Cội nguồn văn hóa Việt Nam-Trường Đại học Ngoại ngữ- Đại học Quốc gia Hà Nội
Cùng với khoa học – công nghệ và giáo dục đào tạo, các hoạt ộng văn hoá – văn nghệ có vị trí quan trọng trong việc xây dựng một xã hội phát triển, làm phong phú đời sống tinh thần con người, dân tộc đến sự văn minh…
Môn: Cơ sở văn hóa Việt Nam(CSVHVN)
Trường: Trường Đại học Ngoại ngữ, Đại học Quốc gia Hà Nội
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
lOMoAR cPSD| 47882337
CỘI NGUỒN CỦA VĂN HÓA VIỆT NAM
Cùng với khoa học – công nghệ và giáo dục – ào tạo, các hoạt ộng văn hoá – văn
nghệ có vị trí quan trọng trong việc xây dựng một xã hội phát triển, làm phong phú ời sống
tinh thần con người, ưa dân tộc ến sự văn minh…Trong số ó, văn hoá là nền tảng xã hội,
là ộng lực thúc ẩy dân tộc phát triển theo hướng an sinh, bền vững. Văn hoá thể hiện trong
mọi lĩnh vực của ời sống. Các phương thức biểu hiện, lưu giữ và truyền ạt văn hoá rất
phong phú và a dạng. Trong số ó, nổi bật và tiêu biểu là phương thức ngôn ngữ biểu ạt văn
hoá qua các hình thức sáng tác, trong ó có văn học dân gian.
1. Đặc trưng văn hoá và cội nguồn văn hoá
a) Vấn ề xác ịnh ặc trưng văn hoá
Nếu hiểu văn hoá là những giá trị vật chất và tinh thần, có tính biểu trưng và tồn tại
lâu ời do con người tạo ra, thì dân tộc nào cũng có văn hoá, cộng ồng nào cũng có văn
hoá. Có những giá trị văn hoá mang tính hằng thể chung cho cả nhân loại, lại có những giá
trị văn hoá mang tính ặc thù, chỉ có ở cộng ồng này mà không thấy rõ ở cộng ồng kia và ngược lại.
Những giá trị văn hoá ặc thù ấy chính là ặc trưng văn hoá.
Khi xác ịnh, ánh giá ặc trưng văn hoá của một cộng ồng hay một dân tộc nào ó, có
người ưa ra thang ộ cao thấp (chẳng hạn, E.B. Taylor), có người ưa ra tiêu chí khác biệt (F. 1
Downloaded by June Lee (lenhungkttm@gmail.com) lOMoAR cPSD| 47882337
Boas). Trong ó, ý kiến xác ịnh văn hoá là sự khác biệt dễ tạo sự ồng thuận hơn. Nói chung,
sự khác biệt tạo ra ặc trưng; nói riêng ở phạm trù văn hoá, ặc trưng văn hoá của mỗi dân
tộc trước hết ược minh ịnh dựa trên sự khác biệt giữa văn hoá dân tộc này với văn hoá dân
tộc khác. Chẳng hạn, ặc trưng văn hoá Mỹ là coi trọng nguyên tắc, văn hoá Ấn Độ là tính
khoan dung, văn hoá Trung Hoa là trọng tôn ty, văn hoá Việt Nam là trọng tình nghĩa…
Có thể hiểu, ặc trưng văn hoá là những nét trội về một hay một số mặt nào ó của văn
hoá một dân tộc hay một cộng ồng. Những nét trội này làm thành các giá trị văn hoá cơ
bản, tiêu biểu, có tính bền vững; cùng với các giá trị khác, chúng làm thành nền văn hoá.
Như vậy, ặc trưng văn hoá của một dân tộc chính là những giá trị tiêu biểu về tinh thần và
vật chất mà dân tộc ã tích luỹ trong quá trình lịch sử, nó có tính bền vững, có ý nghĩa lâu
dài, có giá trị khu biệt. Có như thế, ặc trưng văn hoá mới làm thành bản sắc văn hoá. Tìm
hiểu văn hoá dân tộc chính là tìm hiểu cái bản sắc ấy, tức cũng là xác ịnh nét khác biệt.
Hành tinh của chúng ta hiện có hơn 220 quốc gia với hàng trăm dân tộc, có khoảng
hơn 6 tỷ người ang sinh sống. Với tất cả sự phong phú và phức tạp ấy, con người – xét về
mặt văn hoá- vừa có tính a dạng trong sự thống nhất, vừa có tính thống nhất trong sự a dạng.
Thế giới hiện có 38 nền văn minh (11; tr.31), có 34 nền văn hoá, trong ó có 17 nền văn hoá
có bản sắc (10; tr.12). Vậy, những nền văn hoá nào không có bản sắc, có những nền văn
hoá nào bản sắc mờ nhạt? Và có những nền văn hoá mang bản sắc nổi trội? Những câu hỏi
này, muốn trả lời cho thật ầy ủ, hẳn là phải có thời gian và nhiều nguồn tư liệu… Nhưng
trước mắt ta hãy bằng lòng với kết quả phân loại trên ây. Và trong số các nền văn hoá bản
sắc, có tên văn hoá Việt Nam chúng ta. Vậy, bản sắc văn hoá dân tộc có nguồn gốc từ âu
và thể hiện qua những dấu hiệu nào và như thế nào?
b) Về cội nguồn của văn hoá dân tộc
Về nguồn gốc hình thành văn hoá dân tộc, hiện ang còn có nhiều ý kiến khác nhau.
Trong ó, nổi bật nhất khi xem xét cội nguồn của văn hoá, liên quan ến việc xác ịnh ặc trưng
văn hoá là các ý kiến nói về iều kiện tự nhiên. Con người là một bộ phận của tự nhiên, “là
sản phẩm của tự nhiên” (F. Enghen), có khả năng chinh phục tự nhiên, nhưng ồng thời cũng
bị chi phối bởi tự nhiên. Một xã hội tồn tại luôn hiện hữu nhiều mối quan hệ: quan hệ nội 2
Downloaded by June Lee (lenhungkttm@gmail.com) lOMoAR cPSD| 47882337
tại và quan hệ ngoại tại. Nhưng chúng ta không thể phủ nhận một thực tế rằng, ý thức xã
hội, những sản phẩm mà con người tạo ra, trong ó có văn hoá, ều có mối liên hệ chặt chẽ
với môi trường sinh tồn bao quanh xã hội. Nhà sử học Hà Văn Tấn cho rằng: “Tâm lý dân
tộc biểu hiện trong phong cách tư duy, lối ứng xử (hay hành vi), ồng thời biểu hiện ra trong
tình cảm dân tộc. Nó bị chế ước bởi các iều kiện tự nhiên, iều kiện xã hội và iều kiện lịch
sử”. (14; tr.16). Nhận xét trên làm rõ: tâm lý dân tộc và rộng hơn là văn hoá dân tộc có liên
quan mật thiết ến môi trường tự nhiên, và các iều kiện khác. Nhà dân tộc học Từ Chi cũng
xác ịnh: “Từng nền văn hoá, xét cho cùng, ều là hậu quả của việc từng cộng ồng ể tồn tại,
phải thích ứng với thiên nhiên bao quanh nó”. (Từ ịnh nghĩa của văn hoá, tr.55). Nhà sử
học Trần Quốc Vượng nêu rõ: “Mối quan hệ của con người với tự nhiên là mối quan hệ
nhiều chiều, mối quan hệ thích nghi, không thích nghi và biến ổi (tự nhiên, xã hội và chính
mình)… Phải xuất phát từ những iều kiện tự nhiên, rồi sau ó những iều kiện lịch sử ể nhìn
nhận về cội nguồn và bản sắc văn hoá”. (14; tr.30,33).
