CHUYÊN ĐỀ: ĐẶC TNG CA THƠ
I.
KHÁI NIỆM THƠ
-
Thơ một hình thức sáng c n học đầu tiên của loài
người. Chính vì vậy mà một thời gian rất dài thut ng
thơ được ng ch chung cho văn học. Thơ lịch sử u
đời như thế nhng để tìm mt định nghĩa thể hiện hết đặc
trưng bản chất của cho việc nghiên cứu thơ ngày nay
thì thật không d. nhiu nhà nghn cứu đưa ra nhng
quan điểm khác nhau về thơ.
-
Định nghĩa của nhóm tác giả Hán, Trần Đình Sử,
Nguyễn Khắc Phi trong cuốn
Từ điển thuật ngữ văn học
khát quát được những được trưng bản của thơ: “Thơ
hình thức sáng tác văn học phản ánh cuộc sống, thể hiện
tâm trạng, những cảm xúc mạnh mẽ bằng ngôn từ hàm
súc, giàu hình ảnh nhất có nhịp điệu”.
II.
ĐẶC TRƯNG CỦA THƠ
1, T sự th lộ tình cảm mãnh liệt đã được ý thức
Tình cảm sinh mệnh của t
Thơ ca khi phát từ m hồn người, đó tiếng i của tình cảm,
cảm c, khúc hát của m hồn. Nếu c c phẩm tự s
(tiểu thuyết, truyện ngn, kí…) thể hiện tưởng, tình cảm ca
tác gi thông qua việc i hiện một ch khách quan c hiện
tượng đời sống với nhng tình huống, sự kiện, diễn biến thì thơ
ca
mt loại tiêu biểu của loại nh tr tình lại ng o th
hiện i tôi nội tâm, hiện thực bên trong m hồn con người với
nhng rung cảm tinh tế, u sắc trưc cuộc sống muôn u.
i nh Dip Tiếp
nhà phê bình đời Thanh
Trung Quc thì
“Thơ tiếng lòng”
. Quý Đôn lại nói
“Thơ ca khởi phát tự
lòng người”
, còn T Hu lại cho rằng
“Thơ tiếng nói hồn nhiên
nhất của tâm hồn con người”
. Nhà thơ Anh Wordsworth i:
“Thơ sự biểu lộ của tình cảm mãnh liệt”.
Có th nói, tình cảm
yếu tố sinh mnh của thơ ca,
“thiếu tình cảm thì thể trở
thành người thợ làm những câu vần ch không làm được nhà
thơ”
(Jose Marti). Cũng cần u ý, tình cm nh liệt đây
không phi thứ tình cảm u o, khóc i ồn ào bên
ngoài sự rung động mãnh liệt bên trong, s giày ,
chấn động trong tâm hn.
“Thân em như tấm lụa đào
Phất phơ giữa chợ biết o tay ai.”
i ca dao là lời than n của một người ph nữ trong hội
phong kiến xưa. Người ph nữ ý thức đưc những vẻ đẹp của
bản thân nhưng ng n khoăn, lo lắng cho s phận bấp bênh,
lệ thuc của nh, không biết ng đời sẽ xô đẩy v đâu.
“Hôm qua tát nước đầu đình
Bỏ quên chiếc áo trên cành hoa sen.
Em được thì cho anh xin,
Hay em để làm tin trong nhà?”
i ca dao không nhm múc đích k lại chuyn mất áo xin
áo mà lời tỏ tình ý nh nhưng ng rất hóm hỉnh, o bạo của
chàng trai đối với i.
“Trèo lên cây bưởi hái hoa
Bước xống vườn hái nụ tầm xuân.
Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc,
Em đã chồng anh tiếc lắm thay.
Ba đồng một mớ trầu cay,
Sao anh không hỏi những ngày con không.
Bây giờ em đã chồng,
Như chim vào lồng như căn câu.
cắn u biết đâu mà gỡ,
Chim vào lồng biết thuở o ra?”
i ca dao không nói ai trèo y bưởi, c xuống n ,
không nhm mc đích k lại sự việc trèo cây bưởi, i nụ tầm
xuân như thế nào th hiện sự tiếc nui của chàng trai khi
i đã đi lấy chng. i ca dao còn lời trách nh nhàng, ời
than của i về cảnh ng bị trói buộc của mình.
“Rồi hóng mát, thuở ngày trường
Hòe lục đùn đùn n rợp trương
Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ
Hồng liên trì đã tiễn mùi ơng
Lao xao chợ làng ngư phủ
Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương
Dẽ Ngu cầm đàn một tiếng
Dân giàu đủ, khắp đòi phương
(Cảnh ngày hè)
i thơ không ch nhằm mục đích tả cảnh ngày . Nếu chỉ đơn
thun tả cảnh, i thơ ch như một bức họa tĩnh lặng. Thông
qua những chi tiết về cảnh vật âm thanh ca cuộc sống, c
giả thể hiện tình yêu thiên nhiên, u cuộc sống u sắc hơn
lòng u n u c.
Khi tìm hiểu một bài thơ, ta phi đọc đưc tâm trạng, cảm
xúc của c gi được gửi gắm o trong bài thơ đó
Tình cảm trong t không tự dưng nảy sinh được
gợi hứng, xuất phát t một hoàn cảnh, tình huống,
sự việc, sự kiện… cụ thể trong cuộc sống. Các nhà
thơ thường “tức cảnh sinh tình”, “đối cảnh sinh n”",
cảm cảnh, cảm vật tình nảy nở.
-
Hoàn cảnh tui già, lại không gặp thời khiến ngưi anh
ng đời Trần Đng Dung cảm thấy phn uất mà viết n
i thơ Cm hoài. Nhưng cũng hoàn cnh đó khiến nhà thơ
nhn ra phải quyết tâm, quyết chí đợi thời, i sắc ý chí
để ch ngày ra sức giúp đời, giúp c.
“Thế sự du du nại lão ,
cùng thiên địa nhập hàm ca.
Thời lai đồ điếu thành công di,
Vận khứ anh hùng ẩm hận đa.
Trí chúa hữu hoài phù địa trục,
Tẩy binh vô lộ vãn thiên hà.
Quốc thù vị báo đầu tiên bạch,
Kỷ độ Long Tuyền đới nguyệt ma.
-
Nhân được đọc một phần di cảo còn sót lại của nàng Tiểu
Thanh, Nguyễn Du đã ng xúc động, suy trước
phẩm chất số phận của một kiếp người, viết nên Độc
Tiểu Thanh .
« Tây Hồ hoa uyển tẫn thành khư,
Độc điếu song tiền nhất chỉ thư.
Chi phấn hữu thần liên tử hậu
Văn chương mệnh lụy phần dư. »
-
i thơ Đây thôn Dạ ra đời khi n Mặc Tử nhận đưc
tấm bưu nh in hình ảnh Huế do Hoàng c
người mà thi
từng thầm thương trộm nh gửi tặng.
« Sao anh không v chơi thôn ?
Nhìn nng ng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
trúc chen ngang mặt ch điền. »
-
Bài thơ Việt Bắc được Tố Hữu sáng tác nhân sự kiện Đảng
Chính ph từ giã Việt Bắc v thủ đô Nội năm 1954
Bởi vậy, mun hiểu thơ, ta phi biết suy đoán i tình
hung đã làm nảy sinh tình cảm thơ
Thơ không phải là s bộc lộ tình cảm một cách bản
năng, trực tiếp. Tình cảm trong thơ nh cảm được
ý thức, được siêu thăng, được lắng đọng qua cảm
xúc thẩm mĩ, gắn liền với sự tự ý thức về mình và về
đời. Trong thơ, nhà thơ không bị tình cảm mãnh liệt
của mình chi phối, trái lại ý thức của nhà thơ làm
chủ tình cảm của mình bằng một tưởng.
« Con ơi nhớ lấy câu này
p đêm giặc, cướp ngày quan »
i ca dao th hiện thái độ m hờn của ng dân đối với
nhng n quan bóc lột, t của n nhưng c giả dân
gian lại tìm đến một ch th hiện điềm đạm mt lời dặn
của cha mẹ với con cái. Đó tình cảm, thái độ được th
hiện một ch có ý thức ch không hề bản ng
« Tấm thân xm áo sao nh
i giá khoa trương y mới hời
Ghế chéo lọng xanh ngi bnh chọe
Nghĩ rằng đ thật a đồ ci »
(Tiến giấy
Nguyn Khuyến)
i thơ th hiện thái độ lên án, đả ch nhng n tiến hữu
hanh thực, phê phán hiện tượng mua quan bán tước trong
hội đương thời nhưng thay cho lời nguyn rủa g gớm,
nhà thơ miêu tả một ông tiến bằng giấy với những lời ời
nho đầy hàm ý, đã làm sáng tỏ b mặt thật của những k
thùng rỗng u to, khoa trương v chức c không thực
của nh.
Tình cảm của Nguyn Du bộc lộ trong « Truyn Kiu » không
phi thứ tình cảm yêu ghét bản ng mà thứ tình cảm
đã được chưng cất, lắng động sau khi đãu sống u sắc,
nh liệt với cuộc đời, đã thấu hiểu thân phận của nhân vật,
đã ờng tận nhng cảnh ng éo le ngang trái, đúng như
Nguyn Du đã viết :
« Trải qua một cuộc bể u
Những điều trông thấy đau đớn lòng. »
Đó nhng nh cảm nhiều trải nghiệm n thấm thía,
u sắc.
Tình cảm trong t là tình cảm lớn, tình cảm đẹp,
tình cảm cao thượng, thấm nhuần bản chất nhân
văn, chính nghĩa, Những tình cảm tầm thường
không làm nên nhà thơ. Chỉ những tình cảm đẹp,
gắn liền với tình cảm của nhân dân, nhân loại mới
sức vang động trong m hồn người, mới làm n
thơ.
« Anh đi anh nhớ quê nhà
Nh canh rau muống nh cà dm tương. »
nh u quê hương đất nước
« Tay nâng cn muối đĩa gừng,
Gừng cay muối mn, xin đường quên nhau »
nh nghĩa v chồng
VD : Đc Tiểu Thanh kí, bài thơ là tiếng khóc tơng, s đồng
cảm của Nguyn DU với số phận bất hạnh của nàng Tiểu
Thanh, với nỗi oan lạ lùng của những kiếp phong lưu nói chung
niềm khao khát tri âm của chính nhà thơ với hậu thế.
Tình cảm trong thơ s cụ th hóa
-
Thơ bao giờ cũng sự biểu hiện ca cái tôi tác giả, nhà
thơ có ý thức điều đó không.
Tình cảm trong thơ là tình
cảm mang tính cả thể hóa nên qua từng trang thơ,
ta như được tiếp xúc trực tiếp với một tính, một
cuộc đời, một tâm hồn riêng, không thể trộn lẫn được.
« Đọc một câu thơ hay nghĩa ta bắt gặp m hồn một
con người »
Đọc thơ Huyện Thanh Quan, ta thy được
tính của , một ngưi ph nữ thâm trm, sâu sắc, hoài
cố. Đọc thơ H Xuân Hương, ta thấy một người ph nữ
tính góc cạnh, sc sảo. Đọc thơ Nguyễn Du, ta thy một
tấm lòng nhân đạo lớn, thiết tha yêu người, nhiều lần nh
nước mắt khóc thương cho s phn con ngưi. Thơ Đỗ
Ph đời Đỗ Ph mang vẻ trầm hùng, bi thiết. Thơ
Bạch và đời Bạch toát n sự tự do, phóng khoáng
thể nói, thơ ơng mt riêng của mỗi người. Vì vậy, việc
tàm hiếu nh, khí chất, cuộc đời thi nn ý nghĩa
quan trọng để hiểu nội dung c phẩm.
Tình cảm mang
tính th hóa cũng một yếu t làm nên diện mạo
riêng không thể trộn lẫn của mỗi hồn thơ.
-
Cái tôi trong thơ cái tôi thứ hai của tác giả, không
phải cái tôi đời thường, không trùng khít, đồng nhất
với con người ngoài đời của tác giả.
Do sống trong thế
giới sáng tạo của nhà thơ nên nhân vật trưc tình được tự
do biểu hiện, ít bị ràng buộc n tác gi ngoài đời. Ta
không n hoàn toàn bám vào tiểu sử của n thơ để cắt
nghĩa thơ mà cần giải thơ như mt giá trị ngh thut
độc lập th hiện trogn n bản
-
Tình cảm trong thơ mang tính cá th hóa những
không phải tình cảm nhân tình cảm hội,
nhân loại.
Lời thơ tuy biểu hiện những cm c, m sự
riêng nhưng lại ý nghĩa khái quát về con ngưi, hội,
nhân loại giá trị thẩm giá trị nhân văn sâu sắc,
đủ m nền tảng cho sự tng cm lẫn nhau phát triển
đời sống nội tâm phong phú của con người.
VD : tự tình II
Hồ Xuân Hương
Nỗi đơn, trơ trọi, niềm khao khát hạnh phúc c những
phn uất, phản kháng của nhân vật trữ tình trong i thơ không
phi tình cảm của nhân nhà thơ tiêu biểu cho tình cảm
của những người ph nữ trong xã hội phong kiến, nhng ngưi
nạn nhân của chế độ nam quyền. Đó tiếng nói chung của
nhng ngưi phụ nữ đương thời. Có như vậy, tác phm mi
sức sống u bền.
*So nh cái i trữ tình trong thư trung đại hin đại
+ Trong thơ Trung đại, nhà thơ thưng giấu ch « i » đ người
y người khác dễ hài a với nhau. Thơ Trung đại thường
đề cao ch ta, ch một số ít c giả đề cập đến ch i
« Thiên hạ nhân khấp Tố Như ? » (Nguyễn Du)
« Này của Xuân Hương mới quệt rồi » (Hồ Xuân Hương)
+ Trong Thơ mới : cái tôi một nguyên tắc bản. Nhà thơ o
ng đặt nhim vụ cho mình đi tìm và biểu hiện i tôi
« Tôi con nai bị chiều đánh lưới,
Không biết đi đâu, đứng sầu bóng tối’’
(Xuân Diệu)
‘Hãy cho tôi một tinh cầu giá lạnh
Một sao trơ trọi cuối trời xa !’’
(Chế Lan Viên)
2, Ý thơ tứ thơ
Ý thơ
ý nghĩa mà n bản mun biểu đạt. Ý ởng
không được thông o trực tiếp, đầy đủ qua lời thơ do
tứ thơ, do giọng điệu, hình ảnh, biu tượng thơ gợi n.
Tứ t
hình thc đặc biệt để biểu hiện ý thơ. Tứ thơ
thể một nh ảnh tượng trưng, là các quan h đối thoại,
song hành của c nhân vật, nh nh. n ng một ý
thơ, nhưng c gi khác nhau nhng tác phm khác
nhau có thể lựa chn tứ thơ khác nhau.
VD. Cùng thể hiện nỗi nhớ trong tình yêu nhưng ca dao bài
chọn ch nói giấc ngủ không n nhớ người yêu
‘Đêm nằm
lưng chẳng tới giường, / Trông cho mau sáng ra đường gặp
em.’’ ; bài chọn cách nói ra bờ ao, ngắm cảnh vật nhớ
người yêu : ‘Đêm qua ra đứng bờ ao / Trông cá lặn, trông sao
sao mờ.’’ ; nhà thơ chọn cách nói nhớ người yêu trong cả
giấc : ‘Lòng em nhớ đến anh / Cả trong còn thức.’’
Tứ thơ được tạo dựng nhờ trí tưởng tượng
-
Mọi ngh thuật đều cần đến ởng ợng. Nh trí tưởng
tượng, c giả th sáng to những nh ng ngh
thut để truyền tải tưởng, bộc lộ cảm c. Trong văn
học, ngay ca một th lại u cầu cao v tính chân thc
như thể loại cũng cn cấu, ng tượng. Trong thơ ca
tưởng tượng có vai trò rất quan trọng. Nếu tình cảm sinh
mệnh của thơ thì tưởng tượng đôi cánh của thơ.
Tưởng
tượng hoạt động tâm phân giải, tổ hợp các biểu
tượng đã để tạo ra nh tượng hoàn toàn mới.
Bằng tưởng tượng, nhà thơ thể sáng tạo nên tứ
thơ, tạo nên những hình nh, biểu tượng không chỉ
hay, đẹp còn mới lạ, độc đáo thể hiện những
rung động tinh tế, vi diệu của tâm hồn. thể nói,
trong thơ ca, phạm vi của tưởng tượng được mở
rộng hơn cả, sức mạnh của tưởng tượng được phát
huy triệt để hơn cả.
VD : Ước sông rộng một gang / Bắc cầu dải yếm để chàng
sang chơi
ng rộng một gang, cầu dải yếm sản phẩm ca trí tưởng
tượng, thể hiện niềm khao khát hạnh phúc, khao kt gắn
của một i đang yêu.
-
Tưởng tượng tạo n những nh ảnh, biểu tượng, hình
ảnh biểu tượng sẽ p phn tạo n tứ thơ th hiện cảm
c, tưởng của c giả.
Những biểu tượng trong t
thường gián đoạn, không liên tục, nhiều khoảng
trống, khoảng trắng. Đó những chỗ trống cần
thiết cho sự duy, xúc cảm đồng sáng tạo của
người đọc. kết nối các biểu tượng mạch cảm xúc
trong bài thơ
3, Ngôn từ được cấu tạo đặc biệt
Ngôn ngữ trong thơ ngôn ngữ đã được cách điệu a
cũng như bước chân trong điệu so với bước đi thường.
c đi thưng mc đích di chuyển t i này sang nới
khác, tính chất nhịp nhàng, duyên dáng, uyn chuyn, đúng
nhc không quan trọng lắm. Nhưng c đi trong điệu không
phi chỉ để đi ch yếu nhm diễn t ý tưởng, tình cảm,
phương tiện diễn đạt nội dung ngh thut. y nội dung khác
nhau mà bước khoan thai, dịu dặt, bước thn thoắt,
bước phân n. Ngôn ng thơ cũng vậy. Ngôn ngữ t kng chỉ
thực hiện chức ng thông o, cung cp thông tin như ngôn
ng thông tin thường mà nhm thc hin chc ng truyền cảm,
biểu hiện một nội dung ngh thut nhất định. Vì vậy, ngôn ng
trong thơ được cách điệu hóa, không giống ngôn ng thông
thưng. Tính ch điệu a của ngôn ng nhng biểu hiện
cụ th như sau :
Ngôn từ có nhịp điệu
-
Sự phân ng của lời thơ nhm mục đích tạo thành nhng
đơn vị nhp điệu. Cuối mỗi dòng đều là chỗ ngừng ca nhịp
điệu. c th thơ khác nhau lại cách tạo nhịp diệu khác
nhau. VD lục t (2/2/2/2), thất ngôn (4/3). c nhà thơ tài
ng thường tìm cách ng tạo những nhịp điệu mi lạ để
thể hiện tưởng, cảm xúc
‘Tre xanh xanh tự bao giờ
Chuyện ngày xưa đã bờ tre xanh’’
‘Ngày qua ngày lại qua ngày
xanh nhuộm đã thành cây vàng’’
(Tương Nguyễn Bính)
Ngôn ngữ thơ không tinh liên tục tính phân
tích n ngôn từ văn xuôi, ngược lại nó nh nhảy
vọt, gián đoạn, tạo thành những khoảng lặng giàu ý
nghĩa
-
Tính nhy vọt, gián đon thể hiện ch : giữa c ng
thơ (câu thơ), giữa các khổ thơ bề ngoài tưởng như không
liên quan trực tiếp với nhau, không logic nhưng thc chất
chúng gắn chặt ch với nhau theo mạch logic bề sâu
(thường mạch m tư, nh cảm của ch th trữ nh)
-
Ngôn ngữ thơ không phi ngôn từ tuyến tính ngôn từ
phc hợp, đôi khi ng mt từ thể din đạt nhiều hình
ảnh, ý nghĩa, tạo nhiu ch hiu
‘Sao anh không về chơi thôn ?’’
(Đây thôn Dạ - Hàn Mặc Tử)
‘Tây Hồ hoa uyển tẫn thành khư
Độc điếu song tiền nhất chỉ thư’’
(Độc Tiểu Thanh Nguyễn Du)
u thơ nói vể s biến đi của cảnh đp Tây H nhưng cũng
đồng thi ng ý nói về sự biến đổi nghit ngã của một kiếp
người
thế, khi đọc thơ, cần phi thả hồn theo cm c ơng
theo mạch tình cảm trong bề u ngôn ng ch không chỉ
tìm mch logic trên bề mặt ngôn ngữ.
-
Do đặc điểm này thơ thường sử dụng nhiều phép tu từ
(ẩn dụ, hoán dụ, nhân a…) p vỡ logic kết hợp của
ngôn từ để tạo thành những kết hợp mi, nhiu bất ng
theo nguyên tắc lạ a.
Ngôn từ thơ giàu nhạc tính với những âm thanh
luyến láy, nhưng từ trùng điệp, sự phối hợp bằng
trắc những cách ngắt nhịp giá trị gợi cảm
-
Nhc nh trong ngôn ngữ thơ được tạp n từ sự phối hợp
thanh điệu bằng trắc, từ ch gieo vần, yếu tố âm thanh
của từ, s trung điệp của các từ, ch ngắt nhịp giá trị
gợi cảm, cảm xúc của nhà thơ.
‘Em rơi Ba Lan ! Mùa tuyết tan
Đường bạch dương sương trắng nắng tràn.
Anh đi, nghe tiếng người xưa vọng
Một giọng thơ ngâm, một giọng đàn’’
Đon thơ mang nhạc điệu ngân nga, du dương, bay bổng,
thanh thoát nhờ phần lớn c tiếng đều thanh bằng (em ơi
Ba Lan, sương, tràn
…)
thanh trắc cao (tuyết, trắng, nắng,
tiếng), ít thanh trắc thp (bạch, giọng, vọng). Ba thanh điệu hòa
o nhau như tiếng nhạc trm giữa một giai điệu cao chung.
Nhc điệu n được tạo n từ s hiệp vẫn của c tiếng trong
từng câu gia các câu
Hiệu qu: nh cấu tạo ngôn ng đặc biệt, thơ th i
được nhng điều hết sức lắng đọng, kết tinh mà nhiều khi
n xuôi không nói được
ng Hồng ‘Thơ kh năng bao quát u rộng không gian
thời gian mà nhiu ngh thuật khác không . Thơ nói việc
ngày nay mà gợi chuyện đời a, i chuyn Việt Nam mà gợi
chuyn Trung Quốc, Triu Tiên, Ln , Cu-ba, Mỹ…; nói
chuyn qu đất mà làm cho ngưi xem nghĩ đến ngày mai, con
người sẽ du hành trong vũ trụ và đổ xuống nhng hành tinh xa
lạ trong h thống mặt trời. Cho n thơ ngh thuật diệu
bậc nhất của trí ởng tượng.’’
Lưu Trọng Lư: ‘Thơ tất nhiên không phải n xuôi. Thơ sự
sống tập trung cao độ, cái lõi của đời sống. Phải đào, phải
xới, phải chắt, phải lọc mới ra thơ được S sống phải thành
men và nốc n trong tâm hồn thi sĩ. nhiều bài thơ nh
thức như tác giả muốn vét cho sạch, nói cho cùng, hết nước,
hết cái, bật gốc, trơ rễ. Một câu thơ hay một u thơ sức
gợi. Nguyễn Du không cạn lời, t ít gợi nhiều, chỉ hé ra một
chút hiện n c thế giới. Thi nhiều khi ch mở ra mà
người đọc sẽ góp phần đóng lại.
Ngôn ngữ thơ phải dệt nên nhng nh ng kết tinh, lắng
đọng, sức khêu gi sâu xa, lâu i trong tâm người
đọc.
Cấu tạo đặc biệt của ngôn ng thơ còn tạo nên đặc
tính nữa m cho t vừa hình vừa nhạc.
Thơ s tổng hợp của hình nhạc. Hình của thơ
do ý nghĩa của ngôn từ dựng lên, nhạc của thơ sinh
ra âm thành của ngôn ngữ. Hình của t lắng đọng,
nhạc của thơ ngân vang. Mỗi bài thơ, kh thơ, bài
thơ cất n đều vang nhạc, sáng nh
TIỂU KẾT: đặc trưng nội dung gắn chặt với đặc trưng
hình thức của thơ, không thể tách rời. Khi phân tích thơ,
cần bám sát nội dung hình thức của thơ

Preview text:

CHUYÊN ĐỀ: ĐẶC TRƯNG CỦA THƠ I. KHÁI NIỆM THƠ
- Thơ là một hình thức sáng tác văn học đầu tiên của loài
người. Chính vì vậy mà có một thời gian rất dài thuật ngữ
thơ được dùng chỉ chung cho văn học. Thơ có lịch sử lâu
đời như thế những để tìm một định nghĩa thể hiện hết đặc
trưng bản chất của nó cho việc nghiên cứu thơ ngày nay
thì thật không dễ. Có nhiều nhà nghiên cứu đưa ra những
quan điểm khác nhau về thơ.
- Định nghĩa của nhóm tác giả Lê Bá Hán, Trần Đình Sử,
Nguyễn Khắc Phi trong cuốn Từ điển thuật ngữ văn học
khát quát được những được trưng cơ bản của thơ: “Thơ là
hình thức sáng tác văn học phản ánh cuộc sống, thể hiện
tâm trạng, những cảm xúc mạnh mẽ bằng ngôn từ hàm
súc, giàu hình ảnh và nhất là có nhịp điệu”. II.
ĐẶC TRƯNG CỦA THƠ
1, Thơ là sự thổ lộ tình cảm mãnh liệt đã được ý thức
Tình cảm là sinh mệnh của thơ
Thơ ca khởi phát từ tâm hồn người, đó là tiếng nói của tình cảm,
cảm xúc, là khúc hát của tâm hồn. Nếu các tác phẩm tự sự
(tiểu thuyết, truyện ngắn, kí…) thể hiện tư tưởng, tình cảm của
tác giả thông qua việc tái hiện một cách khách quan các hiện
tượng đời sống với những tình huống, sự kiện, diễn biến thì thơ
ca – một loại tiêu biểu của loại hình trữ tình lại hướng vào thể
hiện cái tôi nội tâm, hiện thực bên trong tâm hồn con người với
những rung cảm tinh tế, sâu sắc trước cuộc sống muôn màu.
Nói nhứ Diệp Tiếp – nhà phê bình đời Thanh – Trung Quốc thì
“Thơ là tiếng lòng”. Lê Quý Đôn lại nói “Thơ ca khởi phát tự
lòng người”, còn Tố Hữu lại cho rằng “Thơ là tiếng nói hồn nhiên
nhất của tâm hồn con người”. Nhà thơ Anh Wordsworth nói:
“Thơ là sự biểu lộ của tình cảm mãnh liệt”. Có thể nói, tình cảm
là yếu tố sinh mệnh của thơ ca, “thiếu tình cảm thì có thể trở
thành người thợ làm những câu có vần chứ không làm được nhà
thơ” (Jose Marti). Cũng cần lưu ý, tình cảm mãnh liệt ở đây
không phải là thứ tình cảm kêu gào, khóc cười ồn ào ở bên
ngoài mà là sự rung động mãnh liệt ở bên trong, sự giày vò,
chấn động trong tâm hồn.
“Thân em như tấm lụa đào
Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai.”
Bài ca dao là lời than vãn của một người phụ nữ trong xã hội
phong kiến xưa. Người phụ nữ ý thức được những vẻ đẹp của
bản thân nhưng cũng băn khoăn, lo lắng cho số phận bấp bênh,
lệ thuộc của mình, không biết dòng đời sẽ xô đẩy về đâu.
“Hôm qua tát nước đầu đình
Bỏ quên chiếc áo trên cành hoa sen.
Em được thì cho anh xin,
Hay là em để làm tin trong nhà?”
Bài ca dao không nhằm múc đích kể lại chuyện mất áo và xin
áo mà là lời tỏ tình ý nhị nhưng cũng rất hóm hỉnh, táo bạo của
chàng trai đối với cô gái.
“Trèo lên cây bưởi hái hoa
Bước xống vườn cà hái nụ tầm xuân.
Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc,
Em đã có chồng anh tiếc lắm thay.
Ba đồng một mớ trầu cay,
Sao anh không hỏi những ngày con không.
Bây giờ em đã có chồng,
Như chim vào lồng như cá căn câu.
Cá cắn câu biết đâu mà gỡ,
Chim vào lồng biết thuở nào ra?”
Bài ca dao không nói rõ ai trèo cây bưởi, bước xuống vườn cà,
không nhằm mục đích kể lại sự việc trèo cây bưởi, hái nụ tầm
xuân như thế nào mà thể hiện sự tiếc nuối của chàng trai khi cô
gái đã đi lấy chồng. Bài ca dao còn là lời trách nhẹ nhàng, lười
than của cô gái về cảnh ngộ bị trói buộc của mình.
“Rồi hóng mát, thuở ngày trường
Hòe lục đùn đùn tán rợp trương
Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ
Hồng liên trì đã tiễn mùi hương
Lao xao chợ cá làng ngư phủ
Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương
Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng
Dân giàu đủ, khắp đòi phương (Cảnh ngày hè)
Bài thơ không chỉ nhằm mục đích tả cảnh ngày hè. Nếu chỉ đơn
thuần là tả cảnh, bài thơ chỉ như một bức họa tĩnh lặng. Thông
qua những chi tiết về cảnh vật và âm thanh của cuộc sống, tác
giả thể hiện tình yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống và sâu sắc hơn
là lòng yêu dân yêu nước.
➔ Khi tìm hiểu một bài thơ, ta phải đọc được tâm trạng, cảm
xúc của tác giả được gửi gắm vào trong bài thơ đó
Tình cảm trong thơ không tự dưng nảy sinh mà được
gợi hứng, xuất phát từ một hoàn cảnh, tình huống,
sự việc, sự kiện… cụ thể trong cuộc sống. Các nhà
thơ thường “tức cảnh sinh tình”, “đối cảnh sinh tìn”",
cảm cảnh, cảm vật mà tình nảy nở.
- Hoàn cảnh tuổi già, lại không gặp thời khiến người anh
hùng đời Trần Đặng Dung cảm thấy phẫn uất mà viết nên
bài thơ Cảm hoài. Nhưng cũng hoàn cảnh đó khiến nhà thơ
nhận ra phải quyết tâm, quyết chí đợi thời, mài sắc ý chí
để chờ ngày ra sức giúp đời, giúp nước.
“Thế sự du du nại lão hà,
Vô cùng thiên địa nhập hàm ca.
Thời lai đồ điếu thành công di,
Vận khứ anh hùng ẩm hận đa.
Trí chúa hữu hoài phù địa trục,
Tẩy binh vô lộ vãn thiên hà.
Quốc thù vị báo đầu tiên bạch,
Kỷ độ Long Tuyền đới nguyệt ma.
- Nhân được đọc một phần di cảo còn sót lại của nàng Tiểu
Thanh, Nguyễn Du đã vô cùng xúc động, suy tư trước
phẩm chất và số phận của một kiếp người, viết nên Độc Tiểu Thanh kí.
« Tây Hồ hoa uyển tẫn thành khư,
Độc điếu song tiền nhất chỉ thư.
Chi phấn hữu thần liên tử hậu
Văn chương vô mệnh lụy phần dư. »
- Bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ ra đời khi Hàn Mặc Tử nhận được
tấm bưu ảnh in hình ảnh Huế do Hoàng Cúc – người mà thi
sĩ từng thầm thương trộm nhớ gửi tặng.
« Sao anh không về chơi thôn Vĩ ?
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc chen ngang mặt chữ điền. »
- Bài thơ Việt Bắc được Tố Hữu sáng tác nhân sự kiện Đảng
và Chính phủ từ giã Việt Bắc về thủ đô Hà Nội năm 1954
➔ Bởi vậy, muốn hiểu thơ, ta phải biết suy đoán cái tình
huống đã làm nảy sinh tình cảm thơ
Thơ không phải là sự bộc lộ tình cảm một cách bản
năng, trực tiếp. Tình cảm trong thơ là tình cảm được
ý thức, được siêu thăng, được lắng đọng qua cảm
xúc thẩm mĩ, gắn liền với sự tự ý thức về mình và về
đời. Trong thơ, nhà thơ không bị tình cảm mãnh liệt
của mình chi phối, trái lại ý thức của nhà thơ làm
chủ tình cảm của mình bằng một tư tưởng.
« Con ơi nhớ lấy câu này
Cướp đêm là giặc, cướp ngày là quan »
Bài ca dao thể hiện thái độ căm hờn của ng dân đối với
những tên quan bóc lột, vơ vét của dân nhưng tác giả dân
gian lại tìm đến một cách thể hiện điềm đạm là một lời dặn
dò của cha mẹ với con cái. Đó là tình cảm, thái độ được thể
hiện một cách có ý thức chứ không hề bản năng
« Tấm thân xiêm áo sao mà nhẹ
Cái giá khoa trương ấy mới hời
Ghế chéo lọng xanh ngồi bảnh chọe
Nghĩ rằng đồ thật hóa đồ chơi »
(Tiến sĩ giấy – Nguyễn Khuyến)
Bài thơ thể hiện thái độ lên án, đả kích những tên tiến sĩ hữu
hanh vô thực, phê phán hiện tượng mua quan bán tước trong
xã hội đương thời nhưng thay cho lời nguyền rủa ghê gớm,
nhà thơ miêu tả một ông tiến sĩ bằng giấy với những lời cười
nhạo đầy hàm ý, đã làm sáng tỏ bộ mặt thật của những kẻ
thùng rỗng kêu to, khoa trương về chức tước không có thực của mình.
Tình cảm của Nguyễn Du bộc lộ trong « Truyện Kiều » không
phải là thứ tình cảm yêu ghét bản năng mà là thứ tình cảm
đã được chưng cất, lắng động sau khi đãu sống sâu sắc,
mãnh liệt với cuộc đời, đã thấu hiểu thân phận của nhân vật,
đã tường tận những cảnh ngộ éo le ngang trái, đúng như Nguyễn Du đã viết :
« Trải qua một cuộc bể dâu
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng. »
➔ Đó là những tình cảm nhiều trải nghiệm nên thấm thía, sâu sắc.
Tình cảm trong thơ là tình cảm lớn, tình cảm đẹp,
tình cảm cao thượng, thấm nhuần bản chất nhân
văn, chính nghĩa, Những tình cảm tầm thường
không làm nên nhà thơ. Chỉ những tình cảm đẹp,
gắn liền với tình cảm của nhân dân, nhân loại mới
có sức vang động trong tâm hồn người, mới làm nên thơ. « Anh đi anh nhớ quê nhà
Nhớ canh rau muống nhớ cà dầm tương. »
➔ Tình yêu quê hương đất nước
« Tay nâng chén muối đĩa gừng,
Gừng cay muối mặn, xin đường quên nhau » ➔ Tình nghĩa vợ chồng
VD : Độc Tiểu Thanh kí, bài thơ là tiếng khóc thương, là sự đồng
cảm của Nguyễn DU với số phận bất hạnh của nàng Tiểu
Thanh, với nỗi oan lạ lùng của những kiếp phong lưu nói chung
và niềm khao khát tri âm của chính nhà thơ với hậu thế.
Tình cảm trong thơ có sự cụ thể hóa
- Thơ bao giờ cũng là sự biểu hiện của cái tôi tác giả, dù nhà
thơ có ý thức điều đó không. Tình cảm trong thơ là tình
cảm mang tính cả thể hóa nên qua từng trang thơ,
ta như được tiếp xúc trực tiếp với một cá tính, một
cuộc đời, một tâm hồn riêng, không thể trộn lẫn được.
« Đọc một câu thơ hay nghĩa là ta bắt gặp tâm hồn một
con người » Đọc thơ bà Huyện Thanh Quan, ta thấy được
cá tính của bà, một người phụ nữ thâm trầm, sâu sắc, hoài
cố. Đọc thơ Hồ Xuân Hương, ta thấy một người phụ nữ có
tính góc cạnh, sắc sảo. Đọc thơ Nguyễn Du, ta thấy một
tấm lòng nhân đạo lớn, thiết tha yêu người, nhiều lần nhỏ
nước mắt khóc thương cho số phận con người. Thơ Đỗ
Phủ và đời Đỗ Phủ mang vẻ trầm hùng, bi thiết. Thơ Lý
Bạch và đời Lý Bạch toát lên sự tự do, phóng khoáng… Có
thể nói, thơ là gương mặt riêng của mỗi người. Vì vậy, việc
tàm hiếu cá tính, khí chất, cuộc đời thi nhân có ý nghĩa
quan trọng để hiểu nội dung tác phẩm. Tình cảm mang
tính có thể hóa cũng là một yếu tố làm nên diện mạo
riêng không thể trộn lẫn của mỗi hồn thơ.
- Cái tôi trong thơ là cái tôi thứ hai của tác giả, không
phải cái tôi đời thường, không trùng khít, đồng nhất
với con người ngoài đời của tác giả. Do sống trong thế
giới sáng tạo của nhà thơ nên nhân vật trưc tình được tự
do biểu hiện, ít bị ràng buộc như tác giả ngoài đời. Ta
không nên hoàn toàn bám vào tiểu sử của nhà thơ để cắt
nghĩa thơ mà cần lý giải thơ như một giá trị nghệ thuật
độc lập thể hiện trogn văn bản
- Tình cảm trong thơ mang tính cá thể hóa những
không phải là tình cảm cá nhân mà là tình cảm xã hội,
nhân loại. Lời thơ tuy biểu hiện những cảm xúc, tâm sự
riêng nhưng lại có ý nghĩa khái quát về con người, xã hội,
nhân loại có giá trị thẩm mĩ và giá trị nhân văn sâu sắc,
đủ làm nền tảng cho sự thông cảm lẫn nhau và phát triển
đời sống nội tâm phong phú của con người.
VD : tự tình II – Hồ Xuân Hương
Nỗi cô đơn, trơ trọi, niềm khao khát hạnh phúc và cả những
phẫn uất, phản kháng của nhân vật trữ tình trong bài thơ không
phải là tình cảm của cá nhân nhà thơ mà tiêu biểu cho tình cảm
của những người phụ nữ trong xã hội phong kiến, những người
là nạn nhân của chế độ nam quyền. Đó là tiếng nói chung của
những người phụ nữ đương thời. Có như vậy, tác phẩm mới có sức sống lâu bền.
*So sánh cái tôi trữ tình trong thư trung đại và hiện đại
+ Trong thơ Trung đại, nhà thơ thường giấu chữ « tôi » để người
này và người khác dễ hài hòa với nhau. Thơ Trung đại thường
đề cao chữ ta, chỉ có một số ít tác giả đề cập đến chữ tôi
« Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như ? » (Nguyễn Du)
« Này của Xuân Hương mới quệt rồi » (Hồ Xuân Hương)
+ Trong Thơ mới : cái tôi là một nguyên tắc cơ bản. Nhà thơ nào
cũng đặt nhiệm vụ cho mình là đi tìm và biểu hiện cái tôi
« Tôi là con nai bị chiều đánh lưới,
Không biết đi đâu, đứng sầu bóng tối’ (Xuân Diệu)
‘Hãy cho tôi một tinh cầu giá lạnh
Một vì sao trơ trọi cuối trời xa !’’ (Chế Lan Viên)
2, Ý thơ và tứ thơ
Ý thơ là ý nghĩa mà văn bản muốn biểu đạt. Ý tưởng
không được thông báo trực tiếp, đầy đủ qua lời thơ mà do
tứ thơ, do giọng điệu, hình ảnh, biểu tượng thơ gợi lên.
Tứ thơ là hình thức đặc biệt để biểu hiện ý thơ. Tứ thơ có
thể là một hình ảnh tượng trưng, là các quan hệ đối thoại,
song hành… của các nhân vật, hình ảnh. Nên cùng một ý
thơ, nhưng tác giả khác nhau ở những tác phẩm khác
nhau có thể lựa chọn tứ thơ khác nhau.
VD. Cùng thể hiện nỗi nhớ trong tình yêu nhưng ca dao có bài
chọn cách nói giấc ngủ không yên vì nhớ người yêu ‘Đêm nằm
lưng chẳng tới giường, / Trông cho mau sáng ra đường gặp
em.’ ; có bài chọn cách nói ra bờ ao, ngắm cảnh vật mà nhớ
người yêu : ‘Đêm qua ra đứng bờ ao / Trông cá cá lặn, trông sao
sao mờ.’ ; có nhà thơ chọn cách nói nhớ người yêu trong cả
giấc mơ : ‘Lòng em nhớ đến anh / Cả trong mơ còn thức.’
Tứ thơ được tạo dựng nhờ trí tưởng tượng
- Mọi nghệ thuật đều cần đến tưởng tượng. Nhờ có trí tưởng
tượng, tác giả có thể sáng tạo những hình tượng nghệ
thuật để truyền tải tư tưởng, bộc lộ cảm xúc. Trong văn
học, ngay ca một thể lại yêu cầu cao về tính chân thực
như thể loại kí cũng cần hư cấu, tưởng tượng. Trong thơ ca
tưởng tượng có vai trò rất quan trọng. Nếu tình cảm là sinh
mệnh của thơ thì tưởng tượng là đôi cánh của thơ. Tưởng
tượng là hoạt động tâm lí phân giải, tổ hợp các biểu
tượng đã có để tạo ra hình tượng hoàn toàn mới.
Bằng tưởng tượng, nhà thơ có thể sáng tạo nên tứ
thơ, tạo nên những hình ảnh, biểu tượng không chỉ
hay, đẹp mà còn mới lạ, độc đáo thể hiện những
rung động tinh tế, vi diệu của tâm hồn. Có thể nói,
trong thơ ca, phạm vi của tưởng tượng được mở
rộng hơn cả, sức mạnh của tưởng tượng được phát
huy triệt để hơn cả.
VD : Ước gì sông rộng một gang / Bắc cầu dải yếm để chàng sang chơi
Sông rộng một gang, cầu dải yếm là sản phẩm của trí tưởng
tượng, thể hiện niềm khao khát hạnh phúc, khao khát gắn bó
của một cô gái đang yêu.
- Tưởng tượng tạo nên những hình ảnh, biểu tượng, mà hình
ảnh biểu tượng sẽ góp phần tạo nên tứ thơ thể hiện cảm
xúc, tư tưởng của tác giả. Những biểu tượng trong thơ
thường gián đoạn, không liên tục, có nhiều khoảng
trống, khoảng trắng. Đó là những chỗ trống cần
thiết cho sự tư duy, xúc cảm và đồng sáng tạo của
người đọc. kết nối các biểu tượng là mạch cảm xúc trong bài thơ
3, Ngôn từ được cấu tạo đặc biệt
Ngôn ngữ trong thơ là ngôn ngữ đã được cách điệu hóa

cũng như bước chân trong điệu vũ so với bước đi thường.
Bước đi thường có mục đích là di chuyển từ nơi này sang nới
khác, tính chất nhịp nhàng, duyên dáng, uyển chuyển, đúng
nhạc không quan trọng lắm. Nhưng bước đi trong điệu vũ không
phải chỉ để đi mà chủ yếu nhằm diễn tả ý tưởng, tình cảm, là
phương tiện diễn đạt nội dung nghệ thuật. Tùy nội dung khác
nhau mà có bước khoan thai, dịu dặt, có bước thoăn thoắt, có
bước phân vân. Ngôn ngữ thơ cũng vậy. Ngôn ngữ thơ không chỉ
thực hiện chức năng thông báo, cung cấp thông tin như ngôn
ngữ thông tin thường mà nhằm thực hiện chức năng truyền cảm,
biểu hiện một nội dung nghệ thuật nhất định. Vì vậy, ngôn ngữ
trong thơ được cách điệu hóa, không giống ngôn ngữ thông
thường. Tính cách điệu hóa của ngôn ngữ có những biểu hiện cụ thể như sau :
Ngôn từ có nhịp điệu
- Sự phân dòng của lời thơ nhằm mục đích tạo thành những
đơn vị nhịp điệu. Cuối mỗi dòng đều là chỗ ngừng của nhịp
điệu. Các thể thơ khác nhau lại có cách tạo nhịp diệu khác
nhau. VD lục bát (2/2/2/2), thất ngôn (4/3). Các nhà thơ tài
năng thường tìm cách sáng tạo những nhịp điệu mới lạ để
thể hiện tư tưởng, cảm xúc
‘Tre xanh xanh tự bao giờ
Chuyện ngày xưa đã có bờ tre xanh’
‘Ngày qua ngày lại qua ngày
Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng’
(Tương tư – Nguyễn Bính)
Ngôn ngữ thơ không có tinh liên tục và tính phân
tích như ngôn từ văn xuôi, ngược lại nó có tính nhảy
vọt, gián đoạn, tạo thành những khoảng lặng giàu ý nghĩa
- Tính nhảy vọt, gián đoạn thể hiện ở chỗ : giữa các dòng
thơ (câu thơ), giữa các khổ thơ bề ngoài tưởng như không
liên quan trực tiếp với nhau, không logic nhưng thực chất
chúng gắn bó chặt chẽ với nhau theo mạch logic bề sâu
(thường là mạch tâm tư, tình cảm của chủ thể trữ tình)
- Ngôn ngữ thơ không phải ngôn từ tuyến tính mà là ngôn từ
phức hợp, đôi khi cùng một từ có thể diễn đạt nhiều hình
ảnh, ý nghĩa, tạo nhiều cách hiểu
‘Sao anh không về chơi thôn Vĩ ?’
(Đây thôn Vĩ Dạ - Hàn Mặc Tử)
‘Tây Hồ hoa uyển tẫn thành khư
Độc điếu song tiền nhất chỉ thư’
(Độc Tiểu Thanh kí – Nguyễn Du)

Câu thơ nói vể sự biến đổi của cảnh đẹp Tây Hồ nhưng cũng
đồng thời ngụ ý nói về sự biến đổi nghiệt ngã của một kiếp người
➔ Vì thế, khi đọc thơ, cần phải thả hồn theo cảm xúc nương
theo mạch tình cảm trong bề sâu ngôn ngữ chứ không chỉ
tìm mạch logic trên bề mặt ngôn ngữ.
- Do đặc điểm này mà thơ thường sử dụng nhiều phép tu từ
(ẩn dụ, hoán dụ, nhân hóa…) phá vỡ logic kết hợp của
ngôn từ để tạo thành những kết hợp mới, nhiều bất ngờ theo nguyên tắc lạ hóa.
Ngôn từ thơ giàu nhạc tính với những âm thanh
luyến láy, nhưng từ trùng điệp, sự phối hợp bằng
trắc và những cách ngắt nhịp có giá trị gợi cảm
- Nhạc tính trong ngôn ngữ thơ được tạp nên từ sự phối hợp
thanh điệu bằng trắc, từ cách gieo vần, yếu tố âm thanh
của từ, sự trung điệp của các từ, cách ngắt nhịp có giá trị
gợi cảm, cảm xúc của nhà thơ.
‘Em rơi Ba Lan ! Mùa tuyết tan
Đường bạch dương sương trắng nắng tràn.
Anh đi, nghe tiếng người xưa vọng
Một giọng thơ ngâm, một giọng đàn’
Đoạn thơ mang nhạc điệu ngân nga, du dương, bay bổng,
thanh thoát nhờ phần lớn các tiếng đều có thanh bằng (em ơi
Ba Lan, sương, tràn …) và thanh trắc cao (tuyết, trắng, nắng,
tiếng), ít thanh trắc thấp (bạch, giọng, vọng). Ba thanh điệu hòa
vào nhau như tiếng nhạc trầm giữa một giai điệu cao chung.
Nhạc điệu còn được tạo nên từ sự hiệp vẫn của các tiếng trong
từng câu và giữa các câu
➔ Hiệu quả: nhờ cấu tạo ngôn ngữ đặc biệt, thơ có thể nói
được những điều hết sức lắng đọng, kết tinh mà nhiều khi
văn xuôi không nói được
Sóng Hồng ‘Thơ có khả năng bao quát sâu rộng không gian và
thời gian mà nhiều nghệ thuật khác không có. Thơ nói việc
ngày nay mà gợi chuyện đời xưa, nói chuyện Việt Nam mà gợi
chuyện ở Trung Quốc, Triều Tiên, Liên Xô, Cu-ba, Mỹ…; nói
chuyện quả đất mà làm cho người xem nghĩ đến ngày mai, con
người sẽ du hành trong vũ trụ và đổ xuống những hành tinh xa
lạ trong hệ thống mặt trời. Cho nên thơ là nghệ thuật kì diệu
bậc nhất của trí tưởng tượng.’
Lưu Trọng Lư: ‘Thơ tất nhiên không phải là văn xuôi. Thơ là sự
sống tập trung cao độ, là cái lõi của đời sống. Phải đào, phải
xới, phải chắt, phải lọc mới ra thơ được… Sự sống phải ủ thành
men và nốc lên trong tâm hồn thi sĩ. Có nhiều bài thơ mà hình
thức như tác giả muốn vét cho sạch, nói cho cùng, hết nước,
hết cái, bật gốc, trơ rễ. Một câu thơ hay là một câu thơ có sức
gợi. Nguyễn Du không cạn lời, tả ít mà gợi nhiều, chỉ hé ra một
chút mà hiện lên cả thế giới. Thi sĩ nhiều khi chỉ mở ra mà
người đọc sẽ góp phần đóng lại.
➔ Ngôn ngữ thơ phải dệt nên những hình tưởng kết tinh, lắng
đọng, có sức khêu gợi sâu xa, lâu dài trong tâm tư người đọc.
Cấu tạo đặc biệt của ngôn ngữ thơ còn tạo nên đặc
tính nữa là làm cho thơ vừa có hình vừa có nhạc.
Thơ là sự tổng hợp của hình và nhạc. Hình của thơ
do ý nghĩa của ngôn từ dựng lên, nhạc của thơ sinh
ra âm thành của ngôn ngữ. Hình của thơ lắng đọng,
nhạc của thơ ngân vang. Mỗi bài thơ, khổ thơ, bài
thơ cất lên đều vang nhạc, sáng hình
TIỂU KẾT: đặc trưng nội dung gắn chặt với đặc trưng
hình thức của thơ, không thể tách rời. Khi phân tích thơ,
cần bám sát nội dung và hình thức của thơ
Document Outline

  • CHUYÊN ĐỀ: ĐẶC TRƯNG CỦA THƠ
  • II.ĐẶC TRƯNG CỦA THƠ
    • Tình cảm là sinh mệnh của thơ
    • Tình cảm trong thơ không tự dưng nảy sinh mà đượ
    • Thơ không phải là sự bộc lộ tình cảm một cách bả
    • Tình cảm trong thơ là tình cảm lớn, tình cảm đẹp
    • Tình cảm trong thơ có sự cụ thể hóa
  • 2, Ý thơ và tứ thơ
  • •Tứ thơ được tạo dựng nhờ trí tưởng tượng
    • rộng hơn cả, sức mạnh của tưởng tượng được phát hu
  • 3, Ngôn từ được cấu tạo đặc biệt
  • •Ngôn từ có nhịp điệu
  • •Ngôn ngữ thơ không có tinh liên tục và tính phân t
  • •Ngôn từ thơ giàu nhạc tính với những âm thanh luyế