













Preview text:
lOMoAR cPSD| 59735610
Phân tích để làm rõ tính đúng đắn và sáng tạo của Cương lĩnh chính trị đầu
tiên của Đảng và sự vận dụng nội dung cương lĩnh trong giai đoạn hiện nay.
Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời trong một giai đoạn lịch sử đầy biến
động, khi đất nước đang chìm trong ách thống trị của thực dân Pháp. Từ cuối thế kỷ XIX, Việt Nam đã trở
thành thuộc địa của Pháp, chịu sự bóc lột tàn bạo về kinh tế, đàn áp về chính trị và nô dịch về văn hóa.
Nhân dân rơi vào cảnh lầm than, mất đi quyền tự do và quyền sống cơ bản. Những phong trào khởi nghĩa
chống Pháp, dù mang tinh thần yêu nước mạnh mẽ nhưng đều thất bại bởi thiếu một đường lối chỉ đạo rõ ràng và khoa học.
Trong bối cảnh đó, với sự thành lập của Đảng Cộng sản Việt Nam vào năm 1930, cương lĩnh chính trị đầu
tiên đã được soạn thảo, chính thức định hướng đường lối cho phong trào cách mạng nước nhà. Cương lĩnh
này không chỉ là sản phẩm của sự kết hợp giữa chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa Mác - Lênin, mà còn
phản ánh nhu cầu cấp thiết của thời đại, khi nhân dân khát khao có một tổ chức dẫn dắt để giành lại tự do và độc lập.
Ngay từ khi mới thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, cương lĩnh đầu tiên đã xác định rõ mục tiêu cuối
cùng của cách mạng Việt Nam không chỉ dừng lại ở giai đoạn hoàn thành cuộc cách mạng giải phóng dân
tộc mà phải thực hiện tiếp cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, đưa cả nước đi lên CNXH. Về thực chất, đó
là con đường cách mạng giành độc lập dân tộc, thực hiện khẩu hiệu “người cày có ruộng” và các quyền
dân chủ chính trị, kinh tế, văn hóa… cho các tầng lớp nhân dân, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa đi tới xã
hội cộng sản mà chủ nghĩa xã hội là giai đoạn đầu của nó. Hai cuộc cách mạng này liên quan mật thiết với
nhau, ảnh hưởng và thúc đẩy lẫn nhau, cuộc cách mạng trước thành công tạo điều kiện cho cuộc cách
mạng sau giành thắng lợi. Vì vậy, giữa hai giai đoạn cách mạng này: giải phóng dân tộc và xây dựng chủ
nghĩa xã hội không có bức tường ngǎn cách.
Luận điểm trên đánh dấu sự phát triển vượt bậc tư duy lý luận chính trị của cách mạng Việt Nam và đã
chứng tỏ rằng, ngay từ khi ra đời, Đảng ta đã nǎm vững nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, vận
dụng sáng tạo kinh nghiệm cách mạng thế giới, thấu suốt con đường phát triển tất yếu của cách mạng Việt
Nam, nhận rõ mối quan hệ biện chứng giữa cách mạng dân tộc dân chủ với cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Con đường cách mạng Cương lĩnh chính trị đã nêu mang tính triệt để và rọi sáng hướng phát triển mới
của Cách mạng Việt Nam và cũng là chân lý cách mạng mà Đảng cộng sản Việt Nam và nhân dân Việt
Nam phấn đấu thực hiện : Giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người; tự do hạnh phúc
của nhân dân là giá trị chân thực của độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Việc giải quyết mối quan hệ giữa nhiệm vụ chống đế quốc và nhiệm vụ chống phong kiến là vấn đề phức
tạp. Trong 2 nhiệm vụ chiến lược “phản đế, phản phong”, cương lĩnh chính trị cũng đã nêu rõ mặc dù cả 2
nhiệm vụ phải được tiến hành đồng thời và khắng khít với nhau, song về chỉ đạo chiến lược, Đảng xác
định phải đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu, với khẩu hiệu "Tổ quốc trên hết" . Việc xác định
đúng kẻ thù chủ yếu và nhiệm vụ chủ yếu để nắm vững ngọn cờ dân tộc để tập hợp lực lượng, phát huy
cao độ sức mạnh dân tộc nhưng không coi nhẹ những nhiệm vụ giải phóng giai cấp là một những tư tưởng
đúng đắn, sáng tạo của Đảng ta bắt nguồn từ việc khéo kết hợp yếu tố dân tộc với yếu tố giai cấp để xem xét vấn đề xã hội.
Cương lĩnh xác định rõ cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải dựa trên lực lượng cách mạng
là liên minh công – nông làm nòng cốt, trong đó giai cấp công nhân giữ vai trò lãnh đạo nhưng đồng thời
phải lôi kéo, tập hợp cả những người yêu nước ở tầng lớp tiểu tư sản, trí thức, trung nông và lợi dụng,
trung lập phú nông, trung và tiểu địa chủ, tư sản dân tộc. Sự phân chia giai cấp tư sản, địa chủ ra thành
những nhóm đối tượng khác nhau để có chính sách đối xử phù hợp, tranh thủ lôi kéo những người có lòng lOMoAR cPSD| 59735610
yêu nước, trung lập những người có thể trung lập nhằm làm suy yếu kẻ thù và cương quyết trừng trị đối
với kẻ thù là thể hiện sự nhận thức và đánh giá đúng của Đảng ta đối với mỗi giai cấp, mỗi tầng lớp trong
xã hội, mỗi dân tộc trong cộng đồng, thừa nhận tính tích cực và sự đóng góp của họ trong sự nghiệp giải
phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ đất nước.
Cương lĩnh đầu tiên khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam là nhân tố quyết định mọi
thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Đảng cộng sản Việt Nam ra đời mở đầu thời đại mới trong lịch sử
nước ta, thời đại giai cấp công nhân và đảng tiên phong của nó đứng vị trí trung tâm, kết hợp mọi phong
trào yêu nước và cách mạng, quyết định nội dung, phương hướng phát triển của xã hội Việt Nam. Sức
mạnh của Đảng cộng sản Việt Nam nằm ở chỗ Đảng kết nạp đảng viên không chỉ là những công nhân tiên
tiến, mà còn kết nạp cả những người ưu tú, tiên tiến trong nông dân lao động, trí thức cách mạng và trong
các tầng lớp khác. Đảng cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp vô sản, lấy chủ nghĩa Mác -
Lênin làm nền tảng tư tưởng. Đảng là một khối thống nhất ý chí và hành động. Đảng viên phải "tin theo
chủ nghĩa cộng sản, chương trình Đảng và Quốc tế cộng sản, hǎng hái tranh đấu và dám hy sinh, phục
tùng mệnh lệnh Đảng và đóng kinh phí, chịu phấn đấu trong một bộ phận Đảng".
Cương lĩnh khẳng định cách mạng Việt Nam phải tiến hành bằng bạo lực cách mạng của quần chúng, để
đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến, rồi dựng ra chính phủ công nông binh chứ không
phải bằng con đường cải lương. Đây là kinh nghiệm được rút ra từ các cuộc đấu tranh cách mạng của các
dân tộc trên thế giới đã khẳng định rằng bản chất của chủ nghĩa Đế quốc và giai cấp vô sản với hai bản
chất giai cấp hoàn toàn đối lập, là một cuộc chiến đấu không khoan nhượng; phải dùng bạo lực cách mạng
đánh đổ bạo lực phản cách mạng mới giành được thắng lợi hoàn toàn. Chiến thắng của cách mạng tháng
8/1945, Chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954 và Chiến dịch Hồ Chí Minh năm 1975 cho thấy sự chọn lựa
phương pháp sủ dụng bạo lực cách mạng là hoàn toàn đúng đắn để đánh đổ bọn đế quốc và tay sai, giành độc lập dân tộc.