Nhà nghiên cứu ngôn ngữ – văn hoá Trần Ngọc Thêm lý giải: “Bởi văn hoá là sản
phẩm của con người và tự nhiên nên nguồn gốc sâu xa của mọi sự khác biệt về văn hoá
chính là do những khác biệt về iều kiện tự nhiên ( ịa lý- khí hậu) và xã hội (lịch sử – kinh
tế) quy ịnh” (11; tr.36). Với cách nhìn như vậy, tác giả ã lần tìm ra mối quan hệ ảnh hưởng,
chi phối giữa các mặt, theo thứ tự: iều kiện tự nhiên, môi trường sinh tồn – nghề nghiệp –
ời sống – tâm lý, quan niệm…với văn hoá; trong ó, tự nhiên – môi trường là xuất phát iểm.
Hai iều kiện môi trường tự nhiên của phương Tây và phương Đông khác nhau ã làm thành
hai nền văn hoá với những ặc trưng khác nhau. –
Phương Tây: khí hậu lạnh, khô – có vùng ồng cỏ – thích hợp chăn nuôi – tạo
nên lối sống du cư – có tâm lý coi thường, có tham vọng chinh phục tự nhiên – lối tư duy
thiên về phân tích – trọng sức mạnh, trọng tài, trọng võ, trọng nam; có tính nguyên tắc và
quân chủ, trọng cá nhân – có tính ộc tôn, cứng rắn, hiếu thắng… => Văn hoá trọng ộng (gốc du mục). 3
Downloaded by June Lee (lenhungkttm@gmail.com) lOMoAR cPSD| 47882337 –
Phương Đông: khí hậu nóng, ẩm – có nhiều ồng bằng – thích hợp nghề trồng
trọt – tạo nên lối sống ịnh cư – có tâm lý tôn trọng, hoà hợp với tự nhiên – lối tư duy thiên
về tổng hợp, biện chứng – trọng tình, trọng ức, trọng văn, trọng nữ; có tính dân chủ, trọng
cộng ồng – có tính dung hợp, mềm dẻo, hiếu hoà… => Văn hoá trọng tĩnh (gốc nông nghiệp).
Trong sự phân chia trên, iển hình của văn hoá mang ặc trưng gốc nông nghiệp phương
Đông là Đông Nam Á, tạo thành không gian văn hoá vùng Đông Nam Á. Việt Nam là một
ất nước có khí hậu nóng ẩm, mưa nhiều; có nhiều vùng ồng bằng và sông nước, với nghề
nghiệp trồng lúa nước là chủ yếu… Như thế, Việt Nam chính là nơi hội tụ ở mức ầy ủ nhất
mọi ặc trưng của văn hoá khu vực. Việt Nam là một Đông Nam Á thu nhỏ. Cho nên, từ
trong cội nguồn, không gian văn hoá Việt Nam ược ịnh hình trên nền không gian văn hoá
khu vực Đông Nam Á tiền sử (11; tr.60- 61). Đó là nhân tố ầu tiên và cũng là nhân tố làm
nên ặc trưng gốc của văn hoá Việt Nam.
Sau này, do nhiều iều kiện khác nhau, Việt Nam chúng ta tiếp xúc với các nước khác-
tức cũng là các nền văn hoá khác, như Trung Hoa, Ấn Độ (từ rất sớm), sau ó là tiếp xúc với
văn hoá phương Tây… – Trong bối cảnh ó, dù sớm hay muộn, dù nhiều hay ít, văn hoá Việt
Nam cũng ã có những ảnh hưởng nhất ịnh và ã tiếp nhận các nền văn hoá này ở những mức
ộ khác nhau, ặc biệt là với văn hoá Trung Hoa. Đây là nhân tố thứ hai, góp phần làm nên
ặc trưng văn hoá Việt Nam.
Tuy vậy, với iều kiện môi trường tự nhiên khí hậu nóng ẩm, mưa nhiều, với một
không gian xã hội ược ịnh hình rất sớm, nên ặc trưng gốc văn hoá nông nghiệp lúa nước
vẫn bảo lưu, làm thành mạch ngầm xuyên suốt chiều dài không gian và thời gian dân tộc
Việt; và ây chính là ặc tính trội nhất khi nói về bản sắc văn hoá Việt Nam, về lịch sử dân
tộc Việt Nam. Đặc trưng này có tác dụng chi phối các ặc trưng văn hoá khác. Vậy, ặc trưng
gốc này thể hiện trong ời sống vật chất và tinh thần của con người Việt Nam, văn hoá Việt Nam như thế nào?
c) Cội nguồn văn hoá và sự biểu thị văn hoá dân tộc 4
Downloaded by June Lee (lenhungkttm@gmail.com) lOMoAR cPSD| 47882337
Theo giới nghiên cứu ngoài nước và trong nước (10,11,14), khi tìm hiểu văn hoá Việt,
người ta nhận thấy mối liên hệ rất rõ giữa sự phong phú về iều kiện tự nhiên và tính a dạng về văn hoá.
