Con người và bản chất con người - Triết học Mác - Lênin | Đại học Tôn Đức Thắng
Học thuyết Darwin chứng minh rằng con người là kết quả của quá trình tiến hóa và phát triển lâu dài của môi trường tự nhiên, dù có phát triển đến đâu con người vẫn là động vật. Cũng như luận điểm của Ph.Ăngghen. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Triết học Mác -Lênin (THML01)
Trường: Đại học Tôn Đức Thắng
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
ĐẠI HỌC UEH TRƯỜNG KINH DOANH
KHOA KINH DOANH QUỐC TẾ - MARKETING TIỂU LUẬN
Môn học: Triết học Mác Lênin
PHÂN TÍCH QUAN ĐIỂM CỦA TRIẾT HỌC MÁC LÊNIN VỀ
CON NGƯỜI VÀ BẢN CHẤT CON NGƯỜI. Ý NGHĨA LÝ LUẬN
VÀ THỰC TIỄN CỦA QUAN ĐIỂM TRÊN
Giảng viên: Nguyễn Thị Thanh Hà
Mã lớp học phần: 21C1PHI51002346
Sinh viên: Phạm Ngân Hà
Khóa – Lớp: K47 – MR001 MSSV: 31211024030 MỤC LỤC Nội dung
Phần 1: Cơ sở lý thuyết 1. Con người
Con người là một thực thể thống nhất giữa mặt sinh vật với mặt xã hội
2. Bản chất con người
2.1 Con người là chủ thể và là sản phẩm của lịch sử
2.2 Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa những quan hệ xã hội
Phần 2: Kiến thức vận dụng
1. Ý nghĩa lý luận
Liên hệ nhân cách, đạo đức con người
2. Ý nghĩa thực tiễn
2.1 Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người trong sự nghiệp cách mạng do Đảng
Cộng Sản Việt Nam lãnh đạo
2.2 Phát huy nhân tố con người Việt Nam trong quá trình phát triển đất nước bền vững Bổ sung
Kết luận và mở rộng
Lời cảm ơn
Tài liệu tham khảo
Phần 1: Cơ sở lý thuyết 1. Con người
Con người là một thực thể thống nhất giữa mặt sinh vật với mặt xã hội
Học thuyết Darwin chứng minh rằng con người là kết quả của quá trình tiến hóa và phát
triển lâu dài của môi trường tự nhiên, dù có phát triển đến đâu con người vẫn là động vật.
Cũng như luận điểm của Ph.Ăngghen: “Bản thân cái sự kiện là con người từ loài động
vật mà ra cũng đã quyết định việc con người không bao giờ hoàn toàn thoát ly khỏi những
đặc tính vốn có của con vật”. Vì thế, có thể nói con người là một bộ phận tất yếu, không
thể tách rời của giới tự nhiên, đồng thời giới tự nhiên cũng là thân thể vô cơ của con
người. Đời sống thể xác và nhu cầu tinh thần của con người gắn liền với giới tự nhiên.
Không những thế, con người còn phải đấu tranh để sinh tồn và chịu tác động của các quy
luật tự nhiên (Ví dụ: quy luật sinh tử, quy luật di truyền và biến dị, quy luật trao đổi chất,
quy luật đồng hóa, dị hóa,…)
➔ Tiền đề vật chất đầu tiên quyết định cho sự tồn tại ủ
c a con người là giới tự nhiên
Tuy nhiên, mặt tự nhiên không phải là yếu tố duy nhất quy định bản chất con người. Với
phương pháp biện chứng duy vật, triết học Mác nhận thức con người là một thực thể xã
hội có các hoạt động xã hội. Trước hết và quan trọng nhất là lao động sản xuất ra của cải
vật chất – đã làm cho con người trở thành con người với đúng nghĩa của nó, bởi lẽ: “Con
vật chỉ sản xuất ra bản thân nó, còn con người thì tái sản xuất ra toàn bộ giới tự nhiên”.
