Cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của Xuân Diệu - Ngữ văn 11

Ngoài ra, Xuân Diệu còn được biết đến là một nhà thơ đa khía cạnh. Ông không chỉ miêu tả thiên nhiên mà còn tái hiện nó bằng nghệ thuật viết. Ông sử dụng cả năm giác quan để khám phá và miêu tả sự vật bằng những biến thái tinh vi nhất. Tài liệu giúp bạn tham khảo ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!

Chủ đề:
Môn:

Ngữ Văn 11 1.1 K tài liệu

Thông tin:
3 trang 3 tuần trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của Xuân Diệu - Ngữ văn 11

Ngoài ra, Xuân Diệu còn được biết đến là một nhà thơ đa khía cạnh. Ông không chỉ miêu tả thiên nhiên mà còn tái hiện nó bằng nghệ thuật viết. Ông sử dụng cả năm giác quan để khám phá và miêu tả sự vật bằng những biến thái tinh vi nhất. Tài liệu giúp bạn tham khảo ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!

37 19 lượt tải Tải xuống
Cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của Xuân Diệu
1. Lý lịch của nhà thơ Xuân Diệu
Xuân Diệu, tên gọi đã trở thành một biểu tượng trong văn học Việt Nam, nổi tiếng với những tác
phẩm n chương đầy tinh tế tình cảm. Sinh ra vào ngày 2 tháng 2 năm 1916 tại tỉnh Bình Định,
cuộc đời và sự nghiệp của ông đã để lại dấu ấn đậm nét trong lịch sử văn hóa Việt Nam.
Xuân Diệu đã lớn lên trong một gia đình trí thức với cha là nguyên giáo sư Hán học nổi tiếng Ngô
Xuân Thọ. Từ nhỏ, ông đã được đào tạo và hướng dẫn một cách bài bản, quy củ, học chữ Nho và
chữ Quốc ngữ. Sau đó, ông tiếp tục học tập tại nhiều trường danh tiếng trên khắp Việt Nam như
trường Bưởi ở Hà Nội và trường Khải Định ở Huế.
Nhưng thực sự, sự nghiệp văn chương của Xuân Diệu bắt đầu nở rộ khi ông quen biết với nhà báo
Bạch Diệp vào năm 1958, nhờ sự giới thiệu của ông Hoàng Tùng, nguyên Tổng biên tập báo Nhân
Dân. Mặc sự khác biệt về tuổi tác, tình yêu đam nghệ thuật đã nối kết họ lại với nhau.
Tuy nhiên, cuộc hôn nhân của hai người không kéo dài được lâu và họ đã ly dị sau đó. Không có
con chung, Xuân Diệu đã sống độc thân cho đến khi qua đời vào năm 1985.
Xuân Diệu Huy Cận, hai nhà thơ cùng quê Tĩnh, đã trở thành đôi bạn thân thiết khi gặp
nhau. Vợ của Huy Cận là bà Ngô Thị Xuân Như, em gái của Xuân Diệu, điều này thể hiện sự gắn
kết một cách sâu sắc giữa họ.
Xuân Diệu nổi tiếng với những bài thơ tình đầy sâu sắc tinh tế, sức cuốn hút ẩn chứa
những ý nghĩa sâu xa về nh yêu cuộc sống. Tác phẩm của ông đã để lại ấn tượng mạnh mẽ
trong lòng độc giả và được đánh giá là có tầm ảnh hưởng đối với văn học Việt Nam. Xuân Diệu,
một tài năng vĩ đại, sẽ mãi mãi được ghi nhớ trong lịch sử văn hóa của quê hương.
2. Tiểu sử nhà thơ Xuân Diệu
Xuân Diệu là một trong những nhà thơ và nhà văn nổi tiếng của văn học Việt Nam. Ông được sinh
ra lớn lên trong một gia đình hiếu học, nơi tri thức ngôn ngữ được coi trọng. Từ nhỏ,
Xuân Diệu đã được học nhiều ngôn ngữ, bao gồm cả chữ Nho và chữ Quốc ngữ, đánh dấu sự bắt
đầu của sự nghiệp văn chương của ông.
Hành trình học tập của Xuân Diệu đưa ông tới nhiều trường học danh tiếng. Trong thời gian ông
sống ở Hà Nội, ông học tại trường Bưởi và sau đó là trường Khải Định ở Huế. Đến năm 1927, khi
ông mới 11 tuổi, ông đã rời gia đình để đến Quy Nhơn để tiếp tục học tập.
Năm 1936 - 1937, Xuân Diệu tiếp tục học tại Huế và đỗ tú tài sau một năm học tập đầy khó khăn.
Năm 1937, ông quyết định đến Hà Nội để theo đuổi việc học Luật và làm việc trong lĩnh vực báo
chí. Tại Hà Nội, ông tham gia vào nhóm Tự Lực Văn Đoàn, một tổ chức nghệ sĩ nổi tiếng tại miền
Bắc vào thời điểm đó.
Sau khi tốt nghiệp tú tài và cử nhân Luật vào năm 1943, Xuân Diệu đã đỗ tham Thương chính
và bắt đầu làm viên chức tại Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang. Ông cũng dạy học trong thời gian y,
nhưng chỉ sau một năm làm việc, ông quyết định từ bỏ công việc viên chức để tập trung vào việc
viết văn và trở về Hà Nội sinh sống.
Xuân Diệu không chỉ một tài năng văn chương, còn một người theo đuổi các hoạt động
cách mạng. Ông trở thành Đảng viên Đảng Cộng Sản và tham gia vào Hội văn hóa cứu quốc, đồng
thời làm thư cho tạp chí Tiền phong của Hội. Ngoài ra, ông còn được bầu làm Ủy viên Ban
chấp hành Hội văn nghệ Việt Nam làm y viên Ban chấp hành Hội nhà văn Việt Nam trong
nhiều nhiệm k từ năm 1957 đến năm 1985. Vào năm 1983, ông được Viện Hàn lâm nghệ thuật
nước Cộng hòa dân chủ Đức bầu làm Viện sĩ thông tấn.
Ngày 18/12/1985, Xuân Diệu qua đời khi ông mới 69 tuổi, để lại nhiều tác phẩm văn học thơ
ca để lại dấu ấn trong lòng độc giả. Năm 1996, ông được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt
I về văn học nghệ thuật để tưởng nhớ và vinh danh tài năng của ông. Tên của Xuân Diệu đã được
sử dụng để đặt cho nhiều tuyến đường trường học nhiều tỉnh thành trên cả nước, một sự
thừa nhận đối với đóng góp vĩ đại của ông cho văn học và văn hoá Việt Nam.
3. Cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của Xuân Diệu
Thi sĩ Xuân Diệu được mệnh danh là "Ông hoàng thơ tình". Ông là một cây đại thụ của thơ về lĩnh
vực thơ ca, chúng ta có thể tìm hiểu qua hai giai đoạn chính, trước và sau cách mạng tháng Tám.
Trước cách mạng tháng Tám, Xuân Diệu một nhà thơ lãng mạn. c tác phẩm chính: tập thơ
“Thơ thơ” (1938) và “Gửi hương cho gió” (1945). Nội dung của thơ Xuân Diệu trong thời k này
là: Niềm sayngoại giới, khát khao giao cảm trực tiếp, cháy bỏng, mãnh liệt với cuộc đời (“Vội
vàng”, “Giục giã”). Nỗi đơn rợn ngợp của cái tôi nhỏ giữa dòng thời gian biên, giữa
không gian tận (Lời kỹ nữ). Nỗi ám ảnh về thời gian khiến nhà thơ nảy sinh một triết lý về nhân
sinh: lẽ sống vội vàng (“Vội vàng”). Nỗi khát khao đến chảy bỏng được đắm mình trọn vẹn giữa
cuộc đời đầy hương sắc thể hiện nỗi đau đớn, xót xa trước khát vọng bị lãng quên thật phũ
phàng trước cuộc đời (“Dại khờ”, “Nước đổ lá khoai”).
Sau cách mạng, thơ Xuân Diệu đã vươn tới chân trời nghệ thuật mới, nhà thơ đã đi từ “cái tôi
nhỏ đến cái ta chung của mọi người” (P.Eluya). Xuân Diệu giờ đây đã trở thành một nhà thơ cách
mạng say mê, hăng say hoạt động và ông đã có thơ hay ngay trong giai đoạn đầu. Xuân Diệu chào
mừng cách mạng với “Ngọn quốc kỳ” (1945) “Hội nghị non sông” (1946) với tấm lòng tràn
đầy hân hoan trước lẽ sống lớn, niềm vui lớn của cách mạng.
Cùng với sự đổi mới của đất nước, Xuân Diệu có nhiều biến chuyển trong tâm hồn và thơ
Ý thức của cái Tôi công dân, của một nghệ sĩ, một trí thức yêu nước trước thực tế cuộc sống. Đất
nước đã đem đến cho ông những nguồn mạch mới trong cảm hứng sáng tác. Nhà thơ hăng say viết
về Đảng, về Bác Hồ, về Tổ quốc Việt Nam, về quá trình y dựng chủ nghĩa xã hội miền Bắc và
công cuộc thống nhất nước nhà. Các tác phẩm tiêu biểu: tập “Riêng chung” (1960), “Hai đợt sóng”
(1967), “tập “Hồn tôi đôi cánh” (1976)…
Bài thơ "Vội vàng" của Xuân Diệu thật sự là một tác phẩm xuất sắc và tiêu biểu trong tập Thơ thơ
của ông. Nó đã trở thành một biểu tượng trong văn học Việt Nam và thường được giới thiệu trong
chương trình học Ngữ văn lớp 11. Bài thơ y khiến người đọc cảm nhận sự vội vàng của cuộc
đời, nó đẩy chúng ta phải suy tư về thời gian trôi qua một cách đầy lo lắng và khắc khoải.
"Vội vàng" như một lời nhắc nhở cho chúng ta, đặc biệt là các bạn trẻ, rằng cuộc sống ngắn ngủi
thời gian luôn luôn đang trôi đi. Chúng ta cần trân trọng mỗi khoảnh khắc, mỗi giây phút để tận
hưởng và sống một cuộc đời ý nghĩa.
Với Xuân Diệu, viết thơ không chỉ là việc tạo ra những bài thơ đẹp mà còn là cách ông ghi lại tâm
hồn và trở nên bất tử trong thời gian. Ông tin rằng thơ là một nghệ thuật có thể vượt qua thời gian,
là cách để kết nối với những người đọc trong tương lai. Phong cách viết văn của ông thường đầy
cảm xúc và không giống bất kỳ ai khác.
Ngoài ra, Xuân Diệu còn được biết đến là một nhà thơ đa khía cạnh. Ông không chỉ miêu tả thiên
nhiên còn tái hiện bằng nghệ thuật viết. Ông sử dụng cả năm giác quan để khám phá
miêu tả sự vật bằng những biến thái tinh vi nhất. Từ cách ông đặt câu đến cách ông sử dụng câu
trong thơ, phong cách của Xuân Diệu luôn mang một sự mới mẻ ảnh hưởng từ văn hóa
phương Tây. Điều này đã tạo ra một dấu ấn đặc biệt trong thơ của ông và giúp ông trở thành một
trong những nhà thơ vĩ đại nhất trong văn học Việt Nam.
| 1/3

Preview text:

Cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của Xuân Diệu
1. Lý lịch của nhà thơ Xuân Diệu
Xuân Diệu, tên gọi đã trở thành một biểu tượng trong văn học Việt Nam, nổi tiếng với những tác
phẩm văn chương đầy tinh tế và tình cảm. Sinh ra vào ngày 2 tháng 2 năm 1916 tại tỉnh Bình Định,
cuộc đời và sự nghiệp của ông đã để lại dấu ấn đậm nét trong lịch sử văn hóa Việt Nam.
Xuân Diệu đã lớn lên trong một gia đình trí thức với cha là nguyên giáo sư Hán học nổi tiếng Ngô
Xuân Thọ. Từ nhỏ, ông đã được đào tạo và hướng dẫn một cách bài bản, quy củ, học chữ Nho và
chữ Quốc ngữ. Sau đó, ông tiếp tục học tập tại nhiều trường danh tiếng trên khắp Việt Nam như
trường Bưởi ở Hà Nội và trường Khải Định ở Huế.
Nhưng thực sự, sự nghiệp văn chương của Xuân Diệu bắt đầu nở rộ khi ông quen biết với nhà báo
Bạch Diệp vào năm 1958, nhờ sự giới thiệu của ông Hoàng Tùng, nguyên Tổng biên tập báo Nhân
Dân. Mặc dù sự khác biệt về tuổi tác, tình yêu và đam mê nghệ thuật đã nối kết họ lại với nhau.
Tuy nhiên, cuộc hôn nhân của hai người không kéo dài được lâu và họ đã ly dị sau đó. Không có
con chung, Xuân Diệu đã sống độc thân cho đến khi qua đời vào năm 1985.
Xuân Diệu và Huy Cận, hai nhà thơ cùng quê Hà Tĩnh, đã trở thành đôi bạn thân thiết khi gặp
nhau. Vợ của Huy Cận là bà Ngô Thị Xuân Như, em gái của Xuân Diệu, điều này thể hiện sự gắn
kết một cách sâu sắc giữa họ.
Xuân Diệu nổi tiếng với những bài thơ tình đầy sâu sắc và tinh tế, có sức cuốn hút và ẩn chứa
những ý nghĩa sâu xa về tình yêu và cuộc sống. Tác phẩm của ông đã để lại ấn tượng mạnh mẽ
trong lòng độc giả và được đánh giá là có tầm ảnh hưởng đối với văn học Việt Nam. Xuân Diệu,
một tài năng vĩ đại, sẽ mãi mãi được ghi nhớ trong lịch sử văn hóa của quê hương.
2. Tiểu sử nhà thơ Xuân Diệu
Xuân Diệu là một trong những nhà thơ và nhà văn nổi tiếng của văn học Việt Nam. Ông được sinh
ra và lớn lên trong một gia đình hiếu học, nơi mà tri thức và ngôn ngữ được coi trọng. Từ nhỏ,
Xuân Diệu đã được học nhiều ngôn ngữ, bao gồm cả chữ Nho và chữ Quốc ngữ, đánh dấu sự bắt
đầu của sự nghiệp văn chương của ông.
Hành trình học tập của Xuân Diệu đưa ông tới nhiều trường học danh tiếng. Trong thời gian ông
sống ở Hà Nội, ông học tại trường Bưởi và sau đó là trường Khải Định ở Huế. Đến năm 1927, khi
ông mới 11 tuổi, ông đã rời gia đình để đến Quy Nhơn để tiếp tục học tập.
Năm 1936 - 1937, Xuân Diệu tiếp tục học tại Huế và đỗ tú tài sau một năm học tập đầy khó khăn.
Năm 1937, ông quyết định đến Hà Nội để theo đuổi việc học Luật và làm việc trong lĩnh vực báo
chí. Tại Hà Nội, ông tham gia vào nhóm Tự Lực Văn Đoàn, một tổ chức nghệ sĩ nổi tiếng tại miền
Bắc vào thời điểm đó.
Sau khi tốt nghiệp tú tài và cử nhân Luật vào năm 1943, Xuân Diệu đã đỗ tham tá Thương chính
và bắt đầu làm viên chức tại Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang. Ông cũng dạy học tư trong thời gian này,
nhưng chỉ sau một năm làm việc, ông quyết định từ bỏ công việc viên chức để tập trung vào việc
viết văn và trở về Hà Nội sinh sống.
Xuân Diệu không chỉ là một tài năng văn chương, mà còn là một người theo đuổi các hoạt động
cách mạng. Ông trở thành Đảng viên Đảng Cộng Sản và tham gia vào Hội văn hóa cứu quốc, đồng
thời làm thư ký cho tạp chí Tiền phong của Hội. Ngoài ra, ông còn được bầu làm Ủy viên Ban
chấp hành Hội văn nghệ Việt Nam và làm Ủy viên Ban chấp hành Hội nhà văn Việt Nam trong
nhiều nhiệm kỳ từ năm 1957 đến năm 1985. Vào năm 1983, ông được Viện Hàn lâm nghệ thuật
nước Cộng hòa dân chủ Đức bầu làm Viện sĩ thông tấn.
Ngày 18/12/1985, Xuân Diệu qua đời khi ông mới 69 tuổi, để lại nhiều tác phẩm văn học và thơ
ca để lại dấu ấn trong lòng độc giả. Năm 1996, ông được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt
I về văn học nghệ thuật để tưởng nhớ và vinh danh tài năng của ông. Tên của Xuân Diệu đã được
sử dụng để đặt cho nhiều tuyến đường và trường học ở nhiều tỉnh thành trên cả nước, là một sự
thừa nhận đối với đóng góp vĩ đại của ông cho văn học và văn hoá Việt Nam.
3. Cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của Xuân Diệu
Thi sĩ Xuân Diệu được mệnh danh là "Ông hoàng thơ tình". Ông là một cây đại thụ của thơ về lĩnh
vực thơ ca, chúng ta có thể tìm hiểu qua hai giai đoạn chính, trước và sau cách mạng tháng Tám.
Trước cách mạng tháng Tám, Xuân Diệu là một nhà thơ lãng mạn. Các tác phẩm chính: tập thơ
“Thơ thơ” (1938) và “Gửi hương cho gió” (1945). Nội dung của thơ Xuân Diệu trong thời kỳ này
là: Niềm say mê ngoại giới, khát khao giao cảm trực tiếp, cháy bỏng, mãnh liệt với cuộc đời (“Vội
vàng”, “Giục giã”). Nỗi cô đơn rợn ngợp của cái tôi bé nhỏ giữa dòng thời gian vô biên, giữa
không gian vô tận (Lời kỹ nữ). Nỗi ám ảnh về thời gian khiến nhà thơ nảy sinh một triết lý về nhân
sinh: lẽ sống vội vàng (“Vội vàng”). Nỗi khát khao đến chảy bỏng được đắm mình trọn vẹn giữa
cuộc đời đầy hương sắc và thể hiện nỗi đau đớn, xót xa trước khát vọng bị lãng quên thật phũ
phàng trước cuộc đời (“Dại khờ”, “Nước đổ lá khoai”).
Sau cách mạng, thơ Xuân Diệu đã vươn tới chân trời nghệ thuật mới, nhà thơ đã đi từ “cái tôi bé
nhỏ đến cái ta chung của mọi người” (P.Eluya). Xuân Diệu giờ đây đã trở thành một nhà thơ cách
mạng say mê, hăng say hoạt động và ông đã có thơ hay ngay trong giai đoạn đầu. Xuân Diệu chào
mừng cách mạng với “Ngọn quốc kỳ” (1945) và “Hội nghị non sông” (1946) với tấm lòng tràn
đầy hân hoan trước lẽ sống lớn, niềm vui lớn của cách mạng.
Cùng với sự đổi mới của đất nước, Xuân Diệu có nhiều biến chuyển trong tâm hồn và thơ
Ý thức của cái Tôi công dân, của một nghệ sĩ, một trí thức yêu nước trước thực tế cuộc sống. Đất
nước đã đem đến cho ông những nguồn mạch mới trong cảm hứng sáng tác. Nhà thơ hăng say viết
về Đảng, về Bác Hồ, về Tổ quốc Việt Nam, về quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội miền Bắc và
công cuộc thống nhất nước nhà. Các tác phẩm tiêu biểu: tập “Riêng chung” (1960), “Hai đợt sóng”
(1967), “tập “Hồn tôi đôi cánh” (1976)…
Bài thơ "Vội vàng" của Xuân Diệu thật sự là một tác phẩm xuất sắc và tiêu biểu trong tập Thơ thơ
của ông. Nó đã trở thành một biểu tượng trong văn học Việt Nam và thường được giới thiệu trong
chương trình học Ngữ văn lớp 11. Bài thơ này khiến người đọc cảm nhận sự vội vàng của cuộc
đời, nó đẩy chúng ta phải suy tư về thời gian trôi qua một cách đầy lo lắng và khắc khoải.
"Vội vàng" như một lời nhắc nhở cho chúng ta, đặc biệt là các bạn trẻ, rằng cuộc sống ngắn ngủi
và thời gian luôn luôn đang trôi đi. Chúng ta cần trân trọng mỗi khoảnh khắc, mỗi giây phút để tận
hưởng và sống một cuộc đời ý nghĩa.
Với Xuân Diệu, viết thơ không chỉ là việc tạo ra những bài thơ đẹp mà còn là cách ông ghi lại tâm
hồn và trở nên bất tử trong thời gian. Ông tin rằng thơ là một nghệ thuật có thể vượt qua thời gian,
là cách để kết nối với những người đọc trong tương lai. Phong cách viết văn của ông thường đầy
cảm xúc và không giống bất kỳ ai khác.
Ngoài ra, Xuân Diệu còn được biết đến là một nhà thơ đa khía cạnh. Ông không chỉ miêu tả thiên
nhiên mà còn tái hiện nó bằng nghệ thuật viết. Ông sử dụng cả năm giác quan để khám phá và
miêu tả sự vật bằng những biến thái tinh vi nhất. Từ cách ông đặt câu đến cách ông sử dụng câu
trong thơ, phong cách của Xuân Diệu luôn mang một sự mới mẻ và có ảnh hưởng từ văn hóa
phương Tây. Điều này đã tạo ra một dấu ấn đặc biệt trong thơ của ông và giúp ông trở thành một
trong những nhà thơ vĩ đại nhất trong văn học Việt Nam.