Trước hết, ất nước ta ở trong một môi trường tự nhiên nước, sông nước bao quanh
con người; yếu tố này chiếm vị trí ặc biệt, chi phối, ảnh hưởng ến nhiều mặt trong cuộc
sống xã hội. Chẳng hạn:
Về nghề nghiệp, nghề trồng lúa nước là chủ ạo với kỹ thuật canh tác: cấy, gieo, vãi,
tỉa, trồng; cày, bừa, gặt, ập… và một hệ thống thống thuỷ lợi thể hiện công sức của con
người trong ứng biến với môi trường (nước) và nghề nghiệp (trồng lúa nước): ê, kênh, hồ,
ập, mương máng…Về ăn ở, sinh hoạt, phong tục tập quán, những ặc tính văn hoá này cũng
in ậm dấu ấn của môi trường sông nước. ăn chủ yếu là cơm (sản phẩm từ lúa nước), với các
thức ăn là cá, tôm, cua, mực (các loài sinh vật dưới nước). Về ở, con người sinh sống cố
kết với nhau, ịnh cư thành làng xóm (cách sống iển hình của cư dân nông nghiệp); các vùng
cư trú gần nước: làng chài, làng ven sông, bến chợ, bến sông, với các loại nhà: nhà ất, nhà
gỗ, nhà sàn, nhà thuyền; các phương tiện vận chuyển, sinh hoạt cũng gắn liền với nước:
thuyền, bè, nốc, ghe, mảng… Những phong tục sinh hoạt cộng ồng cũng liên quan ến nước:
hội ua thuyền, bơi chải, kết èn hoa ăng; tục thờ cá, rắn, thuỷ thần; nghệ thuật dân gian
cũng dựa nhiều bối cảnh của nước: rối nước, chèo, tuồng, các iệu hò lý diễn ra trên sông hồ, bến bãi…
Thứ hai, iều kiện thiên nhiên bao quanh xã hội luôn gắn liền với môi trường thực vật,
làm thành ặc trưng văn hoá thuần Việt. Lúa là cây lương thực chủ yếu, nhưng ngoài ra còn
có nhiều cây khác ược chăm sóc, thuần dưỡng nuôi sống con người, như: ngô, khoai, sắn,
ậu, lạc, vừng… Trên mặt ất, bao quanh nơi ở con người là “xanh muôn ngàn cây lá khác
nhau”, ặc biệt là tre, hóp, mây, nứa, cam chanh, bưởi, hồng, khế, bầu bí… “Dưới bóng tre
xanh, người dân cày Việt Nam trồng nhà, dựng cửa, vỡ ruộng, khai hoang” (Thép Mới). Và
cũng dưới bóng tre xanh, nhân dân ta “gìn giữ một nền văn hoá lâu ời”, ó là: tục thờ cây,
thờ cúng người chết bằng bát cơm, ôi ũa, quả trứng; trầu cau là vật phẩm không thể thiếu
trong cưới hỏi, giao ãi; các lễ hội: ánh u, cầu kiều, thả diều… ều có hình bóng của thế giới 5
Downloaded by June Lee (lenhungkttm@gmail.com) lOMoAR cPSD| 47882337
thực vật. Cho nên, có người gọi nền văn minh Việt Nam là “nền văn minh thực vật” (ý của
học giả người Pháp P. Gourou, dẫn theo Trần Quốc Vượng, 14; tr.35).
Điều kiện tự nhiên ấy có nhiều thuận lợi cho con người sinh tồn và phát triển từ những
buổi ban ầu sinh cơ lập nghiệp, khai mở thiên nhiên: dễ kiếm cái ăn, cái ở, cái mặc. Nhưng
kèm theo ó, nó cũng gây cho cuộc sống con người biết bao tai ương: lụt lội, hạn hán, bão
tố, ẩm thấp, dịch bệnh… Con người là sản phẩm của hoàn cảnh, vì thế, môi trường tự nhiên
ấy cũng góp phần hình thành tâm lý, tình cảm, nhận thức (lý trí) của con người Việt Nam,
với tư cách là chủ thể văn hoá. Điều kiện tự nhiên ã có ảnh hưởng những mặt này như thế nào?
Có nhiều cách ể trả lời câu hỏi này, tuỳ thuộc vào iểm nhìn, nguồn tư liệu… Nhưng
trước hết phải thấy rằng, con người dù ở âu cũng mang trong mình hai ặc trưng: con người
là một cá thể tự nhiên, mang ặc trưng nguyên gốc của giống loài; nhưng mặt khác, con
người là sản phẩm của hoàn cảnh, chịu sự tác ộng của hoàn cảnh, bao gồm hoàn cảnh tự
nhiên và hoàn cảnh xã hội. Có thể từ một cội nguồn ban ầu, xã hội loài người, với những
iều kiện tự nhiên khác nhau, ã phân chia thành những “cành, nhánh” khác nhau như ngày
nay. Vì vậy, con người không chỉ là chủ thể của văn hoá, ối tượng của văn hoá mà còn là
hiện thân của sự phản chiếu văn hoá, của môi trường sống. Điều này có thể thấy, khi nghiên
cứu con người Việt Nam, nhiều công trình (10,11,14) ã thống nhất nhận ịnh những tính trội
của người Việt Nam – những ức tính phẩm chất tốt ẹp này ều có liên quan ến những ặc
trưng cội nguồn trên. Chẳng hạn:
Con người Việt Nam có tinh thần yêu nhà, yêu làng, yêu nước (bởi lối sống ịnh cư,
quần tụ); sống trọng tình nghĩa (vì phải dựa vào nhau, tương trợ, chia sẻ nhau trong cuộc
sống và trong lao ộng theo lối tự cung tự cấp); mềm dẻo trong ứng xử với cộng ồng (là nét
ặc thù của cư dân nông nghiệp: lấy dung hợp, hiếu hoà làm trọng), dễ thích nghi với môi
trường tự nhiên (chấp nhận mọi sự biến ổi, tuỳ thuộc, thích ứng mọi chi phối của tự nhiên);
cần cù trong lao ộng (lấy cần cù ể bù lại những khó khăn, cản trở của iều kiện tự nhiên, của
phương thức sản xuất nông nghiệp cổ truyền); giỏi chịu ựng gian khổ (vì iều kiện tự nhiên 6
Downloaded by June Lee (lenhungkttm@gmail.com) lOMoAR cPSD| 47882337
không phải lúc nào cũng thuận lợi; hạn hán, lụt lội dễ xảy ra, con người dễ gặp bất trắc,
hiện nay ta tâm lý “sống chung với lũ”)... Những ánh giá trên ây có thể xem như là những
khái quát một phần cơ bản bản sắc con người – văn hoá dân tộc.
Nhưng bên cạnh ó, con người Việt Nam cũng kèm theo những mặt tiêu cực. Đã có
nhiều ý kiến ánh giá về phẩm chất cũng như những thói hư tật xấu của người Việt Nam.