Thông qua lao động, con người không những làm thay đổi, cải b ế
i n giới tự nhiên mà còn
tạo ra của cải vật chất và tinh thần, phục vụ đời sống sinh hoạt của mình; hình thành, phát
triển ngôn ngữ và tư duy; xác lập các mối quan hệ xã hội.
Bởi vậy, lao động là yếu tố quyết định hình thành bản chất xã hội của con người, đồng
thời hình thành nhân cách cá nhân trong cộng đồng xã hội. Khác với con vật, con người
chỉ có thể tồn tại và phát triển trong “xã hội loài người”.
Mặt sinh học là cơ sở tất yếu tự nhiên của con người, còn mặt xã hội là đặc trưng bản chất
để phân biệt con người ớ
v i loài vật. Nhu cầu sinh học phải được “nhân hóa” để mang giá
trị văn minh con người và nhu cầu xã hội không thể thoát ly khỏi tiền đề của nhu cầu sinh 1
học. Hai mặt trên thống nhất với nhau, hoà quyện vào nhau để tạo thành hai chữ con người v ế
i t hoa, con người tự nhiên-xã hội.
2. Bản chất con người
2.1 Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội
Để nhấn mạnh bản chất xã hội của con người, C.Mác đã nêu lên luận đề nổi tiếng: “Bản
chất con người không phải là một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong
tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội”. Vậy luận
điểm trên được hiểu như thế nào?
Thứ nhất, con người luôn hiện hữu trong một hoàn cảnh nhất định, một thời đại nhất định.
Và trong chính cái điều kiện lịch sử ấy, con người đã tạo ra những giá trị cả vật chất lẫn
tinh thần để tồn tại và phát triển đa chiều. Chỉ khi được xem xét trong toàn bộ các mối
quan hệ (từ quan hệ cá nhân, gia đình đến quan hệ giai cấp, dân tộc, kinh tế-chính trị…),
con người mới bộc lộ hết những bản tính xã hội của mình.
Thứ hai, khi nói bản chất con người là tổng hòa những quan hệ xã hội, cũng có nghĩa là
tất cả các quan hệ xã hội đều góp phần hình thành bản chất con người. Quan hệ xã hội
vừa diễn ra theo chiều ngang (tức là đương đại), vừa diễn ra theo chiều dọc lịch sử. Trong
lịch sử loài người, dù ít hay nhiều con người cũng phải kế thừa những di sản thời đại trước
để lại. Do đó, khi xem xét bản chất con người, không nên tách rời giữa hiện tại và quá khứ.
Thứ ba, sự thể hiện bản chất con người không phải theo con đường thẳng trực tiếp mà
thường gián tiếp, quanh co qua hàng loạt mâu thuẫn giữa cá nhân và xã hội, giữa lợi ích
trước mắt và lợi ích lâu dài, giữa di truyền tự nhiên và văn hóa xã hội. Trong diễn biến
đầy phức tạp đó, dù sớm hay muộn, bản chất con người cũng sẽ thay đổi theo.
2.2 Con người là chủ thể và là sản phẩm của lịch sử
Lịch sử, hiểu theo nghĩa rộng, là những quá trình đan xen, nối tiếp nhau với tất cả những
bảo tồn và biến đổi diễn ra trong quá trình ấy. Nếu như không có lịch sử, không có thế
giới tự nhiên thì liệu rằng con người có tồn tại hay không? Câu trả lời là “Không”! Môi
trường tự nhiên cung cấp tài nguyên cho con người tồn tại và môi trường xã hội là nơi
thúc đẩy con người phát triển. 2
➔ Bởi vậy, con người là sản phẩm của lịch sử, của hoàn cảnh, của môi trường.