Cương lĩnh khẳng định cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng vô sản thế giới, đứng trong
mặt trận cách mạng của các dân tộc bị áp bức và giai cấp công nhân thế giới mà đội quân tiên phong của
mặt trận này là Liên Xô. Nguyễn Ái Quốc cho rằng : “Những tư tưởng dân tộc chân chính đồng thời cũng
là những tư tưởng quốc tế chân chính”. Sự bóc lột thuộc địa không chỉ là một nguồn sống của bọn tư bản
mà còn là cái “nền móng” của chủ nghĩa đế quốc. Do đó, cuộc cách mạng giải phóng dân tộc không
những phải trở thành bộ phận khắng khít của cuộc cách mạng vô sản mang tính toàn cầu mà còn có vai
trò là một trào lưu lớn của cách mạng trong thế kỷ này. Tư tưởng này là cơ sở cho sự phát triển chính sách
đoàn kết quốc tế của Đảng ta. Chính sách đó luôn được bổ sung, hoàn thiện và là một nguồn tǎng thêm
sức mạnh lớn hơn sức mạnh vốn có của ta, là một nhân tố thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Việc thực hiện cương lĩnh chính trị đầu tiên đã đem lại những kết quả quan trọng cho phong trào cách
mạng Việt Nam. Trước khi có cương lĩnh, các phong trào đấu tranh chủ yếu mang tính tự phát, thiếu sự tổ
chức và chỉ đạo thống nhất, dẫn đến thất bại hoặc không đạt được kết quả đáng kể. Tuy nhiên, sau khi
Đảng Cộng sản ra đời và ban hành cương lĩnh chính trị, phong trào cách mạng đã có sự chuyển biến rõ
rệt. Các cuộc đấu tranh giờ đây không còn lẻ tẻ mà đã được tổ chức thành các phong trào mang tính hệ
thống, có sự lãnh đạo thống nhất và được chỉ đạo một cách khoa học. Cương lĩnh đã tạo nên niềm tin và
sự đoàn kết trong các tầng lớp nhân dân, giúp họ thấy rõ con đường đấu tranh giải phóng dân tộc và xây
dựng xã hội mới. Kết quả quan trọng nhất của việc áp dụng cương lĩnh chính trị chính là sự thành công
của cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945, khi Đảng lãnh đạo nhân dân giành lại độc lập, khai sinh nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. So với thời kỳ trước, khi chưa có cương lĩnh, cách mạng Việt Nam chưa có
sự định hướng rõ ràng và thiếu một tổ chức lãnh đạo đủ mạnh. Nhưng với sự ra đời của cương lĩnh và
Đảng Cộng sản, phong trào cách mạng đã thực sự bước sang một giai đoạn mới, phát triển mạnh mẽ, có
tính chiến lược và đạt được những thắng lợi to lớn, mở ra thời kỳ mới cho dân tộc Việt Nam. lOMoAR cPSD| 59735610
Trong giai đoạn hiện nay, cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn giữ vai trò là
kim chỉ nam cho con đường phát triển đất nước. Trước hết, nội dung về việc xây dựng một chính quyền
của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân vẫn được Đảng và Nhà nước Việt Nam kiên định thực hiện.
Nhân dân có vai trò quan trọng trong việc giám sát, đóng góp ý kiến và tham gia vào các hoạt động chính
trị, xã hội của đất nước. Về mặt kinh tế, Đảng tiếp tục vận dụng nội dung cương lĩnh vào việc xây dựng
một nền kinh tế phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Mục tiêu là phát triển kinh tế thị trường
nhưng không xa rời các nguyên tắc cơ bản về công bằng xã hội, an sinh xã hội và nâng cao chất lượng đời
sống của nhân dân. Trong lĩnh vực quốc phòng và an ninh, việc bảo vệ độc lập, chủ quyền quốc gia – một
trong những mục tiêu chiến lược của cương lĩnh chính trị đầu tiên – vẫn là nhiệm vụ hàng đầu của Đảng
và Nhà nước. Việt Nam không ngừng tăng cường sức mạnh quân sự, đồng thời thực hiện chính sách đối
ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình và hợp tác, nhằm bảo vệ lợi ích quốc gia, giữ vững ổn định và an ninh trên
toàn lãnh thổ. Sự vận dụng cương lĩnh chính trị còn thể hiện trong việc xây dựng khối đại đoàn kết dân
tộc. Đảng luôn khẳng định vai trò to lớn của sự đoàn kết toàn dân trong mọi giai đoạn cách mạng. Đặc
biệt, trong giai đoạn hội nhập quốc tế hiện nay, sự đoàn kết này càng quan trọng hơn bao giờ hết, nhằm
tạo nên sức mạnh tập thể để đối mặt với những thách thức từ toàn cầu hóa và các vấn đề khu vực.
Sự lãnh đạo của đảng những ngày giải phóng dân tộc trong giai đoạn 1939
1945 và những bài học kinh nghiệm trong giai đoạn hiện nay
Giai đoạn 1939-1945 là thời kỳ lịch sử đầy biến động đối với Việt Nam. Về mặt chính trị, thế giới đang
đối mặt với cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai, một cuộc xung đột quy mô toàn cầu dẫn đến sự thay đổi lớn
trong cán cân quyền lực. Chính trị toàn cầu biến động đã làm suy yếu sự kiểm soát của thực dân Pháp đối
với Đông Dương, trong khi Nhật Bản, một cường quốc quân sự mới nổi, đã tiến hành xâm lược và chiếm
đóng Việt Nam. Sự hiện diện của quân đội Nhật đã tạo ra một tình trạng bất ổn nghiêm trọng, không chỉ
về mặt chính trị mà còn về mặt xã hội.
Về mặt xã hội, xã hội Việt Nam lúc này đang phải đối mặt với sự áp bức và đàn áp nghiệt ngã của các thế
lực ngoại bang. Nhật Bản không chỉ áp đặt các chính sách khai thác tàn bạo mà còn gây ra nạn đói trầm
trọng năm 1945, làm gia tăng nỗi khổ của người dân. Trong khi đó, thực dân Pháp cũng không ngừng gia
tăng sự kiểm soát và đàn áp, khiến tình hình trở nên căng thẳng. Sự áp bức này đã làm suy yếu niềm tin
vào chính quyền và tạo ra một môi trường phù hợp cho các phong trào cách mạng phát triển. Trong bối
cảnh đó, việc có một tổ chức lãnh đạo có tầm nhìn chiến lược và khả năng tổ chức chặt chẽ là vô cùng
quan trọng. Đảng Cộng sản Đông Dương, dưới sự lãnh đạo của Hồ Chí Minh và các đồng chí, đã nhận
thức rõ ràng rằng chỉ có sự lãnh đạo kiên quyết và chiến lược mới có thể tập hợp lực lượng dân tộc, xây
dựng chiến lược đấu tranh hiệu quả và tổ chức các phong trào cách mạng chống lại các thế lực xâm lược.
Sự lãnh đạo của Đảng là cần thiết để đáp ứng nhu cầu cấp bách của thời đại, làm nền tảng cho cuộc đấu
tranh giải phóng dân tộc.
Để đáp ứng yêu cầu của cuộc cách mạng trong bối cảnh lịch sử đặc biệt này, Đảng Cộng sản Đông Dương
đã đưa ra các chủ trương quan trọng. Vào tháng 11 năm 1939, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng
đã quyết định chuyển hướng từ cuộc cách mạng tư sản dân quyền sang cuộc cách mạng giải phóng dân
tộc. Quyết định này được đưa ra trong bối cảnh cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai đang diễn ra và sự thay
đổi trong cán cân quyền lực quốc tế, yêu cầu Đảng phải thay đổi chiến lược để phù hợp với tình hình mới.
Vào tháng 5 năm 1941, Hội nghị Trung ương Đảng đã đưa ra các chính sách cụ thể để tổ chức và xây
dựng phong trào cách mạng. Một trong những quyết định quan trọng là thành lập Mặt trận Việt Minh, một
tổ chức cách mạng với mục tiêu tập hợp các lực lượng yêu nước để chống lại các thế lực xâm lược và xây
dựng một chính quyền mới. Mặt trận Việt Minh không chỉ là một tổ chức chính trị mà còn là một phong lOMoAR cPSD| 59735610
trào quần chúng rộng lớn, đóng vai trò quan trọng trong việc tổ chức các hoạt động đấu tranh và tuyên truyền.
Ngoài việc thành lập Mặt trận Việt Minh, Đảng còn đề ra các chính sách để củng cố lực lượng cách mạng.
Đảng đã chủ trương tập hợp các tầng lớp xã hội và các lực lượng yêu nước, không phân biệt giai cấp hay
tôn giáo, nhằm tạo ra một mặt trận thống nhất trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Đảng cũng đã xây
dựng các chiến lược tuyên truyền và giáo dục quần chúng để nâng cao ý thức cách mạng và chuẩn bị cho
các cuộc khởi nghĩa. Đặc biệt, Đảng đã khuyến khích việc xây dựng các tổ chức cơ sở cách mạng ở các
địa phương, nhằm tạo ra một mạng lưới liên kết vững chắc giữa các phong trào cách mạng và quần chúng.
Trong giai đoạn 1939-1945, nhiều phong trào giải phóng tiêu biểu đã phát triển dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Đông Dương, thể hiện sự đúng đắn và hiệu quả trong lãnh đạo của Đảng. Phong trào
kháng Pháp-Nhật (1940-1941) là giai đoạn đầu của phong trào giải phóng dân tộc. Các hoạt động kháng
chiến chủ yếu được tổ chức bí mật, với sự ra đời của nhiều tổ chức cách mạng nhỏ lẻ và các cuộc biểu
tình chống lại sự cai trị của Pháp và Nhật. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, các phong trào này đã góp phần
nâng cao tinh thần chiến đấu của nhân dân và tạo ra sự chuẩn bị cần thiết cho các hoạt động sau này. Cao
trào kháng Nhật cứu nước (1945) là giai đoạn quyết định trong cuộc đấu tranh giành độc lập. Sự khủng
hoảng do chiến tranh thế giới và nạn đói năm 1945 đã tạo ra một môi trường thuận lợi cho sự bùng nổ của
phong trào cách mạng. Đảng Cộng sản Đông Dương đã lãnh đạo phong trào Mặt trận Việt Minh tổ chức
các cuộc biểu tình, khởi nghĩa ở nhiều địa phương, và xây dựng các cơ sở cách mạng. Sự lãnh đạo của
Đảng đã giúp các phong trào này trở thành một lực lượng mạnh mẽ và thống nhất. Tổng khởi nghĩa
tháng Tám 1945 là cao trào của cuộc cách mạng giải phóng dân tộc. Dưới sự chỉ đạo của Hồ Chí Minh
và Đảng Cộng sản Đông Dương, cuộc tổng khởi nghĩa đã được tổ chức chặt chẽ và đồng bộ. Đảng đã tập
hợp các lực lượng cách mạng, xây dựng chiến lược và chỉ đạo các hoạt động khởi nghĩa. Cuộc khởi nghĩa
đã thành công trong việc lật đổ chính quyền thực dân và thiết lập chính quyền cách mạng, đánh dấu sự
chuyển mình quan trọng trong lịch sử Việt Nam.
