Cùng tìm hiểu khái quát về tác phẩm Người lái đò sông đà của tác giả Nguyễn Tuân | Văn mẫu 12

Cùng tìm hiểu khái quát về tác phẩm Người lái đò sông đà của tác giả Nguyễn Tuân | Văn mẫu 12 với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp sinh viên tham khảo, ôn luyện và phục vụ nhu cầu học tập của mình cụ thể là có định hướng, ôn tập, nắm vững kiến thức môn học và làm bài tốt trong những bài kiểm tra, bài tiểu luận, bài tập kết thúc học phần, từ đó học tập tốt và có kết quả cao cũng như có thể vận dụng tốt những kiến thức mình đã học vào thực tiễn cuộc sống

NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ
NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ
NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ
NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀNGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ
(Nguyễn Tuân)
I. Tìm hiểu chung
1. Tác giả: Nguyễn Tuân
Tiểu sử:
Con người - Sự nghiệp văn học:
- Nguyễn Tuân là một tri thức giàu lòng yêu nước và tinh thần dân tộc. Lòng yêu nước của ông không được
phát biểu trực tiếp mà ẩn đằng sau những bức tranh thiên nhiên, những giá trị văn hóa cổ truyền của dân
tộc.
- Nguyễn Tuân là nhà văn có phong cách nghệ thuật độc đáo:
+ Văn chương Nguyễn Tuân hấp dẫn người đọc bởi cái “tôi” tài hoa, uyên bác, sự sắc nhọn tinh tế
của các giác quan và ngôn từ điêu luyện, giàu hình ảnh, cảm xúc.
Tài hoa, uyên bác thể hiện qua cách nhìn nhận, khám phá mọi sự vật, hiện tượng ở
phương diện thẩm mỹ và miêu tả con người ở góc độ tài hoa nghệ sĩ.
Văn Nguyễn Tuân đầy ắp những hiểu biết phong phú, đa dạng về những lĩnh vực khác
nhau của đời sống hay các bộ môn khoa học - nghệ thuật. Cho nên Nguyễn Tuân có thể soi chiếu hiện
thực bằng nhiều điểm nhìn và nhiều góc độ.
+ Nguyễn Tuân là ngòi bút giàu cảm hứng lãng mạn. Ông ưa thích những gì phi thường, độc đáo gây
cảm giác mạnh. Vì thế ông ưa dùng những thủ pháp nghệ thuật đối lập tương phản.
+ Nguyễn Tuân luôn có khát vọng khẳng định cái “tôi” nên ông đặc biệt ưa thích thể tùy bút và ông
đến với thể tùy bút như một lẽ tất yếu phù hợp với cá tính của mình.
+ Nguyễn Tuân là bậc thầy trong việc sử dụng và sáng tạo ngôn từ. Ông đưa vào tùy bút ngôn ngữ
của điện ảnh, điêu khắc, quân sự… → Tất cả góp phần vào việc làm giàu có thêm tiếng mẹ đẻ.
Nguyễn Tuân xứng đáng là nhà văn tiêu biểu của nền văn học Việt Nam hiện đại.
2. Tác phẩm:
- Hoàn cảnh sáng tác - Xuất xứ:
“Người lái đò sông Đà” là tùy bút được in trong tập “Sông Đà” (gồm 15 thiên tùy bút và một bài thơ ở
dạng phác thảo - viết năm 1960). Đây là thành quả nghệ thuật đẹp đẽ của Nguyễn Tuân trong những chuyến đi
gian khổ nhưng hào hùng tới miền Tây Bắc của Tổ quốc.
- Mục đích:
Tìm kiếm chất “vàng mười” của thiên nhiên cùng “thứ vàng mười đã qua thử lửa” ở tâm hồn những con
người lao động, chiến đấu trên miền núi sông hùng vĩ và thơ mộng → Qua tập “Sông Đà” nói chung và tùy bút
“Người lái đò sông Đà” nói riêng, người đọc có thể nhận ra cách nhìn mới mẻ của Nguyễn Tuân: khao khát
với cuộc đời này.
- Chủ đề:
Qua hình tượng sông Đà và người lái đò, Nguyễn Tuân muốn thể hiện tình yêu tha thiết với thiên nhiên,
đất nước và ngợi ca những con người lao động - “chất vàng mười đã qua thử lửa”.
II. Đọc hiểu chi tiết
Phần 1: Hình tượng sông Đà
Khi chọn lời đề từ cho tác phẩm này, Nguyễn Tuân đã muốn giải thích vì sao ông chọn con sông Đà là đối
tượng thẩm mỹ:
+ Con sông Đà có dòng chảy độc đáo:
“Chúng thủy giai đông tẩu
Đà giang độc bắc lưu”
Nghĩa là mọi dòng sông đều chảy theo hướng Đông, chỉ có sông Đà chảy theo hướng Bắc.
+ Sông Đà lắm thác nhiều ghềnh, từ nghìn xưa vẫn làm mình làm mẩy với con người. Một dòng
sông như thế quá là rất có duyên với ngòi bút của người nghệ sĩ luôn ưa thích khung cảnh thiên
nhiên gây ấn tượng mạnh. Chính vì lẽ đó mà trên trang viết của Nguyễn Tuân, sông Đà không còn
là vật thể vô tri vô giác mà đã hóa thành sinh thể sống có linh hồn, tính cách.
a) Sông Đà hùng vĩ, hung bạo như một loài thủy quái khổng lồ, độc dữ, nham hiểm.
Đá bờ sông dựng thành vách:
- Nguyễn Tuân gợi người đọc ấn tượng về chiều cao của vách đá thành bằng hình ảnh ẩn dụ “vách thành”
→ dựng lên trước mắt người đọc hình ảnh của thành cao, hào sâu gợi sự bí hiểm
- Ấn tượng về chiều sâu “Mặt sông chỗ ấy chỉ đúng ngọ mới có mặt trời” → Hình ảnh so sánh này giúp
người đọc hình dung độ cao của vách hai bên bờ sông, vừa diễn tả cái âm u, lạnh lẽo, tối tăm của
những khúc sông có đá dựng vách thành.
- Ấn tượng về sự nhỏ hẹp của lòng sông:
+ Vách đá thành chẹt lòng sông “như một yết hầu”. Nguyễn Tuấn so sánh lòng sông với một bộ
phận nhỏ hẹp ở cổ họng con người nhằm diễn tả độ hẹp của dòng chảy, vì thế mà lưu tốc của nó
rất lớn, gây ra sự nguy hiểm cho con người.
+ Để tô đậm đá bờ sông dựng vách thành, Nguyễn Tuân sử dụng liên tiếp hai hình ảnh “Có quãng
con nai, con hổ đã có lần vọt từ bờ này sang bờ kia “ và “Đứng bên này nhẹ tay ném hòn đá qua
bên kia vạch”
- Nguyễn Tuân khắc sâu ấn tượng về sự hùng vĩ của vách đá sông Đà bằng cách sử dụng sự liên tưởng độc
đáo, thú vị: “Ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè mà cũng thấy lạnh”. Đó phải chăng là cái
rợn ngợp của vách đá, là một khúc sông có dòng chảy hẹp để rồi ai đi qua quãng ấy cũng cảm thấy mình
như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên khung cửa sổ vừa tắt phụt đèn điện. Liên tưởng này của
Nguyễn Tuân đã đưa người đọc khiến cảm giác của một con người đứng giữa thiên nhiên hoang sơ, hùng
vĩ với một khoảnh khắc của đời sống phố thị hiện đại
Như vậy, bằng sự tài hoa, uyên bác, Nguyễn Tuân đã vận dụng những giác quan như thị giác, xúc giác…
cùng sự liên tưởng so sánh mới mẻ, độc đáo khiến cho những vách đá sông Đà không chỉ hùng vĩ mà còn
hiểm trở.
Mặt ghềnh Hát Loóng:
- Bằng cấu trúc câu văn và điệp từ, điệp ngữ “Nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió” cùng sự phối hợp của
các thanh trắc tạo âm hưởng dữ dội, nhịp điệu khẩn trương khiến cho cả ghềnh sông chảy cuồn cuộn dữ
dằn trở thành kẻ thù nguy hiểm số một đối với con người.
- Nguyễn Tuân nhân hóa dòng sông như một kẻ chuyên đi đòi nợ những người không mắc nợ mình một
cách vô duyên vô cớ, bằng thái độ “gùn ghè” như lúc nào cũng muốn tóm được người lái đò sông Đà nào
qua đây.
- Địa danh Hát Loóng cũng góp phần tạo nên sự dữ dội của dòng sông bởi khi đọc tên địa danh phải nén
hơi uốn lưỡi như chính mình phải đi qua chỗ nước dữ với sóng, đá, ghềnh thác sông Đà.
Bằng sự kết hợp của những thủ pháp nghệ thuật, Nguyễn Tuân đã làm nổi bật tính cách hung bạo của
những ghềnh thác sông Đà.