Đồng thời, con người luôn là chủ thể của lịch sử-xã hội. Thông qua lao động sản xuất,
con người đã in dấu ấn sáng tạo của bàn tay và trí tuệ của mình vào giới tự nhiên, song
không phải làm theo ý muốn tùy tiện của mình. Với những điều kiện có sẵn do quá khứ
để lại, mỗi người, mỗi thế hệ một mặt tiếp tục các hoạt động cũ của thế hệ trước trong
những hoàn cảnh mới; mặt khác tiếp tục những hoạt động mới của mình để biến đổi hoàn cảnh cũ.
Con người vừa là diễn viên, vừa là tác giả của vở kịch do mình dàn dựng; và hoàn cảnh
chỉ có thể tạo ra con người trong chừng mực con người tạo ra chính hoàn cảnh ấy.
➔ Vì thế mà lịch sử là lịch sử của con người, do con người, vị con người.
Phần 2: Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
1. Ý nghĩa lý luận
- Thứ nhất, để lý giải một cách khoa học những vấn đề về con người thì không thể chỉ
đơn thuần từ phương diện bản tính tự nhiên của nó; mà điều căn bản có tính quyết định
hơn là xem xét phương diện bản tính xã hội. Ngoài ra, trong quá trình hình thành nên lối
sống, cần thiết lập đồng hồ sinh học hợp lý, xen lẫn với rèn luyện đạo đức xã hội. Tránh
rơi vào trạng thái buông thả, chạy theo những ham muốn tầm thường của bản năng.
- Thứ hai, để con người phát huy được năng lực sáng tạo của mình thì phụ thuộc vào
nhiều yếu tố; đặc biệt là môi trường, điều kiện, hoàn cảnh. Ở đây, nếu nói một cách biện
chứng, cần phải kết hợp những điều kiện khách quan và phát huy vai trò những nhân tố
chủ quan để tạo ra động lực, tạo ra xung lực cho con người phát huy chủ thể tích cực
sáng tạo và tự giác ý thức, kỷ luật trước những tác động tiêu cực.
- Cuối cùng, trong cuộc sống cần tạo dựng một môi trường xã hội tốt đẹp với những mối
quan hệ tốt đẹp; kết nối giữa cá nhân với cộng đồng để cùng nhau hoàn thiện và tiến bộ.
Bên cạnh đó, tránh khuynh hướng đề cao quá mức cá nhân hay xã hội. Phải luôn chính kiến ể
đ giải quyết mâu thuẫn trong các quan hệ xã hội.
Ví dụ liên hệ chung: Thời đại ngày nay, bên cạnh những con người có tư duy độc lập
thì vẫn tồn tại không ít những cá nhân thiếu lập trường, sống “thuận theo chiều gió”. Một
trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng này là cách sống buông thả. Để rồi theo thời
gian, những nếp nghĩ lười nhác sẽ ăn mòn ý chí, dập tắt đam mê, đẩy con người rơi vào 3
vòng luẩn quẩn thụ động. Một khi hàng rào kỉ luật bị phá vỡ, con người rất dễ bị ảnh
hưởng bởi các tác động tiêu cực. Thực tế khốc liệt chứng minh cho ta thấy, hàng loạt các
vụ thảm sát đã xảy ra: bạn bè thuê người giết nhau để bán nội tạng, học sinh đâm chết
giáo viên tại trường học hay thậm chí con cái thẳng tay với bố mẹ chỉ vì lấy tiền hút ma
túy,…Thật đau đớn, xót xa thay! Nhưng không dừng lại ở đó, với sự nhảy vọt của mạng
xã hội, con người ta còn mù quáng giẫm đạp lên nhau bằng những ngôn từ rỉ máu.