Trong ó có nhiều mặt nhược iểm lại bắt nguồn từ chính những nguyên nhân ã làm thành ưu
iểm, những phẩm chất của con người Việt Nam. Chẳng hạn, nền nông nghiệp lúa nước là
ặc trưng văn hoá của ta, nhưng cũng từ ó hình thành tâm lý tiểu nông (sản xuất nhỏ, manh
mún, ít có tầm nhìn xa, bảo thủ); lối sống coi trọng tình nghĩa là mặt tốt, nhưng cũng từ ó
nảy sinh mặt trái là tính tuỳ tiện, ít trọng lý, ít trọng nguyên tắc, xuề xoà, hoà cả làng…
Những iểm này, không chỉ chúng ta, người trong cuộc nhìn thấy (xin tham khảo, chẳng hạn
nhận xét của Đào Duy Anh, Việt nam văn hoá sử cương; tr. 24), mà người ngoài nhìn vào
cũng thấy khá rõ. Đây là nhận xét của một viện nghiên cứu xã hội Mỹ.
Mười ặc iểm của người Việt: 1
– Cần cù trong lao ộng nhưng dễ thoả mãn nên tâm lí hưởng thụ còn nặng. 2
– Thông minh, sáng tạo nhưng có tính ối phó, thiếu tầm tư duy dài hạn, chủ ộng. 3
– Khéo léo nhưng không duy trì ến cùng (ít quan tâm ến sự hoàn thiện cuối
cùng của sản phẩm). 4
– Vừa thực tế , vừa mơ mộng nhưng không có ý thức nâng lên thành lí luận. 5
– Ham học hỏi và khả năng tiếp thu nhanh nhưng khi học không ến nơi ến
chốn nên kiến thức không thành hệ thống, mất căn bản. Ngoài ra, học tập không còn mục
tiêu tự thân của nhiều người Việt Nam (nhỏ học vì gia ình, lớn học vì sĩ diện, ể kiếm công
ăn việc làm, ít vì chí khí am mê). 6
– Xởi lởi, chiều khách nhưng không bền. 7
– Tiết kiệm nhưng nhiều khi hoang phí vì những mục tiêu vô bổ (sĩ diện, khoe
khoang, thích hơn người). 7
Downloaded by June Lee (lenhungkttm@gmail.com) lOMoAR cPSD| 47882337 8
– Có tinh thần oàn kết, tương thân tương ái, iều ó chỉ xảy ra trong những
hoàn cảnh có khó khăn, bần hàn. Trong iều kiện sống tốt hơn, giàu có hơn thì tinh thần này ít khi xuất hiện. 9
– Yêu hoà bình và nhẫn nhịn nhưng nhiều khi hiếu thắng vì những lí do tự ái
lặt vặt, ánh mất ại cục. 10
– Thích tụ tập nhưng lại thiếu tính liên kết ể tạo ra sức mạnh (cùng một
việc ,một người làm thì tốt, ba người làm thì kém, bảy người làm thì hỏng).
(Dẫn theo Phạm Tấn Đắc,7; tr.293)
Có thể nói, những ặc tính tốt xấu này ều có liên quan mật thiết ến ặc trưng gốc ã nói
trên: iều kiện tự nhiên ã làm thành hệ giá trị văn hoá và tính cách – tâm lý con người Việt
Nam với những chế ịnh ậm nét của nền văn hoá nông nghiệp lúa nước.
2. Tìm hiểu ặc trưng văn hoá dân tộc qua ca dao Việt Nam.
a) Cơ sở tìm hiểu ặc trưng văn hoá dân tộc qua ca dao.
Văn hoá thể hiện qua nhiều cách thức, nhiều phương tiện, trong số ó, ngôn ngữ là
phương tiện quan trọng thể hiện văn hoá. “Toàn bộ các từ trong ngôn ngữ, ó chính là phương
tiện nối kết các hiện tượng bên ngoài với thế giới bên trong của con người… Đặc biệt, bản
sắc riêng của mỗi dân tộc luôn luôn ược thể hiện qua tiếng mẹ ẻ của họ; ngôn ngữ là nơi
bảo lưu tinh thần, văn hóa dân tộc, sức mạnh liên minh giữa các dân tộc- tất cả ể lại dấu ấn
tài tình trong mỗi âm thanh” (W. Humbold; 1; tr.203). “Ngôn ngữ ã chứa ựng trong mình
toàn bộ di sản văn hoá của các thế hệ trước, xác ịnh hành vi của những con người hiện tại,
trong một mức ộ nào ó, ngôn ngữ còn làm tiền ề cho con người trong tương lai, có nghĩa
chính ngôn ngữ sản sinh và sáng tạo ra con người” (M. Kheydegger, dẫn theo 1; tr.203). Vì
lẽ ó, ngôn ngữ không chỉ là hiện thân của văn hoá, một thành tố của văn hoá, mà còn là
phương tiện truyền ạt văn hoá. “Ngôn ngữ vừa là iều kiện tồn tại, vừa là sản phẩm văn hoá
nhân loại, bởi vậy, trong mọi nghiên cứu về ngôn ngữ nhất thiết phải coi chính văn hoá
cũng là ối tượng của mình.” (Vinocua,1960). Điều ó cũng có nghĩa là mọi nghiên cứu về
văn hoá cũng không thể không nghiên cứu chất liệu ngôn ngữ. Như thế, từ chất liệu ngôn
ngữ, nhất là chất liệu làm nên tác phẩm văn học, ể i tìm lịch sử dân tộc, văn hoá dân tộc là 8
Downloaded by June Lee (lenhungkttm@gmail.com) lOMoAR cPSD| 47882337
hoàn toàn có cơ sở khoa học. Chất liệu ó càng cổ xưa thì chúng ta càng có iều kiện ể thấy
rõ hơn cội nguồn, nhất là khi tìm về những giá trị văn hoá tinh thần truyền thống. Một trong
những nguồn ngữ liệu ó chính là các sáng tác dân gian. Tất cả những gì con người tạo ra
ều có tính văn hoá, ều có dấu ấn của ngôn ngữ, vậy giải mã văn hoá có thể căn cứ vào
nhiều thông số, nhưng chiếc chìa khoá rất quan trọng, ể có thể giải mã văn hoá của dân
tộc, ó chính là ngôn ngữ của dân tộc ấy.
Việc tìm hiểu ca dao ể góp phần làm rõ những ặc trưng văn hoá dân tộc là có cơ sở
khoa học, và nó cũng rất cần thiết về mặt lý luận và thực tiễn. Từ năm 1948, báo cáo “Chủ
nghĩa Mác và vấn ề văn hoá Việt Nam” ã nêu rõ: “Bên cạnh văn hoá chính thống của các
thời ại, có cả một nền văn hoá nhân dân còn lưu lại ở phương ngôn, ngạn ngữ, ca dao, cổ
tích, tranh gà lợn… Văn hoá này tả sự phấn ấu của người sản xuất (làm ruộng, làm thợ),
lòng mong mỏi hay chí phản kháng của dân, chế giễu mê tín hủ tục hay khuyên răn iều
thiện. Đó là một kho tàng rất quý mà các nhà văn hoá, sử học và khảo cổ nước ta còn phải
dày công tìm bới mới hiểu hết ược” (9; tr.128).
b) Việc nghiên cứu ca dao từ góc ộ văn hoá
Việc nghiên cứu ca dao nói riêng, văn học dân gian nói chung là một công việc không
mới, ã có nhiều công trình nghiên cứu ca dao và các loại hình sáng tác dân gian (như thành
ngữ, tục ngữ, truyện cổ tích…) từ nhiều góc ộ, trong ó có góc nhìn từ văn hoá học.
Ở phạm vi quốc tế, văn hoá là một trong những vấn ề lớn ược xã hội nói chung, những
người làm công tác nghiên cứu thuộc lĩnh vực Khoa học xã hội và nhân văn nói riêng, quan
tâm tìm hiểu từ lâu. Đã có hàng trăm công trình với những quy mô khác nhau khảo cứu về
văn hoá và vài trò của văn hoá, mối quan hệ giữa văn hoá với các lĩnh vực khác trong ời
sống các dân tộc. Trong số ó, hướng tìm hiểu, tổng hợp các ặc trưng văn hoá của các vùng,
các tộc người, các quốc gia rất ược coi trọng. Chẳng hạn như E.B Tylor (1871) nghiên cứu
về văn hoá nguyên thuỷ, V.Ia Prôp bàn về Folklore và thực tại, V.M Rôdin (1998) tìm hiểu
các trường phái văn hoá học thế giới, R. Lado (1957) tìm hiểu ngôn ngữ học qua các nền
văn hoá… Nhiều công trình ã làm rõ bản cắc văn hoá của các ối tượng nghiên cứu, góp
phần bảo vệ và duy trì những nét ẹp của truyền thống, xây dựng xã hội ngày càng văn minh. 9
Downloaded by June Lee (lenhungkttm@gmail.com) lOMoAR cPSD| 47882337
Ở Việt Nam, trước ây cũng ã có một số công trình nghiên cứu về văn hoá (Bùi Dương
Lịch, Đào Duy Anh, Nguyễn Khắc Viện…); trong thời gian gần ây, vấn ề văn hoá và bản
sắc văn hoá dân tộc, văn hoá trong xu thế hội nhập với thế giới v.v… nổi lên như một trong
những vấn ề thời sự, ược bàn luận trên nhiều quy mô: chuyên luận, giáo trình, báo chí…
Có thể kể tên một số công trình tiêu biểu: Văn hoá và ngôn ngữ Việt Nam thời tiền sử (Hà
Văn Tấn, 1993), Việt Nam văn hoá sử cương (Đào Duy Anh, 2000), Cơ sở văn hoá Việt
Nam (Trần Quốc Vượng – chủ biên, 2005), Văn hoá Việt Nam trong bối cảnh
Đông Nam Á (Phạm Đức Dương, 2000)…
Một số công trình tìm hiểu sâu về bản sắc văn hoá dân tộc, như: Tìm về bản sắc dân
tộc của văn hoá (Hồ Sĩ Vịnh, 1993), Tìm về bản sắc văn hoá Việt Nam (Trần Ngọc Thêm,
2001), Bản sắc văn hoá Việt Nam(Phan Ngọc, 2006), Bàn về văn hoá ứng xử của người
Việt Nam(Nguyễn Tất Thịnh, 2006), Văn hoá ứng xử truyền thống của người Việt(Lê Văn
Quán, 2007), Người Việt, phẩm chất và thói hư tật xấu (Nhiều tác giả, 2008)… Các công
trình nghiên cứu nhìn chung ã xem xét trên nhiều phương diện: Văn hoá dân tộc Việt thể
hiện qua các công trình vật thể ược lưu giữ từ trong quá khứ hay mới ược xây dựng; thể
hiện trong sinh hoạt hàng ngày, thể hiện qua các lễ hội, phong tục tập quán, ngôn ngữ…
Trong nhà trường ại học, học phần văn hoá, ngôn ngữ và văn hoá luôn là những chương
trình cơ bản cung cấp cho người học những vấn ề lí luận chung và những phương diện cụ
thể, làm rõ bản sắc văn hoá, về vai trò và ộng lực của văn hoá trong ời sống xã hội, phân
tích các ặc trưng và biểu hiện văn hoá của dân tộc…
Tuy ã có nhiều hướng, nhiều kết quả nghiên cứu về văn hoá, ã có những công trình ề
cập ến các biểu hiện của văn hoá trên nhiều phương diện, nhưng việc làm rõ ặc trưng văn
hoá dân tộc thể hiện qua ngôn ngữ, ặc biệt là trên dẫn liệu tục ngữ và ca dao thì ang còn là
một vấn ề cần phải ược phân tích và hệ thống hoá một cách ầy ủ và toàn diện hơn.
Khi bàn ến sự thể hiện của văn hoá, người ta nói ến những biểu hiện của văn hoá qua
các phương tiện khác nhau, như: qua âm thanh, màu sắc, hình khối, ường nét, và nhiều
phương tiện biểu hiện khác. Một trong những phương tiện quan trọng ể tìm hiểu văn hoá,
giải mã văn hoá là ngôn ngữ: ngôn ngữ trong giao tiếp hàng ngày, ngôn ngữ trong tác phẩm 10
Downloaded by June Lee (lenhungkttm@gmail.com) lOMoAR cPSD| 47882337
văn học, ngôn ngữ trong sáng tác dân gian… Các công trình khoa học cũng ã ít nhiều nói
ến vấn ề này. Các hướng nghiên cứu gồm:
Nghiên cứu ca dao từ góc ộ thi pháp học: Thi pháp ca dao (Nguyễn Xuân Kính, 2007);
Tiếp cận ca dao bằng phương pháp xâu chuỗi (Triều Nguyên, 2003). Từ góc ộ ngôn ngữ –
văn hoá: Nghệ thuật chơi chữ trong ca dao người Việt (Triều Nguyên, 1999), Đặc trưng
cấu trúc – ngữ nghĩa của thành ngữ, tục ngữ trong ca dao người Việt (Nguyễn Nhã Bản,
2005)… Nhiều công trình nghiên cứu văn hoá từ góc ộ ngôn ngữ:Một số chứng tích về
ngôn ngữ, văn tự và văn hoá (Nguyễn Tài Cẩn, 2005), Giao tiếp phi ngôn từ qua các nền
văn hoá (Nguyễn Quang, 2008), Tìm hiểu ặc trưng văn hoá – dân tộc qua ngôn ngữ và tư
duy ở người Việt (Nguyễn Đức Tồn, 2002)…
Có thể thấy ây là một hướng nghiên cứu cần thiết, bổ ích và ã có nhiều kết quả quan
trọng. Tuy nhiên, những tìm hiểu, nghiên cứu ó – nói riêng ở ối tượng nghiên cứu là ca dao
– thì, theo những tư liệu mà chúng tôi có ược, mới chỉ là những ý kiến bàn luận, nói thêm
nhân bàn ến những vấn ề khác của ca dao (như khi nói về nội dung của ca dao, thi pháp ca
dao, cấu trúc của ca dao…) mà chưa có một chuyên luận bàn sâu và kỹ giành riêng cho
việc tìm hiểu ặc trưng văn hoá dân tộc thể hiện trong ca dao người Việt như thế nào.
