



Preview text:
CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG QUÂN MÔNG NGUYÊN LẦN 2
1.Bối cảnh lịch sử:
Năm 1279, quân Mông Cổ đánh bại nhà Nam Tống, lập nên triều Nguyên.
Nguyên Thế Tổ là Hốt Tất Liệt chuẩn bị xâm chiếm Đại Việt để trả thù lần thất bại trước.
Vua tôi nhà Trần thực hiện đường lối ngoại giao mềm dẻo, luôn tỏ ra cung kính,
cống phú đầy đủ. Năm 1284, Trấn Nam vương Thoát Hoan cùng phó tướng A Lý Hải
Nha được lệnh chỉ huy 50 vạn quân chỉ huy tấn công xuống Đại Việt.
Trước đó, mùa xuân năm 1283, tướng giỏi Toa Đô nhận lệnh tấn công Champa.
Sau khi chiếm Champa sẽ tấn công lên Đại Việt, phối hợp với quân Thoát Hoan chiếm
Đại Việt, thực hiện thế “gọng kìm”. Nhưng quân dân Champa đã chiến đấu anh dũng,
kết quả quân Nguyên phải rút về để cố thủ ở phía Bắc chờ đánh Đại Việt. Kế hoạch
nhà Nguyên lấy Champa làm bàn đạp để xâm lược nước ta bước đầu thất bại.
2.Sự chuẩn bị của nhà Trần:
Nhà Trần một mặt ngoại giao mềm dẻo, một mặt tăng cường tổ chức rèn luyện
quân sĩ, sắm sửa vũ khí, chiến thuyền, tổ chức khối đoàn kết dân tộc.
Năm 1282, Hội nghị Bình Than ở Hải Hưng thể hiện tinh thần của bậc vương
hầu Trần Quốc Tuấn, Trần Thủ Độ, Trần Quốc Toản. Hội nghị bàn về phương án, chiến
lược kháng chiến quân xâm lược Mông Nguyên lần thứ 2.
Năm 1285, Thái thượng hoàng Trần Thánh Tông đã mời những bậc tuổi cao có
uy tín trong cả nước về điện Diên Hồng ở kinh đô Thăng Long. Khác với Hội nghị Bình
than, Hội nghị Diên Hồng không bàn đến chiến lược mà chỉ bàn đến việc nên đánh hay
nên hòa. Đại Việt sử ký toàn thư chép rằng, trong Hội nghị Diên Hồng, khi được vua hỏi
có nên đánh lại quân Nguyên hay không, thì các phụ lão đã "vạn người cùng nói như từ một miệng": "Đánh!".
Hình ảnh Hội nghị Diên Hồng
Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn được cử làm Quốc công tiết chế, thống lĩnh
toàn quân, chỉ đạo kháng chiến. Các vương hầu được lệnh mộ binh, rèn vũ khí, đóng
chiến thuyền, chuẩn bị chiến đấu (chuẩn bị về vật chất). Trần Quốc Tuấn đã viết Hịch
tướng sĩ để nâng cao tinh thần của quân sĩ (chuẩn bị về tinh thần). Nhiều chiến sĩ Đại
Việt đã xăm hai chữ Sát Thát (Sát nghĩa là "giết", còn Thát chỉ người Mông Cổ) vào tay
để thể hiện quyết tâm chiến đấu của mình.
Hình ảnh hình xăm Sát Thát (Sát nghĩa là "giết", còn Thát chỉ người Mông Cổ) 3.Diễn biến chính:
Cuối tháng 1 - 1285, khoảng 50 vạn quân Nguyên do Thoát Hoan tổng chỉ huy
tràn vào xâm lược Đại Việt. Sau một số trận chiến đấu chặn giặc ở vùng biên giới, Trần
Quốc Tuấn cho lui quân về Vạn Kiếp (Chí Linh, Hải Dương). Quân Thoát Hoan tập
trung một lực lượng quân lớn tấn công vào Vạn Kiếp. Trước thế giặc mạnh, quân Trần
lui về Thăng Long, sau đó rút lui về Thiên Trường (Nam Định).
Toa Đô từ Cham pa đánh ra Nghệ Anh, Thanh Hóa. Cùng lúc đó Thoát
Hoan mở cuộc tấn công lớn đánh xuống phía Nam nhằm tạo thành thế "gọng kìm",
hòng tiêu diệt quân chủ lực của ta và bắt sống toàn bộ đầu não của cuộc kháng chiến.
Trần Quốc Tuấn phải ra lệnh rút lui để củng cố lực lượng, chuẩn bị cho cuộc phản công tiêu diệt quân địch.
Bị thất bại trong âm mưu bắt sống vua Trần và tiêu diệt quân chủ lực của ta,
Thoát Hoan rút quân về Thăng Long chờ tiếp viện. Quân Nguyên lâm vào tình thế bị
động và lại thiếu lương thực trầm trọng.
Tháng 5 - 1285, lợi dụng thời cơ, quân Trần tổ chức phản công, đánh bại quân
giặc ở nhiều nơi như Tây Kết, cửa Hàm Tử (Khoái Châu, Hưng Yên), bến Chương
Dương (Thường Tín, Hà Nội) và tiến vào giải phóng Thăng Long.
Quân giặc hốt hoảng tháo chạy, vị quân Trần phục kích chặn đánh, nhiều tên
bị giết. Thoát Hoan phải chui vào ống đồng, bắt quân lính khiêng chạy về nước.
Vua Trần còn đem quân chặn đánh đạo quân của Toa Đô ở Tây Kết, hàng vạn
quân bị tiêu diệt. Tướng Toa Đô bị chém đầu.