Hãy thử nhìn lại con người trước Cách mạng Tháng Tám, ngay sau khi bị vùi dập mất hết
cả nhân hình, nhân tính, đến mức trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại nhưng chỉ cần
tình thương, sự quan tâm chăm sóc của Thị Nở, chỉ cần hơi rượu tan biến là Chí Phèo
sống lại khát vọng hoàn lương. Phẩm chất “người” đâu đó vẫn âm ỉ chờ ngày bùng cháy
mãnh liệt, và khi nó bùng cháy lên thì không có lý do nào khiến hắn cam lòng trở lại làm
quỷ dữ được nữa! Bị cướp đoạt quyền sống, bị bần cùng đến mức tha hóa nhưng Chí
Phèo sẵn sàng hủy hoại mạng sống của mình để được chết như một con người. Vậy
thì tại sao với những điều kiện đầy đủ như hiện nay, chúng ta lại đối xử một cách tàn nhẫn
với nhau như vậy? Bỗng vang lên trong đầu tôi tiếng thét phẫn uất “Ai cho ta lương
thiện?”. Sâu thẳm bên trong, tôi có niềm tin rằng chủ nhân của sự lương thiện chính là mỗi con người chúng ta.
“Nhân bất thập toàn”, là con người không ai hoàn hảo cả, điều đáng quý là ta biết nhìn
vào những khuyết điểm, lỗi lầm của mình để sửa đổi. Lịch sử qua đi, hoàn cảnh biến
động, bản chất biến đổi nhưng biến đổi ra sao là do bạn quyết định. Phật giáo có câu:
“Pháp học, Pháp hành, nhân cách, đạo đức”. Là một sinh viên đang ngồi trên ghế nhà
trường, thế hệ chúng em ý thức được rằng song song với việc trau dồi kiến thức, phải luôn
bồi dưỡng nhân cách, rèn luyện đạo đức. Không ngừng gìn giữ và lan truyền những giá
trị tốt đẹp vì bản thân, vì gia đình, vì xã hội, và vì một Việt Nam thân yêu!
2. Ý nghĩa thực tiễn
2.1 Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người trong sự nghiệp cách mạng do Đảng Cộn g
Sản Việt Nam lãnh đạo
Hồ Chí Minh là một nhà tư tưởng lỗi lạc, có nhiều cống hiến kiệt xuất vào kho tàng tư
tưởng-lý luận của dân tộc và nhân loại. Hồ Chí Minh đã tiếp nhận những bài học sâu sắc
từ Lênin và Cách mạng Tháng Mười Nga nhưng Người không rập khuôn, sao chép theo 4
nền tảng đó mà tiếp thu cái tinh thần của Chủ nghĩa Mác Lênin. Nổi bật trong số đó chính
là Tư tưởng về sức mạnh của nhân dân, về khối đại đoàn kết dân tộc. Đó là chiến lược
tập hợp mọi lực lượng nhằm hình thành và phát triển sức mạnh to lớn của toàn dân trong
cuộc đấu tranh chống kẻ thù. Dựa trên nền móng này, Hồ Chí Minh đã khơi dậy khát
vọng giải phóng dân tộc, xây dựng đất nước; làm tiền đề cho Cách mạng Tháng Tám năm
1945-thắng lợi vĩ đại đầu tiên của Nhân dân ta từ khi có Đảng lãnh đạo, mở ra bước ngoặt
trong lịch sử dân tộc. Theo Người, đoàn kết làm nên sức mạnh và ý chí tự lực, tự cường
của mỗi con người Việt Nam chính là cội nguồn của mọi thành công.