3. Những biểu hiện ặc trưng văn hoá dân tộc thể hiện qua ca dao
a) Ca dao – một tín hiệu văn hoá
Ngay từ tên gọi, ca dao ã là là một tín hiệu biểu thị văn hoá. Trong các sách báo
khoảng những năm ầu thế kỷ XX, ca dao còn ược gọi là phong dao (vì có những bài ca dao
phản ánh phong tục), dần dần về sau (khoảng những năm 50) cho ến nay, người ta chỉ dùng
từ ca dao. Truy xét trở lên, về mặt thuật ngữ, ca dao là một từ ghép (ghép ca và dao) ược
hình thành từ dân ca. Vì ca dao là một thể thơ (mang ặc iểm của thơ, và là một thể thơ lục
bát), nên có thể hát, ngâm, ọc và xem (xem bằng mắt vì ngày nay, ca dao ược sưu tầm và
ghi chép, in ấn thành sách). Như vậy, ngay từ tên gọi, ca dao ã là một chứng tích của văn
hoá: ây là một thông iệp ngôn từ dân gian, phản ánh cuộc sống con người một cách tự nhiên
nhất, hồn nhiên nhất. Qua các ịnh nghĩa về ca dao, ta càng thấy rõ iều ó. “Ca dao là một
loại thơ dân gian có thể ngâm ược như các loại thơ khác và có thể xây dựng thành các iệu 11
Downloaded by June Lee (lenhungkttm@gmail.com) lOMoAR cPSD| 47882337
dân ca.”(Vũ Ngọc Phan, 3). “Ca dao là những sáng tác văn chương ược phổ biến rộng rãi,
ược lưu truyền qua nhiều thế hệ, mang những ặc iểm nhất ịnh và bền vững về mặt phong
cách” (Nguyễn Xuân Kính,7; tr.79). “Ca dao là danh từ ghép chỉ chung toàn bộ những bài
hát lưu hành phổ biến trong dân gian, có hoặc không có khúc iệu.” (Từ iển thuật ngữ văn học, 3).
b) Cấu trúc ca dao – một biểu hiện môtif văn hoá thuần Việt
Ngay trong hình thức truyền ạt, ca dao là lời ăn tiếng nói của người lao ộng, mang
tính chất thuần Việt, ậm à bản sắc dân tộc.
Ca dao là một thể thơ: iều dễ nhận thấy là ca dao mang những ặc iểm cơ bản của thơ
ca. Đó là yếu tố vần, và yếu tố nhịp có mặt trong tất cả các bài ca dao (từ loại bài hai câu
cho ến những bài dài). Loại vần và nhịp cơ bản của ca dao trùng với thể thơ lục bát truyền
thống (vì có ến trên 90% bài ca dao ở thể lục bát); vần ca dao là hai loại vần cơ bản: vần
chân – vần lưng, nhịp ca dao thường là nhịp chẵn.
Ca dao là một thể thơ nhưng thuộc thể thơ dân gian, vì ca dao là loại thơ sáng tác
trong dân gian, của tập thể (vô danh), lưu truyền từ ời này sang ời khác bằng phương thức
truyền miệng (thời nay ã ược văn bản hoá). Ca dao có một số ặc iểm rất dân gian: một số
môtif xác ịnh, lặp i lặp lại, rất ặc trưng của thơ dân gian. Chẳng hạn: Ca dao có thể có nhiều
dị bản: Ai em con sáo sang sông/ Để cho con sáo sổ lồng nó bay. Ai em con sáo qua sông/
Để cho con sáo sổ lồng bay xa…Nhiều bài ca dao có cùng một mô hình cấu trúc. Ví dụ, mô
hình Bao giờ Ax thì By: Bao giờ bánh úc có xương/ Tơ hồng có rễ thì nường lấy ta. Bao
giờ gạo gánh ến nhà/ Lợn kêu ý oét mới là vợ anh…Nhiều bài ca dao có cùng một số từ
ngữ lặp giống nhau theo một vị trí nhất ịnh. Ví dụ, có nhiều bài ca dao cùng mở ầu bằng:
chiều chiều ra ứng, bao giờ cho ến, ôi ta như thể… Ngôn ngữ thơ ca mộc mạc, giản dị,
trong sáng, thuần Việt; nó úng là lời ăn tiếng nói của quần chúng lao ộng, nó úng là nguyên
liệu lấy từ ời sống, gần gũi với ời sống, ở trong ời sống. Thương anh bụng sát tận da/ Anh
thì không biết tưởng là ói cơm… Ăn cơm cũng nghẹn/ Uống nước cũng nghẹn/ Nghe lời
bạn hẹn/ Ra bãi ứng trông/ Bãi thời thấy bãi, người không thấy người (Ca dao Nghệ Tĩnh).
c) Nội dung ca dao: kết tinh văn hoá truyền thống dân tộc 12
Downloaded by June Lee (lenhungkttm@gmail.com) lOMoAR cPSD| 47882337
Nội dung cơ bản nhất của ca dao là thể hiện tình cảm, miêu tả ất nước, con người, xã
hội, phản ánh tập quán phong tục của con người Việt Nam với tất cả những ặc trưng văn
hoá dân tộc tiêu biểu mà chúng ta ã có dịp ề cập ở phần trên. Điều kiện tự nhiên, môi trường
xã hội, tâm lý, lịch sử dân tộc, qua lăng kính của người nghệ sĩ dân gian, ều ược phản ánh
ậm nét và sâu sắc trong ca dao người Việt. Những biểu hiện văn hóa dân tộc thể hiện trong
ngôn ngữ ca dao là rất phong phú, a dạng: các ứng xử văn hoá trong thân tộc (gia ình, họ
hàng); các ứng xử văn hoá trong cộng ồng xã hội (làng, nước); quan hệ ối xử của con người
với thế giới loài vật; quan hệ ứng biến của con người với thế giới tự nhiên… Trong khuôn
khổ giới hạn của bài viết này, chúng tôi chỉ bước ầu làm rõ sự phản ánh của ca dao ở một
vài ặc trưng văn hoá tiêu biểu.
Ca dao Việt Nam phản ánh nhiều mặt của con người trong mối quan hệ với tự nhiên,
trước hết là sự thể hiện không gian sinh tồn của con người. Đối với người nông dân làm
ruộng nước, cuộc sống ịnh cư là iểm nổi trội; trong cuộc sống ịnh cư thì cái nhà là trung
tâm, nhà là gia bản. Mọi suy nghĩ, sinh hoạt của con người liên quan ến nhà. Truyện dân
gian thì tô ậm nhà là tài sản, nơi trú ngụ… Tục ngữ thì nêu những nhận thức về nhà (Tậu
trâu, lấy vợ, làm nhà; Nhà gỗ xoan, quan ông nghè…). Còn trong ca dao – do ặc trưng của
nó – nhà ược thể hiện với nhiều khía cạnh khác nhau. Dù nhà không phải lúc nào cũng là
“tiêu iểm” (nên nó thường ở câu ca dao ầu – làm tiền ề cho ý câu sau), nhưng qua ó ta cũng
thấy ược hình bóng ngôi nhà Việt: Nhà anh một gian hai hồi (Họ quen em cả, biết ứng ngồi
vô mô); Nhà anh cửa óng song cài (Em vô không ược, ở ngoài lệ tuôn). Có khi nhà có bóng
dáng của thời mới: Nhà em cột á, tường á, khoá sắt, chìa ồng (Anh phá làm sao cho ược ến loan phòng với em).
Nhà Việt Nam không chỉ có không gian “trong nhà”- không gian tình nghĩa, mà còn
có không gian rộng hơn: “ngoài nhà”; không gian này cũng gắn chặt với những sự vật cảnh
vật thân thuộc của người dân làm nghề lúa nước. Đó là không gian cận nhà, một khung
cảnh gắn chặt với nhà: ó là vườn hồng, vườn ào; vườn cà (Trèo lên cây bưởi hái hoa/ Bước
xuống vườn cà hái nụ tầm xuân…). Đây là không gian sống thuần hậu gắn liền với nước:
ao, hồ (Hồ to ta thả cá chơi/ Hồ rộng nuôi vịt, vườn khơi nuôi gà/ Quanh năm khách khứa 13
Downloaded by June Lee (lenhungkttm@gmail.com) lOMoAR cPSD| 47882337
trong nhà/ Ao vườn sẵn ó, lọ là tìm âu). Có thể dẫn ra nhiều câu như thế ể chứng minh
không gian sinh tồn nhà của con người Việt từ thuở xa xưa liên quan ến gốc nông nghiệp.
Từ trong nhà ến ngoài nhà, không gian cứ mở rộng dần: không gian vườn tược. Đó
là không gian của thực vật trong vườn: cây cau cây trầu, cây tre, cây chanh, cây vông, cây
bồn bồn, cây bần…(Cây chanh lại nở hoa chanh, Cây cau nhặt mắt khó trèo, Cây cao bóng
ngã qua rào)…Theo thống kê của chúng tôi, có 72 loài cây và hoa xuất hiện trong ca dao
thì phần lớn cây và hoa ều mang ặc trưng của vùng khí hậu nhiệt ới nông nghiệp. Cây a
nằm trong số ó. Cây a không ứng một mình mà thường ở bên cạnh các cảnh vật
khác, tạo thành một không gian vừa thoáng rộng, vừa thấp thoáng thế giới tinh thần- tâm
linh của người Việt từ thuở xa xưa: Cây a bến ò, cây a trước miễu, cây a sân ình, cây a
giếng nước. Như thế, cây a ã chuyển dần sang chỉ một không gian ít nhiều mang nghĩa biểu
trưng (nghĩa tình): Cây a bến cũ năm xưa/ Chữ tình ta cũng ón ưa cho trọn ời; Cây a rụng
lá ầy ình/ Bao nhiêu lá rụng thương mình bấy nhiêu.
Không gian xã hội cứ mở rộng dần: sông bãi (Nghe lời bạn hẹn/ Ra bãi ứng trông/
Bãi thời thấy bãi, người không thấy người – Ca dao Nghệ Tĩnh). Ruộng ồng cũng là không
gian xuất hiện khá nhiều trong mảng ca dao nói về lao ộng sản xuất. Đồng ruộng vốn là
không gian tự nhiên, nhưng trong nhận thức của nhân dân, nó ã trở thành không gian xã
hội, với tất cả sự gắn bó thân thuộc của con người. Đó là không gian thoáng ãng “thẳng
cánh cò bay”, “mênh mông bát ngát”, gắn bó với làng (Làng ta phong cảnh hữu tình/ Dân
cư ông úc như hình con long). Đồng ruộng là nơi thể hiện rõ nhất ặc trưng gốc văn hoá
trồng lúa nước (có nơi canh tác: ồng cạn, ồng sâu; chủ thể: chồng, vợ; công việc: cày, cấy,
bừa…): Trên ồng cạn, dưới ồng sâu/ Chồng cày vợ cấy con trâu i bừa; hoặc có cả nghề
chài lưới: Cha chài mẹ lưới, con câu/ Chàng rể óng áy, con trâu i bừa. Người dân lao ộng
gắn bó với công việc, yêu thiên nhiên, cảnh vật và thế giới xung quanh.Làm ruộng thì phải
phụ thuộc thời tiết, thiên nhiên.Thế giới tự nhiên, theo quan niệm dân gian- nhất là với
người dân làm ruộng – là một không gian cao siêu, huyền bí, có mọi quyền uy, chi phối
cuộc sống con người . Rất nhiều bài ca dao thể hiện lòng tôn trọng thế giới tự nhiên, biết
ơn thế giới ấy: Ơn trời mưa nắng phải thì; Lạy trời mưa xuống… Thiên nhiên khắc nghiệt, 14
Downloaded by June Lee (lenhungkttm@gmail.com) lOMoAR cPSD| 47882337
ể có ược thành quả lao ộng phải qua bao vất vả: Ai ơi bưng bát cơm ầy/ Dẻo thơm một hạt
ắng cay muôn phần…
Trên ây chỉ ề cập ến một số từ ngữ không gian quen thuộc có liên quan ến ặc trưng
nghề nghiệp thể hiện trong ca dao. Điều áng lưu ý là từ trong những sáng tác ấy, ta thấy
