nghia đề tài một thuở, nhà văn, nhà thơ hát chung khúc hát, không
có giọng điệu riêng, ấn tượng riêng. Chính vi vậy, những tác phẩm ấy nhanh chóng ra đi
trong cảm nhận của người đọc như một làn gió mỏng manh thoáng qua. Như vậy, mỗi
người nghệ si trong quá trinh cầm bút cần phải tạo được tiếng nói riêng, âm sắc riêng. Nó
đòi hỏi anh phải miệt mài trên con đường sáng tạo, không ngừng nghỉ, không lùi bước. Một
âm vang tha thiết, đặc sắc giữa cõi văn chương, ấy là sức sống của anh, là ấn tượng của anh
trong lòng người đọc muôn đời.
Văn học là một trong những hinh thái nghệ thuật phản ánh đời sống. Nếu các nhà
khoa học lấy mục đích cuối cùng của việc nghiên cứu là nhằm đạt tới chân lý khách quan
biểu thị qua những định lý, định luật mang tính khuôn mâu, là nguyên tắc chung… thi các
nhà văn lại phải tim trong hiện thực cuộc sống bộn bề những vấn đề cá biệt mang tính bản
chất và phản ánh vào trong tác phẩm thông qua những hinh thức nghệ thuật riêng với quan điểm của riêng minh.
Văn chương không thể được tạo ra theo hinh thức sản xuất có tính dây chuyền, không
phải là sản xuất hàng loạt. Tác phẩm văn học khi được viết ra bằng ngôn từ nghệ thuật nhất
thiết phải thể hiện được cách nhin về hiện thực riêng, những tim tòi về nghệ thuật riêng của
người nghệ si. Hinh ảnh cuộc sống trong tác phẩm là hinh ảnh của hiện thực đã đi qua một
tâm hồn, một cá thể và dấu ân cá thể in vào trong đó “càng độc đáo càng hay”. Xuân Diệu
đã nói: chỉ có những tâm hồn đồng điệu chứ không thể có những con người là phiên bản của
nhau. Bởi vậy, sáng tác văn học, một thứ sản xuất “đặc biệt và cá thể” nhất quyết không thể
tạo ra những tác phẩm giống nhau như khuôn đúc.
Giọng nói riêng của nhà văn có thể hiểu là một tâm tư tinh cảm riêng, một thái độ
sống, cách nhin, cách đánh giá về hiện thực cuộc sống riêng được biểu hiện trong tác phẩm
bằng hinh thức nghệ thuật phù hợp. Nam Cao từng nói rất thấm thía một điều: “Văn chương
không cần đến…. sáng tạo những gi chưa có”. Cuộc sống phong phú muôn màu muôn vẻ
luôn ẩn chứa nhiều điều bí ẩn, chứa nhiều điều bí mật, kỳ diệu cần được khám phá. Bề dày
lịch sử văn học thế giới đã được tạo dựng hàng loạt những khám phá riêng ấy. Song điều đó
không có nghia người nghệ si được phép lùi bước trong sáng tạo. Viên Mai cho rằng: “Làm
thơ quý nhất là lật đô cái án cũ mới hay”. Điều Viên Mai cho rằng “quý nhất” ấy thực chất
cần thiết với văn học nói chung, nào phải chỉ riêng thơ ca. Chỉ có điều: với tư cách là loại
hinh nghệ thuật phản ánh cuộc sống bằng phương thức trữ tinh, yêu cầu “lật đổ cái án cũ”
với thơ ca được đề cao hơn hết thảy. 7
Người nghệ si phải có một con mắt tinh sắc, một tâm hồn nhạy cảm và một tài năng
đã đến độ chín để gửi vào trong tác phẩm giọng nói riêng của minh. Anh có thể học tập, tiếp
thu tinh hoa trong tác phẩm của các nhà văn lớp trước nhưng phải trên cơ sở sự sáng tạo.
Nói như M. Gorki: “Các anh hãy học tập tất cả những nhà văn có phong cách điêu luyện,
nhưng các anh hãy tìm lấy nốt nhạc lời ca cho riêng mình”. Người nghệ si không được
phép lười biếng hay bắt chước mà phải luôn trong tâm thế tim tòi, sáng tạo. Tất nhiên điều
đó không có nghia nhà văn được phép tim tòi theo hướng cực đoan, viết những điều không ai hiểu được.
Để thơ trở thành thơ, để nghệ thuật trở thành nghệ thuật, người làm thơ phải luôn ý
thức: sáng tạo cái độc đáo. Không ai đòi hỏi khuôn mâu cho nghệ thuật, cũng không ai dạy
nhà thơ phải phản ánh thế này, xúc động thế kia. Đấy là công việc của nhà làm thơ. “Sáng
tác thơ là một việc do cá nhân thi si làm, một thứ sản xuất đặc biệt và cá thể”. Bởi vi mỗi
tâm hồn là một “vương quốc riêng”, mỗi bài thơ là một đứa con tinh thần riêng của người
nghệ si, thật khó tim thấy sự trùng lặp trong sáng tạo. Bởi vi “tầm thương là cái chết của
nghệ thuật”, sự lặp lại tẻ nhạt là cái chết của thơ ca. Độc đáo luôn là yêu cầu muôn đời của văn chương nghệ thuật.
e. Sáng tạo và lưu giữ một bài thơ hay.
- Đối với nhà thơ:
Để sáng tạo nên những vần thơ đích thực, để vươn tới đỉnh cao của nghệ thuật chân
chính, người nghệ si không những phải có tài mà cần phải có tâm, có tinh cảm mãnh liệt,
sống hết minh với cuộc đời, biết xúc động nhạy cảm trước mọi niềm vui nỗi buồn của con
người. Đồng thời, nhà văn cũng phải biết làm lây lan tinh cảm, gửi đến bạn đọc những
thông điệp sâu sắc qua các phương tiện, hinh thức nghệ thuật đẹp đẽ.
- Đối với người đọc:
Để đánh giá một tác phẩm, không chỉ chú ý đến hinh thức ngôn từ mà phải khám phá
ra chiều sâu tư tưởng, tinh cảm mãnh liệt mà tác giả gửi gắm. Đối với lịch sử văn học, để
đánh giá giá trị một tác phẩm thơ ca đích thực phải xem xét tác phẩm có sự hài hòa giữa nội dung và hinh thức. 8
CHUYÊN ĐỀ : TIẾP NHẬN VĂN HỌC
I. Tiếp nhận văn học.
1. Tiếp nhận trong đời sống văn học.
– Tiếp nhận văn học là quá trinh người đọc hoà minh vào tác phẩm, rung động với nó, đắm
chim trong thế giới nghệ thuật được dựng lên bằng ngôn từ, lắng tai nghe tiếng nói của tác
giả, thưởng thức cái hay, cái đẹp, tài nghệ của người nghệ si sáng tạo. Bằng trí tưởng tượng,
kinh nghiệm sống, vốn văn hoá và bằng cả tâm hồn minh, người đọc khám phá ý nghia của
từng câu chữ, cảm nhận sức sống của từng hinh ảnh, hinh tượng, nhân vật,…làm cho tác
phẩm từ một văn bản khô khan biến thành một thế giới sống động, đầy sức cuốn hút.
– Tiếp nhận văn học là hoạt động tích cực của cảm giác, tâm trí người đọc nhằm biến văn
bản thành thế giới nghệ thuật trong tâm trí minh.
– Phân biệt “tiếp nhận” và “đọc”: “tiếp nhận” rộng hợn “đọc” vi tiếp nhận có thể bằng
truyền miệng hoặc bằng kênh thính giác (nghe).
2. Tinh chất tiếp nhận văn học.
– Tiếp nhận văn học thực chất là một quá trinh giao tiếp (tác giả và người tiếp nhận, người
nói và người nghe, người bày tỏ và người chia sẻ, cảm thông). Vi vậy, gặp gỡ, đồng điệu
hoàn toàn là điều khó. điều này thể hiện ở hai tính chất cơ bản sau:
+ Tính chất cá thể hóa, tính chủ động, tích cực của người tiếp nhận. Các yếu tố thuộc về cá
nhân có vai vai trò quan trọng: năng lực, thị hiếu, sở thích, lứa tuổi, trinh độ học vấn, kinh
nghiệm sống,… Tính khuynh hướng trong tư tưởng, tinh cảm, trong thị hiếu thẩm mi làm
cho sự tiếp nhận mang đậm nét cá nhân. Chính sự chủ động, tích cực của người tiếp nhận đã
làm tăng thêm sức sống cho tác phẩm.
+ Tính đa dạng, không thống nhất: cảm thụ, đánh giá của công chúng về một tác phẩm rất
khác nhau, thậm chí cùng một người ở nhiều thời điểm có nhiều khác nhau trong cảm thụ
đánh giá. Nguyên nhân ở cả tác phẩm (nội dung phong phú, hinh tượng phức tạp, ngôn ngữ
đa nghia,…) và người tiếp nhận (tuổi tác, kinh nghiệm, học vấn, tâm trạng,…)
3. Các cấp độ tiếp nhận văn học.
a. Ba cấp độ tiếp nhận văn học:
– Cấp độ thứ nhất: cảm thụ chỉ tập trung vào nội dung cụ thể, nội dung trực tiếp của tác
phẩm, nội dung trực tiếp của tác phẩm. Đây là cách tiếp nhận đơn giản nhưng khá phổ biến. 9
– Cấp độ thứ hai: cảm thụ qua nội dung trực tiếp để thấy được nội dung tư tưởng của tác phẩm.
– Cấp độ thứ ba: cảm thụ chú ý đến cả nội dung và hinh thức để thấy được giá trị tư tưởng
và giá trị nghệ thuật của tác phẩm.
b. Yêu cầu tiếp nhận văn học có hiệu quả: – Nâng cao trinh độ. – Tích luỹ kinh nghiệm.
– Trân trọng tác phẩm, tim cách hiểu tác phẩm một cách khách quan, toàn vẹn.
– Tiếp nhận một cách chủ động, tích cực, sáng tạo, hướng tới cái hay, cái đẹp, cái đúng.
– Không nên suy diễn tuỳ tiện.
II. Ngươi đọc trong quá trình tiếp nhận văn chương.
1. Người đọc như một yếu tố bên trong của sáng tác văn chương.
– Người đọc không đồng sáng tạo với nhà văn, nhưng lại là một yếu tố bên trong của sáng
tác. người đọc đối với sáng tạo nghệ thuật cũng giống như một người tiêu dùng trong lao
động sản xuất. Với tư cách là một đòi hỏi, một nhu cầu, bản thân sự tiêu dùng là một yếu tố
nội tại của hoạt động lao động sản xuất (C.Mác). Người tiêu dùng là mục tiêu của sản xuất,
người đọc là mục tiêu của sáng tác. Chính nhu cầu của người tiếp nhận, người tiêu dùng,
người sử dụng văn chương là yếu tố có ý nghia quyết định đối với quá trinh văn chương.
Người đọc hiện lên trước nhà văn dưới một hệ thống câu hỏi: Viết cho ai?, Viết để làm gi?,
Viết như thế nào?. Người đọc yêu cầu, đòi hỏi, chờ đợi và phê binh nhà văn. Nhà văn sáng
tác để đáp ứng đòi hỏi bạn đọc. Người đọc tạo nên mối quan hệ trực tiếp với tác phẩm của sáng tác – tiếp nhận.
– Ai là người đọc, người tiếp nhận văn chương? Loại hinh học người đọc văn chương chia
ra nhiều loại người đọc khác nhau. Ðứng về phía người tiếp nhận, người ta chia người đọc ra 4 loại.
+ Thứ nhất là người đọc tiêu thụ. Ðây thường là loại người đọc đọc ngấu nghiến cốt truyện,
ham thích tinh huống éo le gay cấn, nhiều khúc mắc cạm bây. Loại này đọc lướt nhanh vào
giờ nhàn rỗi, tim thú giải trí, có những đánh giá dễ dãi. 10
+ Thứ hai là, loại đọc điểm sách. Loại người này có ý thức tim ở văn chương những thông
tin mới về cuộc sống, đạo đức … để thông báo cho độc giả của các báo.
+ Thứ ba là loại người đọc chuyên nghiệp – những người giảng dạy nghiên cứu phê binh ở các trung tâm nghiên cứu.
+ Thứ tư là những người sáng tác – nhà văn, nhà thơ đọc theo cảm hứng bất chợt hoặc để
tham gia viết những trang phê binh ngâu hứng. Ðứng ở góc độ sáng tác người ta chia người đọc ra làm ba loại.
. Thứ nhất: người đọc thực tế. Tức là những người đọc, người tiếp nhận sáng tác tồn tại một
cách cụ thể, cá thể. Họ là những người A, người B nào đó trong đời sống, tiếp nhận văn
chương theo cá tính, theo sở thích cá nhân. Như vậy, trước mắt người sáng tác có biết bao
nhiêu người đọc thực tế. Nhưng nhà văn không viết để đáp ứng cho từng người cụ thể mà
viết cho người đọc nói chung.
. Thứ hai: người đọc giả thiết. Ðây là loại độc giả của từng tác giả. Loại này tồn tại trong tác
giảsuốt quá trinh sáng tác từ nảy sinh ý đồ cho đến kết thúc. Nhà văn có chủ đích hướng tới họ là chủ yếu.
. Thứ ba: người đọc hữu hinh hay người đọc bên trong là loại người đọc tồn tại bên trong
tác phẩm như một nhân vật luôn đối diện và đối thoại với nhà văn, nhưng không phải nhân
vật mà là hiện thân của người đọc bên ngoài tác phẩm.
Tố Hữu viết bài thơ Kính gửi cụ Nguyễn Du, suốt bài thơ tác giả nói với cụ Nguyễn
cụ thể nhưng thực tế Tố Hữu chủ yếu viết cho người đọc thực tế hôm nay, nói với người
hôm nay. Trong thơ Tố Hữu dạng nhân vật này thường hay xuất hiện dưới đại từ em như
một đối tượng thân thiết gần gũi để tâm sự: – Em ơi Ba Lan mùa tuyết tan. – Em ạ ! Cu-ba ngọt lịm đường.
+ Ðứng ở góc độ thời gian, người ta chia người đọc ra làm 3 loại:
. Thứ nhất: người đọc hiện tại, tức loại người đọc đang sống đồng thời với tác giả, họ thực
sự tiếp nhận tác phẩm của tác giả và lên tiếng khen chê trực tiếp với tác giả. Trong số người
đọc hiện tại, có thể chia ra làm nhiều lớp theo cách khác nhau: người đọc binh thường;
người đọc của người đọc – nhà phê binh; người đọc thiếu nhi, thanh niên, công nhân, nông dân, trí thức…
. Thứ hai: người đọc quá khứ. Ðây là loại người đọc không thể và không bao giờ tiếp nhận
tác phẩm cả. Nhưng nhiều khi nó quyết định thành bại của tác phẩm. khi Tố Hữu viết Kính 11
gửi cụ Nguyễn Du thi đây phải là bức thư gởi cụ Nguyễn Du nào đó đang sống thực sự ở
đâu đó, mà là gửi cho linh hồn cụ Nguyễn Du. Và chính Nguyễn Du lúc sinh thời cũng đã
có loại người đọc như thế. đó là Tiểu Thanh (xem bài thơ Ðộc Tiểu Thanh ký. Nhân vật
nàng trong màu tím hoa sim của Hữu Loan cũng lại là một người đọc quá khứ.
. Thứ ba: người đọc tương lai. Loại người đọc này chưa tồn tại thực tế sẽ có thể, hoặc không
thực sự đọc tác phẩm nhưng vân xuất hiện trong quá trinh làm tác phẩm của tác giả, và có
khi là chủ đích hướng tới của nhà văn. Nhà văn muốn gởi thế kỉ mai sau, muốn nói chuyện
với người 300 năm sau như Nguyễn Du đã nói: “Bất tri tam bách dư niên hậu / Thiên hạ hà
nhân khấp Tố Như”. Stendhal thi chờ người đọc nửa thế kỉ sau.
+ Lại có cách chia người đọc theo ý thức hệ. Cách này, chia người đọc ra làm 2 loại.
. Thứ nhất: người đọc bạn bè, đây là loại người đọc chỉ hướng, cùng quan điểm xã hội, lập
trường tư tưởng. Phần lớn các tác giả có đông đảo bạn đọc loại này. Ðây là loại bạn đọc chí
cốt mà Tố Hữu đã nói: Tôi buộc hồn tôi với mọingười. để hồn tôi với bao hồn khổ.
. Thứ hai: loại người đọc đối thủ. Loại người đọc này trái với chí hướng, lập trường giai cấp
xã hội của minh. chẳng hạn cụ Ngáo trong bài thơ Hởi cụ Ngáo của Tố Hữu.
– Tính quyết định của người đọc đối với quá trinh sáng tác văn chương là ở chỗ nếu không
có người đọc thi không có bản thân quá trinh sáng tác. Nghệ thuật như là một hinh thức giao
tiếp. Nó ra đời để đáp ứng nhu cầu giao lưu, trao đổi giữa người viết văn và người đọc văn,
nhưng trước hết là để thỏa mãn nhu cầu tự bộc lộ minh của người sáng tác. Người đọc lúc
này sẽ là nơi gởi gắm tâm sự của nhà văn. Ở đây người đọc trở thành người phục vụ nhà
văn. Ðến lượt minh, nhà văn lại trở thành người phục vụ bạn đọc. Ðây là một mục tiêu quan
trọng của sáng tạo nghệ thuật. Nghệ thuật phục vụ người đọc ở 2 phương diện. Một là thỏa
nhu cầu nghệ thuật của họ. Hai là đào tạo họ thành những người sính nghệ thuật. Rồi những
người sính nghệ thuật đó lại yêu cầu nghệ si không được tự thỏa mãn mà phải nâng minh
lên. Ðây là một sự phát triển theo đường tròn xoáy ốc. Tác phẩm nghệ thuật – và mọi sản
phẩm khác cũng thế, – đều tạo một thứ công chúng sính nghệ thuật và có khả năng thưởng
thức cái đẹp, như vậy là sản xuất không những chỉ sản sinh ra một đối tưọng cho chủ thể,
mà còn sản sinh ra một chủ thể cho đối tượng. (C. Mác)
2. Vai trò của người đọc đối với đời sống lịch sử của văn chương.
– Cấu trúc nội tại của tác phẩm với tính đa thanh, đa giọng điệu, nhiều tầng nghia do thuộc
tính phản ánh và khái quát đời sống và chất liệu ngôn từ đã tạo nên phương diện khách quan
của đời sống lịch sử tác phẩm nghệ thuật. Còn người đọc thực tế tạo ra phương diện chủ 12
quan của đời sống lịch sử tác phẩm nghệ thuật. Chính vai trò năng động sáng tạo của bạn
đọc đã làm cho đời sống lịch sử của nghệ thuật vô cùng phong phú, sinh động.
– Ta có thể thấy những yếu tố cụ thể từ phiá người đọc tham gia vạch ra con d8ường lịch sử của văn chương:
+ Khác với tiếp nhận khoa học, tiếp nhận nghệ thuật có một công chúng rộng rãi. Tính chất
dân chủ rộng rãi của tiếp nhận sẽ vẽ ra gương mặt đa dạng của tác phẩm. Mọi người, mọi
lứa tuổi, mọi giới tính, mọi nghề nghiệp, giai cấp đều có thể tiếp nhận văn chương và tiếp
nhận theo cách của minh. Do đó, ở trong mỗi một độc giả sẽ có một hinh tượng mà hinh
tượng đó sẽ không trùng khít với hinh tượng tác phẩm và cũng không trùng khít với hinh
tượng mà người khác cùng tiếp nhận. Quyết định tới tính đa dạng và đa diện của nghệ thuật
từ phía chủ thể tiếp nhận là do tuổi tác đã đành, còn do cá tính cảm xúc, quan điểm thẩm mi,
thị hiếu thẩm mi khác nhau; lại còn do trinh độ văn hóa, địa vị xã hội, thành phần giai cấp,
năng lực của từng người…
+ Mặt khác, lại còn tâm lí tiếp nhận của công chúng. Công chúng tiếp nhận có nhiều kiểu.
Loại tiếp nhận để giết thi giờ lúc chờ đợi, hay rảnh rỗi. Loại này chủ yếu đọc ngấu nghiến
tiếp nhận một cách bàng bạc, hời hợt. Loại người tiếp nhận sâu về phương diện đồng cảm,
đồng điệu của hinh tượng. Với những người này hinh tượng trở nên sống động một cách kỳ
lạ: y như thật. Có người đã tưởng thật. Có người thuơng khóc, hay uất ức thực sự đối với
nhân vật: loại người tiếp nhận thiên về lí trí. Loại này khai thác sâu phương diện khái quát
của hinh tượng. Họ nặng suy tư, suy tính. Hinh tượng nghệ thuật đến với họ đều ở bề chim.
Loại người tiếp nhận sơ lược, nắm bắt hinh tượng không trọn vẹn. Hinh tượng nghệ thuật
đến với những người này không toàn bích và chỉ ở một số phương diện, khía cạnh nào đấy.
Cuối cùng là loại người tiếp nhận trọn vẹn. Loại người này tiếp nhận hinh tượng một cách
đa diện, cả chiều cao, chiều sâu, bề chim bề nổi nhận ra phong cách nghệ thuật, thi pháp và tư tưởng tác phẩm.
– Tiếp sức, định hướng, chế ước người đọc đó là điều kiện lịch sử – xã hội. Trong điều kiện
xã hội phát triển, đời sống văn hóa nâng cao người có điều kiện tiếp nhận nghệ thuật và tiếp
nhận tốt hơn trong xã hội có điều kiện kinh tế thấp. Trong điều kiện xã hội có những biến
động nào đấy về chính trị -xã hội, ví du,ï đang hoà binh chuyển sang chiến tranh và ngược
lại thi việc tiếp nhận nghệ thuật của công chúng cũng sẽ bị ảnh hưởng v.v… Ðã có một thời
công chúng tiếp nhận vở chèo Lưu Binh – Dương Lễ ở phương diện tinh bạn cao cả đầy ân
nghia của Dương Lễ; dám cho vợ đi tim Lưu Binh để nuôi ăn học thành đạt. Trong chế độ
đa thê, năm the, bảy thiếp, thi người tiếp nhận, kể cả phụ nữ cũng rất tán đồng Dương Lễ.
Nhưng trong chế độ chúng ta – chế độ phụ nữ được giải phóng, được tôn trọng thi người ta 13
không tán thành cách làm của Dương Lễ. Và vở chèo đó không được dàn dựng, không được
tiếp nhận như trước đây nữa.
– Tất cả những điều trên đây chúng ta chỉ mới nói với vai trò người đọc trong tiếp nhận ở
góc độ thiên về phương diện nào đó của hinh tượng, nhưng chưa nói tới việc người đọc mở
rộng giới hạn nghia cho hinh tượng. Nói mở rộng giới hạn nghia không có nghia là người
đọc viết thêm vào tác phẩm, mà người đưa tác phẩm vào hoàn cảnh của minh, quan hệ với
minh và phát hiện ra nghia cho tác phẩm từ những quan hệ mới, có thể thấy điều này qua
lịch sử tiếp nhận Truyện Kiều của Nguyễn Du và nhiều trường hợp tiêu biểu khác. Hinh
tượng cô Tấm trong truyện cổ tích Tấm – Cám được các loại người nhận khác nhau cảm
nhận khác nhau. Ðối với người binh dân xưa, cô Tấm điển hinh cho quan niệm đạo đứcở
hiền gặp lành. Ðối với Chế Lan Viên, cô Tấm là của tài năng diệu kỳ: Ôi đất nước của vạn
nghin cô Tấm Xé vỏ thị bà tiên ra mà làm chuyện bất ngờ – Ở Phó Ðức Phương, cô Tấm là
hiện thân của vẻ đẹp trong lao động, của tinh yêu lao động : Những cô Tấm ngày xưa như
vân còn đây trong mùa trẩy hội. – Ðến đây ta thấy được vấn đề bức thiết đặt ra cho nghệ
thuật là cần phải đào tạo người đọc, để người tiếp nhận biết cách đọc, thói quen đọc, kỹ
năng đọc. Có thể có 4 bước cho người đọc như sau: + Trước hết, lựa chọn sách đọc. chọn
những sách phù hợp với khát vọng lớn lao, chính đáng của con người như hoà binh, tự do,
chống bạo lực, tinh yêu, tinh bạn, tinh người. + Thứ đến, định hướng đọc: đọc để làm gi?
Ðể thỏa mãn nhu cầu hiểu biết, giáo dục, thẩm mi, giải trí, giao tiếp v.v… + Thứ ba,
phương pháp đọc: tim các mã của văn bản, các đặc trưng phong cách, các thao tác phân tích,
thống kê, đối chiếu. + Thứ tư, đánh giá tác phẩm: Giá trị nội dung và tư tưởng xét trên nhiều
chiều đồng đại và lịch đại v.v 14
Document Outline
- CHUYÊN ĐỀ : THƠ VÀ ĐẶC TRƯNG CỦA THƠ.
- 2.Đặc trưng của thơ ca.
- Như vậy, một tác phẩm thơ hay yêu cầu:
- b.Tình cảm trong thơ.
- c.Thơ ca trong mối quan hệ với hiện thực.
- d.Sáng tạo trong thơ ca.
- e.Sáng tạo và lưu giữ một bài thơ hay.
- -Đối với nhà thơ:
- -Đối với người đọc:
- CHUYÊN ĐỀ : TIẾP NHẬN VĂN HỌC
- 1.Tiếp nhận trong đời sống văn học.
- 2.Tính chất tiếp nhận văn học.
- 3.Các cấp độ tiếp nhận văn học.
- II.Người đọc trong quá trình tiếp nhận văn chương.
- 1.Người đọc như một yếu tố bên trong của sáng tác vă
- 2.Vai trò của người đọc đối với đời sống lịch sử của