Quãng Tà Mường Vát và những cái hút nước sông Đà:
Những hút nước sông Đà ở quãng Tà Mường Vát gây ấn tượng và nổi bật qua sự liên tưởng phóng túng,
qua ngôn ngữ của nhiều ngành khác nhau - hội họa, điện ảnh, giao thông….
- Sử dụng dày đặc hình ảnh so sánh “giống như cái giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng
cầu”. Sự so sánh độc đáo đã gợi tả độ sâu của hút nước vừa giúp người đọc hình dung sự đổi chiều trong
dòng chảy khiến cho nước xoay tròn, xoáy sâu xuống lòng sông tạo nên những âm thanh ghê rợn.
- Những âm thanh được tác giả sử dụng thông qua biện pháp nghệ thuật nhân hóa, so sánh: lúc thì nước
“thở và kêu như cửa cống cái bị sặc”, khi thì lại “ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào”. → Bằng việc miêu
tả âm thanh sinh động, đa dạng của nhiều hút nước sông Đà, người đọc đã cảm nhận được cường
lực ghê gớm của những hút nước sông Đà.
- Những con thuyền phải qua vùng xoáy nước thật nhanh như ô tô sang số ấn ga để vút qua quãng đường
mượn cạp ra ngoài bờ vực. → Bằng biện pháp nghệ thuật so sánh, Nguyễn Tuân đã đem không khí
của phố thị thổi vào giữa chốn rừng núi hoang sơ này
- Nghệ thuật kết hợp kể và tả một cách chân thực, giàu hình ảnh, những con thuyền bị hút nước cuốn
xuống sẽ trồng ngay cây chuối ngược ở những khúc sông dưới. → Một lần nữa tác giả khẳng định
những cái hút nước là mối đe dọa với con người
- Nguyễn Tuân còn dùng trí tưởng tượng của mình để liên tưởng đến một anh bạn quay phim táo tợn muốn
truyền cảm giác lạ cho khán giả, đã dũng cảm ngồi vào cái thuyền thúng tròn vành rồi cho cả thuyền cả
mình cả máy quay xuống hút nước sông Đà. → Phải là người có lối sống phong phú, trí tưởng tượng
bay bổng, sáng tạo như Nguyễn Tuân mới có thể tô đậm sự khủng khiếp của những hút nước sông Đà
khiến cho chúng như những cạm bẫy nguy hiểm.
Thác đá sông Đà:
Ngay từ đầu, Nguyễn Tuân đã sáng tạo không khí về một dòng sông không chỉ hùng vĩ mà còn hung dữ.
Cái hung dữ ấy được ông khắc họa sinh động, chân thực qua những thác đá.
- Từ xa, những thác đá sông Đà đã đe dọa con người bằng những âm thanh phong phú và ghê sợ. Khi thì
oán trách, van xin, khi lại khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo → Bằng hệ thống từ ngữ miêu tả âm
thanh theo những cung bậc tăng dần cả về sắc thái cảm xúc lẫn âm lượng đã làm sống động sự hung
bạo của dòng sông.
- Nguyễn Tuân nhân hóa dòng sông giống như một sinh thể dữ dằn có lúc rống lên như một ngàn con trâu
mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu, rừng tre nứa nổ lửa, rừng lửa gầm thét cùng đàn trâu da cháy bùng
bùng. → Bằng biện pháp nghệ thuật so sánh, câu văn trùng điệp, nhịp văn ngắn, giọng văn gấp gáp,
Nguyễn Tuân đã lột tả đến tận cùng cái dữ dội, man dại của những thác đá sông Đà. Hơn nữa, tác giả
lấy “lửa” để tả “nước”, lấy ác thú để tả dòng sông - đó là cách chơi “ngông” trong nghệ thuật của
Nguyễn Tuân mà khó có thể tìm được ở một hình ảnh so sánh nào chính xác hơn, độc đáo hơn để
khắc sâu ấn tượng về sự dữ dội của thác đá sông Đà.
- Tới gần, hình ảnh thác đá hiện ra trong một câu văn ngắn “Tới cái thác rồi” - vang lên như một tiếng reo
vui.
- Hình ảnh “sóng bọt trắng xóa cả một chân trời đá” gợi ấn tượng hùng vĩ, choáng ngợp của đá sông Đà.
- Những thác đá sông Đà phô bày sức mạnh của mình bằng “cả một chân trời đá”. Và dưới ngòi bút tài hoa
của Nguyễn Tuân, những hòn đá vô tri vô giác đã mang diện mạo, tính cách của con người.
+ Đá như một đội quân dữ dằn, tên nào trông cũng “ngỗ ngược, nhăn nhúm, méo mó” sẵn sàng giao
chiến.
+ Chúng không nằm ngồi theo sở thích mà được sắp xếp theo vị trí của một thạch trận công phu,
khéo léo do thần sông thần đá bày đặt. Nhưng cái tài của Nguyễn Tuân là đã bắt được những hòn
đá vô tri vô giác ấy trở nên có hồn - đó là hồn của những chiến binh trận địa.
+ Đá còn kết hợp với nước bày thạch trận thành 3 vòng vây:
Vòng vây 1: Sông Đà bày ra 5 cửa trận, có 4 cửa tử, 1 cửa sinh. Cửa sinh nằm lập lờ phía tả
ngạn. Hàng tiền vệ có 2 hòn đá canh cửa trông như sơ hở nhưng chúng lại được giao nhiệm vụ dụ
chiếc thuyền vào tuyến giữa,
Vòng vây 2: Sông Đà tăng thêm cửa tử, cửa sinh bố trí lệch sang hữu ngạn, sóng nước kết hợp
với đá đánh khuýp quật vô hồi.
Vòng vây 3: là vòng kiên cố nhất, ít cửa hơn nhưng bên phải bên trái đều là luồng chết với
những boong ke chìm, pháo đài nổi có nhiệm vụ tiêu diệt con thuyền.
→ Sông Đà không chỉ dữ dằn mà còn được miêu tả như kẻ thù nham hiểm xảo quyệt vì trong cuộc giao
tranh với con người chúng luôn thay đổi chiến thuật.
- Nguyễn Tuân sử dụng cách quay cận cảnh của một nhà điện ảnh để miêu tả rõ nét dáng vẻ độc đáo, động
tác, nhiệm vụ, vị trí của từng hòn đá sông Đà. Hòn thì trông bệ vệ, oai phong, lẫm liệt. Hòn thì trông
nghiêng y như đang hất hàm, hỏi cái thuyền phải xưng tên trước khi giao chiến.
Bằng ngòi bút tài hoa, uyên bác của người nghệ sĩ ngôn từ, sự hùng vĩ, hung bạo của sông Đà đã hiện ra
ở nhiều dáng vẻ khác nhau nhưng tất cả đều toát lên một sự hoang dại, một sức mạnh của thiên nhiên kỳ vĩ.
Nguyễn Tuân đến sông Đà với mục đích tìm “chất vàng 10 của thiên nhiên”. Đó là vẻ đẹp sông Đà hùng vĩ
và tiềm năng thủy điện to lớn của dòng sông. Cho nên khi nghĩ đến những tuýp pin thủy điện, nhà văn đã
thấy vai trò sông Đà trong sự nghiệp xây dựng Tổ quốc.
b) Sông Đà thơ mộng, trữ tình.
Sông Đà được cảm nhận từ nhiều góc độ khác nhau. Cho nên Nguyễn Tuân đã có những phát hiện tinh tế
và miêu tả một cách tài hoa vẻ đẹp trữ tình và đa dạng của dòng sông.
- Chọn điểm nhìn từ trên cao để bao quát và vẽ nên dáng vẻ mềm mại của sông Đà như áng tóc của một
người thiếu nữ kiều diễm: “Con sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn
hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban gạo tháng 2 và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương
xuân”.
+ Bằng những vế của câu văn trùng điệp cùng cách phối màu của hội họa: màu trắng thanh khiết của
hoa ban, sắc đỏ rực rỡ của hoa gạo, sự lung linh huyền ảo của khói và mây trời Tây Bắc, Nguyễn
Tuân đã vẽ nên một bức tranh thiên nhiên thơ mộng mang đặc trưng của vùng cao Tây Bắc.
+ Biện pháp nghệ thuật so sánh sông Đà “như một áng tóc trữ tình” kết hợp điệp ngữ “tuôn dài, tuôn
dài” → Mở ra trước mắt người đọc độ dài vô tận của dòng sông cùng vẻ đẹp trẻ trung, duyên
dáng, tràn đầy sức sống của người thiếu nữ kiều diễm.
+ Khắc lên vẻ đẹp sông Đà qua động từ “bung nở”, từ láy “cuồn cuộn”, kết hợp “hoa ban” nở trắng
rừng, “hoa gạo” nở đỏ rực hai bên bờ sông làm cho người đọc liên tưởng mái tóc như được trang
điểm bởi mây trời Tây Bắc.
Như vậy, chỉ bằng một câu văn nhưng chứng tỏ sông Đà đẹp đến say mê trái tim người nghệ sĩ là bởi nó là
hiện thân cho vẻ đẹp của quê hương, đất nước mình và nó gắn bó gần gũi, thân thuộc với cuộc sống của con
người. Từ đó, người đọc nhận ra sự thay đổi cơ bản trong thẩm mỹ của nhà văn.
- Nguyễn Tuân đã ngắm nhìn sông Đà từ nhiều thời gian và không gian khác nhau nên ông đã phát hiện ra
những sắc màu tươi đẹp và đa dạng của nước sông Đà.
Nước sông Đà biến đổi theo mùa, mỗi mùa lại mang một vẻ đẹp riêng:
Mùa xuân, nước sông Đà có màu “xanh ngọc bích” - một màu sắc gợi cảm, trong lành. Và để
làm nổi bật màu xanh tươi sáng, trong trẻo ấy, Nguyễn Tuân đã phân biệt với “màu xanh canh hến
của sông Gấm, sông Lô”.
Mùa thu, nước sông Đà “lừ lừ chín đỏ” bởi dòng chảy vốn trong trẻo ấy đang chở nặng phù sa
mà biến thành màu như da mặt một người uống rượu. Đặc biệt, Nguyễn Tuân rất bất bình và bác
bỏ cái tên Tây láo lếu mà thực dân Pháp đã đè ngửa con sông ra để đổ mực Tây vào, gọi là “sông
Đen”.
→ Như vậy, thái độ bất bình của Nguyễn Tuân không chỉ tôn vinh vẻ đẹp của dòng sông mà còn trực tiếp bày
tỏ tình cảm yêu mến, tự hào về vẻ đẹp của dòng sông quê hương.
- Sông Đà giống một người “cố nhân” - người bạn tri âm tri kỷ của mình. Nhưng người “cố nhân” ấy có
những tính nết thất thường, lắm chứng lắm bệnh, chốc dịu dàng đấy, rồi chốc lại bẳn tính gắt gỏng thác lũ
ngay đấy. → Với cách ví von độc đáo đầy chất tạo hình, Nguyễn Tuân đã làm cho sông Đà hiện lên
như một con người để làm nổi bật vẻ đẹp “gợi cảm” của dòng sông.
Nguyễn Tuân còn cảm nhận rõ nét chất đằm thắm ấm ấm của con sông Đà. Và dường như chất thơ
ngấm vào trong từng cảnh sắc thiên nhiên. Đó là cái nắng của tháng 3 Đường thi trong câu thơ Lý
Bạch:
“Yên hoa tam nguyệt há dương châu”
Nguyễn Tuân đã mượn câu thơ nổi tiếng này như ngầm khẳng định vẻ đẹp cổ thi của dòng sông Tây
Bắc.
Sông Đà hiện lên thân thiện, dễ mến. Nó trở thành người bạn chung thủy, điềm tĩnh chờ đợi người đi xa
trở về.
- Lấy điểm nhìn của một du khách đi thuyền trên sông Đà và để quan sát, khắc họa trên những trang văn
của mình vẻ đẹp đa dạng, nên thơ của cảnh vật ven sông.
+ Câu văn “Thuyền tôi trôi trên sông Đà” toàn thanh bằng tạo cảm giác yên ả, thanh bình, một vẻ
đẹp còn đỏ dấu tích lịch sử của cha ông.
Nhà văn hướng đến lịch sử của những buổi đầu dựng nước và giữ nước: “Hình như từ đời Trần,
đời Lý, đời Lê, quãng sông cũng lặng tờ đến thế mà thôi” → Càng làm nổi bật vẻ đẹp nguyên sơ,
hồn hoang của đôi bờ sông Đà.
+ Không chỉ yên ả, thanh bình, hai bên bờ sông Đà còn mang vẻ đẹp hoang sơ, cổ kính đưa người
đọc về miền ký ức xa xăm “Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một
nỗi niềm cổ tích tuổi xưa” → Bằng lối so sánh đặc biệt, độc đáo, dùng không gian gợi mở thời
gian khiến cho con sông Đà như vừa gần vừa xa, vừa thực vừa ảo.
+ Trong cảm quan tinh tế của Nguyễn Tuân, sông Đà hung bạo, dữ dội ở thượng nguồn lại là nguồn
sinh lực dồi dào nuôi dưỡng vẻ đẹp tươi mới, tràn trề nhựa sống.
Những “nương ngô nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa”, “cỏ gianh, đồi núi đang ra những nõn
búp” và “đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm” → Bằng những câu văn đầy
chất thơ, chất họa, vẻ đẹp hai bên bờ sông Đà giống như một bức tranh thủy mặc lộng lẫy, đầy
sức sống.
+ Âm thanh hiện đại: tiếng còi tàu được cổ tích hóa, hiện đại hóa thành tiếng còi sương → Niềm
“khao khát được giật mình vì một tiếng còi xúp lê của chuyến xe lửa” chính là khao khát hiện
đại hóa miền Tây Bắc của nhà văn.
+ Có sự tương giao giữa lòng người và tạo vật nên một người khách sông Đà đã nghe được câu hỏi
của con hươu thơ ngộ: “Hỡi ông khách sông Đà, có phải ông cũng nghe thấy một tiếng còi
sương?”
+ Trong cảm nhận của Nguyễn Tuân, sông Đà không chỉ chảy qua không gian, thời gian mà còn
chảy qua những áng thơ “Và dòng sông như đang lắng nghe những giọng nói êm êm của người
xuôi” hay chính nhà văn đang trải lòng, hóa thân vào dòng sông để lắng nghe và xúc động.
Vẻ đẹp trữ tình, thơ mộng đã khiến sông Đà trở thành người bạn cố tri nên những ai đã từng sống với
sông Đà khi xa thì nhớ, khi trở về lòng dạt dào cảm xúc. Bởi Nguyễn Tuân đã phát hiện ra vẻ đẹp trữ tình
của dòng sông ở những chi tiết, dáng vẻ mang tính thẩm mỹ, tài hoa.
Giọng văn êm ả, nhịp nhàng, câu văn giàu chất thơ đã giúp tâm hồn con người được thanh lọc trong trẻo
và sâu lắng hơn.
Những trang văn như thế sẽ khơi dậy ở người đọc tình yêu quê hương, đất nước, yêu con người.
Tiểu kết:
- Hung bạo hay trữ tình, hùng vĩ hay thơ mộng cũng chỉ là hai thái cực khác nhau của một vẻ đẹp - một
công trình nghệ thuật tuyệt vời mà tạo hóa đã ban tặng cho chúng ta.
- Đặc tả vẻ đẹp của sông Đà, Nguyễn Tuân không chỉ nhờ vào tài năng văn chương mà cái cốt lõi vẫn là
tấm lòng yêu thiên nhiên tha thiết, niềm tự hào trước vẻ đẹp cảnh sắc quê hương đất nước mình.
- Miêu tả hình tượng sông Đà, Nguyễn Tuân đã thể hiện những nét độc đáo nhất trong tùy bút của mình.
Đó là cách tiếp cận đối tượng từ góc đọc thẩm mỹ, miêu tả đối tượng bằng những kiến thức của nhiều
lĩnh vực khác nhau
→ Cái “tôi” tài hoa, uyên bác của Nguyêễn Tuân.
Phần 2: Hình tượng người lái đò
a. Giới thiệu vài nét về nhân vật:
- Ông lái đò là người lao động bình dị, là hình ảnh sống động về con người Tây Bắc trong công cuộc lao
động xây dựng cuộc sống mới. Nguyễn Tuân đã miêu tả ông lái đò trong tư thế tương phản với lực lượng tự
nhiên hùng hậu - sông Đà: một dòng sông mang diện mạo, tâm địa của thứ kẻ thù số 1 đối với con người.
Diện mạo ấy được thể hiện qua địa thế hiểm trở, vách đá, ghềnh thác, hút nước … Nhưng đáng sợ hơn cả là
tâm địa của nó qua cách bày binh bố trận nham hiểm với vô số boong ke chìm, pháo đài nổi và ba lớp vòng
vây thạch trận như muốn thách thức, tiêu diệt con người.
- Để chinh phục một đối thủ cao tay như vậy đòi hỏi người lái đò phải có một sự từng trải dày dặn kinh
nghiệm: một bản lĩnh gan dạ, can trường; một sự thông minh khôn khéo; một tài năng, sự am hiểu kĩ càng
về đối tượng; đặc biệt là sự say mê, tâm huyết với nghề. Đó chính là yếu tố quan trọng giúp ông lái đò có
được tư thế chủ động trong cuộc chiến đấu với sông Đà.
- Cảnh vượt thác là tâm điểm đáng chú ý, là một trận thủy chiến vô cùng ác liệt, từ đó làm nổi bật hình ảnh
ông lái đò: người lao động - người nghệ sĩ trí dũng và tài hoa.
b. Trong cuộc vượt thác:
Để làm nổi bật hình tượng ông lái đò, Nguyễn Tuân đã sáng tạo một đoạn văn đầy không khí trận
mạc. Ông còn tưởng tượng ra cuộc chiến đấu ác liệt giữa người lái đò và bầy thủy quái sông Đà nham
hiểm, xảo quyệt. Ở đó ông lái đò vừa là một người lao động trí dũng, tuyệt vời vừa là một người nghệ sĩ
thực thụ trong nghệ thuật vượt thác ghềnh.
Sông Đà hung bạo, dữ dội Ông lái đò trí dũng, tài hoa
- Ở trùng vi thạch trận thứ nhất
+) Mặt nước hò la vang dậy ùa vào bẻ gãy cán chèo
+) Sóng nước như thể quân liều mạng vào sát nách
mà đá trái và thúc gối vào bụng và hông thuyền
+) Nước bám lấy thuyền như đô vật túm thắt lưng
ông đò đòi lật ngửa mình ra
+) Sóng thác đánh đến mấy miếng đòn hiểm độc
nhất
+) Có 5 cửa trận, 4 cửa tử, 1 của sinh nằm lập lờ
phía tả ngạn sông
+) Tay lái không hề nao núng mà vẫn bình tĩnh giữ
vững mái chèo để không bị hất lên khỏi sóng trận
địa
+) Kiên cường, dũng cảm nén chặt cái đau thể xác
để chiến đấu với sóng thác sông Đà “Ông đò cố
nén vết thương hai chân vẫn kẹp chặt lấy cuống lái,
mặt méo bệch đi …” → Nguyễn Tuân đúng là bậc
thầy của ngôn từ bởi cách dùng từ của ông rất độc
đáo và thú vị. Ông không dùng từ “méo xệch”- nỗi
đau làm biến dạng khuôn mặt mà dùng từ “méo
bệch” để vừa diễn tả sự nhợt nhạt của khuôn mặt
cũng như nghị lực và lòng quả cảm của ông lái đò
dù đau đớn khiến cho khuôn mặt phải biến sắc
+) Ông tỉnh táo chỉ huy các bạn chèo lần lượt vượt
qua ghềnh thác như phá trận đồ bát quái. Giữa
tiếng hỗn chiến của đá, nước, thác, vẫn nghe rõ
tiếng chỉ huy ngắn gọn, tỉnh táo của người cầm lái.
Ông lái đò hiện lên tài hoa, quả cảm, bản lính.
Vì thế dòng sông phô diễn sức mạnh tự nhiên của
mình bao nhiêu càng làm nổi bật hình ảnh người
lái đò trong tư thế anh hùng.
- Ở trùng vi thạch trận thứ hai
+) Lũ đá tăng thêm nhiều cửa tử, cửa sinh lệch sang
phía hữu ngạn sông
+) Dòng thác hùm beo hồng hộc tế mạnh
→ Dòng sông như một con thú hoang lồng lên đòi
ăn chết con thuyền.
+) Ông lái đò nắm chắc “binh pháp thần sông, thần
đá”, thuộc quy luật phục kích của lũ đá nơi ải
nước hiểm trở để có những động tác điêu luyện,
táo bạo mà vô cùng chuẩn xác.
+) Ông “nắm chặt lấy được cái bờm sóng đúng
luồng rồi ông đò ghì cương lái” như một kị sĩ tài
ba đang trị con ngựa bất kham
+) Bằng hệ thống động từ mạnh, Nguyễn Tuân đã
họa nên tư thế hiên ngang, dũng mãnh của ông lái
đò
+) Rồi ông phóng nhanh vào của sinh “lái miết
một đường chéo về phía cửa đá ấy”
→ Đây là một liên tưởng độc đáo, thú vị của nhà
văn. Con sông Đà hung bạo giống như chú tuấn mã
bất kham, và ông lái đò vụt qua thành một dũng
tướng tung hoành trên chiến địa
+) Cái tài của ông lái đò còn ở chỗ ông nhớ mặt
bọn thủy quân cửa ải nước để “đứa thì ông tránh
mà rảo bơi chèo lên”, “đưa thì ông đê sấn lên mà
chặt đôi ra để mở đường tiến”
Phải là người rất dày dặn kinh nghiệm thì ông
lái đò mới có thể trở thành một vị tướng dũng cảm,
tài trí, có quyết tâm cao, tả xung hữu đột trước
trùng vi thạch trận sông Đà.
- Ở trùng vi thạch trận thứ ba
+) Sông Đà tinh vi xảo quyệt hơn, “bên phải bên
trái đều là luồng chết”
+) Luồng sống ở ngay giữa bọn đá hậu vệ
+) Thạch trận nguy hiểm nhưng không ngăn nổi
người lái đò khéo léo, tài tình, quả cảm, giàu kinh
nghiệm. Con thuyền “vút qua cổng đá, cảnh mở
cánh khép. Vút, vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cửa
trong cùng, thuyền như một mũi tên xuyên nhanh
qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái được
lượn được”
→ Tác giả sử dụng một loạt động từ mạnh “vút”,
“xuyên” cùng hình ảnh so sánh “như một mũi tên
tre” và câu văn ngắn nhằm diễn tả, nhấn mạnh tốc
độ và sự điêu luyện của người lái đò trong hành
trình vượt thác
+) Ông lái đò đã trở thành người nghệ sĩ tài hoa
bởi trình độ chèo lái đã đạt đến mức nghệ thuật
đúng như câu nói của Mác “bản chất của mỗi con
người nghệ sĩ” quả thật đúng với trường hợp của
ông lái đò. Bởi bất kỳ ai thực hiện công việc của
mình một cách tinh vi, siêu phàm bằng một tay
nghề điêu luyện và sự nỗ lực phi thường thì đều
trở thành người nghệ sĩ tài hoa.
Tiểu kết cho cuộc vượt thác:
- Đoạn văn đã huy động sức mạnh của sự quan sát, liên tưởng, tưởng tượng cùng vốn từ vựng phong phú,
kiến thức về nhiều lĩnh vực quân sự, võ thuật, thể thao với nhịp điệu câu văn nhanh, các BPNT tài tình,
người lái đò hiện lên vừa như một chiến tướng trí dũng song toàn vừa là một người nghệ sĩ tài hoa trong
nghệ thuật vượt thác ghềnh
- Nguyễn Tuân đã sử dụng hệ thống động từ mạnh thể hiện sự cuồng nộ của sông Đà “rống lên, nhổm dậy,
vồ lấy” và đối chọi với chúng là hình ảnh của ông lái đò trong tư thế cưỡi hổ tung hoành “nắm chặt, ghì
cương, lái miết”. Mật độ những động từ dày đặc như thế khiến cho người đọc nghẹt thở để rồi người đọc
thở phào nhẹ nhõm khi cuộc vượt thác kết thúc.
c. Sau cuộc vượt thác
- Ông lái đò hòa vào cái yên bình của dòng sông buông xuôi mái chèo:
+) Ung dung sóng nước xèo xèo trong trí nhớ
+) Không bàn về cuộc vượt thác mà chỉ nói về những con cá anh vũ, cá dầm xanh
→ Biến đổi tinh vi của nghệ thuật chèo lái
Chỉ bằng vài nét chấm phá, Nguyễn Tuân đã giúp người đọc nhận ra thêm vẻ đẹp của ông lái đò -
khiêm nhường, bình dị.
Mở rộng : Qua hình tượng ông lái đò, Nguyễn Tuân muốn gửi gắm:
- Thể hiện lòng yêu nước bằng cách tự hào trước vẻ đẹp con người Việt Nam tuy bình dị nhưng thông
minh, dũng cảm và tài hoa.
- Đưa ra một quan niệm mới về chủ nghĩa anh hùng. Với Nguyễn Tuân, người anh hùng có ngay trong
những con người bình dị có ở trong cuộc sống hàng ngày - người lái đò từng lập kỳ tích trên sông nước
Đà giang nhưng không hề nghĩ đến những kỳ tích mình làm nên. Bởi sau mỗi lần vượt thác, sau mỗi lần
chiến thắng dòng sông hung hãn, người lái đò lại trở về với cuộc sống hàng ngày giản đơn bình dị.
- Cuộc vượt thác của ông lái đò gợi liên tưởng đến cuộc vượt biển của Uy-lít-xơ trong trường ca “U-đi-xê”
của Hô-me-rơ. Cuộc vượt thác hay vượt biển này đều đầy những khó khăn thử thách. Song điều khác là ở
chỗ Uy-lít-xơ - anh hùng trong một dáng vẻ siêu phàm, sự thông minh tài trí của Uy-lít-xơ là sự thông
minh của thánh thần. Còn ông lái đò cũng trở thành anh hùng nhưng mang dáng vẻ giản dị, đời thường.
Vì thế sự thông minh tài trí của người lái đò là sự thông minh của con người trong cuộc sống hàng ngày.
Tiểu kết hình tượng người lái đò:
- Người lái đò sông Đà là hình ảnh tuyệt đẹp về người anh hùng trong lao động bình thường, giản dị nhưng
tài hoa, trí dũng
- Trong con mắt của Nguyễn Tuân, thiên nhiên Tây Bắc quý như vàng. Những con người Tây Bắc nói riêng
và người dân lao động nói chung trên đất nước ta mới thực sự xứng đáng chất vàng mười - “thứ vàng
mười đã qua thử lửa”. Vì thế Nguyễn Tuân đã ngợi ca vẻ đẹp của những con người đó bằng tất cả tình
cảm yêu quý, thái độ ngưỡng mộ và khâm phục
| 1/7

Preview text:

NG N ƯỜI G L ƯỜI Á L I Á Đ I Ò Đ Ò SÔ S N Ô G N G ĐÀ Đ (Nguyễn Tuân) I. Tìm hiểu chung
1. Tác giả: Nguyễn Tuân ● Tiểu sử:
● Con người - Sự nghiệp văn học:
-
Nguyễn Tuân là một tri thức giàu lòng yêu nước và tinh thần dân tộc. Lòng yêu nước của ông không được
phát biểu trực tiếp mà ẩn đằng sau những bức tranh thiên nhiên, những giá trị văn hóa cổ truyền của dân tộc. -
Nguyễn Tuân là nhà văn có phong cách nghệ thuật độc đáo:
+ Văn chương Nguyễn Tuân hấp dẫn người đọc bởi cái “tôi” tài hoa, uyên bác, sự sắc nhọn tinh tế
của các giác quan và ngôn từ điêu luyện, giàu hình ảnh, cảm xúc.
✩ Tài hoa, uyên bác thể hiện qua cách nhìn nhận, khám phá mọi sự vật, hiện tượng ở
phương diện thẩm mỹ và miêu tả con người ở góc độ tài hoa nghệ sĩ.
✩ Văn Nguyễn Tuân đầy ắp những hiểu biết phong phú, đa dạng về những lĩnh vực khác
nhau của đời sống hay các bộ môn khoa học - nghệ thuật. Cho nên Nguyễn Tuân có thể soi chiếu hiện
thực bằng nhiều điểm nhìn và nhiều góc độ.
+ Nguyễn Tuân là ngòi bút giàu cảm hứng lãng mạn. Ông ưa thích những gì phi thường, độc đáo gây
cảm giác mạnh. Vì thế ông ưa dùng những thủ pháp nghệ thuật đối lập tương phản.
+ Nguyễn Tuân luôn có khát vọng khẳng định cái “tôi” nên ông đặc biệt ưa thích thể tùy bút và ông
đến với thể tùy bút như một lẽ tất yếu phù hợp với cá tính của mình.
+ Nguyễn Tuân là bậc thầy trong việc sử dụng và sáng tạo ngôn từ. Ông đưa vào tùy bút ngôn ngữ
của điện ảnh, điêu khắc, quân sự… → Tất cả góp phần vào việc làm giàu có thêm tiếng mẹ đẻ. Nguyễn T
uân xứng đáng là nhà văn tiêu biểu của nền văn học Việt Nam hiện đại. 2. Tác phẩm: -
Hoàn cảnh sáng tác - Xuất xứ:
“Người lái đò sông Đà” là tùy bút được in trong tập “Sông Đà” (gồm 15 thiên tùy bút và một bài thơ ở
dạng phác thảo - viết năm 1960). Đây là thành quả nghệ thuật đẹp đẽ của Nguyễn Tuân trong những chuyến đi
gian khổ nhưng hào hùng tới miền Tây Bắc của Tổ quốc. - Mục đích:
Tìm kiếm chất “vàng mười” của thiên nhiên cùng “thứ vàng mười đã qua thử lửa” ở tâm hồn những con
người lao động, chiến đấu trên miền núi sông hùng vĩ và thơ mộng → Qua tập “Sông Đà” nói chung và tùy bút
“Người lái đò sông Đà” nói riêng, người đọc có thể nhận ra cách nhìn mới mẻ của Nguyễn Tuân: khao khát
với cuộc đời này.
- Chủ đề:
Qua hình tượng sông Đà và người lái đò, Nguyễn Tuân muốn thể hiện tình yêu tha thiết với thiên nhiên,
đất nước và ngợi ca những con người lao động - “chất vàng mười đã qua thử lửa”. II.
Đọc hiểu chi tiết
Phần 1: Hình tượng sông Đà
Khi chọn lời đề từ cho tác phẩm này, Nguyễn Tuân đã muốn giải thích vì sao ông chọn con sông Đà là đối tượng thẩm mỹ:
+ Con sông Đà có dòng chảy độc đáo:
“Chúng thủy giai đông tẩu
Đà giang độc bắc lưu”
Nghĩa là mọi dòng sông đều chảy theo hướng Đông, chỉ có sông Đà chảy theo hướng Bắc.
+ Sông Đà lắm thác nhiều ghềnh, từ nghìn xưa vẫn làm mình làm mẩy với con người. Một dòng
sông như thế quá là rất có duyên với ngòi bút của người nghệ sĩ luôn ưa thích khung cảnh thiên
nhiên gây ấn tượng mạnh. Chính vì lẽ đó mà trên trang viết của Nguyễn Tuân, sông Đà không còn
là vật thể vô tri vô giác mà đã hóa thành sinh thể sống có linh hồn, tính cách.
a) Sông Đà hùng vĩ, hung bạo như một loài thủy quái khổng lồ, độc dữ, nham hiểm.
● Đá bờ sông dựng thành vách: -
Nguyễn Tuân gợi người đọc ấn tượng về chiều cao của vách đá thành bằng hình ảnh ẩn dụ “vách thành”
→ dựng lên trước mắt người đọc hình ảnh của thành cao, hào sâu gợi sự bí hiểm -
Ấn tượng về chiều sâu “Mặt sông chỗ ấy chỉ đúng ngọ mới có mặt trời” → Hình ảnh so sánh này giúp
người đọc hình dung độ cao của vách hai bên bờ sông, vừa diễn tả cái âm u, lạnh lẽo, tối tăm của
những khúc sông có đá dựng vách thành.
-
Ấn tượng về sự nhỏ hẹp của lòng sông:
+ Vách đá thành chẹt lòng sông “như một yết hầu”. Nguyễn Tuấn so sánh lòng sông với một bộ
phận nhỏ hẹp ở cổ họng con người nhằm diễn tả độ hẹp của dòng chảy, vì thế mà lưu tốc của nó
rất lớn, gây ra sự nguy hiểm cho con người.
+ Để tô đậm đá bờ sông dựng vách thành, Nguyễn Tuân sử dụng liên tiếp hai hình ảnh “Có quãng
con nai, con hổ đã có lần vọt từ bờ này sang bờ kia “ và “Đứng bên này nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia vạch” -
Nguyễn Tuân khắc sâu ấn tượng về sự hùng vĩ của vách đá sông Đà bằng cách sử dụng sự liên tưởng độc
đáo, thú vị: “Ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè mà cũng thấy lạnh”. Đó phải chăng là cái
rợn ngợp của vách đá, là một khúc sông có dòng chảy hẹp để rồi ai đi qua quãng ấy cũng cảm thấy mình
như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên khung cửa sổ vừa tắt phụt đèn điện. Liên tưởng này của
Nguyễn Tuân đã đưa người đọc khiến cảm giác của một con người đứng giữa thiên nhiên hoang sơ, hùng
vĩ với một khoảnh khắc của đời sống phố thị hiện đại Như vậy
, bằng sự tài hoa, uyên bác, Nguyễn Tuân đã vận dụng những giác quan như thị giác, xúc giác…
cùng sự liên tưởng so sánh mới mẻ, độc đáo khiến cho những vách đá sông Đà không chỉ hùng vĩ mà còn hiểm trở. ● Mặt ghềnh Hát Loóng: -
Bằng cấu trúc câu văn và điệp từ, điệp ngữ “Nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió” cùng sự phối hợp của
các thanh trắc tạo âm hưởng dữ dội, nhịp điệu khẩn trương khiến cho cả ghềnh sông chảy cuồn cuộn dữ
dằn trở thành kẻ thù nguy hiểm số một đối với con người. -
Nguyễn Tuân nhân hóa dòng sông như một kẻ chuyên đi đòi nợ những người không mắc nợ mình một
cách vô duyên vô cớ, bằng thái độ “gùn ghè” như lúc nào cũng muốn tóm được người lái đò sông Đà nào qua đây. -
Địa danh Hát Loóng cũng góp phần tạo nên sự dữ dội của dòng sông bởi khi đọc tên địa danh phải nén
hơi uốn lưỡi như chính mình phải đi qua chỗ nước dữ với sóng, đá, ghềnh thác sông Đà.
Bằng sự kết hợp của những thủ pháp nghệ thuật, Nguyễn T
uân đã làm nổi bật tính cách hung bạo của
những ghềnh thác sông Đà.
● Quãng Tà Mường Vát và những cái hút nước sông Đà:
★ Những hút nước sông Đà ở quãng Tà Mường Vát gây ấn tượng và nổi bật qua sự liên tưởng phóng túng,
qua ngôn ngữ của nhiều ngành khác nhau - hội họa, điện ảnh, giao thông…. -
Sử dụng dày đặc hình ảnh so sánh “giống như cái giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng
cầu”. Sự so sánh độc đáo đã gợi tả độ sâu của hút nước vừa giúp người đọc hình dung sự đổi chiều trong
dòng chảy khiến cho nước xoay tròn, xoáy sâu xuống lòng sông tạo nên những âm thanh ghê rợn. -
Những âm thanh được tác giả sử dụng thông qua biện pháp nghệ thuật nhân hóa, so sánh: lúc thì nước
“thở và kêu như cửa cống cái bị sặc”, khi thì lại “ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào”. → Bằng việc miêu
tả âm thanh sinh động, đa dạng của nhiều hút nước sông Đà, người đọc đã cảm nhận được cường
lực ghê gớm của những hút nước sông Đà.
-
Những con thuyền phải qua vùng xoáy nước thật nhanh như ô tô sang số ấn ga để vút qua quãng đường
mượn cạp ra ngoài bờ vực. → Bằng biện pháp nghệ thuật so sánh, Nguyễn Tuân đã đem không khí
của phố thị thổi vào giữa chốn rừng núi hoang sơ này
-
Nghệ thuật kết hợp kể và tả một cách chân thực, giàu hình ảnh, những con thuyền bị hút nước cuốn
xuống sẽ trồng ngay cây chuối ngược ở những khúc sông dưới. → Một lần nữa tác giả khẳng định
những cái hút nước là mối đe dọa với con người
-
Nguyễn Tuân còn dùng trí tưởng tượng của mình để liên tưởng đến một anh bạn quay phim táo tợn muốn
truyền cảm giác lạ cho khán giả, đã dũng cảm ngồi vào cái thuyền thúng tròn vành rồi cho cả thuyền cả
mình cả máy quay xuống hút nước sông Đà. → Phải là người có lối sống phong phú, trí tưởng tượng
bay bổng, sáng tạo như Nguyễn Tuân mới có thể tô đậm sự khủng khiếp của những hút nước sông Đà
khiến cho chúng như những cạm bẫy nguy hiểm.
● Thác đá sông Đà:
Ngay từ đầu, Nguyễn Tuân đã sáng tạo không khí về một dòng sông không chỉ hùng vĩ mà còn hung dữ.
Cái hung dữ ấy được ông khắc họa sinh động, chân thực qua những thác đá. -
Từ xa, những thác đá sông Đà đã đe dọa con người bằng những âm thanh phong phú và ghê sợ. Khi thì
oán trách, van xin, khi lại khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo → Bằng hệ thống từ ngữ miêu tả âm
thanh theo những cung bậc tăng dần cả về sắc thái cảm xúc lẫn âm lượng đã làm sống động sự hung
bạo của dòng sông.
-
Nguyễn Tuân nhân hóa dòng sông giống như một sinh thể dữ dằn có lúc rống lên như một ngàn con trâu
mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu, rừng tre nứa nổ lửa, rừng lửa gầm thét cùng đàn trâu da cháy bùng
bùng. → Bằng biện pháp nghệ thuật so sánh, câu văn trùng điệp, nhịp văn ngắn, giọng văn gấp gáp,
Nguyễn Tuân đã lột tả đến tận cùng cái dữ dội, man dại của những thác đá sông Đà. Hơn nữa, tác giả
lấy “lửa” để tả “nước”, lấy ác thú để tả dòng sông - đó là cách chơi “ngông” trong nghệ thuật của
Nguyễn Tuân mà khó có thể tìm được ở một hình ảnh so sánh nào chính xác hơn, độc đáo hơn để
khắc sâu ấn tượng về sự dữ dội của thác đá sông Đà.
-
Tới gần, hình ảnh thác đá hiện ra trong một câu văn ngắn “Tới cái thác rồi” - vang lên như một tiếng reo vui. -
Hình ảnh “sóng bọt trắng xóa cả một chân trời đá” gợi ấn tượng hùng vĩ, choáng ngợp của đá sông Đà. -
Những thác đá sông Đà phô bày sức mạnh của mình bằng “cả một chân trời đá”. Và dưới ngòi bút tài hoa
của Nguyễn Tuân, những hòn đá vô tri vô giác đã mang diện mạo, tính cách của con người.
+ Đá như một đội quân dữ dằn, tên nào trông cũng “ngỗ ngược, nhăn nhúm, méo mó” sẵn sàng giao chiến.
+ Chúng không nằm ngồi theo sở thích mà được sắp xếp theo vị trí của một thạch trận công phu,
khéo léo do thần sông thần đá bày đặt. Nhưng cái tài của Nguyễn Tuân là đã bắt được những hòn
đá vô tri vô giác ấy trở nên có hồn - đó là hồn của những chiến binh trận địa.
+ Đá còn kết hợp với nước bày thạch trận thành 3 vòng vây: Vòng vây 1: Sông Đà bà ✩
y ra 5 cửa trận, có 4 cửa tử, 1 cửa sinh. Cửa sinh nằm lập lờ phía tả
ngạn. Hàng tiền vệ có 2 hòn đá canh cửa trông như sơ hở nhưng chúng lại được giao nhiệm vụ dụ
chiếc thuyền vào tuyến giữa, Vòng vây 2: Sông Đà t ✩
ăng thêm cửa tử, cửa sinh bố trí lệch sang hữu ngạn, sóng nước kết hợp
với đá đánh khuýp quật vô hồi. Vòng vây 3: là vòng ki ✩
ên cố nhất, ít cửa hơn nhưng bên phải bên trái đều là luồng chết với
những boong ke chìm, pháo đài nổi có nhiệm vụ tiêu diệt con thuyền.
→ Sông Đà không chỉ dữ dằn mà còn được miêu tả như kẻ thù nham hiểm xảo quyệt vì trong cuộc giao
tranh với con người chúng luôn thay đổi chiến thuật.
-
Nguyễn Tuân sử dụng cách quay cận cảnh của một nhà điện ảnh để miêu tả rõ nét dáng vẻ độc đáo, động
tác, nhiệm vụ, vị trí của từng hòn đá sông Đà. Hòn thì trông bệ vệ, oai phong, lẫm liệt. Hòn thì trông
nghiêng y như đang hất hàm, hỏi cái thuyền phải xưng tên trước khi giao chiến.
Bằng ngòi bút tài hoa, uyên bác của người nghệ sĩ ngôn từ, s
ự hùng vĩ, hung bạo của sông Đà đã hiện ra
ở nhiều dáng vẻ khác nhau nhưng tất cả đều toát lên một sự hoang dại, một sức mạnh của thiên nhiên kỳ vĩ. Nguyễn T
uân đến sông Đà với mục đích tìm “chất vàng 10 của thiên nhiên”. Đó là vẻ đẹp sông Đà hùng vĩ
và tiềm năng thủy điện to lớn của dòng sông. Cho nên khi nghĩ đến những tuýp pin thủy điện, nhà văn đã
thấy vai trò sông Đà trong sự nghiệp xây dựng Tổ quốc.

b) Sông Đà thơ mộng, trữ tình.
Sông Đà được cảm nhận từ nhiều góc độ khác nhau. Cho nên Nguyễn Tuân đã có những phát hiện tinh tế
và miêu tả một cách tài hoa vẻ đẹp trữ tình và đa dạng của dòng sông. -
Chọn điểm nhìn từ trên cao để bao quát và vẽ nên dáng vẻ mềm mại của sông Đà như áng tóc của một
người thiếu nữ kiều diễm: “Con sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn
hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban gạo tháng 2 và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân”.
+ Bằng những vế của câu văn trùng điệp cùng cách phối màu của hội họa: màu trắng thanh khiết của
hoa ban, sắc đỏ rực rỡ của hoa gạo, sự lung linh huyền ảo của khói và mây trời Tây Bắc, Nguyễn
Tuân đã vẽ nên một bức tranh thiên nhiên thơ mộng mang đặc trưng của vùng cao Tây Bắc.
+ Biện pháp nghệ thuật so sánh sông Đà “như một áng tóc trữ tình” kết hợp điệp ngữ “tuôn dài, tuôn
dài” → Mở ra trước mắt người đọc độ dài vô tận của dòng sông cùng vẻ đẹp trẻ trung, duyên
dáng, tràn đầy sức sống của người thiếu nữ kiều diễm.

+ Khắc lên vẻ đẹp sông Đà qua động từ “bung nở”, từ láy “cuồn cuộn”, kết hợp “hoa ban” nở trắng
rừng, “hoa gạo” nở đỏ rực hai bên bờ sông làm cho người đọc liên tưởng mái tóc như được trang
điểm bởi mây trời Tây Bắc.
⇒ Như vậy, chỉ bằng một câu văn nhưng chứng tỏ sông Đà đẹp đến say mê trái tim người nghệ sĩ là bởi nó là
hiện thân cho vẻ đẹp của quê hương, đất nước mình và nó gắn bó gần gũi, thân thuộc với cuộc sống của con
người. Từ đó, người đọc nhận ra sự thay đổi cơ bản trong thẩm mỹ của nhà văn.
-
Nguyễn Tuân đã ngắm nhìn sông Đà từ nhiều thời gian và không gian khác nhau nên ông đã phát hiện ra
những sắc màu tươi đẹp và đa dạng của nước sông Đà.
Nước sông Đà biến đổi theo mùa, mỗi mùa lại mang một vẻ đẹp riêng:
✩ Mùa xuân, nước sông Đà có màu “xanh ngọc bích” - một màu sắc gợi cảm, trong lành. Và để
làm nổi bật màu xanh tươi sáng, trong trẻo ấy, Nguyễn Tuân đã phân biệt với “màu xanh canh hến
của sông Gấm, sông Lô”.
✩ Mùa thu, nước sông Đà “lừ lừ chín đỏ” bởi dòng chảy vốn trong trẻo ấy đang chở nặng phù sa
mà biến thành màu như da mặt một người uống rượu. Đặc biệt, Nguyễn Tuân rất bất bình và bác
bỏ cái tên Tây láo lếu mà thực dân Pháp đã đè ngửa con sông ra để đổ mực Tây vào, gọi là “sông Đen”.
→ Như vậy, thái độ bất bình của Nguyễn Tuân không chỉ tôn vinh vẻ đẹp của dòng sông mà còn trực tiếp bày
tỏ tình cảm yêu mến, tự hào về vẻ đẹp của dòng sông quê hương.
-
Sông Đà giống một người “cố nhân” - người bạn tri âm tri kỷ của mình. Nhưng người “cố nhân” ấy có
những tính nết thất thường, lắm chứng lắm bệnh, chốc dịu dàng đấy, rồi chốc lại bẳn tính gắt gỏng thác lũ
ngay đấy. → Với cách ví von độc đáo đầy chất tạo hình, Nguyễn Tuân đã làm cho sông Đà hiện lên
như một con người để làm nổi bật vẻ đẹp “gợi cảm” của dòng sông.

Nguyễn Tuân còn cảm nhận rõ nét chất đằm thắm ấm ấm của con sông Đà. Và dường như chất thơ
ngấm vào trong từng cảnh sắc thiên nhiên. Đó là cái nắng của tháng 3 Đường thi trong câu thơ Lý Bạch:
“Yên hoa tam nguyệt há dương châu”
Nguyễn Tuân đã mượn câu thơ nổi tiếng này như ngầm khẳng định vẻ đẹp cổ thi của dòng sông Tây Bắc.
Sông Đà hiện lên thân thiện, dễ mến. Nó trở thành ngườ
i bạn chung thủy, điềm tĩnh chờ đợi người đi xa trở về. -
Lấy điểm nhìn của một du khách đi thuyền trên sông Đà và để quan sát, khắc họa trên những trang văn
của mình vẻ đẹp đa dạng, nên thơ của cảnh vật ven sông.
+ Câu văn “Thuyền tôi trôi trên sông Đà” toàn thanh bằng tạo cảm giác yên ả, thanh bình, một vẻ
đẹp còn đỏ dấu tích lịch sử của cha ông.
Nhà văn hướng đến lịch sử của những buổi đầu dựng nước và giữ nước: “Hình như t ✦ ừ đời Trần,
đời Lý, đời Lê, quãng sông cũng lặng tờ đến thế mà thôi” → Càng làm nổi bật vẻ đẹp nguyên sơ,
hồn hoang của đôi bờ sông Đà.

+ Không chỉ yên ả, thanh bình, hai bên bờ sông Đà còn mang vẻ đẹp hoang sơ, cổ kính đưa người
đọc về miền ký ức xa xăm “Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một
nỗi niềm cổ tích tuổi xưa” → Bằng lối so sánh đặc biệt, độc đáo, dùng không gian gợi mở thời
gian khiến cho con sông Đà như vừa gần vừa xa, vừa thực vừa ảo.

+ Trong cảm quan tinh tế của Nguyễn Tuân, sông Đà hung bạo, dữ dội ở thượng nguồn lại là nguồn
sinh lực dồi dào nuôi dưỡng vẻ đẹp tươi mới, tràn trề nhựa sống.
✦ Những “nương ngô nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa”, “cỏ gianh, đồi núi đang ra những nõn
búp” và “đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm” → Bằng những câu văn đầy
chất thơ, chất họa, vẻ đẹp hai bên bờ sông Đà giống như một bức tranh thủy mặc lộng lẫy, đầy sức sống.

+ Âm thanh hiện đại: tiếng còi tàu được cổ tích hóa, hiện đại hóa thành tiếng còi sương → Niềm
“khao khát được giật mình vì một tiếng còi xúp lê của chuyến xe lửa” chính là khao khát hiện
đại hóa miền Tây Bắc của nhà văn.

+ Có sự tương giao giữa lòng người và tạo vật nên một người khách sông Đà đã nghe được câu hỏi
của con hươu thơ ngộ: “Hỡi ông khách sông Đà, có phải ông cũng nghe thấy một tiếng còi sương?”
+ Trong cảm nhận của Nguyễn Tuân, sông Đà không chỉ chảy qua không gian, thời gian mà còn
chảy qua những áng thơ “Và dòng sông như đang lắng nghe những giọng nói êm êm của người
xuôi” hay chính nhà văn đang trải lòng, hóa thân vào dòng sông để lắng nghe và xúc động.
Vẻ đẹp trữ tình, thơ mộng đã khiến sông Đà trở thành người bạn cố t
ri nên những ai đã từng sống với
sông Đà khi xa thì nhớ, khi trở về lòng dạt dào cảm xúc. Bởi Nguyễn Tuân đã phát hiện ra vẻ đẹp trữ tình
của dòng sông ở những chi tiết, dáng vẻ mang tính thẩm mỹ, tài hoa.

Giọng văn êm ả, nhịp nhàng, câu văn giàu chất thơ đã giúp tâm hồn con người
được thanh lọc trong trẻo
và sâu lắng hơn.
Những trang văn như thế sẽ khơi dậy ở người đọc tình yêu quê hươ
ng, đất nước, yêu con người.
Tiểu kết: -
Hung bạo hay trữ tình, hùng vĩ hay thơ mộng cũng chỉ là hai thái cực khác nhau của một vẻ đẹp - một
công trình nghệ thuật tuyệt vời mà tạo hóa đã ban tặng cho chúng ta. -
Đặc tả vẻ đẹp của sông Đà, Nguyễn Tuân không chỉ nhờ vào tài năng văn chương mà cái cốt lõi vẫn là
tấm lòng yêu thiên nhiên tha thiết, niềm tự hào trước vẻ đẹp cảnh sắc quê hương đất nước mình. -
Miêu tả hình tượng sông Đà, Nguyễn Tuân đã thể hiện những nét độc đáo nhất trong tùy bút của mình.
Đó là cách tiếp cận đối tượng từ góc đọc thẩm mỹ, miêu tả đối tượng bằng những kiến thức của nhiều
lĩnh vực khác nhau → Cái “tôi” tài hoa, uyên bác của Nguyêễn Tuân.
Phần 2: Hình tượng người lái đò
a. Giới thiệu vài nét về nhân vật:
- Ông lái đò là người lao động bình dị, là hình ảnh sống động về con người Tây Bắc trong công cuộc lao
động xây dựng cuộc sống mới. Nguyễn Tuân đã miêu tả ông lái đò trong tư thế tương phản với lực lượng tự
nhiên hùng hậu - sông Đà: một dòng sông mang diện mạo, tâm địa của thứ kẻ thù số 1 đối với con người.
Diện mạo ấy được thể hiện qua địa thế hiểm trở, vách đá, ghềnh thác, hút nước … Nhưng đáng sợ hơn cả là
tâm địa của nó qua cách bày binh bố trận nham hiểm với vô số boong ke chìm, pháo đài nổi và ba lớp vòng
vây thạch trận như muốn thách thức, tiêu diệt con người.
- Để chinh phục một đối thủ cao tay như vậy đòi hỏi người lái đò phải có một sự từng trải dày dặn kinh
nghiệm: một bản lĩnh gan dạ, can trường; một sự thông minh khôn khéo; một tài năng, sự am hiểu kĩ càng
về đối tượng; đặc biệt là sự say mê, tâm huyết với nghề. Đó chính là yếu tố quan trọng giúp ông lái đò có
được tư thế chủ động trong cuộc chiến đấu với sông Đà.
- Cảnh vượt thác là tâm điểm đáng chú ý, là một trận thủy chiến vô cùng ác liệt, từ đó làm nổi bật hình ảnh
ông lái đò: người lao động - người nghệ sĩ trí dũng và tài hoa.
b. Trong cuộc vượt thác:
Để làm nổi bật hình tượng ông lái đò, Nguyễn Tuân đã sáng tạo một đoạn văn đầy không khí trận
mạc. Ông còn tưởng tượng ra cuộc chiến đấu ác liệt giữa người lái đò và bầy thủy quái sông Đà nham
hiểm, xảo quyệt. Ở đó ông lái đò vừa là một người lao động trí dũng, tuyệt vời vừa là một người nghệ sĩ
thực thụ trong nghệ thuật vượt thác ghềnh.
Sông Đà hung bạo, dữ dội
Ông lái đò trí dũng, tài hoa -
Ở trùng vi thạch trận thứ nhất
+) Mặt nước hò la vang dậy ùa vào bẻ gãy cán chèo +) Tay lái không hề nao núng mà vẫn bình tĩnh giữ
+) Sóng nước như thể quân liều mạng vào sát nách vững mái chèo để không bị hất lên khỏi sóng trận
mà đá trái và thúc gối vào bụng và hông thuyền địa
+) Nước bám lấy thuyền như đô vật túm thắt lưng
+) Kiên cường, dũng cảm nén chặt cái đau thể xác
ông đò đòi lật ngửa mình ra
để chiến đấu với sóng thác sông Đà “Ông đò cố
+) Sóng thác đánh đến mấy miếng đòn hiểm độc
nén vết thương hai chân vẫn kẹp chặt lấy cuống lái, nhất
mặt méo bệch đi …” → Nguyễn Tuân đúng là bậc
+) Có 5 cửa trận, 4 cửa tử, 1 của sinh nằm lập lờ
thầy của ngôn từ bởi cách dùng từ của ông rất độc phía tả ngạn sông
đáo và thú vị. Ông không dùng từ “méo xệch”- nỗi
đau làm biến dạng khuôn mặt mà dùng từ “méo
bệch” để vừa diễn tả sự nhợt nhạt của khuôn mặt
cũng như nghị lực và lòng quả cảm của ông lái đò
dù đau đớn khiến cho khuôn mặt phải biến sắc
+) Ông tỉnh táo chỉ huy các bạn chèo lần lượt vượt
qua ghềnh thác như phá trận đồ bát quái. Giữa
tiếng hỗn chiến của đá, nước, thác, vẫn nghe rõ
tiếng chỉ huy ngắn gọn, tỉnh táo của người cầm lái.
Ông lái đò hiện lên tài hoa, quả cảm, bản lính. ⇒
Vì thế dòng sông phô diễn sức mạnh tự nhiên của
mình bao nhiêu càng làm nổi bật hình ảnh người
lái đò trong tư thế anh hùng. -
Ở trùng vi thạch trận thứ hai
+) Lũ đá tăng thêm nhiều cửa tử, cửa sinh lệch sang +) Ông lái đò nắm chắc “binh pháp thần sông, thần phía hữu ngạn sông
đá”, thuộc quy luật phục kích của lũ đá nơi ải
+) Dòng thác hùm beo hồng hộc tế mạnh
nước hiểm trở để có những động tác điêu luyện,
→ Dòng sông như một con thú hoang lồng lên đòi
táo bạo mà vô cùng chuẩn xác. ăn chết con thuyền.
+) Ông “nắm chặt lấy được cái bờm sóng đúng
luồng rồi ông đò ghì cương lái” như một kị sĩ tài
ba đang trị con ngựa bất kham
+) Bằng hệ thống động từ mạnh, Nguyễn Tuân đã
họa nên tư thế hiên ngang, dũng mãnh của ông lái đò
+) Rồi ông phóng nhanh vào của sinh “lái miết
một đường chéo về phía cửa đá ấy”
→ Đây là một liên tưởng độc đáo, thú vị của nhà
văn. Con sông Đà hung bạo giống như chú tuấn mã
bất kham, và ông lái đò vụt qua thành một dũng
tướng tung hoành trên chiến địa
+) Cái tài của ông lái đò còn ở chỗ ông nhớ mặt
bọn thủy quân cửa ải nước để “đứa thì ông tránh
mà rảo bơi chèo lên”, “đưa thì ông đê sấn lên mà
chặt đôi ra để mở đường tiến”
Phải là người rất dày dặn kinh nghiệm thì ông ⇒
lái đò mới có thể trở thành một vị tướng dũng cảm,
tài trí, có quyết tâm cao, tả xung hữu đột trước
trùng vi thạch trận sông Đà. -
Ở trùng vi thạch trận thứ ba
+) Sông Đà tinh vi xảo quyệt hơn, “bên phải bên
+) Thạch trận nguy hiểm nhưng không ngăn nổi
trái đều là luồng chết”
người lái đò khéo léo, tài tình, quả cảm, giàu kinh
+) Luồng sống ở ngay giữa bọn đá hậu vệ
nghiệm. Con thuyền “vút qua cổng đá, cảnh mở
cánh khép. Vút, vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cửa
trong cùng, thuyền như một mũi tên xuyên nhanh
qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái được lượn được”
→ Tác giả sử dụng một loạt động từ mạnh “vút”,
“xuyên” cùng hình ảnh so sánh “như một mũi tên
tre” và câu văn ngắn nhằm diễn tả, nhấn mạnh tốc
độ và sự điêu luyện của người lái đò trong hành trình vượt thác
+) Ông lái đò đã trở thành người nghệ sĩ tài hoa
bởi trình độ chèo lái đã đạt đến mức nghệ thuật
đúng như câu nói của Mác “bản chất của mỗi con
người nghệ sĩ” quả thật đúng với trường hợp của
ông lái đò. Bởi bất kỳ ai thực hiện công việc của
mình một cách tinh vi, siêu phàm bằng một tay
nghề điêu luyện và sự nỗ lực phi thường thì đều
trở thành người nghệ sĩ tài hoa. ● T
iểu kết cho cuộc vượt thác: -
Đoạn văn đã huy động sức mạnh của sự quan sát, liên tưởng, tưởng tượng cùng vốn từ vựng phong phú,
kiến thức về nhiều lĩnh vực quân sự, võ thuật, thể thao với nhịp điệu câu văn nhanh, các BPNT tài tình,
người lái đò hiện lên vừa như một chiến tướng trí dũng song toàn vừa là một người nghệ sĩ tài hoa trong
nghệ thuật vượt thác ghềnh -
Nguyễn Tuân đã sử dụng hệ thống động từ mạnh thể hiện sự cuồng nộ của sông Đà “rống lên, nhổm dậy,
vồ lấy” và đối chọi với chúng là hình ảnh của ông lái đò trong tư thế cưỡi hổ tung hoành “nắm chặt, ghì
cương, lái miết”. Mật độ những động từ dày đặc như thế khiến cho người đọc nghẹt thở để rồi người đọc
thở phào nhẹ nhõm khi cuộc vượt thác kết thúc.
c. Sau cuộc vượt thác -
Ông lái đò hòa vào cái yên bình của dòng sông buông xuôi mái chèo:
+) Ung dung sóng nước xèo xèo trong trí nhớ
+) Không bàn về cuộc vượt thác mà chỉ nói về những con cá anh vũ, cá dầm xanh
→ Biến đổi tinh vi của nghệ thuật chèo lái
Chỉ bằng vài nét chấm phá, Nguyễn ⇒
Tuân đã giúp người đọc nhận ra thêm vẻ đẹp của ông lái đò - khiêm nhường, bình dị. ● Mở rộng
: Qua hình tượng ông lái đò, Nguyễn Tuân muốn gửi gắm: -
Thể hiện lòng yêu nước bằng cách tự hào trước vẻ đẹp con người Việt Nam tuy bình dị nhưng thông
minh, dũng cảm và tài hoa. -
Đưa ra một quan niệm mới về chủ nghĩa anh hùng. Với Nguyễn Tuân, người anh hùng có ngay trong
những con người bình dị có ở trong cuộc sống hàng ngày - người lái đò từng lập kỳ tích trên sông nước
Đà giang nhưng không hề nghĩ đến những kỳ tích mình làm nên. Bởi sau mỗi lần vượt thác, sau mỗi lần
chiến thắng dòng sông hung hãn, người lái đò lại trở về với cuộc sống hàng ngày giản đơn bình dị. -
Cuộc vượt thác của ông lái đò gợi liên tưởng đến cuộc vượt biển của Uy-lít-xơ trong trường ca “U-đi-xê”
của Hô-me-rơ. Cuộc vượt thác hay vượt biển này đều đầy những khó khăn thử thách. Song điều khác là ở
chỗ Uy-lít-xơ - anh hùng trong một dáng vẻ siêu phàm, sự thông minh tài trí của Uy-lít-xơ là sự thông
minh của thánh thần. Còn ông lái đò cũng trở thành anh hùng nhưng mang dáng vẻ giản dị, đời thường.
Vì thế sự thông minh tài trí của người lái đò là sự thông minh của con người trong cuộc sống hàng ngày. ● T
iểu kết hình tượng người lái đò: -
Người lái đò sông Đà là hình ảnh tuyệt đẹp về người anh hùng trong lao động bình thường, giản dị nhưng tài hoa, trí dũng -
Trong con mắt của Nguyễn Tuân, thiên nhiên Tây Bắc quý như vàng. Những con người Tây Bắc nói riêng
và người dân lao động nói chung trên đất nước ta mới thực sự xứng đáng chất vàng mười - “thứ vàng
mười đã qua thử lửa”. Vì thế Nguyễn Tuân đã ngợi ca vẻ đẹp của những con người đó bằng tất cả tình
cảm yêu quý, thái độ ngưỡng mộ và khâm phục