chúng ã hình thành một hệ giá trịgắn liền với ặc trưng nông nghiệp. Đó là giá trị: tình cảm
con người là áng quý nhất (Đôi ta như con một nhà. Tranh quyền cướp nước gì ây/ Coi
nhau như bát nước ầy thì hơn), là giá trị: lao ộng làm ra mọi cái (Bởi anh chăm việc canh
nông/ cho nên mới có bồ trong bịch ngoài), là giá trị: cái gì gốc thì phải giữ (Công danh
eo uổi mà chi/ sao bằng chăm chỉ giữ nghề canh nông), là giá trị: sự tương cận và yêu
thương làm nên “phúc”: Có phúc gả ược chồng gần/ có bát canh cần nó cũng ưa cho), là
giá trị: giản dị là gốc của cái ẹp, của hạnh phúc (Cơm trắng ăn với chả chim/ Chồng ẹp
vợ ẹp, những nhìn mà no; Râu tôm nấu với ruột bầu/ Chồng chan vợ húp gật ầu khen
ngon).Và nhiều giá trị nhân sinh khác gắn liền với chất liệu dân giã thể hiện trong tình yêu
nhà, yêu làng xóm, tình yêu nam nữ (Chiều chiều én liệng cò bay/ Bạn thì nhớ bạn, bạn
rày nhớ ai/ Bạn rày bạn nhớ củ khoai/ Nhớ cam nhớ quýt nhớ người tri âm)…
Cần phải thấy rằng, những quan niệm, tâm lý, tình cảm của con người Việt Nam mà
chúng tôi sơ bộ dẫn ra trên ây là “nguyên gốc, bản ịa” (hay còn gọi là yếu tố nội sinh,
endogenous), chúng không vay mượn hay ảnh hưởng từ bên ngoài (ngoại sinh, exogenous),
mà ều xuất phát, nảy sinh từ môi trường không gian sinh tồn và nghề nghiệp của người dân
Việt trồng lúa nước từ thuở xa xưa. Đặc sắc hơn, những giá trị văn hoá này vốn từ trong
phạm vi hẹp (cá nhân, gia ình), lại trở thành một hệ giá trị trong phạm vi rộng lớn (xã hội)
và trường tồn. Sau này, như một lẽ tự nhiên, trong quá trình tiếp xúc với văn hoá khu vực
và thế giới, văn hoá dân tộc ã có sự tiếp thu và ảnh hưởng, tạo nên sự giao thoa hay tiếp
biến văn hoá (acculturation). Nhưng cái ặc trưng nguyên gốc này nó mạnh ến nỗi nó làm
cho văn hoá dân tộc, qua bao nhiêu biến cố, “như một toà nhà chỉ bị thay ổi “mặt tiền”
(facade) mà không thay ổi cấu trúc bên trong” (B. Giron). Ca dao ã thể hiện vai trò của nó,
ở cái thời truyền miệng, nhưng trong thời ại ngày nay, ca dao vẫn tiếp tục ược sáng tác, và
hình thức truyền miệng vẫn tồn tại, cho dù ã có các hình thức khác. Ca dao vẫn i cùng năm 15
Downloaded by June Lee (lenhungkttm@gmail.com) lOMoAR cPSD| 47882337
tháng, bởi cái giá trị nhân sinh của nó (ca dao là tâm nguyện của con người về lẽ sống),
bởi cái giá trị văn hoá của nó (ca dao thể hiện bản sắc truyền thống của dân tộc, làm nền
tảng cho sự phát triển, tiếp biến văn hoá hiện ại). °°°
Trên ây là mấy suy nghĩ của chúng tôi về việc xác ịnh ặc trưng văn hoá, cội nguồn
văn hoá dân tộc, qua ó bài viết bước ầu nêu một số biểu hiện ặc trưng văn hoá trên dẫn liệu
ca dao người Việt. Trước một ối tượng rộng lớn mang tầm “vũ trụ” như văn hoá, những iều
trình bày chỉ là những nhận thức sơ giản, ịnh hướng vào việc nghiên cứu văn hoá, nhằm
góp phần vào việc thực hiện ề tài tìm hiểu ca dao Việt Nam từ góc ộ văn hoá.
PGS. TS. Phan Mậu Cảnh Bản gốc
Tranh minh họa: Nguyen Thanh Phong.
Tài liệu tham khảo:
1. Nguyễn Huy Cẩn (chủ biên),Tiếng Việt hiện nay và những vấn ề ngôn ngữ
học liên ngành,Nxb Khoa học Xã hội, 2005.
2. Nguyễn Tài Cẩn,Một số chứng tích về ngôn ngữ, văn tự và văn hoá,NXb Đại
học Quốc gia Hà Nội, 2003.
3. Nguyễn Cừ (và các tác giả khác biên soạn),Tuyển tập tục ngữ- ca dao Việt
Nam,Nxb Văn học, 2001.
4. Nguyễn Đổng Chi- Ninh Viết Giao,Ca dao Nghệ Tĩnh, Sở VHTT Nghệ Tĩnh, 1984.
5. Nguyễn Nhã Bản,Đặc trưng cấu trúc – ngữ nghĩa của thành ngữ, tục ngữ
trong ca dao người Việt, Nxb Văn hoá thông tin, 2005.
6. Phạm Đức Dương,Văn hoá Việt Nam trong bối cảnh Đông Nam á,Nxb Khoa học Xã hội, 2000.
7. Nguyễn Tấn Đắc,Văn hoá Đông Nam á,Nxb Đại học Quốc gia Tp HCM, 2005. 16
Downloaded by June Lee (lenhungkttm@gmail.com) lOMoAR cPSD| 47882337
8. Nguyễn Xuân Kính,Thi pháp ca dao, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2007.
9. Vũ Ngọc Khánh,Văn hoá dân gian, Nxb Nghệ An, 2003.
10. Phan Ngọc,Thử xét văn hoá-văn học bằng ngôn ngữ học, Nxb Thanh niên, 2000.
11. Trần Ngọc Thêm,Tìm về bản sắc văn hoá Việt Nam,Nxb Tp HCM, 2001.
12. Nguyễn Đức Tồn,Tìm hiểu ặc trưng văn hoá – dân tộc qua ngôn ngữ và tư
duy ở người Việt,Nxb ại học Quốc gia Hà Nội, 2002.
13. E.B Tylor,Văn hoá nguyên thuỷ, TC Văn hoá nghệ thuật, 2001.
14. Trần Quốc Vượng (chủ biên),Cơ sở văn hoá Việt Nam, Nxb Giáo dục, 2005.
(Nguồn: https://luocsutocviet.com/2019/08/30/437-coi-nguon-cua-van-hoa-viet- nam/) 17
Downloaded by June Lee (lenhungkttm@gmail.com)