2.2 Phát huy nhân tố con người việt nam trong quá trình phát triển đất nước bền vững
Thực tiễn cho thấy, việc giải quyết vấn đề phát triển con người Việt Nam những năm qua
được đánh giá có nhiều chuyển biến tích cực và đạt kết quả quan trọng. Quá trình cách
mạng Việt Nam chứng tỏ rằng trong những thời điểm lịch sử hiểm nghèo, những tình thế
hết sức khó khăn, con người Việt Nam luôn biết “chuyển bại thành thắng , ” chuyển từ
tình thế khó khăn thành lợi thế trong đó con người là động lực trung tâm. Báo cáo tổng
kết một số vấn đề qua 20 năm đổi mới (1986-2006), Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng
định: “Con người và sự phát triển con người được đặt vào vị trí trung tâm của chiến lược
kinh tế-xã hội, mở rộng cơ hội, nâng cao điều kiện cho con người phát triển”. Hiện nay,
Việt Nam đang trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hướng
xã hội chủ nghĩa trong bối cảnh toàn cầu. Điều này đòi hỏi mỗi cá nhân phải có thái độ
chủ động và cầu tiến để học hỏi những cái hay, cái đẹp từ nước bạn, đồng thời phải linh
hoạt trong việc phân loại, chọn lọc và tiếp thu thông tin. Từ đó, vận dụng óc sáng tạo
để chuyển hóa thành kiến thức mới, áp dụng vào công cuộc xây dựng, đổi mới và
phát triển đất nước bền vững.
Đại hội XIII của Đảng cũng đề ra Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội từ nay đến năm
2045 xác định một trong ba khâu đột phá là phát triển nhanh nguồn nhân lực chất lượng
cao, tập trung vào việc đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục quốc dân; gắn kết chặt
chẽ phát triển nguồn nhân lực với phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ. Có thể
nói, những chính sách của Đảng và Nhà nước là những bước đi đúng đắn và mang tính
đột phá trong việc khai thác và phát huy nhân tố con người. 5
KẾT LUẬN
Trong tất cả những nghiên cứu về bản chất con người cho đến thời điểm hiện tại
thì quan điểm triết học Mác-Lênin đã giải quyết vấn đề một cách đúng đắn và đầy
đủ nhất trên quan điểm biện chứng duy vật. Theo ông, con người là thực thể sinh
học-xã hội; là chủ thể và là sản phẩm của lịch sử. Song trong đời sống xã hội, khi
xem xét con người phải đặt nó trong tổng thể các quan hệ xã hội.
Con người phải nhân đạo hóa hoàn cảnh, tạo ra hoàn cảnh hợp tính “người” nhiều
hơn để phát triển bản chất và hoàn thiện nhân cách. Khi đã thực sự làm chủ tự
nhiên, làm chủ xã hội, con người tạo ra bước nhảy cho chính mình từ vương
quốc của tất yếu sang vương quốc của tự do. Với khả năng lao động và sức
sáng tạo tiềm tàng, con người đã làm nên các cuộc cách mạng oanh liệt từ nền văn
minh cổ đại đến văn minh hiện đại.
MỞ RỘNG
Quan điểm Triết học Mác-Lênin về bản chất con người giúp em tiến gần hơn một
bước trên con đường định vị bản thân. Phải xác định được mình là ai trong xã hội
này, mình muốn gì, mục tiêu phát triển dài hạn ra sao và kế hoạch thực hiện chúng
như thế nào? Hiểu rõ hơn về bản chất của bản thân và những mối quan hệ liên
quan, con người ắt sẽ biết tự điều chỉnh hành vi sao cho phù hợp với những mối
quan hệ đó, từ đó có động lực hoàn thiện bản thân, cống hiến cho Tổ quốc.
Theo đuổi chuyên ngành Marketing, việc phân tích tâm lý hành vi người tiêu dùng
là một giai đoạn cốt lõi, cần sự tỉ mỉ đến từng chi tiết. Bởi lẽ con người biến đổi
phức tạp hơn từng ngày, muốn đánh trúng vào tâm lý, nhu cầu của đối tượng phải
đi sâu vào nghiên cứu bản chất và có chiến lược cụ thể với từng nhóm người.
Không dừng lại ở đó, với tư cách là sinh viên UEH nói riêng và công dân Việt
Nam nói chung, thế hệ trẻ chúng em nhận thức rõ trách nhiệm của mình trong việc
kế thừa, phát huy những giá trị thời đại và tận dụng các điều kiện thuận lợi mà
Đảng đã tạo ra. Mỗi con người trong mỗi quốc gia, mỗi hoàn cảnh sẽ sản sinh ra
những bản chất khác nhau, trong quá trình hội nhập với bạn bè quốc tế, em biết
rằng mình cần tôn trọng sự khác biệt, giao lưu các giá trị văn hóa và luôn ghi nhớ
một điều: “Hòa nhập nhưng không hòa tan”.