Cuộc cách mạng Tháng Tám 1945 không chỉ là một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc mà còn là một
cuộc cách mạng dân chủ mới. Tính chất của cách mạng này thể hiện sự kết hợp giữa đấu tranh giải phóng
dân tộc và xây dựng một chính quyền mới dựa trên ý chí và nguyện vọng của nhân dân. Đảng Cộng sản
Đông Dương đóng vai trò tổ chức và lãnh đạo cách mạng. Đảng có đường lối chính trị đúng đắn, phương
pháp cách mạng sáng tạo, dày dạn kinh nghiệm đấu tranh, bắt rễ sâu trong quần chúng, đoàn kết và thống
nhất, quyết tâm lãnh đạo quần chúng khởi nghĩa giành chính quyền.
So với các giai đoạn trước, kết quả đạt được trong giai đoạn 1939-1945 có nhiều điểm khác biệt nổi bật.
Trong khi các phong trào trước năm 1939 thường mang tính chất địa phương và thiếu sự phối hợp đồng
bộ, giai đoạn 1939-1945 chứng kiến sự hình thành và phát triển của một phong trào cách mạng toàn quốc,
với sự tổ chức chặt chẽ và phối hợp hiệu quả giữa các khu vực và lực lượng. Mức độ thành công cũng cao
hơn hẳn so với các phong trào trước đó, khi giai đoạn này không chỉ giành được độc lập mà còn xây dựng
được một chính quyền cách mạng.
Ý nghĩa của cách mạng Tháng Tám 1945 không chỉ nằm ở việc giải phóng đất nước khỏi ách thực dân mà
còn ở việc mở ra một kỷ nguyên mới của độc lập và dân chủ cho Việt Nam. Cuộc cách mạng đã tạo ra nền
tảng cho việc xây dựng một quốc gia độc lập, tự do và có khả năng tự quyết định số phận của mình.
Bài học kinh nghiệm rút ra từ sự lãnh đạo của Đảng trong giai đoạn này là việc xây dựng một chiến lược
rõ ràng, tổ chức chặt chẽ và tập hợp sự đoàn kết của các lực lượng cách mạng là rất quan trọng trong cuộc
đấu tranh giành độc lập và xây dựng chính quyền. Những bài học này vẫn còn giá trị trong bối cảnh hiện lOMoAR cPSD| 59735610
nay, đặc biệt là trong việc đối phó với các thách thức chính trị và xã hội. Sự lãnh đạo đúng đắn, khả năng
tổ chức và tầm nhìn chiến lược là những yếu tố cần thiết để giải quyết các vấn đề hiện đại và xây dựng
một xã hội phát triển bền vững.
Cuộc đấu tranh ngoại giao dưới sự lãnh đạo của Đảng những ngày đầu sau
Cách mạng tháng Tám năm 1945. Từ đó, rút ra bài học kinh nghiệm cho sự
lãnh đạo của Đảng trong giai đoạn hiện nay.
Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, Việt Nam bước vào một giai đoạn đầy thử thách với nhiều thuận lợi và khó khăn.
Trên thế giới, chiến thắng vĩ đại của Liên Xô trước chủ nghĩa phát xít đã không chỉ giải phóng nhiều quốc
gia khỏi sự thống trị của các thế lực xâm lược mà còn làm tăng cường uy tín và ảnh hưởng của Liên Xô
trong phong trào công nhân và nhân dân lao động toàn cầu. Sự giúp đỡ của Liên Xô đã giúp nhiều quốc
gia Đông Âu thiết lập các chế độ xã hội chủ nghĩa, mở ra một hệ thống quốc tế mới với sự hiện diện
mạnh mẽ của chủ nghĩa xã hội. Phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân và các phong trào giải phóng
dân tộc ở các quốc gia thuộc địa trên toàn thế giới cũng phát triển mạnh mẽ, làm lung lay nền tảng của hệ
thống thuộc địa. Trong nước, Cách mạng tháng Tám đã mang lại cho nhân dân Việt Nam một thế lực mới
với việc nước Việt Nam trở thành một quốc gia độc lập. Nhân dân từ thân phận nô lệ đã trở thành người
làm chủ đất nước, với quyết tâm giữ vững nền độc lập vừa mới giành được. Chính quyền dân chủ nhân
dân được thiết lập, và Đảng Cộng sản Việt Nam từ một tổ chức hoạt động bí mật đã trở thành Đảng cầm
quyền. Uy tín lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh ngày càng được củng cố, tạo tiền đề vững
chắc cho công cuộc xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng.
Tuy nhiên, bối cảnh quốc tế và trong nước cũng đầy rẫy những khó khăn. Việt Nam nằm trong vòng vây
của chủ nghĩa đế quốc, bị bao vây hoàn toàn về mặt ngoại giao và quân sự. Các thế lực đế quốc nuôi
dưỡng âm mưu chia lại hệ thống thuộc địa thế giới, tấn công và đàn áp các phong trào cách mạng, trong
đó có cách mạng Việt Nam. Các nước lớn không ủng hộ lập trường độc lập và công nhận địa vị pháp lý
của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Cách mạng Việt Nam và các nước Đông Dương đối mặt với
nhiều bất lợi, khó khăn và thử thách nghiêm trọng.
Bên trong đất nước, hệ thống chính quyền cách mạng mới thiết lập còn non trẻ, thiếu thốn và yếu kém về
nhiều mặt. Hậu quả của chế độ cũ để lại là rất nặng nề: kinh tế xơ xác, công nghiệp đình đốn, nông nghiệp
bị hoang hóa với 50% ruộng đất bị bỏ hoang, ngân khố kiệt quệ, kho bạc trống rỗng. Thêm vào đó là hủ
tục lạc hậu, thói hư, tật xấu xã hội chưa được khắc phục, với 95% dân số thất học và mù chữ. Nạn đói đã
khiến khoảng 2 triệu người dân chết đói. Trong tình hình này, thù trong giặc ngoài cùng lúc xuất hiện:
quân Pháp gây hấn và tấn công vào Sài Gòn-Chợ Lớn, trong khi quân đội Tưởng Giới Thạch tràn vào Bắc
Việt, tạo ra một tình thế “như ngàn cân treo sợi tóc” cho Tổ quốc.
Trong bối cảnh khó khăn và thử thách nêu trên, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo cuộc đấu tranh
ngoại giao với những mục tiêu và nhiệm vụ rõ ràng. Mục tiêu chính của cuộc đấu tranh ngoại giao là giữ
vững độc lập dân tộc, củng cố chính quyền cách mạng và cải thiện đời sống nhân dân. Đảng đã xác định
nhiệm vụ cấp bách là phải củng cố chính quyền mới thành lập, chống lại các thế lực thực dân, bài trừ nội
phản và cải thiện đời sống cho nhân dân.
Nhiệm vụ cụ thể bao gồm: nhanh chóng tổ chức bầu cử Quốc hội để thành lập chính phủ chính thức, lập
ra hiến pháp và động viên toàn dân chuẩn bị cho kháng chiến lâu dài. Đảng kiên định nguyên tắc độc lập
về chính trị, chú trọng làm cho nước mình ít kẻ thù và nhiều bạn đồng minh hơn. Đối với quân đội Tưởng lOMoAR cPSD| 59735610
Giới Thạch, chủ trương “Hoa - Việt thân thiện” được đề ra, trong khi với Pháp, chính sách “Độc lập về
chính trị, nhân nhượng về kinh tế” được áp dụng. Về mặt tuyên truyền, Đảng đã kêu gọi đoàn kết chống
lại chủ nghĩa thực dân Pháp và chống các mưu mô phá hoại của các nhóm đối kháng trong nước.
Cuộc đấu tranh ngoại giao trong giai đoạn này cũng bao gồm các biện pháp giải quyết các vấn đề cấp
bách như nạn đói, nạn dốt và giặc ngoại xâm. Để giải quyết nạn đói, Chính phủ đã triển khai nhiều biện
pháp cấp thời như tổ chức quyên góp, điều hòa thóc gạo, lập “Hũ gạo cứu đói” và kêu gọi nhân dân
“nhường cơm sẻ áo”. Phong trào thi đua tăng gia sản xuất đã được phát động trên toàn quốc, với khẩu
hiệu “Tấc đất tấc vàng” và “Không một tấc đất bỏ hoang”. Chính quyền đã thực hiện các biện pháp giảm
tô thuế, chia lại ruộng đất công, và bãi bỏ thuế thân để giúp nông dân.
