




Preview text:
lOMoAR cPSD| 61622878 I. LỜI MỞ ĐẦU
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, việc phát triển lực lượng sản xuất và xây
dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật là nhiệm vụ có ý nghĩa sống còn đối với mỗi quốc
gia. Ở Việt Nam, công nghiệp hóa, hiện đại hóa được xác định là con đường tất yếu
để thực hiện mục tiêu đó. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa không chỉ là quá trình
chuyển dịch nền kinh tế từ sản xuất thủ công, lạc hậu sang sản xuất hiện đại dựa trên
nền tảng khoa học – công nghệ tiên tiến, mà còn là một yêu cầu cấp thiết nhằm nâng
cao năng suất lao động, cải thiện đời sống nhân dân, bảo đảm quốc phòng – an ninh
và hội nhập quốc tế một cách hiệu quả. Trong điều kiện đặc thù của Việt Nam – một
nước đang phát triển và xây dựng chủ nghĩa xã hội – việc thực hiện công nghiệp hóa,
hiện đại hóa cần được đặt trong khuôn khổ lý luận và thực tiễn của Kinh tế chính trị
Mác – Lênin, nhằm đảm bảo định hướng đúng đắn và phù hợp với mục tiêu xã hội chủ nghĩa.
Mục tiêu nghiên cứu của bài thuyết trình là nhằm làm rõ bản chất của quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa dưới góc nhìn của môn Kinh tế chính trị Mác –
Lênin, qua đó giúp người học hiểu được vì sao công nghiệp hóa, hiện đại hóa lại là
con đường tất yếu để phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng nền tảng vật chất – kỹ
thuật cho chủ nghĩa xã hội, đặc biệt trong điều kiện lịch sử - xã hội cụ thể của Việt
Nam. Ngoài ra, bài thuyết trình cũng tập trung phân tích quá trình triển khai công
nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta trong thời gian qua, đánh giá một cách khách
quan những thành tựu đã đạt được, chỉ ra những tồn tại, hạn chế, cũng như nguyên
nhân dẫn đến các vấn đề còn tồn đọng. Từ đó, đề xuất các nhóm giải pháp khả thi
nhằm nâng cao hiệu quả quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong giai đoạn tới,
góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế nhanh, bền vững và đúng định hướng xã hội chủ nghĩa. II. NỘI DUNG CHÍNH
1. Cơ sở lý luận về CNH – HĐH 1.1. Khái niệm
Công nghiệp hóa được định nghĩa và có nhiều quan niệm khác nhau song nó thường
được hiểu là một quá trình gắn liền với một nền cơ cấu kinh tế hợp lý, trang bị kỹ
thuật ngày cành hiện đại cho các ngành kinh tế nhằm thủ tiêu tình trạng lạc hậu về lOMoAR cPSD| 61622878
kinh tế xã hội, khai thác tối ưu các nguồn lực và lợi thế, đảm bảo nhịp độ tăng trưởng nhanh và ổn định .
Công nghiệp hóa cũng có thể được hiểu là quá trình chuyển đổi nền sản xuất xã hội
từ dựa trên lao động thủ công là chính sang nền sản xuất xã hội dựa trên lao động
bằng máy móc nhằm tạo ra năng suất lao động xã hội cao .
1.2. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin:
a) CNH là quá trình tất yếu để phát triển LLSX, giải phóng sức lao động, xây dựng
nền đại công nghiệp XHCN.
- CNH là con đường tất yếu để phát triển lực lượng sản xuất (LLSX)
Lực lượng sản xuất bao gồm: người lao động, tư liệu sản xuất (máy móc, công cụ,
nguyên liệu), và trình độ khoa học – công nghệ. Trong xã hội tiền tư bản và giai đoạn
đầu của quá độ lên CNXH, LLSX còn thấp, sản xuất thủ công là chủ yếu năng suất
lao động thấp, không đủ đáp ứng nhu cầu phát triển xã hội.
Công nghiệp hóa chính là biện pháp chủ yếu để phát triển LLSX: ứng dụng máy
móc, công nghệ hiện đại, nâng cao năng suất. Hình thành các ngành công nghiệp
then chốt thúc đẩy phân công lao động và liên kết ngành.
- CNH là quá trình giải phóng sức lao động
Trong nền sản xuất thủ công, con người bị lệ thuộc hoàn toàn vào công cụ và thiên
nhiên. Khi CNH phát triển, máy móc dần thay thế sức người, con người chuyển từ
vai trò "lao động cơ bắp" sang "lao động trí tuệ", trở thành người tổ chức, điều khiển,
sáng tạo trong quá trình sản xuất.
Nhờ đó: lao động được chuyên môn hóa cao. Con người có điều kiện học tập,
nâng cao tri thức và năng lực sáng tạo. Lao động trở nên nhẹ nhàng hơn, hiệu quả hơn, ý nghĩa hơn.
- CNH là nền tảng để xây dựng nền đại công nghiệp xã hội chủ nghĩa
Mác và Ăngghen khẳng định rằng không thể xây dựng chủ nghĩa xã hội trên nền
tảng của một nền sản xuất nhỏ, lạc hậu. CNH giúp hình thành nền sản xuất đại công
nghiệp – nơi máy móc, công nghệ cao, tự động hóa đóng vai trò chủ đạo. Một nền
đại công nghiệp phát triển sẽ đảm bảo sản xuất đủ của cải vật chất cho toàn xã hội,
là tiền đề cho công bằng xã hội và nâng cao đời sống nhân dân. lOMoAR cPSD| 61622878
Không có CNH thì không có sản xuất lớn, không có sản xuất lớn thì không thể
xây dựng CNXH một cách thực chất, đúng như lý luận của chủ nghĩa Mác.
b) CNH - HĐH gắn với sự phát triển của sản xuất lớn, áp dụng KH-CN tiên tiến vào các ngành kinh tế.
- CNH-HĐH gắn với sự phát triển của sản xuất lớn
Sản xuất lớn là nền tảng vật chất – kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Theo C.Mác, chỉ
có sản xuất lớn mới đủ khả năng tạo ra năng suất lao động xã hội cao, đáp ứng nhu
cầu ngày càng tăng của xã hội. Phân công lao động xã hội là điều kiện để phát triển
sản xuất lớn, thúc đẩy chuyên môn hóa và hợp tác hóa trong sản xuất.
- CNH-HĐH gắn với áp dụng KH-CN tiên tiến vào các ngành kinh tế
Theo Ph.Ăngghen, trong thời đại ngày nay, khoa học không chỉ là công cụ hỗ trợ mà
đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, quyết định trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất. KH-CN thúc đẩy sự phát triển của sản xuất lớn: Việc ứng dụng KH-CN
tiên tiến vào sản xuất giúp nâng cao năng suất lao động, chất lượng sản phẩm và
hiệu quả sản xuất từ đó phát triển kinh tế hiệu quả hơn .
1.3. Ở Việt Nam, CNH – HĐH là quá trình cải biến căn bản, toàn diện các lĩnh vực,
đặc biệt về kinh tế, từ nông nghiệp lạc hậu sang công nghiệp hiện đại, theo định hướng XHCN
a) CNH-HĐH là quá trình cải biến căn bản, toàn diện các lĩnh vực
Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa (CNH – HĐH) không đơn thuần là việc thay thế
máy móc hiện đại vào quy trình sản xuất, mà là một quá trình cải biến sâu sắc và
toàn diện trên tất cả các phương diện: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, giáo dục,
khoa học – công nghệ và môi trường.
Thứ nhất, CNH – HĐH là một quá trình cải biến căn bản.
Quá trình này không chỉ giới hạn ở việc đổi mới công cụ lao động mà còn đòi hỏi
phải thay đổi phương thức sản xuất, mô hình quản lý, tổ chức kinh tế – xã hội. Cốt
lõi là chuyển dịch từ nền kinh tế dựa chủ yếu vào lao động thủ công và sản xuất nông
nghiệp sang nền kinh tế hiện đại, lấy công nghệ và tri thức làm động lực phát triển.
Nhờ đó, cơ cấu kinh tế được điều chỉnh theo hướng tăng tỷ trọng các ngành công
nghiệp và dịch vụ, giảm dần tỷ trọng nông nghiệp, góp phần nâng cao năng suất lao
động và sức cạnh tranh quốc gia. lOMoAR cPSD| 61622878
Thứ hai, CNH – HĐH là một quá trình cải biến toàn diện các lĩnh vực.
Tính toàn diện được thể hiện ở chỗ không chỉ kinh tế mà cả các lĩnh vực xã hội,
giáo dục, y tế, văn hóa, môi trường và hệ thống chính trị – pháp luật cũng đều cần
được đổi mới, nâng cao để đáp ứng yêu cầu phát triển. Trong lĩnh vực kinh tế, CNH
– HĐH góp phần nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả hoạt động sản xuất
kinh doanh. Trong giáo dục – đào tạo, quá trình này đòi hỏi sự đổi mới chương
trình, phương pháp giảng dạy nhằm đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, đáp
ứng yêu cầu của nền sản xuất hiện đại. Ở lĩnh vực văn hóa, hiện đại hóa giúp gìn
giữ bản sắc dân tộc, đồng thời tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại... b) CNH-HĐH
phải gắn với các yêu cầu phát triển hiện đại
Thứ nhất, CNH-HĐH phải gắn với phát triển kinh tế tri thức
Kinh tế tri thức là nền kinh tế trong đó tri thức, thông tin, công nghệ và sáng tạo trở
thành yếu tố then chốt tạo ra giá trị gia tăng. Trong bối cảnh cách mạng công nghiệp
lần thứ tư, Việt Nam không thể tiếp tục dựa vào tài nguyên và lao động giá rẻ, mà
phải chuyển hướng sang mô hình phát triển dựa trên tri thức, đổi mới sáng tạo và
công nghệ cao. Đầu tư vào giáo dục, đào tạo nhân lực, phát triển khoa học – công
nghệ và thúc đẩy chuyển đổi số là yêu cầu cấp thiết. Đồng thời, cần xây dựng các
ngành công nghiệp mũi nhọn như công nghệ thông tin, sinh học, năng lượng tái
tạo… hướng tới nền kinh tế số, xanh và tuần hoàn.
Thứ hai, CNH-HĐH phải gắn với hội nhập kinh tế quốc tế
Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình gắn kết nền kinh tế quốc gia vào kinh tế khu
vực và toàn cầu thông qua các hình thức tự do hóa thương mại, đầu tư, hợp tác kinh
tế – kỹ thuật... Trong bối cảnh toàn cầu hóa, CNH – HĐH ở Việt Nam cần đồng thời
thực hiện mở cửa thị trường, thu hút đầu tư, tiếp nhận công nghệ và tham gia sâu
hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu. Tuy nhiên, hội nhập cũng đặt ra những thách thức
như cạnh tranh gay gắt, phụ thuộc công nghệ và yêu cầu nâng cao thể chế. Do đó,
Việt Nam cần tích cực tham gia các FTA thế hệ mới, cải thiện môi trường kinh doanh,
và bảo đảm giữ vững bản sắc văn hóa, lợi ích quốc gia.
Thứ ba, CNH-HĐH phải gắn với tăng trưởng bền vững, bao trùm và công bằng xã hội
CNH – HĐH không chỉ nhắm đến tăng trưởng kinh tế mà còn phải đảm bảo chất
lượng sống, công bằng và phát triển bền vững. Tăng trưởng phải đi đôi với bảo vệ lOMoAR cPSD| 61622878
môi trường, sử dụng hiệu quả tài nguyên và ứng phó với biến đổi khí hậu. Đồng thời,
phát triển bao trùm cần được đảm bảo – mọi người dân, vùng miền đều được hưởng
thành quả phát triển. Cần đẩy mạnh chính sách an sinh xã hội, giảm nghèo bền vững,
hỗ trợ nhóm yếu thế và đảm bảo công bằng trong tiếp cận giáo dục, y tế, việc làm và dịch vụ công.
2. Tính tất yếu khách quan của CNH – HĐH ở Việt Nam
2.1. Quy luật phát triển của lực lượng sản xuất -
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quy luật phổ biến trong quá trình phát triển
lực lượng sản xuất, chuyển nền sản xuất từ thủ công sang cơ khí, từ nông nghiệp
sang công nghiệp và dịch vụ. -
Việc áp dụng tiến bộ khoa học – công nghệ giúp tăng năng suất lao động, tạo
việclàm ổn định và nâng cao thu nhập cho người dân.
2.2. Xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội -
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là con đường tất yếu để xây dựng hệ thống cơ
sở vật chất – kỹ thuật hiện đại, đáp ứng yêu cầu của chủ nghĩa xã hội. -
Quá trình này đòi hỏi phải kế thừa và phát triển các yếu tố vật chất của lực
lượng sản xuất, thích ứng với trình độ phát triển khoa học – công nghệ hiện đại.
2.3. Yêu cầu của hội nhập kinh tế quốc tế -
Trong bối cảnh toàn cầu hóa, công nghiệp hóa, hiện đại hóa giúp Việt Nam
nâng cao năng lực cạnh tranh, tận dụng cơ hội và vượt qua thách thức từ môi trường quốc tế.