Gửi đến cô Thanh Hà-giáo viên bộ môn Triết học Mác Lênin,
Chớp mắt 3 tháng trôi qua nhanh như một cơn gió, và cơn gió lành này đã thổi vào
tâm hồn em những điều tươi mới!
Tuy chúng ta chỉ gắn bó với nhau trong khoảng thời gian ngắn ngủi, em rất trân
quý những giờ học cùng cô. Tự hào là sinh viên UEH, nhưng càng may mắn biết
bao khi được gặp cô vào năm nhất ngưỡng cửa đại học. Với tình tình Covid-19 biến
động phức tạp, cô trò chúng ta phải lựa chọn hình thức học trực tuyến, đôi khi có
gặp sự cố kỹ thuật nhưng cô vẫn kiên trì, tận tâm truyền đạt kiến thức cho tụi em.
Cũng xin gửi đến cô một lời xin lỗi vì trong quá trình học có những lúc em đã
không tập trung nhưng một câu nói của cô bỗng vực em thức tỉnh: “Đó là trách
nhiệm của con cái đối với bố mẹ, là người đi trước nên cô biết đấy, có những bạn
trẻ được bố mẹ nuông chiều mà không chịu cố gắng phấn đấu. Bố mẹ chăm lo cho
tụi em tất thảy nhưng tự hỏi các em đã làm được gì cho bố mẹ hay chưa?” Lúc ấy
em chợt chạnh lòng hổ thẹn nhưng rồi nhận ra rằng mình phải nỗ lực hơn nữa để
đền đáp công cha, nghĩa mẹ, ơn thầy!
Vượt qua phạm vi kiến thức, cô còn giảng dạy tụi em những quan niệm, triết lý
sống thực tiễn để hoàn thiện nhân cách. Từ một môn học nghe có vẻ khô khan
nhưng cô đã tô điểm lên nó những gam màu mới lạ. Mong rằng thế hệ khóa 47 nói
riêng và sinh viên UEH nói chung sẽ tiếp tục nhận được ngọn lửa Triết học từ cô.
Hãy mãi là người truyền lửa và giữ lửa cô nhé!
“Triết học là tinh hoa của nhân loại và là cơ sở phương pháp luận đúng đắn cho
mọi hoạt động của con người”.
Không dừng lại ở những dòng chữ trên trang giấy, em sẽ dốc hết tâm lực để vận
dụng những điều cô đã truyền tải; trở thành một sinh viên tài đức đóng góp cho xã hội.
Hy vọng sẽ có cơ hội gặp mặt cô trong tương lai.
Chúc cô cùng gia đình nhiều sức khỏe, bình an, hạnh phúc. Ngân Hà.
TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Theo C.Mác v
à Ph.Ăngghen(1994), Toàn tập, t.20. Sdd.
2. Theo C.Mác và Ph.Ăngghen(1995). Toàn tập, t.3, Nxb. Chính trị QGHN
3. Theo Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia.
4. Theo Giáo trình Triết học Mác- Lênin, GS.TS. Phạm Văn Đức chủ biên.
5. Theo Những câu chuyện kể về Bác Hồ.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý
luận - thực tiễn qua 20 năm đổi mới (1986 - 2006), tr.78-79.
7. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị
quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 111 – 112
8. Frederick Ungar, Human Nature –Marx’s Concept of Man,
https://www.marxists.org/archive/fromm/works/1961/man/ch04.htm.
Do còn hạn chế về kiến thức chuyên môn và kinh nghiệm viết tiểu luận nên bài làm c a em còn nhi ủ
ều thiếu sót. Kính mong nhận được sự góp ý của cô
để bài viết được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn!