



















Preview text:
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 1
1. Lí do chọn đề tài. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 1
2. Mục đích nghiên cứu. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 2
3.1. Đối tượng nghiên cứu. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 2
3.2. Phạm vi nghiên cứu. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 2
4. Giá trị khoa học và thực tiễn của công trình. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 3
5. Phương pháp nghiên cứu. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 3
5.1. Phương pháp loại hình. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 3
5.2. Phương pháp phân tích – tổng hợp. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 3
5.3. Phương pháp so sánh – đối chiếu. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .3
5.4. Phương pháp thống kê – phân loại. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .4
6. Lịch sử vấn đề nghiên cứu. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 4
7. Bố cục. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 11
NỘI DUNG. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 12
CHƯƠNG 1. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 12
NGUYỄN TRÃI VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI. . . 12
1.1. Khái niệm thơ Nôm Đường luật. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 12
1.2. Điều kiện hình thành và quá trình phát triển thơ Nôm Đường luật 12
trong lịch sử văn học Việt Nam. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 12
1.2.1. Điều kiện hình thành thơ Nôm Đường luật. . . . . . . . . . . . . . . . . . . 12
1.2.2. Quá trình phát triển thơ Nôm Đường luật. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 18
1.3. Nguyễn Trãi – Nhà thơ mở đường cho nền văn học chữ Nôm. . . . . . 19
Việt Nam. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .19
1.3.1. Đôi nét về cuộc đời Nguyễn Trãi. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 19
1.3.2. Vài nét về tư tưởng của Nguyễn Trãi. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 22
1.3.3. Đôi nét về sự nghiệp văn chương Nguyễn Trãi. . . . . . . . . . . . . . . . 29
1.4. Một số nét về tập thơ Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi. . . . . . . . . . . 32
Tiểu kết. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 33
CHƯƠNG 2. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 35
ĐẶC TRƯNG NỘI DUNG TẬP THƠ QUỐC ÂM THI TẬP. . . . . . . . . . . 35
CỦA NGUYỄN TRÃI. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .35
2.1. Vẻ đẹp bức chân dung một anh hùng yêu nước vĩ đại, một. . . . . . . 35
con người trong cuộc sống bình dị, đời thường. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 35
2.1.1.Vẻ đẹp bức chân dung một anh hùng yêu nước vĩ đại. . . . . . . . . . . 35
2.1.2.Vẻ đẹp một con người trong cuộc sống bình dị, đời thường. . . . . . .38
2.2. Vẻ đẹp bức tranh thiên nhiên trong Quốc âm thi tập. . . . . . . . . . . . 43
2.2.1.Vẻ đẹp bức tranh thiên nhiên hoành tráng và kì vĩ. . . . . . . . . . . . . .43
2.2.2.Vẻ đẹp bức tranh thiên nhiên đầy bình dị, dân dã mà. . . . . . . . . . . .45
giàu chất dân tộc. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 45
Tiểu kết. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 48
CHƯƠNG 3. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 49
ĐẶC TRƯNG NGHỆ THUẬT TẬP THƠ QUỐC ÂM THI TẬP. . . . . . . 49
CỦA NGUYỄN TRÃI. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .49
3.1. Thể thơ thất ngôn xen lục ngôn. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 49
3.2. Cách gieo vần. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .50
3.3. Cách ngắt nhịp. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .58
3.4. Hệ thống hình tượng nghệ thuật. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 62
3.4.1. Yếu tố Đường luật trong hệ thống hình tượng nghệ thuật. . . . . . . 62
3.4.2. Yếu tố Nôm trong hệ thống hình tượng nghệ thuật. . . . . . . . . . . . . 63
3.5. Hệ thống ngôn ngữ nghệ thuật. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 66
3.5.1.Yếu tố Đường luật trong hệ thống ngôn ngữ - lối dùng điển tích, 56
điển cố. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 66
3.5.2.Yếu tố Nôm trong hệ thống ngôn ngữ - hệ thống. . . . . . . . . . . . . . . 58
từ thuần Việt và khẩu ngữ. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 68
Tiểu kết. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 73
KẾT LUẬN. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 76
TÀI LIỆU THAM KHẢO. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 78 MỞ ĐẦU 1.
Lí do chọn đề tài
Văn học trung đại Việt Nam thế kỉ XV là mảnh đất màu mỡ tươi tốt
sản sinh và nuôi dưỡng biết bao nhà văn, nhà thơ ưu tú đã có những đóng góp
vô cùng lớn lao trong việc xây dựng và phát triển nền văn hóa, văn học nước
nhà. Văn học Việt Nam thời kỳ này được ghi dấu bởi những tác phẩm với
những tác giả nổi tiếng, trong đó phải kể đến Nguyễn Trãi – tác giả có vị trí rất
quan trọng trong lịch sử văn học Việt Nam – vị trí kết tinh và mở đường của
một nhà văn lớn. Nguyễn Trãi là “ngôi sao khuê” hội tụ ánh sáng văn học của
năm thế kỉ trước đó đồng thời tỏa rạng con đường phát triển của văn học dân
tộc trong nhiều thế kỉ sau.
Nguyễn Trãi là tác giả xuất sắc trên nhiều loại hình văn học, xuất sắc
cả trong sáng tác chứ Hán và sáng tác chữ Nôm. Những tác phẩm bằng chữ
Hán có thể kể đến như: Quân trung từ mệnh tập gồm khoảng trên dưới 70 bài
văn từ lệnh viết trong thời gian kháng chiến, phần lớn là từ giao thiệp với các
tước Minh. Bình Ngô đại cáo do Nguyễn Trãi phụng chỉ Lê Lợi soạn thảo bản
tuyên ngôn độc lập, áng “thiên cổ hùng văn” năm Đinh Mùi. Và Ức Trai thi tập
– thơ chữ Hán viết theo thể thơ luật Đường ngũ ngôn và thất ngôn. Bên cạnh đó,
những tác phẩm chữ Nôm của ông có thể kể đến như: Quốc âm thi tập và Dư địa chí.
Quan điểm văn học của Nguyễn Trãi có vị trí lớn trong sự phát triển
của văn học trung đại Việt Nam, đặc biệt có vị trí quan trọng trong sự nghiệp
văn chương của tác giả. Ở Nguyễn Trãi có quan điểm về chức năng văn học
mang ảnh hưởng của Nho giáo, ảnh hưởng của truyền thống dân tộc và tinh
thần thời đại. Quan điểm “văn dĩ tải đạo”, “thi dĩ ngôn chí” qua ngòi bút của 1
Ức Trai đã thành văn chương “trừ độc trừ tham, trừ bạo ngược”. Với Nguyễn
Trãi, nghệ thuật nói chung, trong đó có văn chương luôn gắn bó với đời sống.
Trong sự gắn bó ấy thì nghệ thuật có gốc từ đời sống. Có thể thấy, quan điểm
văn học của Nguyễn Trãi có yếu tố Nho giáo, có yếu tố dân tộc và thời đại, về
cơ bản mang tính chất cách tân. Khi sáng tác, một mặt Nguyễn Trãi vẫn xuất
hiện với tư cách tác giả - nhà Nho, mặt khác ông còn xuất hiện với tư cách tác
giả - nghệ sĩ. Chính việc tác giả ý thức được mình là nhà thơ khi sáng tác đã
làm cho sáng tác văn học của Nguyễn Trãi vừa kết tinh thành tựu văn học giai
đoạn trước, vừa mở ra một bước phát triển mới thay đổi về chất.
Nhận thấy tập thơ Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi có nhiều vấn đề
để khai thác về đặc trưng thơ Nôm, tôi lựa chọn đề tài nghiên cứu là: “Đặc
trưng nội dung và hình thức thể loại trong tập thơ Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi”.
2. Mục đích nghiên cứu
- Tìm hiểu, đánh giá đặc trưng nội dung và hình thức thể loại trong tập thơ
Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi
- Khẳng định giá trị tập thơ Quốc âm thi tập cũng như vị trí của tập thơ này
trong hệ thống các tác phẩm thơ của Nguyễn Trãi.
- Khẳng định tài năng và những đóng góp của Nguyễn Trãi ở thể loại thơ
Nôm Việt Nam thế kỉ XV nói riêng và nền văn học Việt Nam nói chung.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của tiểu luận là tập thơ Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi
(in trong Phạm Luận (Phiên âm và chú giải) (2014) – Nguyễn Trãi – Quốc âm
thi tập, NXB Văn học, Hà Nội). 2
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu là các đặc trưng về nội dung (vẻ đẹp bức chân dung một
anh hùng yêu nước vĩ đại, một con người trong cuộc sống bình dị, đời thường;
vẻ đẹp bức tranh thiên nhiên trong Quốc âm thi tập) và hình thức (thể thơ thất
ngôn xen lục ngôn; cách gieo vần; cách ngắt nhịp; hệ thống hình tượng nghệ
thuật; hệ thống ngôn ngữ nghệ thuật) tập thơ Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi.
4. Giá trị khoa học và thực tiễn của công trình
Kết quả nghiên cứu sẽ làm rõ đặc điểm thơ Nôm trong Quốc âm thi tập của
Nguyễn Trãi, qua đó khẳng định tài năng của cây bút thơ ca xuất sắc này trong
dòng chảy thơ Nôm Việt Nam thế kỉ XV. Đồng thời, việc đi sâu và mở rộng
hướng nghiên cứu ở hai phương diện: nội dung và nghệ thuật trong tập thơ này
của Nguyễn Trãi giúp xác định những đóng góp của ông trong thể loại thơ Nôm
Việt Nam thế kỉ XV nói riêng và nền văn học Việt Nam trung đại nói
chung. Bên cạnh đó, việc nghiên cứu còn giúp người nghiên cứu hiểu thêm về
tác giả Nguyễn Trãi và thể loại thơ Nôm của tác giả.
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp loại hình
Dựa vào các đặc trưng của thể loại thơ Nôm để nhận diện đặc điểm của tập thơ
Quốc âm thi tập ở cả nội dung và hình thức.
5.2. Phương pháp phân tích – tổng hợp
- Xem xét, lí giải, đánh giá những đặc trưng về nội dung và nghệ thuật thơ
Nôm Đường luật được thể hiện trong Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi.
- Khái quát và đưa ra những kết luận về đặc điểm tập thơ Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi. 3
5.3. Phương pháp so sánh – đối chiếu
Phương pháp này dùng để tạo ra tương quan so sánh nhằm chỉ ra sự tiếp nối
cũng như tính sáng tạo mới mẻ riêng biệt của đối tượng nghiên cứu.
5.4. Phương pháp thống kê – phân loại
Phương pháp này để tập hợp, thống kê những nguồn tư liệu có liên quan đến đề tài tôi đang nghiên cứu.
Để bài tiểu luận đạt được hiệu quả tốt nhất, các phương pháp và các thao tác
nghiên cứu trên đây sẽ được tôi vận dụng đan xen, liên kết chặt chẽ với nhau, hỗ trợ cho nhau.
6. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Liên quan đến đề tài Đặc trưng nội dung và hình thức thể loại trong
tập thơ Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi mà tôi đã lựa chọn, có các bài viết và
các công trình nghiên cứu sau đây:
Trong cuốn Ba thi hào dân tộc xuất bản năm 2000, Xuân Diệu đã
viết: “Bây giờ chúng ta đọc một mình thơ Nôm của Nguyễn Trãi, càng thêm
thấy hứng thú, như bản thân ta thêm lông cánh tung bay hào sảng với thơ này”.
Ở đây, Xuân Diệu đã đứng trong phạm vi thể loại “thi” tiếng Nôm và ông cho
rằng “có bản lĩnh nhất, là Hồ Xuân Hương và Nguyễn Trãi - Trong 254 bài
Quốc âm thi tập những bài, những câu, những đoạn đã hay của Nguyễn Trãi
“Thi treo giải nhất chi nhường cho ai!”. [Dẫn theo 2,tr.19 - 21]
Bùi Văn Nguyên với bài viết của mình đã có những nhận định chứng
minh tục ngữ và ca dao được sử dụng trong Quốc âm thi tập khá nhuần nhuyễn,
tác giả viết: “Có thể nói yếu tố tục ngữ, ca dao khá đậm đà trong nhiều câu,
nhiều bài thơ quốc âm của Ức Trai tiên sinh. Tiếng nói của tổ tiên ta được
truyền lại gần như nguyên vẹn trong tục ngữ, ca dao qua bao thế hệ . . chính
nhờ Nguyễn Trãi ghi lại một số câu tục ngữ ca dao trong thơ quốc âm của mình 4
mà chúng ta có được cái mốc lịch sử chắc chắn để tìm hiểu một số dạng tục
ngữ ca dao với ý nghĩa lịch sử của nó. Bùi Văn Nguyên đã có thống kê, đối
chiếu khá cụ thể, từ đó ông đi đến kết luận “cách khai thác vốn cổ trong tục ngữ,
ca dao của Nguyễn Trãi cũng linh hoạt, sáng tạo có chỗ như “lẩy” có chỗ như
“tập” có chỗ nhữ “phỏng” có chỗ lấy ý mà từ có bổ sung, hay có chỗ lấy từ mà
ý bổ sung. [Dẫn theo 1, tr.812]
Xuân Diệu trong bài Quốc âm thi tập, tác phẩm mở đầu nền thơ cổ
Việt Nam, đã bình khá sắc sảo về trường hợp gieo vần trong bài Bảo kính cảnh
giới số 22 của Nguyễn Trãi. Ông viết: “bản lĩnh của Ức Trai có cái chất cứng,
rất cứng. Cái cứng ấy lộ ra trong văn của câu thơ, nếu chẳng hạn nói “khó khăn
trọn nghĩa, cháo càng ngon” thì cùng là một câu giáo huấn bản thân mình, đặt
cá tính của mình vào: “Khó khăn phải đạo, cháo càng ngon”; láy tiếng đặt các
vần trắc lặp lại ở giữa câu, làm cho nó cứng cỏi, cương quyết, hai lần khẳng
định”. [Dẫn theo 3, tr.601] Lời bình của Xuân Diệu làm nổi bật loại gieo vần ở
giữa câu – gieo đúng vào vị trí ngắt nhịp. Ông còn tinh tế nhận ra đó là vần trắc,
loại vần rất hiếm gặp trong thơ Đường luật và ông cho rằng chính lối gieo vần
này đã làm nên bản lĩnh cứng cỏi của Nguyễn Trãi trong thơ Nôm.
Hoàng Tuệ cũng đã nói đến bản lĩnh và cống hiến của Nguyễn Trãi
đối với tiếng Việt trong “Về vấn đề văn hóa ngôn ngữ”. Tác giả khẳng định:
“Quốc âm thi tập là biểu hiện một tư tưởng chính trị, một ý chí đấu tranh.
Nhưng tập thơ còn biểu hiện những vấn đề của tiếng Việt sáu thể kỉ trước đây,
và bản lĩnh ngôn ngữ của Nguyễn Trãi trước những vấn đề ấy. Bản lĩnh ấy rất
tích cực và đó là mặt khác trong cống hiến của Nguyễn Trãi đối với tiếng Việt” [Dẫn theo 4, tr.818].
Phạm Luận với hai bài viết Nguyễn Trãi và thể thơ Việt Nam trong
Quốc âm thi tập và Thể loại thơ trong Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi và thi
pháp Việt Nam đã chỉ ra: “thể thơ của Quốc âm thi tập tuy có làm theo quy cách 5
thơ Đường luật. Song số bài hoàn toàn theo quy cách thơ Đường luật thực sự
không nhiều, số lớn bài thơ đều ít nhiều viết khác niêm luật thơ Đường” [Dẫn
theo 6, tr.839 – 840]. Theo Phạm Luận, Nguyễn Trãi sử dụng nhiều câu thơ bảy
chữ, cách ngắt nhịp phổ biến ¾ nó khác với cách ngắt nhịp phổ biến 4/3 trong
thơ Đường luật. Việc dùng câu sáu không cố định nhiều khi dẫn đến thất niêm,
điều đó cho thấy sự phóng túng của Nguyễn Trãi trong việc sử dụng cách điệu
thơ Đường luật. Pham Luận đã phân tích, chứng minh rất tỉ mỉ, thấu đáo để rút
ra kết luận: “Quá trình sáng tác thơ bằng tiếng Việt, Nguyễn Trãi đã tiếp thu sâu
sắc thi pháp luật Đường như thế nào. Nhưng điều đáng chú ý hơn là từ những
tiềm năng quý báu của thể thơ Trung Quốc này, Nguyễn Trãi đã có “một cố
gắng để xây dựng một lối thơ Việt Nam ở giai đoạn chữ Nôm mới bắt đầu hình
thành và phát triển” [Dẫn theo 7, tr.856]. Phạm Luận còn phát hiện ra sự sáng
tạo của Nguyễn Trãi về cách gieo vần lưng đã thể hiện bước mở đầu trong quá
trính xây dựng thi pháp Việt Nam.
Kiều Văn trong cuốn Thơ văn Nguyễn Trãi đã viết về cách ứng xử
của ông trên các chặng đường khác nhau. Khi giữ cương vị triều chính. “Không
một giây phút nào Nguyễn Trãi không tha thiết mang tất cả nghị lực và tài năng,
tất cả tâm hồn và tình cảm để cống hiến, phụng sự cho đất nước và dân tộc”
[Dẫn theo 10, tr.14]. Còn khi lui mình về ở ẩn tại Côn Sơn “Ông đã xử thế bằng
cách hòa nhập vào thiên nhiên. Chúng ta thấy ông hiện lên như một tiên ông,
một vị thánh hiền giữa núi non, mây nước, cỏ cây, chim muông. Tâm hồn ông,
thoát khỏi những chốn “cửa mận tường đào” đầy bon chen và bụi bậm, càng trở
nên cao khiết và đáng kính”. [Dẫn theo 10, tr.16] Thậm chí, tác giả còn nhìn
thấy mối lo cao quý của Nguyễn Trãi cả khi lâm triều lẫn khi đã lui về ở ẩn
“Cái mối lo cao quý của bậc nho thần trung trực khi ngồi cao ở miếu đường thì
lo lắng vì dân, khi xa lánh ở giang hồ thì lo lắng vì vua” [Dẫn theo 10, tr.15].
Có thể khẳng định, Nguyễn Trãi là một người luôn canh cánh trong lòng nỗi quân, dân. 6
Nhà nghiên cứu Trần Nho Thìn trong cuốn Văn học Việt Nam từ thế
kỉ X đến hết thế kỉ XIX đã quan tâm đến sự ảnh hưởng của tư tưởng – chính trị
trong sáng tác của Nguyễn Trãi, nhân cách vĩ đại cũng như tinh thần nhà Nho
của Nguyễn Trãi từ đó khẳng định cống hiến của Nguyễn Trãi đối với nền văn
học nước nhà. Trong phần bàn về “Nhân cách Nguyễn Trãi”, tác giả đã chỉ ra
mối quan ái trong phương thức ứng xử của Nguyễn Trãi “Chú ý nhiều đến đạo
làm cha và đạo làm con chứ hầu như không đề cập đến các quan hệ xã hội
khác” [Dẫn theo 11, tr.328]. Và khẳng định “Trước sau như một, Nguyễn Trãi
vẫn kiên trì đạo trung hiếu, vì trung hiếu là điều kiện để lo cho dân cho nước” [Dẫn theo 11, tr.331].
Ngôn ngữ trong thơ Nôm của Nguyễn Trãi đã được nhìn nhận trên
khá nhiều phương diện, trong đó có các đánh giá về việc sử dụng lời ăn tiếng
nói hàng ngày của nhân dân hay khẩu ngữ. Hai tác giả Hoàng Văn Hành -
Vương Lộc tiếp cận với Quốc âm thi tập từ khía cạnh đi sâu tìm hiểu một số
đặc điểm của vốn từ tiếng Việt văn học thế kỉ XV. Với việc khảo sát một số cặp
từ đối lập về cách sử dụng, về mặt cấu tạo từ, nguồn gốc của các từ đơn tiết,
song tiết và một vài hiện tượng sử dụng hư từ, từ láy trong Quốc âm thi tập, các
tác giả đã đưa ra kết luận: “Tiếng Việt thời Nguyễn Trãi đã phát triển đến mọt
trình độ tương đối cao. Điều đó biểu hiện rõ ở sự hình thành các lớp từ đối lập
nhau trong cách sử dụng và ở hệ thống các phương thức cấu tạo” [Dẫn theo 13, tr.22].
Tác giả Đinh Gia Khánh khi trình bày quan điểm của mình về thi liệu
trong thơ Nôm Nguyễn Trãi đã cho rằng: “Thành tựu lớn nhất của Nguyễn Trãi
không phải ở chỗ đồng hóa kho từ vựng và văn liệu Hán học mà là ở chỗ xây
dựng ngôn ngữ văn học dân gian trên cơ sở ngôn ngữ nhân dân và ngôn ngữ
của văn học dân gian” [Dẫn theo 14, tr.275]. Đồng thời tác giả cũng lí giải ngôn
ngữ trong văn học dân gian vốn đã xây dựng trên cơ sở của sự gọt giũa và cách 7
điệu hóa ngôn ngữ hàng ngày của nhân dân. Với việc Nguyễn Trãi “đưa khẩu
ngữ hàng ngày vào thơ ca và tận dụng khả năng của khẩu ngữ ấy để tả cảnh, tả
lòng, tả người, tả vật” [Dẫn theo 14, tr.258] đã làm cho “hình tượng thơ nhịp
nhàng, uyển chuyển và đầy màu sắc dân tộc”.
Trong luận án tiến sĩ Ngôn ngữ và thể thơ trong Quốc âm thi tập của
Nguyễn Trãi, tác giả Phạm Thị Phương Thái khi đưa ra những nhận định của
mình về việc xây dựng ngôn ngữ tiếng Việt văn hóa từ ngôn ngữ thông tục của
Nguyễn Trãi đã viết: “Là một nhà văn hóa, tư tưởng có tầm nhìn chiến lược,
Nguyễn Trãi ý thức sự cần thiết xây dựng ngôn ngữ văn hóa” và “hạt nhân cơ
bản của ngôn ngữ thơ Nôm Nguyễn Trãi là tiếng Việt” [Dẫn theo 15, tr.101].
Tác giả đã lí giải nguyên nhân dẫn đến ý thức đó chính là do đòi hỏi của xã hội
cũng như ảnh hưởng và tiềm năng diễn đạt của ngôn ngữ bình dân nên đã thôi
thúc Nguyễn Trãi đưa khẩu ngữ vào trong tác phẩm của mình. Như vậy, việc
vận dụng lời ăn tiếng nói, lối diễn đạt trong đời sống hàng ngày vào thơ Nôm
đã cho thấy Nguyễn Trãi là người có ý thức đưa khẩu ngữ vào trong văn học
viết. Đồng thời, nhà thơ đã đưa tiếng Việt giao tiếp thành tiếng Việt văn hóa.
Qua đó tác giả Phạm Thị Phương Thái khẳng định: “Với Quốc âm thi tập,
Nguyễn Trãi đã có công rất lớn trong việc xây dựng ngôn ngữ văn học, ngôn
ngữ văn hóa từ ngôn ngữ giao tiếp thông thường” [Dẫn theo 15, tr.104].
Tác giả Xuân Diệu trong bài viết Quốc âm thi tập, tác phẩm mở đầu
nền thơ cổ điển Việt Nam đã đánh giá cao những đóng góp về mặt ngôn từ của
tập thơ và dành một phần nghiên cứu về “hành văn” trong thơ Nguyễn Trãi.
Tác giả khẳng định, về mặt ngôn ngữ, Quốc âm thi tập “là một kho chất liệu
cho ta nghiên cứu lời nói câu viết của tổ tiên làm ngót sáu trăm năm trước”
[Dẫn theo 3, tr.618]. Theo Xuân Diệu, Nguyễn Trãi lấy hình tượng và ý tứ trong
những câu tục ngữ ngày xưa hoặc dựa vào lối sáng tạo của tục ngữ để tạo ra 8
những câu thơ vào loại thành công nhất, vào loại “có nhiều nội tâm nhất” [Dẫn theo 15, tr.595].
Khác với các tác giả trên, GS. Hoàng Tuệ khi nghiên cứu về Nguyễn
Trãi trực tiếp tập trung bàn về Cống hiến của Nguyễn Trãi đối với tiếng Việt.
Theo tác giả cống hiến trước hết của Nguyễn Trãi được thể hiện ở “Bản lĩnh
ngôn ngữ trong cuộc đấu tranh của Nguyễn Trãi để bảo vệ nền văn hiến lâu đời
của dân tộc” [Dẫn theo 5, tr.818]. Bản lĩnh ấy được thể hiện ở “thái độ quý
trọng và đề cao chất liệu của tiếng “Nôm”, tức tiếng Việt, văn học dân gian
truyền miệng”. Cống hiến của Nguyễn Trãi đối với tiếng Việt ở nhiều phương
diện, trước hết đó là: “Bộ phận từ vựng Việt (. .) ngữ pháp cũng là Việt, đáng
chú ý là các hư từ, ngữ điệu” [Dẫn theo 5, tr.819] và đặc biệt tục ngữ rất được
“quý chuộng” và “đề cao” trong Quốc âm thi tập. Bên cạnh đó, Nguyễn Trãi
còn làm giàu ngôn ngữ tiếng Việt bằng cách “dùng chất liệu hình thức Việt để
tiếp nhận chất liệu nội dung Hán” [Dẫn theo 5, tr.821]. Để khẳng định công lao,
vị trí của Nguyễn Trãi trong nền thơ ca viết bằng tiếng Việt và để kết thúc bài
viết GS. Hoàng Tuệ nhấn mạnh: “Cống hiến của Nguyễn Trãi đối với tiếng
Việt, đó là cống hiến thực lớn lao. Nếu như về tiếng Việt, đầu thế kỉ XIX,
Nguyễn Du đã tạo nên được niềm tự hào, thì ở thế kỉ XV, điều mà Nguyễn Trãi
đã xây dựng nên được, là niềm tin” [Dẫn theo 5, tr.826].
Trong bài viết Thiên nhiên trong thơ Nguyễn Trãi, tác giả Nguyễn
Thiên Thụ đã trình bày rất khúc chiết về vai trò của thiên nhiên trong thơ của
Nguyễn Trãi. Thiên nhiên vừa là nguồn my cảm vừa là người bạn thân của thi
nhân đồng thời cũng là biểu tượng của chân – thiện – my. Với việc chỉ ra và
phân tích những hình ảnh thiên nhiên quen thuộc thường được các nhà Nho ưa
dùng để thể hiện quan điểm đạo đức của người quân tử: Nhân – nghĩa – lễ – trí
– tín (như tùng – trúc – cúc – mai); hay triết lý Lão giáo và Phật giáo (được thể
hiện qua bài Hoàng tinh, Hòe, Mộc cận, Lão hạc, Miêu…). Nguyễn Thiên Thụ 9
khẳng định: “Nguyễn Trãi không đi chệch khỏi khuynh hướng: “văn dĩ tải đạo,
thi dĩ ngôn chí” của văn học Việt cổ. Bên cạnh đó, “Tả cảnh ngụ tình” cũng là
điểm dễ nhận thấy qua các bài thơ viết về thiên nhiên của Nguyễn Trãi [Dẫn theo 16, tr.778].
Trong cuốn Thơ Nôm Đường luật, tác giả Lã Nhâm Thìn đã có sự
thống kê cũng như phân tích khá tỉ mỉ về hê thống đề tài, chủ đề thiên nhiên
của các tác giả thơ Nôm, mà người giữ vi trí “khai sơn phá thach” là Nguyễn
Trãi. Tác giả đã chỉ ra những điểm khác biệt giữa thơ thiên nhiên trong thơ chữ
Hán và thơ chữ Nôm của các tác giả nói chung và Nguyễn Trãi nói riêng. Tác
giả cũng chỉ ra những loài động vật, thực vật chưa từng xuất hiện trong thơ ca
trước đó (niềng niêng, đòng đong, núc nác, mồng tơi, muống, mùng, đậu kê,
beo…) để khẳng định phong cách bình di,̣ đậm tính dân tôc trong thơ thiên
nhiên của Ức Trai. Nhà nghiên cứu Lã Nhâm Thìn đánh giá rất cao thơ thiên
nhiên trong Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi: “Những bức tranh thiên nhiên
của Nguyễn Trãi phong phú và nhiều tới mức phòng tranh thiên nhiên không đủ
chỗ trưng bà y, nhà thơ đã phải treo sang cả những phòng tranh dành cho mảng
đề tài khác” [Dẫn theo 17, tr.57]. Quốc âm thi tập cũng là nơi chất trữ tình, chất
thi sĩ của Nguyễn Trãi được bộc lộ đậm nét nhất. Hoặc: “Thơ thiên nhiên là
một thể tài độc lập của thơ ca, lấy thiên nhiên làm đối tượng thẩm my chủ yếu
thông qua miêu tả cảnh vật để bộc lộ tâm tình” [Dẫn theo 17, tr.30]. Nói cách
khác, theo nhà nghiên cứu Lã Nhâm Thìn thiên nhiên là tình yêu rộng lớn của
Nguyễn Trãi; đồng thời hình ảnh đó đã được Nguyễn Trãi thể hiện theo đúng
tinh thần “tả cảnh ngụ tình” truyền thống [Dẫn theo 17, tr.27].
Hay như tác giả Đặng Thanh Lê qua Nguyễn Trãi và đề tài thiên
nhiên trong dòng văn học yêu nước Việt Nam đã khẳng: “những cảnh vật nhỏ
bé, bình dị vẫn thường giấu mình trong cuộc sống hàng ngày như: nắng chiều,
mây sớm, đậu cây, bờ cỏ… Nhân vật trữ tình ở đây trở thành chủ đề cảm thụ, 10
chiếm lĩnh vẻ đẹp của thiên nhiên từ góc độ một con người hòa mình vào với
xứ sở quê hương, với nơi sinh trưởng” [Dẫn theo 18, tr.693]. Chính điều này đã
làm cho “đề tài thiên nhiên của Nguyễn Trãi có phần nào thoát li nguồn thi
hứng như sách vở với những tiều ngư canh mục, phong hoa tuyết nguyệt, xuân
lan thu cúc…đã bị công thức hóa, ước lệ hóa để hướng dần những đề tài, hình
tượng thiên nhiên chân thực, sinh động, gần gũi với tâm hồn dân tộc, tạo nên
những bức tranh thiên nhiên đầy chất thơ và chất thực nói trên” [Dẫn theo 18, tr. 695].
Có thể thấy, các bài viết và các công trình nghiên cứu liên quan tới
tác phẩm Quốc âm thi tập rất phong phú tuy nhiên liên quan đến vấn đề đặc
trưng nội dung và hình thức thể loại thì còn hạn chế. Trên cơ sở những vấn đề
liên quan tới thể loại thơ Nôm trong Quốc âm thi tập và những nguồn tư liệu
quý giá mà tôi thu thập được sẽ là những căn cứ xác đáng giúp tôi có định
hướng nghiên cứu đúng đắn để đưa ra những kết luận đảm bảo mang tính chất
chính xác và khoa học nhất trong quá trình nghiên cứu. 7. Bố cục
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, Nội dung bài nghiên cứu gồm 3 chương.
Chương 1: Nguyễn Trãi và một số vấn đề liên quan đến đề tài.
Chương 2: Đặc điểm nội dung tập thơ Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi.
Chương 3: Đặc điểm nghệ thuật tập thơ Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi. 11 NỘI DUNG CHƯƠNG 1
NGUYỄN TRÃI VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1. Khái niệm thơ Nôm Đường luật
Về tên gọi, để chỉ những bài thơ Nôm làm theo quy tắc của thể thơ
Đường luật có xen câu lục ngôn, các nhà nghiên cứu có những cách gọi: lục
ngôn thể (Dương Quảng Hàm), thể pha lục ngôn, thể thất ngôn xen lục ngôn
(Bùi Văn Nguyên), thể câu sáu chữ dùng xen câu bảy chữ (Phạm Luận).
Theo Trần Ngọc Vương, khái niệm thơ Nôm Đường luật là bao hàm
những bài thơ viết bằng chữ Nôm theo luật Đường hoàn chỉnh và cả những bài
viết theo thơ luật Đường phá cách – những bài có xen câu ngũ ngôn, lục ngôn
vào bài thơ thất ngôn. [Dẫn theo 19, tr.542].
Vì vậy, có thể đồng ý với nhận xét: “Ngoài sự khác biệt về số chữ ra
các câu lục ngôn này hoàn toàn là một bộ phận hữu cơ của thơ Đường luật, vì
nó bảo đảm được sự thống nhất nội tại về vần, luật, niêm, đối của một bài thơ
Đường luật”. Hơn nữa, khi gọi là “thơ Nôm Đường luật” thì bên cạnh yếu tố
Đường luật còn có yếu tố Nôm. Như vậy, những bài thơ thất ngôn có xen câu
lục ngôn hoặc ngũ ngôn hoàn toàn có thể được gọi là thơ Nôm Đường luật. [Dẫn theo 19, tr.542].
1.2. Điều kiện hình thành và quá trình phát triển thơ Nôm Đường luật
trong lịch sử văn học Việt Nam
1.2.1. Điều kiện hình thành thơ Nôm Đường luật
1.2.1.1. Những điều kiện văn học 12 a) Về ngôn ngữ
Tiếng Việt và tiếng hán có sự gần gũi và tương đồng ở ba phương
diện cơ bản nhất: không biến hình, tính âm tiết, tính chất tuyến tính. Thêm vào
đó là sự gần gũi về thanh điệu.
Trước hết, sự tương đồng quan trọng giữa tiếng Việt và tiếng Hán là
đặc điểm không biến hình. Đặc điểm này dễ thấy nhất là hình thức âm thanh
của từ không cố định. Sự thay đổi âm thanh, đặc biệt là phần đuôi từ tạo nên
vần, là điều không thể chấp nhận được đối với việc sáng tác thơ Đường luật –
một thể thơ có tính cố định rất cao về vần. Hơn nữa, sự thay đổi của phần phụ
tố trong ngôn ngữ biến hình làm thay đổi số lượng âm tiết của từ. Điều này
không phù hợp với việc sáng tác thơ Đường luật, một thể thơ có quy định rất chặt chẽ về số chữ.
Sự tương đồng quan trọng thứ hai là giữa tiếng Việt và tiếng Hán
cùng thuộc ngôn ngữ âm tiết tính mà phần lớn là đơn âm. Tiếng đa âm khó có
thể sáng tác được thơ Đường luật, bởi vì thơ Đường luật có số chữ cố định, mỗi
chữ đồng thời là một âm tiết trong câu.
Sự tương đồng quan trọng thứ ba giữa tiếng Việt và tiếng Hán là
tuyến tính. Đối với tiếng Việt và tiếng Hán, trật tự trước sau giữa các từ là vô
cùng quan trọng. Theo nhà nghiên cứu Phan Ngọc, “trật tự cố định kiểu trật tự
các con số không được đảo lộn” [Dẫn theo 23, tr.42]. Thơ Đường luật là thơ
không thể chấp nhận bất kì một sự lộn xộn nào dù nhỏ nhất về trật tự từ trong
câu. Bởi vì không những nó làm đảo lộn hoặc phá vỡ nội dung thông báo mà
còn không bảo đảm trật tự quy định rất chặt chẽ về niêm và luật.
Sự gần gũi về mặt thanh điệu là đặc điểm quan trọng thứ tư giữa
tiếng Việt và tiếng Hán. Vì vậy, tiếng Việt có khả năng đáp ứng hoàn toàn
những quy định về luật và niêm của thơ Đường luật. Thanh điệu của tiếng Việt 13
thỏa mãn được luật chuyển đổi bằng trắc trong từng câu thơ, sự đối lập về
thanh trong bốn câu thực và luận, sự giống nhau về thanh của chữ thứ hai của
câu chẵn, lẻ tạo thành niêm.
Như vậy, sự gần gũi tương đồng giữa tiếng Việt và tiếng Hán ở bốn
phương diện cơ bản trên là điều kiện có ý nghĩa quyết định để có thể tiếp thu
thơ Đường luật Trung Quốc chuyển hóa thành thơ Nôm Đường luật Việt Nam.
[Dẫn theo 19, tr.543 – 544]. b) Về thể loại
Trước hết đó là mối quan hệ “song phương cân đối” giữa thơ Đường
luật Trung Quốc và thơ Nôm Đường luật. Thơ Đường luật là một trong nhũng
thành tựu rực rỡ nhất của nền văn học Trung Quốc, là đỉnh cao của nền nghệ
thuật nhân loại. Từ góc độ thể loại, thơ Đường luật là thể thơ hoàn thiện và độc
đáo vào bậc nhất. Càng hoàn thiện và độc đáo thì thơ Đường luật càng có khả
năng “mở” trong giao tiếp văn học. Lựa chọn thơ Đường luật làm đối tượng
tiếp nhận để sáng tạo nên thơ Nôm Đường luật – một trong những thành tựu
được xem là xuất sắc nhất của nền văn học dân tộc, là điều hoàn toàn đúng quy luật.
Tiếp đến, thơ Đường luật có kết câu ổn định và rất chặt chẽ. Đặc
điểm này khiến cho thơ Đường luật có lợi thế hơn nhiều thể loại khác trong
giao tiếp văn họ. Tính chất mô hình hóa rất cao về mặt kết cấu của thơ Đường
luật tạo điều kiện dễ dàng cho sự tiếp thu và chuyển hóa. Vì lẽ đó, việc nhớ
được thơ Đường luật, học làm thơ Đường luật có cái khó nhưng đồng thời lại
có cái thuận so với việc làm phú, sáng tác từ khúc, viết truyện chương hồi, v.v. .
Trên cơ sở mô hình, việc làm thơ Đường luật có thể biến thành thao tác, dạy
được và học được. Tất nhiên, việc làm thơ Đường luật có hay hay không lại là
chuyện khác. Tính mô hình hóa cao của thơ Đường luật vừa là thử thách, vừa là
lợi thế cho việc sáng tác thơ Nôm Đường luật. 14
Mặt khác, thơ Đường luật luôn được đưa vào thi cử. Ở Việt Nam, bắt
đầu từ khoa thi Giáp Thìn (1304) đời Trần Anh Tông, niên hiệu Hưng Long thứ
mười hai, thơ Đường luật đã được đưa vào thi cử. Từ đó trở đi, môn thi thơ luật
Đường là môn thi luôn có trong phép thi các đời, dù cho một vài môn khác có
thể thêm hoặc bớt. [Dẫn theo 19, tr.546].
Như vậy, những điều kiện về mối quan hệ giữa thơ Đường luật Trung
Quốc và thơ Nôm Đường luật, tính chất mô hình hoáo của thơ Đường luật
Trung Quốc và việc đưa thơ Đường luật vào việc thi cử trạng nguyên của Việt
Nam đã làm cơ sở cho sự ra đời thơ Nôm Đường luật.
1.2.1.2. Những điều kiện ngoài văn học a) Về lịch sử, xã hội
Vào thế kỉ X, lịch sử Việt Nam đã thực hiện một bước ngoặt hết sức
quan trọng và hết sức có ý nghĩa: đất nước độc lập và tự chủ. Trước thế kỉ X,
trong hoàn cảnh mất nước, để khẳng định tính độc lập của văn hóa dân tộc, ý
thức của nhân dân chủ yếu hướng vào việc giữ gìn, bảo vệ truyền thống để
chống lại âm mưu đồng hóa của kẻ xâm lược. Sự “đóng cửa” trong giao lưu
văn hóa thời này không hẳn là nhược điểm mà có khi là một việc làm tích cực,
cần thiết. Sau thế kỉ X, đất nước giành được quyền tự chủ, bên cạnh ý thức giữ
gìn tinh hoa, bản sắc dân tộc là ý thức học tập, tiếp thu thành tựu nước ngoài để
làm giàu thêm truyền thống, để sáng tạo một nền văn hóa có thể sánh ngang
hàng phương Bắc. Sự “đóng cửa” giờ đây không những bộc lộ tính chất hạn
chế trong giao lưu văn hóa mà còn đẩy nền văn hóa dân tộc vào thế bị động.
Chính vì vậy, tiếp thu phương Bắc ngoài giao lưu tự nhiên còn là nhu cầu
hướng tới một động lực tinh thần to lớn, một sự “mở vửa” có ý thức, đầy đủ
hơn, sâu sắc hơn. Hoàn cảnh lịch sử với những thuận lợi cơ bản như trên là một
tiền đề quan trọng cho tiếp thu thơ luật Đường Trung Quốc để sáng tạo thơ Nôm Đường luật. 15
Song, sự hình thành tầng lớp tri thức Việt Nam ngày một đông đảo và
ngày càng có vị trí quan trọng trong xã hội cũng có ảnh hưởng trực tiếp đến sự
ra đời của thơ Nôm Đường luật. Bởi, thơ Nôm Đường luật – một hiện tượng
văn học đồng thời là một sản phẩm văn hóa, một sản phẩm “nhập ngoại” chỉ có
thể ra đời khi trong xã hội đã xuất hiện những nhà văn hóa tuy không chuyên
nghiệp nhưng có tài năng và tâm huyết. Sau thế kỉ X và nhất là từ triều đại nhà
Trần, tầng lớp trí thức Việt Nam mới xuất hiện nhiều và có vai trò to lớn.
Nguyễn Thuyên, Nguyễn Sĩ Cố - những người mà lịch sử còn ghi lại tên tuổi
với công đầu tiên sáng tác, sử dụng thơ quốc âm, đều là “người văn học”, là
những nhà văn hóa. Có thể nói, thơ Nôm Đường luật ra đời là kết quả của sự
sáng tạo đầy tinh thần dân tộc của những nhà văn hóa đó.
Mặt khác, cũng cần xác định việc một số vua chúa sáng tác Đường
luật Nôm đã góp phần kích thích sự phát triển thể loại văn học này. Với vai trò
người đứng đầu nhà nước phong kiến, họ có điều kiện thuận lợi cho việc sáng
tác thơ Nôm Đường luật. Hơn nữa chính bản thân vua, chúa say mê, hứng thú
thể loại văn học này đã là nguồn khích lệ, là nguồn hứng khởi lớn đối với
những người làm thơ bằng ngôn ngữ dân tộc. Vị trí quan trọng của Lê Thánh
Tông trong phong trào sáng tác thơ Nôm Đường luật nửa cuối thế kỉ XV, địa vị
của Trịnh Căn, Trịnh Cương, Trịnh Doanh, Trịnh Sâm trong thơ Nôm Đường
luật nửa cuối thế kỉ XVII – nửa đầu thế kỉ XIX đã phần nào xác định sự thật
này. [Dẫn theo 19, tr.547 -548].
b) Những tiền đề văn hóa, tư tưởng
Đáng lưu ý nhất về ảnh hưởng quan trọng đến sự ra đời của thơ Nôm
Đường luật là sự xuất hiện chữ Nôm. Chữ Nôm là cách viết biểu ý ngày xưa
của tiếng Việt. Sau khi Việt Nam thoát khỏi ách đô hộ của Trung Quốc vào năm
939, chữ Nôm lần đầu tiên thành chữ quốc ngữ để diễn đạt tiếng Việt qua mẫu
tự biểu ý. Hơn 1.000 năm sau đó – từ thế kỷ 10 cho đến thế kỷ 20 – một phần 16
lớn các tài liệu văn học, triết học, sử học, luật pháp, y khoa, tôn giáo và hành
chánh được viết bằng chữ Nôm. Dưới triều đại nhà Tây Sơn, toàn bộ các văn
kiện hành chánh được viết bằng chữ Nôm trong 24 năm, từ 1788 đến 1802.
Những văn bản như sổ sách, công văn, giấy tờ, thư từ, khế ước, địa bạ v.v. chỉ
đôi khi có xen chữ Nôm khi không thể tìm được một chữ Hán mang nghĩa
tương đương chỉ các danh từ riêng (như tên đất, tên làng, tên người), nhưng
tổng thể vẫn là văn bản Hán Việt bởi quan niệm sai lầm của giới sĩ đại phu các
triều đại: “nôm na là cha mách qué”. Nói cách khác, chữ Nôm là công cụ thuần
Việt ghi lại lịch sử văn hoá của dân tộc trong khoảng 10 thế kỷ, mặc dù đó là
công cụ còn chưa chứng tỏ được tính hữu hiệu và phổ dụng của nó so với chữ Hán.
Giải thuyết có thể trong lịch sử, chữ Nôm đã tạo ra từ những năm đầu
khi vó ngựa viễn chinh của phương Bắc đến Việt Nam. Những chữ Nôm đầu
tiên được sử dụng để chỉ cách gọi địa danh, hoặc những khái niệm không tồn
tại trong Hán văn, mặc dù điều này do những cứ liệu thành văn còn lại hết sức
ít ỏi, đã không thể được kiểm chứng một cách chính xác. Phạm Huy Hổ trong
Việt Nam ta biết chữ Hán từ đời nào cho rằng chữ Nôm có từ thời Hùng
Vương. Văn Đa cư sĩ Nguyễn Văn San cho rằng chữ Nôm có từ thời Sĩ Nhiếp
cuối đời Đông Hán thế kỷ thứ 2. Nguyễn Văn Tố dựa vào hai chữ “bố cái”
trong cụm từ “Bố Cái đại vương” do nhân dân Việt Nam xưng gọi Phùng Hưng
mà cho rằng chữ Nôm có từ thời Phùng Hưng thế kỷ 8. Có ý kiến khác lại dựa
vào chữ “cồ” trong quốc danh “Đại Cồ Việt” để đoán định chữ Nôm có từ thời
Đinh Tiên Hoàng. Trong một số nghiên cứu những năm 90 của thế kỷ 20, các
nhà nghiên cứu căn cứ vào đặc điểm cấu trúc nội tại của chữ Nôm, dựa vào cứ
liệu ngữ âm lịch sử tiếng Hán và tiếng Việt, so sánh đối chiếu hệ thống âm
tiếng Hán và tiếng Hán Việt đã đi tới khẳng định âm Hán Việt (âm của người
Việt đọc chữ Hán) ngày nay bắt nguồn từ thời Đường-Tống thế kỷ 8-9. Nếu âm
Hán Việt có từ thời Đường, Tống thì chữ Nôm không thể ra đời trước khi hình 17
thành cách đọc Hán Việt (nếu xét chữ Nôm với tư cách hệ thống văn tự) mà chỉ
có thể ra đời sau thế kỷ thứ 10 khi Việt Nam thoát khỏi nghìn năm Bắc thuộc
với chiến thắng của Ngô Quyền vào năm 938. [Dẫn theo 24]
1.2.2. Quá trình phát triển thơ Nôm Đường luật
Theo Trần Ngọc Vương trong Văn học Việt nam thế kỉ X – XIX –
Những vấn đề lí luận và lịch sử thì quá trình phát triển của thơ Nôm Đường luật
có thể chia làm những giai đoạn sau:
Vào thế kỉ XIII sự xuất hiện của chữ Nôm và thơ văn Nôm thể hiện
sự cố gắng nâng cao địa vị tiếng Việt trong việc xây dựng nền văn học dân tộc,
là bước ngoặc quan trọng đánh dấu sự trưởng thành của ý thức dân tộc, của nền văn hóa dân tộc.
Giai đoạn văn học thế kỉ XV – XVII, chữ Nôm có bước phát triển
vượt bậc so với thế kỉ trước với sự xuất hiện của nhiều tập thơ với quy mô đồ
sộ như: Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi (gồm 254 bài), Hồng Đức quốc âm
thi tập các tác gia nửa sau thế kỉ XV (gồm 328 bài), Bạch Vân quốc ngữ thi tập
của Nguyễn Bỉnh Khiêm (khoảng 170 bài)… Ngoài ra còn có các tác phẩm phú
Nôm của Nguyễn Giản Thanh, Nguyễn Hãng…Truyện thơ, với tác phẩm tiêu
biểu đó là Lâm truyền kì ngộ và Thạch tuyền ca khúc dài 12 câu gần với điệu
hát nói… Đặc biệt hơn thế kỉ XVI – XVII xuất hiện rất nhiều các tác phẩm thơ
ca Nôm viết bằng thể thơ dân tộc, có quy mô lớn. Ví dụ: thơ lục bát được dùng
viết tác phẩm như Lâm tuyền vãn của Phùng Khắc Hoan (185 câu), Ngọa Long
cương vãn (136 câu), Tư Dung vãn (332 câu) của Đào Duy Từ. Đồ sộ hơn vào
cuối thế kỉ XVII là sự ra đời của Thiên Nam ngữ lục, tập diễn ca lịch sử Việt
Nam bằng thơ Nôm gồm 8136 câu lục bát… Thành tựu nổi bật của hai thể thơ
này mở ra một chân trời mới cho thơ ca dân tộc, bao gồm thơ trữ tình và thơ tự sự. 18