Để giải quyết nạn dốt, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh thành lập Nha Bình dân học vụ và kêu gọi toàn
dân tham gia phong trào xóa mù chữ. Các trường học đã được mở rộng nhằm đào tạo công nhân và cán
bộ trung thành với Tổ quốc.
Về vấn đề giặc ngoại xâm, Đảng đã áp dụng sách lược linh hoạt trong quan hệ với các thế lực xâm lược.
Đối với quân Pháp, Đảng thực hiện chính sách hòa hoãn nhằm tránh phải đối đầu cùng lúc với nhiều kẻ
thù. Đồng thời, chính sách hòa hoãn với quân Tưởng đã tạo điều kiện để tập trung lực lượng chống Pháp,
phá vỡ âm mưu của các thế lực xâm lược nhằm lật đổ chính quyền cách mạng. Đặc biệt, việc hòa hoãn
với Tưởng đã giúp tách biệt quân đội Tưởng và Pháp, đồng thời tạo thời gian quý báu để xây dựng và củng cố chính quyền.
Việc hòa với Tưởng là hòa với một kẻ thù trực tiếp nguy hiểm, nhưng không phải kẻ thù chính để phân
hóa, cô lập, tập trung lực lượng đấu tranh bằng biện pháp quân sự chống kẻ thù chính. Còn hòa với Pháp
là hòa ngay với kẻ thù chính để loại bớt một kẻ thù trực tiếp nguy hiểm và tranh thủ trạng thái không có
chiến tranh để xây dựng đất nước, chuẩn bị lực lượng đối phó với một cuộc chiến tranh lớn nếu kẻ thù cố
tình gây ra. Đó là một điều khá đặc biệt được đặt ra và giải quyết trong một hoàn cảnh lịch sử đặc biệt.
Như vậy, trong vòng 16 tháng (từ tháng 9/1945 đến tháng 12/1946), một trong những thành công nổi bật
của Đảng ta góp phần bảo vệ chính quyền và thành quả cách mạng là đã triệt để lợi dụng mâu thuẫn trong
hàng ngũ kẻ thù. Thành công của sự vận dụng sách lược lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù thời
kỳ này bắt nguồn từ sự nhạy bén trong tư duy chính trị của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, chính quyền cách mạng đã đạt được nhiều kết quả quan
trọng trong việc giữ vững độc lập và ổn định chính trị, khắc phục nạn đói và nạn dốt, đồng thời chiến
thắng trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.
Trước hết, chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã thành công trong việc duy trì sự ổn định chính trị
và độc lập quốc gia trong hoàn cảnh đầy khó khăn. Chính sách đối ngoại linh hoạt, đặc biệt là việc khéo
léo sử dụng chiến lược hòa hoãn với các thế lực xâm lược, đã giúp bảo vệ và củng cố chính quyền cách
mạng. Đồng thời, việc triển khai các biện pháp cấp bách để giải quyết nạn đói và nạn dốt, như các chiến
dịch tăng gia sản xuất và xóa mù chữ, đã tạo điều kiện cải thiện đời sống nhân dân và xây dựng nền tảng
cho sự phát triển bền vững trong dài hạn.
Trong khi đó, thời kỳ trước Cách mạng tháng Tám, Việt Nam vẫn là một thuộc địa của thực dân Pháp, và
quyền lực chính trị hoàn toàn thuộc về các thế lực ngoại bang. Chính quyền thuộc địa không thể giải
quyết triệt để các vấn đề xã hội như nạn đói, nạn dốt, các phong trào đấu tranh thường thiếu tổ chức và
đồng bộ, dẫn đến nhiều thất bại. Tuy nhiên, dưới sự lãnh đạo của Đảng sau Cách mạng, phong trào kháng
chiến được tổ chức bài bản hơn với chiến lược rõ ràng và hiệu quả. Điều này đã dẫn đến chiến thắng lOMoAR cPSD| 59735610
trong các cuộc đấu tranh ngoại giao và quân sự quan trọng, chẳng hạn như Hiệp định Genève năm 1954,
công nhận quyền độc lập của Việt Nam và chấm dứt sự hiện diện quân sự của Pháp ở Đông Dương.
Cuộc đấu tranh ngoại giao dưới sự lãnh đạo của Đảng trong giai đoạn đầu sau Cách mạng tháng Tám đã
để lại nhiều bài học kinh nghiệm quan trọng.
Trước tiên, bài học quan trọng là sự chủ động và nhạy bén trong việc phân tích tình hình và xác định thời
cơ cách mạng, đồng thời linh hoạt điều chỉnh chính sách đối ngoại nhằm bảo vệ và củng cố chính quyền.
Thứ hai, việc thực hiện chính sách hòa hoãn với kẻ thù không phải là sự nhượng bộ đơn thuần mà là một
chiến lược được tính toán kỹ lưỡng, nhằm tách biệt và phân hóa các thế lực xâm lược, từ đó tạo điều kiện
thuận lợi để chuẩn bị cho các cuộc chiến đấu sau này. Cuối cùng, trong bối cảnh hiện tại, việc liên tục
đánh giá, rút kinh nghiệm và điều chỉnh các chính sách là cần thiết để đối phó với các thách thức mới và
không ngừng nâng cao hiệu quả quản lý. Những bài học này vẫn còn giá trị trong công cuộc xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc hiện nay, đặc biệt trong việc ứng phó với các thách thức toàn cầu và củng cố nền tảng quốc gia.
ĐƯỜNG LỐI “CHIẾN TRANH NHÂN DÂN” CỦA ĐẢNG TRONG CUỘC
KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP 1945-1954 VÀ BÀI HỌC RÚT RA CHO SỰ
LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
Giai đoạn đầu sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, Việt Nam đứng trước một bối cảnh đặc biệt và đầy
thách thức. Mặc dù trước đó đã có một truyền thống yêu nước mạnh mẽ, với hàng trăm cuộc khởi nghĩa
và phong trào chống thực dân Pháp như Cần Vương, Đông Du, Đông Kinh nghĩa thục, hay các cuộc khởi
nghĩa của Trương Công Định, Phan Đình Phùng, và Hoàng Hoa Thám, nhưng những phong trào này đều
không thành công. Nguyên nhân chính dẫn đến thất bại của các phong trào này là do thiếu một đường lối
cách mạng khoa học và phù hợp với nhu cầu phát triển của xã hội Việt Nam. Các cuộc khởi nghĩa tuy
dũng cảm nhưng thiếu sự tổ chức và chỉ đạo chung, không thể khai thác hết tiềm lực của đất nước.
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam vào năm 1930 đã đánh dấu bước chuyển mình quan trọng. Đảng
đã rút ra bài học từ các giai đoạn trước và nhận thức rõ ràng rằng để đạt được thắng lợi, cần phải có một
đường lối cách mạng triệt để, khoa học và nhất quán. Đảng nhận thấy sự cần thiết phải không chỉ chiến
thắng trên mặt trận quân sự mà còn phải đấu tranh trên các mặt trận chính trị, kinh tế, văn hóa và giáo
dục. Đồng thời, Đảng đã chỉ ra rằng cần phải chuẩn bị lực lượng vũ trang một cách chu đáo, xây dựng
nền tảng vững chắc cho sự đấu tranh lâu dài. Điều này thể hiện rõ qua các chiến lược và phương pháp của
Đảng trong những năm tiếp theo.
Trong giai đoạn từ 1945 đến 1954, Đảng Cộng sản Việt Nam đã áp dụng một cách triệt để những bài học
rút ra từ các giai đoạn trước, đồng thời phát triển một chiến lược chuẩn bị toàn diện, trường kỳ, và tự lực
cánh sinh cho cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Đảng đã huy động toàn dân tham gia kháng chiến,
từ quân đội đến các đoàn thể quần chúng, hình thành một mặt trận thống nhất. Sự chuẩn bị toàn diện được
thể hiện qua việc xây dựng lực lượng vũ trang ba thứ quân: bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, và dân
quân du kích. Đồng thời, Đảng chú trọng đến việc trang bị và duy trì các cơ sở vật chất cần thiết cho cuộc
chiến. Đảng đã áp dụng chiến lược tự lực cánh sinh, dựa vào sức lực và tài nguyên nội tại của đất nước để
xây dựng lực lượng kháng chiến mà không phụ thuộc vào sự hỗ trợ bên ngoài. Chiến lược trường kỳ cũng
được thực hiện thông qua việc chuẩn bị lâu dài, tổ chức các chiến dịch quân sự và chính trị liên tục, và
xây dựng các căn cứ địa vững chắc. Những chuẩn bị này đã dẫn đến thành công của chiến dịch Điện Biên
Phủ và kết thúc cuộc kháng chiến chống Pháp vào năm 1954. lOMoAR cPSD| 59735610
Các phương pháp chiến đấu của Đảng không chỉ tập trung vào quân sự mà còn mở rộng ra các lĩnh vực
chính trị, kinh tế, văn hóa và ngoại giao. Đặc biệt, Đảng đã áp dụng chiến lược “Chiến tranh nhân dân”,
một phương pháp khác biệt so với các cuộc cách mạng truyền thống. Chiến tranh nhân dân không chỉ dựa
vào sức mạnh quân sự mà còn huy động sức mạnh tổng hợp của toàn dân, kết hợp với chiến tranh địa
phương và chiến tranh bằng các binh đoàn chủ lực cơ động. Đảng đã xây dựng lực lượng vũ trang ba thứ
quân: bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân du kích, đồng thời kết hợp chiến tranh nhân dân địa
phương với chiến tranh bằng các binh đoàn chủ lực để thực hiện các chiến dịch quy mô lớn.
Tuy nhiên, giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến cũng gặp nhiều khó khăn. So sánh lực lượng giữa ta và
Pháp là rất chênh lệch, và Pháp có âm mưu “đánh nhanh, thắng nhanh”. Đảng đã chọn cách đánh du kích,
lâu dài để chống lại sự xâm lược, mặc dù trong những ngày đầu cuộc chiến, Việt Nam chưa nhận được sự
ủng hộ quốc tế. Đảng vẫn quyết tâm tự lực cánh sinh, tranh thủ sự ủng hộ của quốc tế khi có cơ hội để kết
thúc cuộc kháng chiến sớm hơn.
Kết quả của những chiến lược và phương pháp này đã đạt được những thành công to lớn. Trong đông –
xuân 1953-1954, quân đội Việt Nam đã loại khỏi vòng chiến đấu 128.200 quân địch, thu 19.000 súng, bắn
rơi và phá hủy 162 máy bay, và giải phóng nhiều vùng rộng lớn trong cả nước. Chiến dịch Điện Biên Phủ
đã loại khỏi vòng chiến đấu 16.200 địch, bắn rơi và phá hủy 62 máy bay, thu toàn bộ vũ khí và đồ dùng
quân sự. Thắng lợi của cuộc tiến công Đông – Xuân 1953-1954 và Chiến dịch Điện Biên Phủ đã đập tan
hoàn toàn kế hoạch Nava, giáng đòn quyết định vào ý chí xâm lược của thực dân Pháp và tạo cơ sở thực
lực về quân sự cho cuộc đấu tranh ngoại giao tại Hội nghị Genève, kết thúc cuộc kháng chiến.
Trước khi Đảng Cộng sản Việt Nam áp dụng đường lối "Chiến tranh nhân dân," các phong trào yêu nước
và kháng chiến, dù rất anh dũng, đã không đạt được thắng lợi quyết định. Các cuộc khởi nghĩa từ thời kỳ
trước 1930 như Cần Vương, Đông Du, và các khởi nghĩa của Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, không
thành công chủ yếu vì thiếu một đường lối chiến đấu khoa học và đồng bộ. Những phong trào này gặp
khó khăn vì không có sự chỉ đạo thống nhất và thiếu sự kết hợp giữa các mặt trận quân sự, chính trị, và xã
hội. Điều này dẫn đến việc không thể khai thác hết tiềm lực của quốc gia và nhân dân.
Giai đoạn hiện nay, bài học từ cuộc kháng chiến chống Pháp vẫn có giá trị quan trọng trong cả lĩnh vực
kinh tế và quốc phòng. Trong lĩnh vực quốc phòng, bài học từ cuộc chiến tranh biên giới Việt – Trung
1979-1988 cho thấy việc tự lực cánh sinh và không tin vào bất kỳ cường quốc nào là rất cần thiết. Cuộc
chiến này đã để lại những hậu quả nặng nề và bài học quan trọng về sự cần thiết phải phát triển sức mạnh
quốc phòng và duy trì sự trung lập, không phụ thuộc vào bất kỳ cường quốc nào. Trong lĩnh vực kinh tế,
bài học từ giai đoạn hiện nay nhấn mạnh sự phát triển nhanh và bền vững phải dựa vào sự phát triển khoa
học và công nghệ. Cố Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đã chỉ ra rằng đất nước cần phải tập trung vào ba
đột phá chiến lược về thể chế, nguồn nhân lực và kết cấu hạ tầng. Đặc biệt, việc phát triển con người là
ưu tiên hàng đầu, với việc tạo ra thế hệ công nhân giai đoạn mới và thu hút hiệu quả các nguồn lực. Chính
sách phát triển kinh tế nhanh và bền vững cần phải được quán triệt trong toàn bộ tư duy chính sách, gắn
với đổi mới mô hình tăng trưởng và nâng cao sức cạnh tranh.
Sự phát triển đường lối của Đảng trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước
(1954-1975) và giá trị của những bài học rút ra cho sự lãnh đạo của Đảng hiện nay.
Sự phát triển trong đường lối lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam từ năm 1954 đến 1975 được hình
thành từ bối cảnh lịch sử và những thách thức chiến tranh đặc thù của đất nước. Sau chiến thắng Điện
Biên Phủ và Hiệp định Geneva năm 1954, đất nước bị chia cắt thành hai miền Nam-Bắc, mỗi miền có lOMoAR cPSD| 59735610
chính quyền và cơ chế chính trị riêng. Miền Bắc bắt đầu xây dựng nền tảng xã hội chủ nghĩa trong khi
miền Nam do chính quyền tay sai của Mỹ kiểm soát. Trong bối cảnh đó, nhiệm vụ của Đảng là phải dẫn
dắt cuộc kháng chiến chống Mỹ và xây dựng xã hội chủ nghĩa, đòi hỏi sự linh hoạt, sáng tạo trong đường lối lãnh đạo.
Mỹ ngày càng gia tăng sự can thiệp vào miền Nam Việt Nam, kéo dài cuộc chiến tranh và mở rộng quy
mô xâm lược. Điều này đòi hỏi Đảng phải liên tục điều chỉnh chiến lược lãnh đạo để đáp ứng tình hình
thực tiễn. Cùng với đó, những bài học kinh nghiệm từ cuộc kháng chiến chống Pháp, sự phát triển của
phong trào cộng sản quốc tế, và sự trợ giúp từ các nước xã hội chủ nghĩa đã tạo tiền đề cho Đảng phát
triển những chính sách mới, sáng tạo, hiệu quả trong việc lãnh đạo cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
1954-1965 là giai đoạn xây dựng miền Bắc, chi viện miền Nam. Sau khi Hiệp định Geneva ký kết đã tạo
ra một cục diện mới cho đất nước. Miền Bắc dần đi vào giai đoạn xây dựng và phát triển kinh tế xã hội
chủ nghĩa, trong khi đó miền Nam vẫn chìm trong sự kiểm soát của Mỹ và chính quyền tay sai. Trong
thời gian này, thách thức lớn nhất của Đảng là xây dựng một miền Bắc ổn định, phát triển vững mạnh để
làm hậu phương vững chắc chi viện cho miền Nam. Đường lối chính trị tập trung vào củng cố khối đại
đoàn kết toàn dân, phát triển kinh tế quốc dân, đặc biệt là cải cách ruộng đất và phát triển công nghiệp
quốc phòng. Mặt khác, Đảng cũng thúc đẩy các hoạt động chiến tranh du kích ở miền Nam để làm suy
yếu lực lượng địch. Về mặt chính trị, Đảng tập trung vào việc củng cố chế độ xã hội chủ nghĩa ở miền
Bắc, đưa ra những chính sách nhằm phát triển kinh tế và xã hội, cải cách ruộng đất, quốc hữu hóa các
ngành công nghiệp quan trọng. Về mặt quân sự, Đảng vẫn duy trì chiến tranh du kích ở miền Nam để tiêu
hao lực lượng địch và chuẩn bị cho những cuộc tổng tiến công sau này. Kết quả đạt được là miền Bắc dần
dần phát triển ổn định, trở thành hậu phương vững mạnh cho cuộc kháng chiến miền Nam. Giai đoạn
Tăng Cường và Mở Rộng (1960-1964) là giai đoạn Đảng chú trọng vào việc củng cố và mở rộng lực
lượng kháng chiến ở miền Nam, đồng thời nâng cao năng lực quốc phòng của miền Bắc. Thách thức lớn
nhất là làm sao vừa giữ vững sự ổn định của miền Bắc vừa tiếp tục đẩy mạnh phong trào kháng chiến ở
miền Nam. Về mặt quân sự, Đảng chỉ đạo các cuộc chiến tranh du kích quy mô lớn hơn, đồng thời xây
dựng các căn cứ địa vững chắc ở miền Nam.
Từ năm 1965, với sự leo thang chiến tranh của Mỹ, Đảng Cộng sản Việt Nam đã tập trung toàn bộ sức
mạnh để lãnh đạo cuộc kháng chiến chống Mỹ. Đường lối lãnh đạo lúc này bao gồm chiến tranh nhân
dân, kết hợp giữa chiến tranh du kích và chiến tranh chính quy. Miền Bắc tiếp tục chi viện cho miền Nam
cả về nhân lực lẫn vật lực. Mặt trận ngoại giao cũng được Đảng tận dụng, tranh thủ sự ủng hộ quốc tế và
cô lập Mỹ trên trường quốc tế. Ở giai đoạn 1965-1975, kết quả lớn nhất là Đảng đã lãnh đạo nhân dân
Việt Nam đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ. Với chiến thắng quyết định trong chiến dịch Mậu
Thân 1968 và sau đó là chiến dịch Hồ Chí Minh năm 1975, Đảng đã đưa đất nước đến ngày toàn thắng, thống nhất lãnh thổ.
Về chính trị, giai đoạn 1954-1965 Đảng Cộng sản Việt Nam đã ưu tiên củng cố nền tảng chính trị nội bộ
và tổ chức xã hội, xây dựng một khối đoàn kết vững chắc để đối phó với các thách thức của thời kỳ đầu
hòa bình và chuẩn bị cho cuộc chiến đấu sắp tới. Tuy nhiên, đến giai đoạn 1965-1975, nhận thức chính trị
của Đảng đã có sự phát triển mạnh mẽ và sâu rộng hơn. Đảng chuyển từ chiến tranh du kích sang chiến
tranh toàn diện với sự mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất, tích cực tập hợp nhiều lực lượng xã hội và
chú trọng đến các mặt chính trị, ngoại giao và văn hóa. Đảng đã linh hoạt điều chỉnh đường lối để phù
hợp với tình hình chiến tranh, tạo ra những chiến lược hiệu quả, qua đó giúp đẩy mạnh cuộc kháng chiến
và đưa ra những quyết sách đúng đắn, kịp thời.
Nhận thức quân sự của Đảng trong giai đoạn 1954-1965 tập trung chủ yếu vào chiến tranh du kích. Các
hoạt động quân sự chủ yếu nhỏ lẻ và phân tán, phù hợp với điều kiện thời kỳ đầu của cuộc kháng chiến. lOMoAR cPSD| 59735610
Tuy nhiên, giai đoạn 1965-1975 đánh dấu sự chuyển mình quan trọng trong nhận thức quân sự của Đảng.
Đảng đã điều chỉnh chiến lược từ chiến tranh du kích sang chiến tranh vận động lớn, kết hợp chiến tranh
du kích với chiến tranh chính quy. Sự sáng tạo trong các chiến dịch lớn như Tết Mậu Thân 1968 và
XuânHè 1972 đã nâng cao hiệu quả chiến đấu, tạo ra sức mạnh tổng hợp để đối phó với kẻ thù. Điều này
không chỉ phản ánh sự thay đổi trong chiến lược quân sự mà còn cho thấy sự linh hoạt và sáng tạo trong
việc áp dụng các hình thức chiến tranh.
Về ngoại giao, giai đoạn 1954-1965 Đảng tập trung chủ yếu vào việc thiết lập và duy trì quan hệ với các
nước xã hội chủ nghĩa. Mặc dù đã đạt được một số thành tựu trong việc củng cố liên minh quốc tế, quan
hệ ngoại giao vẫn còn hạn chế và chưa đủ đa dạng. Đến giai đoạn 1965-1975, Đảng đã mở rộng quan hệ
ngoại giao một cách chủ động và sâu rộng hơn. Không chỉ tập trung vào các nước xã hội chủ nghĩa, Đảng
đã mở rộng quan hệ với các nước đang phát triển, các nước trung lập và một số nước tư bản có quan hệ
đối lập với Mỹ. Đảng đã tăng cường hợp tác toàn diện trên nhiều lĩnh vực như kinh tế, quân sự, văn hóa,
và khoa học kỹ thuật. Đồng thời, việc tố cáo tội ác chiến tranh của Mỹ và xây dựng mặt trận đoàn kết
quốc tế đã tạo ra sự ủng hộ mạnh mẽ từ cộng đồng quốc tế, giúp củng cố vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
Nhận thức về văn hóa và xã hội trong giai đoạn 1954-1965 chủ yếu tập trung vào việc xây dựng nền tảng
văn hóa xã hội phù hợp với mục tiêu cách mạng. Đảng đã chú trọng nâng cao nhận thức chính trị và tư
tưởng trong nhân dân. Tuy nhiên, trong giai đoạn 1965-1975, nhận thức về văn hóa và xã hội đã phát triển
sâu rộng hơn. Văn hóa trở thành công cụ quan trọng trong cuộc kháng chiến, phục vụ tuyên truyền và
động viên tinh thần chiến đấu. Mô hình giáo dục kết hợp sản xuất cũng được đẩy mạnh, giúp học sinh vừa
học vừa làm và đóng góp vào công cuộc kháng chiến, qua đó thể hiện sự kết hợp giữa giáo dục và sản
xuất trong bối cảnh chiến tranh.
Giai đoạn 1954-1965, nhận thức về kinh tế của Đảng chủ yếu tập trung vào việc xây dựng nền tảng kinh
tế cơ bản và chuẩn bị nguồn lực cho cuộc kháng chiến. Đảng đã chú trọng vào việc phát triển cơ sở hạ
tầng và tăng cường năng lực sản xuất. Đến giai đoạn 1965-1975, nhận thức kinh tế của Đảng đã chuyển
hướng rõ rệt để phục vụ trực tiếp cho chiến tranh. Đảng ưu tiên phát triển công nghiệp quốc phòng và
nông nghiệp để phục vụ cho hậu phương. Vai trò của khu vực hợp tác xã cũng được nâng cao, đóng vai
trò quan trọng trong việc huy động sức người và sức của phục vụ cho kháng chiến.
So với giai đoạn 1954-1965, giai đoạn 1965-1975 đã chứng tỏ sự phát triển vượt bậc về quy mô, mục tiêu,
chiến lược và kết quả. Trong khi giai đoạn đầu tập trung vào xây dựng và củng cố nền tảng, giai đoạn sau
đã đạt được thắng lợi quyết định và thống nhất đất nước, thể hiện rõ sự phát triển và hoàn thiện trong
đường lối lãnh đạo của Đảng.
Các bài học rút ra từ sự phát triển đường lối lãnh đạo của Đảng trong các giai đoạn lịch sử quan trọng như
1954-1965 và 1965-1975 có ý nghĩa sâu sắc và giá trị thiết thực cho sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam hiện nay. Trước hết, một bài học quan trọng là sự lãnh đạo đúng đắn và sáng suốt. Đối với Đảng
hiện nay, việc tiếp tục duy trì sự lãnh đạo đúng đắn, linh hoạt trong việc điều chỉnh chính sách và chiến
lược theo tình hình mới là vô cùng quan trọng để đáp ứng các thách thức và cơ hội trong giai đoạn phát
triển hiện nay. Thứ hai, kinh nghiệm về sự đoàn kết và thống nhất là bài học không thể bỏ qua. Đối với
hiện tại, việc tăng cường sự đoàn kết nội bộ trong Đảng và sự kết nối với nhân dân là yếu tố cần thiết để
đạt được các mục tiêu quốc gia và duy trì ổn định xã hội. Thứ ba, việc kết hợp giữa các yếu tố quân sự,
chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội là một bài học quan trọng khác. Trong bối cảnh hiện nay, việc thực
hiện công tác tự phê bình một cách nghiêm túc, cải cách và đổi mới thường xuyên là cần thiết để nâng cao
chất lượng quản lý và đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước. lOMoAR cPSD| 59735610
Phân tích, làm rõ sự phát triển trong nhận thức của Đảng được thể hiện trong
nội dung Hiệp định Paris. Từ đó, rút ra bài học kinh nghiệm cho sự lãnh đạo
của Đảng trong những giai đoạn sau.
Hiệp định Paris, được ký kết vào ngày 27 tháng 1 năm 1973 tại Paris (Pháp), đánh dấu một bước ngoặt
quan trọng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ của Việt Nam. Hiệp định Paris, được ký kết vào ngày 27
tháng 1 năm 1973 tại Paris, Pháp, đánh dấu một cột mốc quan trọng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ
của Việt Nam. Nguyên nhân chính dẫn đến việc ký kết hiệp định này là tình hình chiến tranh kéo dài và
sự can thiệp ngày càng gia tăng của Mỹ tại Việt Nam. Đối với Đảng Cộng sản Việt Nam, ký kết Hiệp định
Paris là cơ hội để giảm bớt sự can thiệp quân sự của Mỹ, tạo điều kiện thuận lợi cho việc củng cố và phát
triển lực lượng kháng chiến, cũng như mở đường cho giải pháp hòa bình. Đối với Việt Nam, Hiệp định
Paris là thắng lợi tổng hợp của cuộc đấu tranh trên các mặt trận quân sự, chính trị và ngoại giao; là đỉnh
cao thắng lợi của mặt trận ngoại giao nước ta thời kỳ chống Mỹ, cứu nước; đánh dấu bước trưởng thành
tột bậc của nền ngoại giao cách mạng thời đại Hồ Chí Minh.
Sau khi Hiệp định Paris được ký kết, quá trình thực hiện hiệp định diễn ra qua ba giai đoạn chính. Giai
đoạn đầu, từ tháng 1 đến tháng 3 năm 1973, Mỹ bắt đầu thực hiện cam kết rút toàn bộ quân đội khỏi miền
Nam Việt Nam trong vòng 60 ngày, chấm dứt các cuộc không kích vào miền Bắc và tháo gỡ mìn. Tuy
nhiên, trong giai đoạn này gặp khó khăn do sự cản trở và sự thiếu hợp tác từ chính quyền miền Nam và
các lực lượng chính trị tại chỗ. Giai đoạn thứ hai, từ năm 1973 đến 1974, tình hình quân sự tại miền Nam
tiếp tục căng thẳng với các cuộc đụng độ và xung đột. Trong khi các bên vẫn phải tuân thủ các cam kết
của hiệp định về ngừng bắn và rút quân, các hoạt động quân sự từ cả hai phía không ngừng diễn ra, ảnh
hưởng đến tiến trình hòa bình. Giai đoạn này chứng kiến sự chuẩn bị của Đảng Cộng sản Việt Nam cho
các chiến dịch quân sự quy mô lớn nhằm thúc đẩy mục tiêu thống nhất đất nước. Giai đoạn cuối, từ năm
1975, với việc Đảng Cộng sản Việt Nam thực hiện các chiến dịch quân sự quyết định, như chiến dịch Hồ
Chí Minh, đã dẫn đến việc giải phóng miền Nam và thống nhất đất nước vào ngày 30/4/1975. Sự kiện này
đánh dấu sự thành công của các mục tiêu chính trị và quân sự của Hiệp định Paris, đồng thời hoàn tất các
cam kết để đưa Việt Nam tiến tới hòa bình và thống nhất.
Sự nhận thức sâu sắc của Đảng Cộng sản Việt Nam thể hiện rõ qua việc ký kết Hiệp định Paris. Về mặt
kinh tế, Đảng hiểu rằng việc chấm dứt xung đột và khôi phục hòa bình là cần thiết để tập trung vào phát
triển kinh tế. Về chính trị, Đảng nhận thức được tầm quan trọng của việc xây dựng một nền hòa bình bền
vững và sự cần thiết phải đối phó với các lực lượng chính trị ở miền Nam một cách khôn khéo. Về xã hội,
Đảng thấy rõ sự cần thiết phải bảo đảm hòa hợp dân tộc và quyền tự quyết của nhân dân miền Nam, điều
này góp phần vào việc duy trì ổn định xã hội và hòa bình. Về ngoại giao, Hiệp định Paris cho thấy Đảng
đã khôn khéo sử dụng các mối quan hệ quốc tế để đạt được những mục tiêu quan trọng trong cuộc kháng
chiến. Về quân sự, trên chiến trường, Hiệp định Paris đã mở đường, tạo nên bước chuyển chiến lược, tạo
ra thế mạnh mới: Ta đã giành được quyền chủ động trên khắp các chiến trường, trừng trị các cuộc hành
quân lấn chiếm của địch, giành lại dân và những vùng bị mất, mở rộng vùng giải phóng của ta; Đã củng
cố và hoàn chỉnh thế chiến lược liên hoàn từ Bắc vào Nam, từ rừng núi Trị - Thiên đến Tây Nguyên, miền
Đông Nam Bộ và đồng bằng sông Cửu Long; Đã xây dựng và tăng cường các binh đoàn chủ lực cơ động
ở vùng rừng núi; tập trung được nguồn dự trữ chiến lược trên những địa bàn quan trọng; Đã cải thiện
được tình hình nông thôn - đồng bằng, tạo các bàn đạp ở vùng phụ cận thành thị lớn; Đã phát động được
phong trào đấu tranh chính trị dưới khẩu hiệu hòa bình, độc lập, hòa hợp dân tộc.
Khi xem xét hai hiệp định quan trọng trong lịch sử Việt Nam, Hiệp định Genève (21/07/1954) và Hiệp
định Paris (27/01/1973), chúng ta có thể nhận thấy rõ sự phát triển trong nhận thức lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam qua các giai đoạn lịch sử khác nhau. lOMoAR cPSD| 59735610
Các điều khoản của Hiệp định Genève chủ yếu tập trung vào việc thiết lập ngừng bắn và phân chia quân
đội, cùng với việc thực hiện chuyển giao quân đội và quản lý hành chính tạm thời. Bản hiệp định này
không bao gồm các điều khoản chi tiết về tổ chức tổng tuyển cử hoặc giải quyết vấn đề thống nhất Việt
Nam, điều này phản ánh sự nhận thức hạn chế của Đảng về khả năng thực hiện các cam kết trong bối
cảnh của thời kỳ đầu sau chiến tranh. Trong khi đó, Hiệp định Paris thể hiện một bước phát triển rõ rệt
trong nhận thức chính trị của Đảng. Hiệp định này không chỉ bao gồm các điều khoản về việc Mỹ rút toàn
bộ quân đội trong vòng 60 ngày và chấm dứt các cuộc không kích vào miền Bắc mà còn có các điều
khoản cụ thể về quyền tự quyết của nhân dân miền Nam Việt Nam và tổ chức tổng tuyển cử tự do. Điều
này cho thấy Đảng đã nhận thức sâu sắc hơn về tầm quan trọng của việc xây dựng nền hòa bình bền vững
và đảm bảo quyền dân tộc cơ bản trong bối cảnh cuộc kháng chiến kéo dài và phức tạp hơn. Các điều
khoản chính trị trong Hiệp định Paris không chỉ tập trung vào việc chấm dứt chiến tranh mà còn bao gồm
việc thiết lập các cơ chế hòa giải và hòa hợp dân tộc, điều này phản ánh sự trưởng thành trong tư duy lãnh đạo của Đảng.
Về mặt quân sự, Hiệp định Genève quy định việc ngừng bắn và phân chia quân đội tại vĩ tuyến 17, yêu
cầu các bên tham chiến thực hiện việc chuyển giao quân đội và quản lý hành chính tạm thời. Tuy nhiên,
hiệp định này không có các điều khoản chi tiết về việc giải quyết các vấn đề quân sự sau chiến tranh, và
không đề cập đến việc loại bỏ mìn hay tái xây dựng cơ sở hạ tầng quân sự. Ngược lại, Hiệp định Paris có
các điều khoản cụ thể hơn về quân sự. Mỹ cam kết rút toàn bộ quân đội trong vòng 60 ngày và chấm dứt
các cuộc không kích vào miền Bắc, đồng thời tháo gỡ mìn mà Mỹ đã rải. Điều này cho thấy Đảng đã
nhận thức sâu sắc về tầm quan trọng của việc giải quyết các vấn đề quân sự cụ thể và thực hiện các bước
đi cần thiết để giảm thiểu hậu quả chiến tranh. Việc cam kết tháo gỡ mìn và dừng bắn không chỉ nhằm
giảm thiểu tổn thất mà còn hỗ trợ việc khôi phục các hoạt động kinh tế và xã hội sau chiến tranh.
Về các điều khoản nội bộ miền Nam, Hiệp định Genève không có các điều khoản chi tiết về tổ chức tổng
tuyển cử hoặc cơ chế hòa hợp dân tộc tại miền Nam. Điều này phản ánh sự nhận thức hạn chế về việc cần
thiết phải có các cơ chế hòa giải chính trị và xã hội để đạt được sự ổn định lâu dài. Ngược lại, Hiệp định
Paris bao gồm các điều khoản cụ thể về nguyên tắc hòa hợp dân tộc, tự do dân chủ, và tổ chức tổng tuyển
cử tự do. Hiệp định này cũng đề ra việc thành lập Hội đồng Quốc gia Hòa giải, Hòa hợp Dân tộc gồm ba
thành phần để tổ chức tổng tuyển cử. Điều này cho thấy Đảng đã phát triển nhận thức sâu sắc hơn về tầm
quan trọng của việc thiết lập một cơ chế hòa giải và hòa hợp dân tộc để đảm bảo sự ổn định và hòa bình lâu dài.
Cuối cùng, về chính sách ngoại giao, Hiệp định Genève không đề cập nhiều đến các vấn đề ngoại giao
ngoài việc cam kết tôn trọng độc lập và toàn vẹn lãnh thổ của các quốc gia Đông Dương và việc ngừng
can thiệp vào công việc nội bộ. Ngược lại, Hiệp định Paris thể hiện sự phát triển rõ rệt trong nhận thức
ngoại giao của Đảng. Hiệp định này không chỉ có các điều khoản về việc Mỹ đóng góp vào việc hàn gắn
vết thương chiến tranh mà còn nhấn mạnh vai trò của cộng đồng quốc tế trong việc xác nhận và thực hiện
hiệp định. Điều này phản ánh sự hiểu biết của Đảng về tầm quan trọng của việc tranh thủ sự ủng hộ quốc
tế và giải quyết các vấn đề toàn diện hơn trong bối cảnh của một cuộc xung đột kéo dài và phức tạp.
Từ sự so sánh trên, rõ ràng rằng Đảng Cộng sản Việt Nam đã có sự phát triển rõ rệt trong nhận thức lãnh
đạo qua các giai đoạn lịch sử. Hiệp định Genève phản ánh sự nhận thức ban đầu về việc chấm dứt chiến
tranh và phân chia tạm thời, trong khi Hiệp định Paris thể hiện sự trưởng thành trong tư duy lãnh đạo với
các điều khoản chi tiết hơn về chính trị, quân sự, nội bộ và ngoại giao. Những thay đổi này không chỉ
phản ánh sự trưởng thành trong chiến lược lãnh đạo mà còn cho thấy khả năng của Đảng trong việc thích
ứng với các thách thức phức tạp và tìm kiếm giải pháp toàn diện hơn cho các vấn đề quốc gia và quốc tế. lOMoAR cPSD| 59735610
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế, toàn cầu hóa sâu rộng hiện nay, ý nghĩa và tầm vóc của Hiệp định Paris
để lại nhiều bài học quý giá đối với hoạt động ngoại giao của Việt Nam. Trước hết là phải, luôn bảo đảm
cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc, trong đó độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ là cốt lõi. Độc lập và chủ
quyền là những giá trị thiêng liêng mà bất kỳ dân tộc nào, dù nhỏ bé hay lớn lao, đều có quyền bảo vệ và
thực hiện. Thứ hai, bài học về sự mềm mại và khéo léo trong ứng xử nhưng kiên định và quyết liệt trong
mục tiêu. Điều này giúp Việt Nam mở rộng quan hệ với nhiều quốc gia và tổ chức quốc tế, từ một nước bị
bao vây và cấm vận đến việc thiết lập quan hệ đối tác chiến lược và toàn diện với 193 nước và vùng lãnh
thổ. Cuối cùng, Đảng cần tiếp tục phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, kết hợp với sức mạnh thời
đại, tranh thủ sự đồng tình của cộng đồng quốc tế để bảo vệ độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, đồng
thời giữ vững ổn định chính trị, an ninh quốc gia và phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Phân tích sự thay đổi mâu thuẫn cơ bản và kết cấu giai cấp ở VN cuối thế kỷ
XIX, đầu thế kỷ XX dưới chính sách cai trị của thực dân Pháp.
Cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, dưới sự cai trị của thực dân Pháp, xã hội Việt Nam trải qua những
thay đổi sâu rộng về mâu thuẫn cơ bản và kết cấu giai cấp. Sự chuyển mình từ xã hội phong kiến sang xã
hội thuộc địa nửa phong kiến không chỉ làm thay đổi bản chất và cấu trúc của các mâu thuẫn xã hội, mà
còn làm nổi bật kết cấu giai cấp và những mâu thuẫn cơ bản mới phát sinh trong bối cảnh đô hộ của thực dân Pháp.
Trước khi thực dân Pháp xâm lược, Việt Nam là một xã hội phong kiến với mâu thuẫn chính giữa giai cấp
nông dân và địa chủ phong kiến. Tuy nhiên, khi thực dân Pháp đặt ách thống trị đã làm phân hóa giai cấp
vốn là của chế độ phong kiến (địa chủ, nông dân) đồng thời tạo nên những giai cấp, tầng lớp mới (công
nhân, tư sản dân tộc, tiểu tư sản) với thái độ khác nhau. Những mâu thuẫn mới trong xã hội Việt Nam xuất hiện.
Mâu thuẫn cơ bản đầu tiên và chủ yếu là mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam và thực dân Pháp xâm
lược. Đây là cuộc xung đột sâu sắc phản ánh cuộc chiến bảo vệ độc lập dân tộc và chủ quyền quốc gia của
nhân dân Việt Nam chống lại sự áp bức của thực dân Pháp. Mâu thuẫn này không chỉ là một cuộc đấu
tranh chính trị mà còn là cuộc chiến vì sự sinh tồn và phát triển của dân tộc. Thực dân Pháp không chỉ cai
trị mà còn khai thác tài nguyên và nhân lực của Việt Nam để phục vụ lợi ích của chính quốc, dẫn đến sự
bất công và áp bức trầm trọng đối với nhân dân. Mâu thuẫn này bao trùm toàn bộ các giai cấp và tầng lớp
trong xã hội Việt Nam, từ nông dân, công nhân, đến các tầng lớp trí thức và tiểu tư sản. Do đó, mâu thuẫn
giữa dân tộc Việt Nam và thực dân Pháp trở thành vấn đề chung của cả dân tộc, cần được giải quyết đồng
bộ và toàn diện. Đây là một mâu thuẫn không thể hòa giải bằng các giải pháp ôn hòa, mà cần phải đấu
tranh kiên quyết để đạt được độc lập và tự do.
Mâu thuẫn cơ bản thứ hai là mâu thuẫn giữa nhân dân Việt Nam, chủ yếu là giai cấp nông dân, với giai
cấp địa chủ phong kiến. Trong giai đoạn này, giai cấp địa chủ phong kiến, mặc dù có sự phân hóa nội bộ,
phần lớn cấu kết với thực dân Pháp, tăng cường bóc lột và áp bức giai cấp nông dân. Mâu thuẫn này phản
ánh sự căm phẫn của nông dân đối với các hình thức bóc lột và áp bức của địa chủ phong kiến. Họ không
chỉ căm thù thực dân mà còn căm phẫn đối với các địa chủ phong kiến, và vì vậy, sẵn sàng tham gia vào
cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và cải thiện đời sống của mình.
Kết cấu giai cấp trong xã hội Việt Nam cũng có sự thay đổi rõ rệt. Giai cấp địa chủ, vốn là một tầng lớp
thống trị trong chế độ phong kiến, bị phân hóa dưới tác động của chế độ thuộc địa. Phần lớn địa chủ nhỏ
và vừa có tinh thần yêu nước, chống Pháp và phản đối sự áp bức của thực dân. Tuy nhiên, tầng lớp đại địa
chủ cấu kết chặt chẽ với thực dân Pháp, trở thành công cụ đàn áp nông dân và là đối tượng của các phong trào cách mạng. lOMoAR cPSD| 59735610
Giai cấp nông dân, chiếm hơn 90% dân số, là lực lượng đông đảo nhất trong xã hội và chịu sự bóc lột
nặng nề từ cả địa chủ phong kiến lẫn thực dân Pháp. Cuộc sống cực khổ đã biến nông dân thành lực
lượng tích cực chống lại đế quốc và phong kiến. Họ là những người tiên phong trong các phong trào đấu
tranh đòi đất đai và giành độc lập, tạo nên sức mạnh to lớn cho phong trào cách mạng.
Tầng lớp tiểu tư sản phát triển mạnh mẽ trong thời kỳ này, bao gồm những người buôn bán nhỏ, viên
chức, trí thức, học sinh và sinh viên. Tiểu tư sản thường có khả năng tiếp thu các tư tưởng tiến bộ từ
phương Tây, đặc biệt là các lý thuyết cách mạng và dân chủ, và là nhóm trí thức góp phần quan trọng
trong sự phát triển của phong trào yêu nước. Tuy nhiên, đời sống của họ bấp bênh, thiếu ổn định, do đó họ
không thể lãnh đạo cách mạng.
Giai cấp tư sản Việt Nam xuất hiện trong bối cảnh khai thác thuộc địa lần thứ hai của Pháp. Tầng lớp này
cũng bị phân hóa rõ rệt: tư sản mại bản, những người có quyền lợi gắn liền với thực dân Pháp, trở thành
tay sai phục vụ cho lợi ích của chủ nghĩa thực dân. Ngược lại, tư sản dân tộc, tuy có tiềm lực kinh tế nhỏ
bé và bị tư sản nước ngoài chèn ép, lại có tinh thần dân tộc và dân chủ, sẵn sàng tham gia vào các phong
trào yêu nước, dù theo một cách ôn hòa hơn.
Cuối cùng, giai cấp công nhân ra đời từ cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất của Pháp (1897-1914) và
phát triển nhanh chóng. Đến năm 1929, số lượng công nhân đã tăng lên đến 22 vạn. Mặc dù xuất hiện
muộn hơn nhiều so với các giai cấp khác, công nhân Việt Nam mang đầy đủ các đặc điểm của giai cấp
công nhân quốc tế, với tinh thần tiên tiến, cách mạng và kỷ luật cao. Do đa số xuất thân từ nông dân, công
nhân có mối quan hệ chặt chẽ với giai cấp nông dân, tạo điều kiện thuận lợi cho việc xây dựng liên minh
công-nông trong các phong trào đấu tranh. Với tư tưởng cách mạng tiên tiến và kinh nghiệm từ phong
trào vô sản quốc tế, giai cấp công nhân nhanh chóng trở thành lực lượng lãnh đạo đáng tin cậy trong các
cuộc cách mạng giành độc lập.
Như vậy, dưới ách thống trị của thực dân Pháp, xã hội Việt Nam đã thay đổi không chỉ về cấu trúc mà còn
về mâu thuẫn cơ bản. Mâu thuẫn giữa toàn dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp và tay sai là mâu thuẫn chủ
yếu, trong khi mâu thuẫn giữa nông dân và địa chủ phong kiến vẫn tồn tại. Thái độ của các giai cấp trong
xã hội cũng thay đổi theo hướng ngày càng tích cực và quyết liệt hơn trong cuộc đấu tranh giành độc lập và giải phóng dân tộc.