Đến đây, sau một tháng liên tục phản công quyết liệt bằng những trận quyết
chiến, quân ta đã lập nên những chiến công vang dội có ý nghĩa chiến lược. Các trận
Tây Kết, Hàm Tử, Chương Dương, Thăng Long, Vạn Kiếp, đã tiêu diệt và quét sạch 50
vạn quân xâm lược ra khỏi bờ cõi Tổ quốc. Cuộc kháng chiến chống quân Mông-
Nguyên năm 1285 đã kết thúc thắng lợi.
Ngày 9-7-1285, thượng hoàng Thánh Tông và vua Nhân Tông cùng triều đình
tiến vào đô thành Thăng Long. Nhìn lại những chiến công chói lọi, tự hào và tin tưởng
vào đất hùng mạnh, thượng tướng thái sư Chiêu Minh vương Trần Quang Khải đã viết bài thơ khải hoàn :
“Đoạt giáo Chương Dương độ Cầm Hồ Hàm Tử quan Thái bình tu trí lực Vạn cổ cựu giang san” 4.Kết quả:
Nhiều tướng lĩnh và binh lính Nguyên tử trận. Thoát Hoan phải chui vào ống
đồng để tránh tên độc cho quân lính khiêng chạy mới thoát chết về đến bên kia biên
giới. Đám quân Naxirút Đin còn lại tháo chạy về biên giới. Đến vùng Phú Thọ lại bị thổ
binh (dân binh các dân tộc ít người) do Hà Đặc, Hà Thương chỉ huy chặn đánh tổn thất
nặng. Đạo quân Toa Đô từ Trường Yên theo đường biển vào sông Hồng định đến
Thăng Long hội quân với Thoát Hoan, nhưng đến Tây Kết thì bị quân ta tiến công tiêu
diệt phần lớn, Toa Đô tử trận. Cuộc kháng chiến chống Mông - Nguyên năm 1285 đã có kết thúc thắng lợi. 5.Ý nghĩa:
Với những chiến công chói lọi và tự hào, tin tưởng vào đất nước hùng mạnh đã cho
thấy được rằng dù quân Mông- Nguyên hùng mạnh và có nhiều Vương hầu của triều
Trần mang tư tưởng cầu an, quân Đại Việt dưới sự lãnh đạo của Trần Hưng Đạo, Thái
thượng hoàng Trần Thánh Tông và vua Trần Nhân Tông đã dành chiến thắng vang dội
trong cuộc chiến này, thể hiện “ Hào khí Đông A ’ của nước Đại Việt thời đó.
6.Nguyên nhân thắng lợi: *Chủ quan:
- Cuộc chiến tranh chính nghĩa, đoàn kết dân tộc “vua tôi đồng lòng, anh em hòa mục, cả nước góp sức”:
- Đây là giai đoạn thịnh trị, hùng mạnh nhất của vương triều Trần với chính sách quân
sự bài bản như "ngự binh ư nông", các vương tôn quý tộc nhà Trần cũng được phép tự
nuôi dưỡng và huấn luyện quân binh riêng.
- Đây cũng là thời kỳ nở rộ nhân tài dưới vương triều Trần với rất nhiều cái tên hiển
hách lịch sử như: Trần Hưng Đạo, Trần Quang Khải, Yết Kiêu, Phạm Ngũ Lão, Trần
Nhật Duật, Trần Khánh Dư, ... Chính tài năng và tấm lòng trung kiên, yêu nước, lòng
can đảm của họ đã dẫn đầu đoàn quân tiến lên hiên ngang dù thế giặc hùng mạnh, góp
phần lớn vào chiến thắng chung của dân tộc. *Khách quan:
- Trong khi tiến hành những cuộc xâm lược, quân Nguyên đã gặp một số khó khăn:
mâu thuẫn dân tộc sâu sắc, chiến tranh trong nội bộ quý tộc Mông cổ, phong trào khởi
nghĩa của nông dân Trung Quốc nên chậm trễ trong việc chuẩn bị tiến quân cũng như
hạn chế mức tập trung binh lực.
- Tính chất chiến tranh phi nghĩa dẫn tới các vấn đề trên gay gắt hơn.
7.Nghệ thuật quân sự:
- Khẩu hiệu “Cử quốc nghênh địch” (cả nước đánh giặc). Tổ chức đánh địch mọi nơi,
mọi lúc, dùng sức mạnh toàn dân, toàn quân, buộc địch phải tác chiến liên miên nên
không tổ chức được một trận đánh chiến lược nào để tiêu diệt sinh lực của ta.
- Trần Quốc Tuấn sử dụng nghệ thuật quân sự làm thay đổi thế trận của ta, khiến quân
địch nhụt nhuệ khí, bị mệt mỏi, toàn bộ lực lượng bị phân tán và đối phó bị động, cánh
quân giặc rải từ Thăng Long đến Lạng Sơn ở nhiều trại, quân bị dàn mỏng.
- Thực hiện kế sách “Thanh dã” (vườn không nhà trống).
- Đánh địch và phải rút lui bằng nghệ thuật chủ động, buộc địch phải hành động theo ý
mình, nhất là trong cuộc kháng chiến lền 3, tiếp tục đánh ở sông Thương, không cho
chúng chạy theo hướng Chi Lăng mà phải theo hướng Bạch Đằng.
Document Outline
- CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG QUÂN MÔNG NGUYÊN LẦN 2
- 2.Sự chuẩn bị của nhà Trần:
- 3.Diễn biến chính:
- 4.Kết quả:
- 5.Ý nghĩa:
- 6.Nguyên nhân thắng lợi:
- *Khách quan:
- 7.Nghệ thuật quân sự: