Đặc trưng và chức năng của văn hoá - Cơ sở văn hóa Việt Nam | Trường Đại học Văn hóa Hà Nội

Đặc trưng và chức năng của văn hoá - Cơ sở văn hóa Việt Nam | Trường Đại học Văn hóa Hà Nội được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!

CÂU 1: VĂN HÓA, CÁC ĐẶC TRƯNG VÀ CHỨC NĂNG CỦA VĂN HÓA
1. Định nghĩa Văn hóa
Từ “văn hóa” rất nhiều nghĩa. Trong tiếng Việt, văn hóa được dùng theo nghĩa thông dụng để chỉ học
thức (trình độ văn hóa), lối sống (nếp sống văn hóa); theo nghĩa chuyên biệt chỉ trình độ phát triển của
một giai đoạn (văn hóa Đông Sơn)… Trong khi theo nghĩa rộng thì văn hóa hóa gồm tất cả, từ những sản
phẩm tinh vi hiện đại cho đến tín ngưỡng, phong lục, lối sống, lao động…
Phân tích các cách tiếp cận văn hóa phổ biến hiện nay (coi văn hóa như tập hợp, như hệ thông, như giá trị,
như hoạt động, như hiệu, như thuộcnh nhân cách, như thuộc tính hội…), thể xác định được 4
đặc trưng cơ bản mà tổng hợp lại, ta có thể nêu ra một định nghĩa văn hóa như sau:
Văn hóa một hệ thống hữu các giá trị vật chất tinh thần do con người sáng tạo tích lũy qua
quá trình hoạt động, thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội.
2. Các đặc trưng và chức năng của văn hóa
Văn hóa trước hết phải tính hệ thống. Đặc trưng này cần để phân hiệt hệ thống với tập hợp giúp
phát hiện những mối liên hệ mật thiết giữa các hiện tượng, sự kiện thuộc một nền văn hóa; phát hiện các
đặc trưng, những quy luật hình thành và phát triển của nó.
Như tính hệ thống văn hóa, với cách một thực thể bao trùm mọi hoạt động của hội, thực
hiện được chức năng tổ chức hội. Chính văn hóa thường xuyên làm tăng độ ổn định của hội, cung
cấp cho hội mọi phương tiện cần thiết để ưng phó vơi môi trường tự nhiên hội của mình.
nền tảng của hội lẽ chính vậy mà người Việt Nam ta dùng từ chỉ loại “nền” để xác định khái
niệm văn hóa (nền văn hóa).
Đặc trưng quan trọng thứ hai của văn hóa tính giá trị. Văn hóa theo nghĩa đen nghĩa “trở thành đẹp,
thành giá trị”, tính giá trị cần để phân biệt giá trị với phi giá trị. thước đo mức độ nhân bản của
xã hội và con người.
Các giá trị văn hóa, theo muc đích cố thể chia thành giá trị vật chất (phục vụ cho nhu cầu vật chất) và giá
trị tinh thần (phục vụ cho nhu cầu tinh thần), theo ý nghĩa có thể chia thành giá trị sử dụng, giá trị đạo đức
và giá trị thấm mĩ theo thời gian có thể phân hiệt các giá trị vĩnh cừu và giá trị nhất thời. Sự phân biệt các
giá trị theo thời gian cho phép ta có đươc cái nhìn hiện chứng– và khách quan trong việc đánh giá tính giá
trị của sự vật, hiện tượng; tránh được những xu hướng cực đoan – phủ nhận sạch trơn hoặc tán dương hết
lời.
vậy mà, về mặt đồng đại, cùng một hiện tượng thể giá trị nhiều hay ít tùy theo góc nhìn, theo
bình diện được xem xét. Muốn kết luận một hiện tượng thuộc phạm trù văn hóa hay không phải xem
xét mối tương quan giữa các mức độ “giá trị” và “phi giá trị” của nó. về mặt lịch đại, cùng một hiện tượng
sẽ thể giá trị hay không tùy thuộc vào chuẩn mực văn hóa cùa từng giai đoạn lịch sử. Áp dụng vào
Việt Nam, việc đánh giá chế độ phong kiến, vai tcủa Nho giáo, các triều đại nhà Hồ, nhà Nguyễn…
đều đòi hỏi một tư duy biện chứng như thế.
Nhờ thường xuyên xem xét các giá trị văn hóa thực hiện được chức năng quan trọng thứ hai chức
năng điều chỉnh xã hội, giúp cho xã hội duy trì được trạng thái cân bằng động, không ngừng tự hoàn thiện
thích ứng với những biến đổi của môi trường, giúp định hướngc chuẩn mực, làm động lực cho sự
phát triển của xã hội.
Đặc trưng thứ ha của văn hóa là tính nhân sinh. Tính nhân sinh cho phép phân biệt văn hóa như một hiện
tượng xã hội (do con người sáng tạo, nhân tạo) với các giá trị tự nhiên (thiên tạo). Văn hóa là cái tự nhiên
được biến đổi bởi con người. Sự tác động của con người vào tự nhiên có thể mang tính vật chất (như việc
luyện quặng, đẽo gỗ…) hoặc tinh thần (như truyền thuyết về các cảnh quan tự nhiên).
Do mang tính nhân sinh, văn hóa trở thành sợi dây nối liền con người với con người, thực hiện chức
năng giao tiếp và có tác dụng liên kết họ lại với nhau. Nếu ngôn ngữ là hình thức của giao tiếp thì văn hóa
là nội dung của nó.
Văn hóa còn có tính lịch sử. Nó cho phép phân biệt văn hóa như sản phẩm của một quá trình và được tích
lũy qua nhiều thế hệ với văn minh như sản phẩm cuối cùng, chỉ ra trình độ phát triển của từng giai đoạn.
Tính lịch sử tạo cho văn hóa tính bề dày một chiều sâu, nó buộc văn hóa thường xuyên tự điều chỉnh, tiến
hành phân loại phân bố lại các giá trị. Tính lịch sử được duy trì bằng truyền thống văn hóa. Truyền
thông văn hóa những giá trị tương đối ổn định (những kinh nghiêm tập thể) được tích lũy tái tạo
trong cộng đồng người qua không gian thời gian, được đúc kết thành những khuôn mẫu hội cố
định hóa dưới dạng ngôn ngữ, phong tục, tập quán, nghi lễ, luật pháp, dư luận…
Truyền thông văn hóa tồn tại nhờ giáo dục. Chức năng giáo dục chức năng quan trọng thứ của văn
hóa. Nhưng văn hóa thực hiện chức năng giáo dục không chỉ bằng những giá trị đã ổn định (truyền
thống), còn bằng cả những giá trị đang hình thành. Hai loại giá trị này tạo thành một hệ thống chuẩn
mực con người hướng tới. Nhờ văn hóa đóng vai trò quyết định trong việc hình thành nhân
cách (trồng người). Từ chức năng giáo dục, văn hóa chức năng phái sinh đảm bảo nh kế tục của
lịch sử. Nó là một thứ “gien” xã hội di truyền phẩm chất con người lại cho các thế hệ mai sau.
CÂU 2: MỐI LIÊN HỆ GIỮA ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM
GIÁO TRÌNH TRẦN QUỐC VƯỢNG TRANG 33
CÂU 3: CÁC ĐẶC ĐIỂM CỦA LOẠI HÌNH VĂN HÓA VIỆT NAM
LOẠI HÌNH VÀ ĐẶC ĐIỂM VĂN HÓA VIỆT NAM
1. Khái niệm loại hình văn hóa
- Khái niệm loại hình văn hoá được hình thành trên cơ sở về sự khác biệt của các
yếu tố: môi trường tự nhiên, phương thức sản xuất kinh tế, lối cư trú. Từ ba yếu
tố cơ bản này, giới nghiên cứu quy văn hoá nhân loại vào hai loại hình: văn hoá
gốc nông nghiệp và văn hoá gốc du mục (tương ứng là các nền văn hoá phương
Đông và phương Tây)
2. Đặc điểm các loại hình văn hóa
Văn hóa gốc nông nghiệp:
-Chủ yếu ứng với môi trường sống
của các cộng đồng cư dân ở phương
Đông.
Văn hóa gốc du mục:
-Chủ yếu ứng với môi trường
sống
của các cộng đồng cư dân ở
phương
Tây.
-Môi trường tự nhiên: là xứ nóng sinh
ra mưa nhiều (ẩm), tạo nên nhiều con
sông lớn và các vùng đồng bằng trù
phú.
-Môi trường tự nhiên: là xứ lạnh với
khí hậu khô, không thích hợp cho
thực vật sinh trưởng, trừ những vùng
đồng cỏ rộng.
-Nghề nghiệp chính: sinh sống bằng
nghề trồng trọt là chính, do đó hình
thành lối sống định cư.
-Nghề nghiệp chính: sinh sống bằng
chăn nuôi là chính, do đó hình thành
lối sống du cư.
-Tổ chức đời sống: lo tạo dựng cuộc
sống ổn định lâu dài, không xáo trộn.
-Tổ chức đời sống: lo tổ chức để
thường xuyên di chuyển gọn gàng,
nhanh chóng, thuận tiện.
-Đặc trưng văn hóa: trọng tĩnh (cuộc
sống yên bình, ít di chuyển).
-Đặc trưng văn hóa: trọng động
(cuộc sống năng động, di chuyển
nhiều).
- Ứng xử với môi trường tự nhiên:
tôn trọng, hòa hợp với thiên nhiên.
Người dân sống phụ thuộc nhiều vào
thiên nhiên, ở cố định một chỗ với cái
nhà, cái cây của mình nên có thức tôn
trọng,không dám ganh đua với tự
nhiên; sống hòa hợp với tự nhiên là
mong muốn của cư dân; tận dụng tự
nhiên: ăn thực vật là chủ yếu; ưu
điểm: con người giữ gìn được môi
trường sống tự nhiên; nhược điểm: rụt rè,
e ngại thậm chí tôn sùng tự nhiên
-Ứng xử với môi trường tự nhiên: coi
thường và luôn muốn chinh phục, chế
ngự tự nhiên.
Cư dân du mục nếu thấy ở nơi này
không thuận tiện có thể dễ dàng bỏ đi
nơi khác, do vâỵ dẫn đến tâm lý coi
thường tự nhiên. Bởi vâỵ, người
phương Tây luôn có tham vọng chinh
phục và chế ngự tự nhiên ; tận dụng ;chủ yếu ăn động vật.
Uư điểm:khuyến khích con người dũng cảm đối mặt với tự nhiên, khuyến
khích khoa học phát triển; nhược
điểm: hủy hoại môi trường
-Lối nhận thức,tư duy: tổng hợp - biện
chứng.
-Lối nhận thức,tư duy:phân tích - siêu
hình.
- Hệ thống tri thức thu được bằng
con đường kinh nghiệm, chủ quan,
cảm tính.
-Khoa học hình thành theo con
đường thực nghiệm , khách quan, lý
tính
- Sức thuyết phục thấp, nhưng bao giờ
cũng diễn đạt ngắn gọn, súc tích,
thâm thúy. Do được hình thành một
cách tự nhiên (không bị giới hạn đối
tượng) và được kiểm chứng bằng kinh
nghiệm của nhiều thế hệ nên tính
đúng của tư duy tổng hợp - biện
chứng thường khá cao; ưu điểm: nhìn
nhận vấn đề toàn diện, luôn thấy
mối quan hệ giữa chúng; nhược điểm:
thiếu triệt để, sâu sắc.
-Tính chặt chẽ và sức thuyết phục
cao. Đây là lí do khiến khoa học phát
triển nhanh - tư tưởng trước sau sẽ có
tư tưởng sau thay thế; ưu điểm: có sự
sâu sắc, phát triển mạnh các ngành
khoa học chuyên sâu; nhược điểm:
thiếu toàn diện.
-Xu hướng khoa học: thiên về thiên
văn, triết học tâm linh và tôn giáo.
-Xu hướng khoa học: thiên về khoa
học tự nhiên và kỹ thuật.
-Tổ chức cộng đồng: con người nông
nghiệp trọng tình, dẫn đến thái độ
trọng đức, trọng văn, trọng phụ nữ.
-Tổ chức cộng đồng: con người du
mục trọng lý trí, dẫn đến trọng sức
mạnh, trọng tài, trọng võ, trọng nam
giới.
-Cách tổ chức cộng đồng: theo lối
linh hoạt
-Cách tổ chức cộng đồng: theo
nguyên tắc
-Con người cư xử bình đẳng ( dân
chủ)
-Quyền lực nằm tuyệt đối trong tay
người cai trị- quân chủ.
-Tâm lí coi trọng tập thể, cộng đồng -Tâm lí coi
trọng cá nhân
-Ứng xử với môi trường xã hội: thái
độ dung hợp trong tiếp nhận và mềm
dẻo, hiếu hòa trong đối phó.
-Ứng xử với môi trường xã hội: ứng
xử độc tôn trong tiếp nhận và cứng
rắn, hiếu thắng trong đối phó.
-Tôn giáo: tín ngưỡng đa thần cổ xưa -Tôn giáo: tín
ngưỡng đa thần sơ khai nhanh chóng chuyển sang nhất thần giáo và tôn giáo độc
tôn
được kế tục bằng đa tôn giáo
-Văn học nghệ thuật: người gốc nông
nghiệp thiên về thơ, nhạc trữ tình.
-Văn học nghệ thuật: thiên về
truyện, kịch, múa sôi động.
------- Đây là hai loại hình văn hóa cơ bản, cố tính chất bao trùm, sự phân chia 2
loại hình văn hóa ở trên chủ yếu dựa vào văn hoá gốc.
Ngày nay, xu thế giao lưu văn hóa đa chiều khiến hai loại hình văn hóa ấy có sự
giao thoa, xích lại gần nhau.
CÂU 4: TIẾN TRÌNH VĂN HÓA VIỆT NAM (GIAI ĐOẠN VĂN HÓA BẢN ĐỊA)
Lớp văn hóa bản địa Lớp văn hóa bản địa được hình thành qua hai giai
đoạn: giai đoạn văn hóa tiền sử và giai đoạn văn hóa Văn Lang – Âu Lạc.
Thành tựu lớn nhất ở giai đoạn văn hóa tiền sử của cư dân Nam-Á là sự hình thành nghề nông nghiệp lúa
nước.
Trong năm trung tâm xuất hiện cây trồng, Đông Nam Á chính là trung tâm nông nghiệp cổ xưa nhất. Còn
theo các tài liệu cổ thực vật học thì việc cây lúa có nguồn gốc từ đây là điều không còn nghi ngờ gì: trung
tâm thuần dưỡng lúa là vùng đông nam Himalaya và khu vực sông nước Đông Nam Á. Các tác giả Lịch
sửViệt Nam khẳng định: “Trên cơ sở kinh tế hái lượm phát triển ở vùng rừng nhiệt đới, các bộ lạc Hòa
Bình đã thực hiện một bước nhảy có ý nghĩa lớn lao trong đời sống nhân loại: phát minh nông nghiệp…
Đông Nam Á là một trong những trung tâm phát sinh nông nghiệp sớm nhất”.
Ngoài cây lúa và kĩ thuật trồng lúa, còn phải kể đến một số thành tựu đặc biệt khác của Đông Nam Á cổ
đại:
a) Việc trồng dâu nuôi tằm để làm đồ mặc và tục uống chè;
b) Việc thuần dưỡng một số gia súc đặc thù như trâu, gà (trong cuốn Nguồn gốc các loài, E. Darwin đã
khẳng định rằng nguồn gốc của con gà nuôi là xuất phát từ con gà rừng Đông Nam Á);
c) Việc làm nhà sàn để ở và dùng các cây thuốc để chữa bệnh. Truyền
thuyết phương Nam đã đánh dấu giai đoạn văn hóa này bằng hình ảnh
Thần Nông, nhân vật thần thoại này đã được bổ sung vào kho tàng văn
hóa Trung Hoa.
Giai đoạn văn hóa Văn Lang – Âu Lạc kế tục giai đoạn tiền sử cả về không gian văn hóa, thời gian văn
hóa và thành tựu văn hóa. Nếu dựa vào thư tịch cổ và truyền thuyết thì có thể hình dung giai đoạn này
khởi đầu từ khoảng giữa thiên niên kỉ III trước Công nguyên.
Về mặt thời gian, thiên niên kỉ thứ III trước Công nguyên ứng với giai đoạn đầu thời đại đồ đồng, cũng
chính là thời điểm hình thành chủng Nam-Á (Bách Việt).
Thành tựu văn hóa chủ yếu của giai đoạn Văn Lang – Âu Lạc, sau nghề nông lúa nước, chính là nghề
luyện kim đồng. Cả trên phương diện này, vai trò của vùng văn hóa Nam-Á đối với khu vực cũng hết sức
to lớn; đồ đồng Đông Sơn và ảnh hưởng của nó đã tìm thấy khắp nơi – từ nam Trung Hoa, Thái Lan đến
toàn bộ vùng Đông Nam Á hải đảo.
Giai đoạn từ 3-2 nghìn năm trước Công nguyên cho đến vài trăm năm trước Công nguyên đã tạo nên một
đỉnh cao rực rỡ trong lịch sử văn hóa dân tộc và có ảnh hưởng lớn đến toàn khu vực.
Vào đầu giai đoạn này, đỉnh cao đó là thành tựu chung của các dân tộc Đông Nam Á cổ đại. Không phải
vô cớ mà D.V. Deopik gọi thế kỉ V trước Công nguyên là “thế kỉ của phương Nam”. Đúng như Ja.V.
Chesnov nhận xét: “Về hàng loạt phương diện của văn hóa – từ sản xuất nông nghiệp cho đến lĩnh vực
thần thoại – Đông Nam Á đã có những ảnh hưởng lớn, vượt rất xa ra ngoài ranh giới những láng giềng
trực tiếp của nó… Việc tạo nên những thứ như cây lúa trồng, nghề luyện kim đồng, hoặc những thành tựu
văn hóa khác… là kết quả sáng tạo của rất nhiều dân tộc lớn nhỏ đã tạo nên trong suốt chiều dài lịch sử
nhiều nghìn năm của mình cái thế giới độc đáo được gọi là Đông Nam Á”. Chính những thành tựu của thế
giới Đông Nam Á cổ đại mà trong đó có phần đóng góp của tổ tiên các dân tộc Việt Nam ấy đã làm nên
cái nền vững chắc cho sự phát triển của văn hóa Việt Nam sau này.
CÂU 5: TRIẾT LÝ ÂM DƯƠNG, NGŨ HÀNH TRONG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA NGƯỜI VIỆT
Triết lý Âm Dương đối với tính cách người Việt:
Việt Nam nằm ở khu vực Đông Nam Á - cái nôi sinh ra triết lý Âm Dương nguyên thủy
đồng thời chịu sự ảnh hưởng rất lớn từ văn hóa Trung Hoa - nơi phát triển và hoàn thiện
triết lý Âm Dương nên có thể thấy triết lý Âm Dương đã xuất hiện ở Việt Nam từ rất lâu và
người Việt cũng có những lý giải của mình về triết lý này.
Trong hai quy luật trong triết lý Âm dương thì quy luật “trong dương có âm và trong âm có
dương” ảnh hưởng rõ nét hơn với lối tư duy và lối sống của người Việt . Có rất nhiều quan
niệm dân gian thể hiện triết lý này như: trong cái rủi có cái may, trong dở có hay,… Từ đó
nó cũng hình thành nên “triết lý sông quân bình” cố gắng giữ lại sự hài hòa âm dương trong
các mặt của cuộc sống. Và cũng chính nhờ triết lý sống này đã tạo ra cộng đồng người Việt
luôn thích nghi cao với mọi hoàn cảnh sống và luôn lạc quan.
Quy luận “chuyển hóa âm dương” tuy không sâu sắc bằng nhưng ta vẫn có thể thấy nó biểu
hiện qua các văn học dân gian như: trèo cao ngã đau, khổ tận cam lai,
Triết lý Âm Dương đối với tư duy người Việt:
Một trong những tư duy đặc trưng của người Việt xuất phát từ triết lý Âm Dương là tư duy
“lưỡng phân lưỡng hợp”, âm dương luôn đi cùng với nhau. Tư duy này được thể hiện rõ nét
trong hầu hết các phương diện của người Việt khi mà mọi thứ thường đi theo đôi theo cặp
chứ ít khi nào đi đơn lẻ.Ví dụ như người Việt cho rằng tổ tiên của mình là con cháu Rồng-
Tiên, hay là loại bánh truyền thống của Việt Nam là bánh chưng - bánh dày cũng được đi
theo cặp để tượng trưng cho trời và đất,… Ngay cả một số khái niệm văn hóa khi du nhập
vào việc Nam cũng được nhân đôi lên để phù hợp với lối tư duy này. Ví dụ như ông Tơ
Hồng là người cai quản chuyện nhân duyên ở Trung Hoa thì khi du nhập vào Việt Nam đã
trở thành ông Tơ - bà Nguyệt.
Bên cạnh đó thì hai hình vuông và tròn - biểu tượng cho Âm và Dương cũng xuất hiện thành
cặp trong đời sống văn hóa của người Việt với quạn niệm của sự hoàn thiện. Ví dụ như khi
chúc mừng người phụ nữ sau sinh thì người Việt có câu “mẹ tròn con vuông” với ý mẹ con
đều mạnh khỏe bình an, hay như trong đồng tiền cổ Việt Nam sẽ có một lỗ vuông ở giữa
Ảnh hưởng của triết lý Âm Dương trong văn hóa ẩm thực người Việt:
Là một đất nước nằm ở khu vực thích hợp trồng trọt rất nhiều loại cây trái nên Việt Nam có
một nền ẩm thực vô cùng phong phú và hầu hết các món ăn đều là sự kết hợp cầu kỳ của
nhiều loại nguyên liệu khác nhau. Sự kết hợp này không chỉ chú ý hài hòa về mặt vị giác mà
nó còn được suy xét nhiều về đảm bảo hài hòa hai yếu tố Âm Dương. Sự hài hòa này được
thể hiện ở ba phương diện.
Thứ nhất, các thành phần và cách chế biến phải đảm bảo sự cân bằng Âm Dương trong món
ăn. Người Việt phân biệt thức ăn theo năm mức từ Âm đến Dương, đó là Hàn (lạnh), Lương
8
(mát), Bình (trung bình), Ôn (ấm), Nhiệt (nóng). Khi chế biến thức ăn cần tuân thủ nguyên
tắc này để đảm bảo thức ăn ngon miệng và tốt cho sức khỏe. Ví dụ như trong món cá kho
với cá thuộc tính hàn thì người Việt hay cho thêm một số nguyên liệu mang tính nhiệt như
gừng, tiêu, ớt,…
Thứ hai, thức ăn đưa vào cơ thể cần đảm bảo sự cân bằng Âm Dương trong cơ thể. Theo
quan niệm của người Việt thì các bệnh tật sinh ra là do sự mất cân bằng Âm Dương trong cơ
thể nên khi bị ốm có thể giúp cơ thể khỏi bệnh bằng các món ăn giúp điều chỉnh sự mất cân
bằng này. Ví dụ như khi cơ thể bị cảm (quá âm) thì nên ăn các món ăn thuộc nhiệt như nước
gừng, cháo hành,…
Thứ ba, cần đảm bảo hài hòa Âm Dương giữa con người và môi trường trong ẩm thực. Tùy
vào môi trường mà nên chọn các loại món ăn phù hợp. Ví dụ như trời nóng thì nên ăn các
món có tính âm còn trời lạnh thì nên ăn các món ăn có tính dương
Ngoài ra, các món ăn đặc trưng trong các dịp lễ quan trọng của người Việt thường hội đủ cả
yếu tố Âm và Dương với ý nghĩa toàn vẹn hòa hợp. Ví dụ như loại bánh phu thê xuất hiện
9
trong ngày cưới của người Việt là loại bánh hình tròn bọc trong khuôn hình vuông, ruột có
dừa trắng, đậu vàng, mè đen, lá xanh, buộc lạc đỏ. Đảm bảo có đầy đủ các yếu tố Âm
Dương và Ngũ hành với hy vọng cuộc sống hôn nhân hòa hợp, hạnh phúc.
Có thể thấy người Việt đã vận dụng những tư duy và lý giải của mình trong văn hóa ẩm
thực từ đó tạo nên những bữa ăn đa dạng, giàu dinh dưỡng nhưng vẫn mang nét đặc trưng
của nền nông nghiệp lúa nước.
Ảnh hưởng của triết lý Âm Dương trong văn hóa trang phục của người Việt:
Nếu trong ẩm thực người Việt coi trọng việc cân bằng Âm Dương thì ở một số phương diện
đời sống văn hóa khác người Việt lại có phần trọng Âm hơn. Điển hình như trong trang
phục truyền thống của người Việt thì thường có xu hướng chọn các màu tối, nhã nhặn và
được thiết kế với phong cách kín đáo, tế nhị. Ví dụ như các trang phục xưa ở miền Bắc
thường có màu nâu, màu gụ còn ở miền Nam thì là màu đen. Đây cũng có thể xuất phát từ
đặc điểm ngoại hình của người Á Đông với các nét đẹp mềm mại và nhu hòa chứ không
phải là nét đẹp sáng chói rực rỡ như người phương Tây. Và với các nét đẹp này thì người Á
Đông thường cho rằng nó sẽ thể hiện rõ nhất dưới một môi trường “thuộc Âm” khi mà mọi
thứ dường như tiềm ẩn dưới một lớp bụi mờ ảo.
Về sau với sự du nhập của văn hóa phương Tây - nơi cho rằng các vẻ đẹp đến từ sự rực rỡ
chói lọi, các trang phục của người Việt được cải tạo để có thể đưa thêm các yếu tố dương
vào. Có thể thấy rõ trong trang phục truyền thống của người Việt thời hiện đại, là áo dài. Áo
dài có thể nói là một trang phục hài hòa Âm Dương mà vẫn tôn nên nét đẹp nhu hòa kín đáo
của người Việt. Phần trên của áo dài thường được may bó sát để tôn nên các đường nét cơ
thể của người mặc, phần dưới lại lơi ra để nét đẹp trở nên kín đáo và thướt tha hơn. Màu sắc
của áo dài cũng đa dạng và có nhiều màu rực rỡ hơn chứ không chỉ là những màu thâm hoặc
nâu như xưa
Ảnh hưởng của triết lý Âm Dương trong văn hóa ở của người Việt:
Trong văn hóa ở của Việt Nam thì sự xuất hiện của triết lý Âm Dương cũng thể hiện rõ nét
qua cách người Việt xây nhà và tổ chức không gian cảnh quan. Các kết cấu trong dựng nhà
như “kèo-cột, đấu-củng, xà-bảy,..” luôn là sự kết hợp của Âm Dương và là nét độc đáo
trong kiến trúc người Việt xưa. Trong việc tổ chức không gian cảnh quan quanh nhà thì
người Việt thường có một cái ao, hồ hay giếng là yếu tố Âm để cân bằng với yếu tố Dương
là công trình ở. Bởi có như vậy thì cuộc sống mới “người khang vật thịnh”. Ngoài ra khi xây
nhà thì người Việt thường coi trọng bên trái và các số lẻ hơn.
Bên cạnh đó thì khi làm nhà, chủ nhà thường coi trọng yếu tố phong thủy, lựa chọn hướng
nhà cho phù hợp với tuổi của gia chủ để giúp gia chủ có một cuộc sống thuận lợi hơn. Việc
này tuy hơi có phần mê tín nhưng nó đã hình thành trong nếp sống của người Việt từ lâu và
vẫn hiện vẫn được nhiều người coi trọng
Ảnh hưởng của triết lý Âm Dương trong văn hóa tinh thần của người Việt:
3.6.1. Về mặt tín ngưỡng
11
Tín ngưỡng phồn thực cũng một lần nữa khẳng định sử ảnh hưởng của triết lý Âm Dương
đối với đời sống văn hóa người Việt. Ở Việt Nam, tín ngưỡng này thờ cơ quan sinh dục nam
và nữ ( Âm và Dương) và thờ hành vi giao phối (sự hài hòa Âm Dương).
Với các tín ngưỡng đa thần khác thì người Việt thường lấy chất âm tính làm căn bản, dẫn tới
lối sống tình cảm trọng nữ. Một tín ngưỡng đặc trưng khác của Việt Nam cũng thể hiện rõ
tính chất này là tục thờ Mẫu. Ngoài ra một số tín ngưỡng khác khi du nhập vào Việt Nam
cũng có chút biến đổi cho phù hợp với tư duy này của người Việt. Như là các vị Phật ở Việt
Nam thường được nữ tính hóa cũng như khi nhắc đến đạo Phật ở Việt Nam người ta thường
để ý nhiều đến vị Quan Thế Âm Bồ Tát.
Với tư duy tin ngưỡng về con người thì người Việt cũng coi trọng mối quan hệ giữa con
người với Âm Dương đặc biệt là Âm. Theo người xưa, chết là việc linh hồn đi sang cõi âm
về với tổ tiên và người Việt cũng rất coi trọng Việt thờ cúng tổ tiên. Người Việt thường tổ
chức ngày giỗ hằng năm để tưởng nhớ người đã mất. Vào các dịp Tết thì bên cạnh Việt ăn
mừng năm mới thì người Việt còn coi nó là dịp đưa các linh hồn người đã mất về đoàn tụ
với gia đình.
3.6.2. Về mặt phong tục:
Triết lý Âm Dương ảnh hưởng đến nhiều phong tục tập quán của người Việt và rõ nét nhất
là phong tục tang lễ. Trong tang lễ truyền thống người Việt chủ đa phần dùng màu trắng
(màu của hành Kim) thay vì màu đen như nhiều quốc gia khác, các nghi thức cúng, đưa tiễn
người chết đều được thực hiện theo đúng trình tự ưu tiên của ngũ hành.
Trong các lễ hội truyền thống lớn của người Việt luôn có hai phần là phần lễ và phần hội.
Phần lễ thường là sự giao tiếp với thế giới âm với ý muốn cầu nguyện và tạ ơn, còn phần hội
là thời gian để mọi người vui chơi giao lưu với nhau thuộc về phần dương.
3.6.3. Nghệ thuật:
Nghệ thuật thanh sắc ở Việt Nam thường tuân thủ theo nguyên tắc đôi xứng hài hòa, nghệ
thuật múa thường theo các đội hình vuông tròn và xây dựng dựa trên cơ sở tương quan giữa
các yếu tố Âm Dương. Các nhịp điệu thường được chia theo nhịp chẵn và nội dung cũng
mang đậm tính trữ tình như tính cách đặc trưng của người Việt Nam.
Trong văn học dân gian của người Việt luôn thể hiện rõ tư tưởng “trong âm có dương trong
dương có âm, âm cực sinh dương cực và dương cực sinh âm”. Ví dụ như: không ai giàu ba
họ, không ai khó ba đời
THUYẾT NGŨ HÀNH
Thuyết âm dương ngũ hành thể hiện nhiều trong văn hoá Việt Nam,
trong các khía cạnh đời sống và ảnh hưởng một cách sâu sắc đến bản sắc văn
hóa dân tộc, hình thành nên tính cách người Việt Nam.
Ứng dụng của thuyết ngũ hành trong đời sống văn
hóa người Việt
1. Ẩm Thực
Người Việt Nam chúng ta phân biệt món ăn theo năm mức độ hay còn
gọi là năm mức âm dương ứng với ngũ hành, luật âm dương bù trừ và chuyển
hóa được tuân thủ nghiêm ngặt trong hầu hết các món ăn ngay từ khâu chế
biến. Người Việt chia thức ăn ra năm mức âm dương tương ứng với ngũ
hành:
- Thực phẩm có tính Hàn (lạnh),âm
thịnh ứng với hành Thuỷ
- Thực phẩm có tính Nhiệt (nóng),
dương (thịnh) ứng với hành
Hoả
- Thực phẩm có tính Ôn (âm),
dương ít ứng với hành Mộc
- Thực phẩm có tính Lương (mát),
âm ít ứng với hành Kim
- Thực phẩm có tính Bình (trung
tính) ứng với hành Thổ
Ẩm thực Việt rất nghiêm ngặt cũng rất chú trọng theo quy luật âm
dương, bù trừ và chuyển hóa khi chế biến món ăn. Người Việt có thói quen
sử dụng rất nhiều loại gia vị, gia vị giúp kích thích dịch vị, dậy lên mùi thơm
của món ăn, ngoài ra còn chứa kháng sinh thực vật giúp bảo quản thức ăn,
hạn chế sự sinh sôi này nở của các vi sinh vật, điều hòa âm dương, hàn nhiệt
trong thức ăn. Khi chế biến còn kết hợp rất nhiều loại nguyên liệu khác nhau
một cách hài hòa theo quy tắc âm dương ngũ hành để món ăn trở nên ngon và
hấp dẫn hơn.
Ngoài ra còn tùy theo vùng miền mà cách chế biến món ăn được thay
đổi theo khẩu vị cũng như tính linh hoạt trong quy tắc âm dương ngũ hành
nhằm đảm bảo sự cân bằng âm dương giữa con người và môi trường. Người
Việt chúng ta cũng thường có thói quen ăn uống theo khí hậu và theo mùa:
- Mùa hè nóng nực mang tính nhiệt - hành hoả thì ăn các loại thức ăn tính
hàn (mát) , có nước (âm-hành thuỷ), vị chua (âm) dễ ăn, dễ tiêu hoá, giải
nhiệt
- Mùa đông lạnh mang tính hàn ( âm) ăn các loại thức ăn khô, nhiều mỡ, cay
nồng như các món chiên, xào để vừa ngon vừa làm ấm cơ thể
Theo quan niệm của người Việt, con người mắc bệnh là do sự mất cân
bằng âm dương của cơ thể, và thức ăn thường lại chính là liều thuốc hữu hiệu
cho sự mất cân bằng âm dương ấy, giúp cơ thể phục hồi nhanh chóng.
Xôi ngũ sắc được xem như là một nét văn hóa trong ẩm thực người
Việt Nam chúng ta nói chung và các dân tộc thiểu số ít người như Tày, Nùng,
Mường nói riêng. Người xưa cho rằng sự tồn tại của năm vật chất kim, mộc,
thủy, hỏa, thổ tạo nên sự tươi tốt của thiên - địa - nhân, Năm màu xôi ngũ sắc
tượng trưng cho triết lý âm dương ngũ hành và con người hòa hợp với nhau,
Xôi ngũ sắc là món ăn truyền thống trong các dịp lễ, Tết. Ăn xôi năm màu sẽ
mang lại sự may mắn, tốt lành.
Xôi ngũ sắc hội tụ những giá trị truyền thống, hiện đại vừa mang ý
nghĩa về quan niệm vũ trụ vừa mang triết lý âm dương , vừa mang ý nghĩa
nhân sinh cao đẹp, Màu đỏ (hoả) tượng trưng cho khát vọng, Màu vàng
(thổ),màu tím đen (thuỷ) tượng trưng cho trái đất trù phú, Màu xanh (mộc
tượng trưng cho màu xanh của núi rừng Tây Bắc, Màu trắng (kim) tượng
trưng cho tình yêu trong trắng thủy chung.
2. Trang phục
Theo phong thuỷ, màu sắc trang phục đóng một vai trò không nhỏ
trong việc cân bằng, hỗ trợ và điều hoà yếu tố âm dương - ngũ hành. Mỗi một
hành theo phong thủy sẽ mang một hành trong Ngũ hành (Kim, Mộc, Thủy,
Hỏa, (Thổ) và mỗi hành ấy lại có một màu sắc riêng cho mình, liên quan đến
màu sắc của hành khác theo cơ chế sinh – khắc trong Hai hành.
Với việc hoạt động theo quy tắc khắc - sinh thì việc mặc đồ màu gì
cũng sẽ ảnh hưởng đến vận của mình có thể là xui xẻo, hoặc may mắn. Mặc
dùng màu và hợp mệnh sẽ gặp nhiều may mắn, tiền tài, thuận lợi trong công
việc. Màu sắc đóng vai trò quan trọng trong phong thủy cũng như cân bằng
mọi thứ trong cuộc sống. Đặc biệt là đối với những người làm văn phong,
làm ăn lớn trong các dự án thì việc áp dụng quy tắc ngũ hành vào là một điều
tất yếu. Về nguyên tắc, chọn các màu của hành sinh cho hành bản mệnh. Thứ
hai, màu của hành tương hòa với hành bản mệnh. Nếu không, có thể chọn
màu của hành bị hành bản mệnh khắc cũng được. Và ngược lại, sẽ kỵ các
màu của hành khắc hành bản mệnh, thứ hai là màu của hành được hành bản
mệnh sinh cho, vì khi sinh cho hành khác hành bản mệnh phải tiết khí nên bị
suy yếu
Mệnh Kim: Mặc đồ có màu trắng, xám, sửa hay học sẽ thuận lợi trong
làm ăn, buôn bán. Ngoài ra, có thể lựa chọn những tông màu khác như
vàng, nâu (Thổ), nên tránh đỏ, cam (mệnh Hỏa) tương khắc.
Mệnh Mộc: Nên chọn những bộ đồ có thiên hướng xanh lá cây. Hoặc lựa
chọn những màu như đen, xanh nước biển (mệnh Thủy) để phối cùng
4
cũng rấ-t tất. Đối với người mệnh Mộc thì tránh các màu như xám, ghi
(mệnh Kim) tương khắc.
Mệnh Hỏa: Người mệnh này mặc đồ có màu đỏ, hồng, tím, cam (màu
tương hợp) sẽ hợp và thuận lợi cho công việc, ngoài ra, có thể lựa chọn
màu xanh lá cây (mệnh Mộc). Nên tránh các màu như xanh biển, xanh da
trời (mệnh Thủy) tương khắc.
Mệnh Thổ:Nên chọn mặc đồ có màu vàng, nâu (màu tương hợp) sẽ rất
hợp và thuận lợi cho công việc. Bên cạnh đó người mệnh Thổ cũng có thể
lựa chọn những tông màu khác như đỏ, hồng, tím, cam (mệnh Hỏa) cũng
rất tốt. Và tránh những màu như xanh lá (mệnh Mộc) tương khắc.
Mệnh Thủy: Người mệnh Thuỷ sẽ rất thành công, thuận lợi trong công
việc, cũng như may mắn nếu chọn để có màu xanh nước biển, đen. Ngoài
ra mặc cùng những trang sức, giày dép có màu trắng, xám, ghi (mệnh
Kim) cũng rất tương thích. Ngược lại tránh các màu như nâu (mệnh thổ)
tương khắc.
Như vậy có thể thấy màu sắc trang phục trong ngũ hành cũng đóng một
vai trò to lớn về mặt tâm linh, giúp cân bằng hài hòa âm dương, và cuộc
sống chúng ta hơn
Có thể nói âm dương là hai mặt của cuộc sống, thể hiện sự đối lập,
trái ngược hoàn toàn nhau. Tuy nhiên chúng lại có tính thống nhất và bổ trợ
cho nhau về mọi mặt. Và trong kiến trúc nhà cửa cũng như thế, đặc biệt là
với những gia đình làm ăn lớn, kinh xe doanh mua bán, thì vấn đề phong
thủy luôn là điều mà họ cân nhắc trước khi mua nhà, xây nhà.
“Mộc” đối ứng với hướng đông, mùa xuân và màu xanh. Điều này
tương ứng với một sự khởi đầu, vạn vật sinh sôi nảy nở, ôn hòa hướng về
phía trước giống như thời điểm mặt trời bắt đầu mọc ở phương đông.
“Hỏa” đối ứng với hướng nam, mùa hạ và màu đỏ. Điều này tương
ứng với sự nóng bức, hướng lên trên, hướng về phía trước, thịnh vượng và
phát triển, giống như khi mặt trời đã nhô lên trên không trung.
“Kim” đối ứng với hướng tây, đối ứng với mùa thu và màu trắng.
Điều này tương ứng với sự mát lạnh, đìu hiu và suy thoái, giống như mặt
trời lặn ở phương tây.
“Thủy” đối ứng với hướng bắc, đối ứng với mùa đông và màu đen.
Điều này tương ứng giá rét, lạnh lẽo và hướng xuống phía dưới, đêm khuya
dài đằng đẵng.
“Thổ” đối ứng với trung tâm, chỗ giữa nhất, đối ứng với giữa mùa hè
và màu vàng. Điều này tương ứng với sự dưỡng dục lâu dài và bền chắc.
Âm dương chính là hai bề mặt của cuộc sống cho nên nhà ở cũng cần
đảm bảo các nguyên tắc âm dương cân bằng. Trong kiến trúc, phần hướng ra
ngoài, thu nhận ánh sáng tốt, những mảng đạc, có những khối đường né
cứng rắn, vật liệu nhẵn bóng, mịn màng và có sắc nóng chính là phần
dương. Ngược lại thì phần lõm vào, có phần khuất tối, không nhận được
nhiều ánh sáng, có những mảng rỗng, đường nét uyển chuyển, vật liệu thô
ráp, sần sùi, và có màu sắc lạnh sẽ là phần âm.
Kiến trúc của ngôi nhà phải luôn đảm bảo được sự cân bằng âm
dương, nếu kiến trúc được xây ở hướng thuận dương nhiều thì dương khí
quá vương, người trong nhà bất ổn định, năng động, tinh thần, dễ phấn
khích dẫn đến hấp tấp, vội vàng, vì thế đã đưa ra những quyết định thiếu suy
nghĩ và lệch lạc trọng làm ăn, cuộc sống.
Nhà thuần dương có thể khiến cho người sống trong nhà thích đi lại
hoạt động nhiều hơn, thích sống bên ngoài hơn ở nhà nhất là đội với những
người có mệnh dương. còn nếu nhà của gia chủ âm thịnh dương suy, thì khi
đó dẫn đến mọi nơi trong nhà đều u ám, và nặng mùi không khí trì trệ, khiên
cho người sông trong ngôi nhà đó trở nên bảo thủ, lười nhát, ít vận động ít
suy nghĩ, và không quyết đoán trong những ngã rẽ của cuộc sống mình, ngại
đương đầu với khó khăn, không phân đầu, chỉ hài lòng với thứ mình đáng
có. thậm chí với những người mệnh âm còn xâu hơn, dễ gặp nhiều bệnh tật,
tai ương, biên cô trong cuộc sống.
Vì lẽ đó, một ngôi nhà mà làm cho gia chủ cảm thấy thoải mái,
phát triển bình thường và hài hòa trong cuộc sống thì ngôi nhà đây phải
được đảm bảo sự cân bằng giữa âm và dương. đó cũng chính là yếu tố cốt
lõi cho một công trình kiến trúc thời nay.
5. Y học
Trong y học cổ truyền, học thuyết ngũ hành được ứng dụng rộng rãi
và được xem là kim chỉ nam cho hoạt động khám chữa bệnh. Kết hợp học
thuyết âm dương với y học để hình thành nên học thuyết âm dương được
ứng dụng trong y học. Từ đó thuyết âm dương ngũ hành được phổ biến rộng
rãi, là một phạm trù không thể thiếu trong y học, ngoài nhiều nền y học phát
triển trên thế giới áp dụng thì nền y học Việt Nam cũng không là một ngoại
lệ.
Về cấu tạo: Tổ chức bộ phận trên
cơ thể, yếu tố dượng đại diện cho
những bộ phận bên ngoài thường có
thể nhìn được băng mặt thường
như: mặt ngoài, tứ chi, bì mao, lục
phủ, yếu tố âm đại diện cho những
bộ phận bên trọng như: mặt trong tử
chỉ, cân cốt, ngũ tạng. trong các bộ phận đó lại có thể chia nhỏ với các
phần âm - dương luôn tồn tại.
Về thay đổi bệnh lí: Nhân tố gây bệnh được chia thành 2 loại âm tà,
dương tà,…về chẩn đoán bệnh tật, các chứng thuộc dương sẽ là: sắc
sáng, thạnh âm to rõ, tiếng thở thô, sốt, các chứng thuộc ẩm: sắc tối,
thanh âm thấp bé, tiếng thứ vũ lực, sợ lạnh.
Nguyên tắc điều trị: Có hai nguyên tắc chính, là: âm dương thiên thắng
và âm dương thiên suy. với âm dương thiên thăng thì dương thăng thì âm
bệnh và ngược lại, với âm dương thiên suy thì âm hư không chệ được
dương gây, chứng hư nhiệt, dương hư không chế được âm gây chứng hư
hành.
Liên hệ với thuyết âm dương thì từ đó cũng sản sinh ra thuyết ngũ
hành ứng dụng trong y học đặc biệt là y học cổ truyền, được áp dụng nhiều
nơi thuyết ngũ hành với nằm đặc tính: kim, mộc, thuỷ, hoà, thổ. qua đó cách
chuẩn đoán bệnh cũng dựa trên các đặc tính này, dựa vào đó mà căn cứ biểu
hiện của sắc, vị. mạch để chẩn đoàn tạng bị bệnh, sắc mặt xanh thì thích ấn
độ chua, mạch huyền thì có thể chẩn đoán can bệnh, mặt sắc đỏ thì miệng
đặng, mạch hồng có thể chẩn đoán tầm hòa khang thịnh...về cách xác định
các nguyên tắc điều trị, ta căn cứ vào hai quy luật tương sinh, tương khắc
trong ngu hành.
Quy luật tương sinh: Hư thì bố mẹ, ví dụ như thận âm bất túc không tư
dưỡng can mộc gây nên can âm bất túc, gọi là thuỷ không sinh mộc. Khi
điều trị không nên trực tiếp trị can mà phải bổ thận thuỷ để sinh can mộc.
Thực thì tả con, như can hoả tích thịnh, chỉ thăng không giáng, gây
chứng can thực hoả, khi điều trị nên tả tâm hoả để giúp tả can hoả.
Quy luật tương khắc: Ức cường dùng khi tương khắc thái quá, nếu can
khí hoành nghịch, phạm vị khác tỳ, gây nên can vị bất hoà, khi điều trị
dùng pháp sơ can, bình can. Hoặc nếu tỳ thổ phản khắc can mộc, làm can
khí mất điều đạt, phải dùng pháp kiện tỳ hoà vị để điều trị. Phù nhược
được dùng trong tương khắc bất cập, nếu can hư uất trệ, ảnh hưởng tỳ vị
vận hoá, gọi là mộc không sơ thổ, điều trị nên hoà can làm chủ, kiêm thi
kiện tỳ để tăng cường công năng của cả hai tạng.
Học thuyết âm dương và ngũ hành đều thuộc phạm trù trong phép
biện chứng duy vật cổ đại, sau khi được ứng dụng vào y học cổ truyền thì đã
trở thành một bộ phận trọng yếu của hệ thống lý luận y học, đòi hỏi phải có
sự kết hợp âm dương và ngũ hành mới có thế nhân thức chính xác mối quan
hệ tương hồ giữa các tạng phủ.
Y học việt nam cho rằng: mỗi bệnh tật đều do mất quân bình âm
dương mà ra; trong con người, quan trọng nhất là trục tâm – thân va thân là
trung tâm. Hải thượng lãn ông Lê Hữu Trác từng nói “bách bệnh đều ở tạng
9
thân”. Việt Nam ta đã và đang là một trong các nước áp dụng thuyết âm
dương và ngũ hành với sự hưởng ứng và tin tưởng từ nhân dân.
6. Tín ngưỡng
Tín ngưỡng là một phần không thể không nhắc đến khi nói về triết lý
âm dương ngũ hành. Theo quan niệm xưa của người Trung Quốc, ngũ hành
là sự vận hành của trời đất, vũ trụ bao gồm 5 yếu tố, là Kim, Mộc, Thủy,
Hỏa, Thổ. Mỗi yếu tố đều có sự tương sinh, tương khắc với nhau và dần
dần, triết lý âm dương ngũ hành đã được tín ngưỡng hóa, thờ phụng và
mang tính linh thiêng tại nhiều nước ở khu vực Á Đông, trong đó có cả Việt
Nam.
Cùng với những tín ngưỡng dân gian đã có từ lâu đời, người Việt cổ
đã đưa thuyết ngũ hành vào trong thờ cúng với hình tượng đặc trưng là
Chúa Bà Ngũ Hành, hay còn gọi là năm mẹ ngũ hành: Đệ Nhất Chúa Bà
Kim Tinh Thần Nữ, Đệ Nhị Chúa Bà Mộc Tinh Thần Nữ, Đệ Tam Chúa Bà
Thủy Tinh Thần Nữ, Đệ Tứ Chúa Bà Hỏa Phong Thần Nữ, Đệ Ngũ Chúa Bà
Thổ Đức Thần Nữ. Năm vị thần này biểu trưng cho Kim, Mộc, Thủy, Hỏa,
Thổ.
5 chúa ngũ hành
Việc chuẩn bị lễ cúng như khi cúng các vị thần khác của Tứ Phủ
người ta cũng chuẩn bị lễ vật dâng hương lên Bà Chúa Ba vào những ngày
rằm tháng giêng với đầy đủ lễ vật tùy theo sở thích của từng người. Khi sắm
lễ vật cúng Bà Ngũ Hành phải mua đủ cho 5 bà với 5 loại màu lần lượt là
xanh, đỏ, vàng, trắng, đen.
CÂU 6: LỊCH ÂM DƯƠNG
* Có 3 loại lịch chính:
- Lịch thuần âm: Xuất phát từ văn hóa Lưỡng Hà, dựa theo chu kỳ mặt trăng, một năm âm có 354 ngày
(ít hơn thuần dương 11 ngày). 3 năm thì lịch thuần âm hơn dương lịch 1 tháng, 36 năm sẽ nhanh hơn 1
năm.
- Lịch thuần dương: Phát sinh tvăn hóa Ai Cập (lưu vực sông Nil), dựa theo chu kỳ mặt trời, một năm
có 365,25 ngày.
- Lịch âm dương: là lịch người Á – Đông thường dùng. Là lịch kết hợp của lịch Âm – Dương. Gồm 3
giai đoạn nhỏ sau:
+ Định các ngày trong tháng bằng sóc vọng: Sóc= bắt đầu – ngày mùng 1 hàng
tháng; vọng = ngẩng mặt nhìn trăng – ngày rằm 15 hàng tháng.
+ Định các tháng trong năm theo mặt trời: Xác định bằng các tiết, một năm gồm bốn tiết: đầu tiên là
Đông chí – Hạ chí (ngày lạnh nhất và nóng nhất, chí = tột cùng), sau đó thêm Thu Phân, Xuân Phân. Sau
đó thêm 4 ngày đầu của 4 tiết: lập Xuân, lập Hạ, lập Thu, lập Đông. Sau đó phân nhỏ, tổng cộng có 24
tiết. Sau này trở thành những ngày Tết.
+ Điều chỉnh bằng chu kỳ: Vì mỗi năm theo mặt trời dài hơn mặt trăng, nên sau 3 năm sẽ điều chỉnh bằng
cách đặt 1 tháng nhuận (19 năm sẽ có 7 năm nhuận). Muốn tính năm nhuận, ta lấy năm đó chia cho 19, số
dư là 0,3,6,9,11,14,17 thì đó là năm nhuận.
Lưu ý: Lịch thuần dương: 4 năm nhuận 1 ngày, Thuần âm: 2 tháng nhuận 1 ngày, lịch âm dương: 3
năm nhuận 1 tháng.
Tháng nhuận: Là sự phản ánh phối hợp giữa mặt trời và mặt trăng, tạo nên thời tiết có tính chu kỳ.
CÂU 7: CÁC NGUYÊN TẮC TỔ CHỨC NÔNG THÔN VIỆT NAM? TÍNH CHẤT CƠ
BẢN CỦA LÀNG? MỐI QUAN HỆ GIỮA LÀNG VÀ NƯỚC? LÀNG NAM BỘ
GIÁO TRÌNH TRANG 89
Các nguyên tắc tổ chức nông thôn Việt Nam;
-Tổ chức nông thôn theo huyết thống: Gia đình và Gia tộc
+Gia đình: Những người cùng huyết thống gắn mật thiết với nhau thành đơn vị sở gia đình
đơn vị cấu thành là gia tộc.
+Gia tộc: Quan hệ huyết thống quan hệ theo hàng dọc, theo thời gian. sở cho tính “tôn ti”
trong xã hội cổ truyền Việt Nam.
-Tổ chức nông thôn theo địa bàn cư trú: Xóm và Làng
+Làng, xóm: Những người sống gần nhau,xu hướng liên kết chặt chẽ với nhau. Sản phẩm của lối liên
kết này là khái niệm làng, xóm.
+ Cách tổ chức nông thôn dựa trên địa bàn trú, dựa trên quan hệ hàng ngang, theo không gian.
nguồn gốc của tính dân chủ.
-Tổ chức nông thôn theo nghề nghiệp và sở thích: Phường và Hội
+Phường: Trong một làng, phần lớn người dân đều làm nông nghiệp, tuy nhiên nhiều làng, có
những bộ phận dân cư sinh sống bằng nghề khác, họ liên kết chặt chẽ với nhau khiến cho nông
thôn Việt Nam có thêm một nguyên tắc tổ chức thứ ba là tổ chức theo nghề nghiệp, tạo thành đơn
vị gọi là Phường.
+Hội: Bên cạnh Phường Hội - tổ chức liên kết những người cùng sở thích, thú vui, đẳng cấp: hội
văn, hội văn phả, hội võ phả,...
+So với hội, phường mang tính chuyên môn sâu hơn phạm vi thường nhỏ hơn. Phường hội sự
liên kết theo chiều ngang, tạo nên tính dân chủ của nông thôn Việt Nam cổ truyền.
-Tổ chức nông thôn theo truyền thống nam giới: Giáp
+Hình thức tổ chức xuất hiện muộn hơn so với các đơn vị liên kết trên. Đứng đầu mỗi giáp cai giáp;
giúp việc cho cai giáp là các ông lềnh: lềnh nhất, lềnh hai, lềnh ba.
+Đặc điểm của giáp: i) Chỉ đàn ông tham gia; ii) tính cha truyền con nối (chagiáp nào thì con
giáp ấy).
+ Mỗi giáp phân biệt thành các lớp tuổi: ti ấu, đinh và lão.
+ Giáp là hình thức tổ chức, liên kết vừa theo chiều dọc lại vừa theo chiều ngang, tạo nên tính tôn ti đồng
thời là tính dân chủ trong làng xã Việt Nam cổ truyền.
-Tổ chức nông thôn theo đơn vị hành chính: Thôn và Xã
+Thôn: Xét về phương diện hành chính, làng được gọi (đôi khi một thể vài làng), xóm
được gọi là thôn (đôi khi một thôn có thể có vài xóm).
+ Xã: Trong xã, có sự phân biệt rất rõ giữa dân chính cư (dân gốc ở làng ấy) với dân ngụ cư (người từ nơi
khác đến trú ngụ).
+ Bộ máy hành chính làng VN cổ truyền dựa vào đơn vị giáp nên tổ chức khá gọn nhẹ. Đứng đầu
ban lí dịch là lý trưởng (xã trưởng), dưới lý trưởng là phó lý, hương trưởng và trương tuần.
+ Phương tiện quản chủ yếu của dịch 2 loại sổ - sổ đinh sổ điền: một tay nắm nhân lực (trai
đinh) và một tay nắm kinh tế (ruộng đất).
- MỐI QUAN HỆ GIỮA LÀNG VÀ NHÀ NƯỚC
1.Nhà nước thực thi chính sách của mình thông qua làng xã:
Để các chính sách của mình đến được với người dân, Nhà nước không thể tự mình thực hiện được
phải thông qua tổ chức Làng. Làng một hội đồng quản trị do dân cử để làm việc cho để
liên hệ với nhà nước, đứng đầu không phải là người có chức cao, học giỏi mà là một vài người nhiều tuổi
nhất gọi là “bô lão”, bên cạnh đó là “Hội đồng Kỳ mục”. Thông qua Hội đồng kỳ mục, mọi thứ phú thuế,
bất cứ một nghĩa vụ gì, nhà nước thường chia ra cho các làng xã, bắt đóng góp nguyên vật liệu và sức lao
động. Làng đến lượt lại chia ra cho những người dân nam hay các hộ…Tóm lại, nhà nước chỉ biết
tập thể làng không biết đến từng nhân hay từng gia đình; cũng không quan tâm đến sự phân
phối các nghĩa vụ đó.
1.2. Nhà nước chỉ biết nội tình làng xã một cách đại khái, khái quát: Do nhà nước không đi tới từng người
dân, từng đám đất, nên nhà nước không khả năng kiểm soát làng một cách chặt chẽ, chính xác.
chỉ nắm được một cách hồ. Con số trong sổ sách của nhà nước chỉcon số ước lệ, nếu không nói
một con số ma. Đó chỗ yếu của nhà nước bất kỳ triều đại nào - là nhà nước phong kiến hay nhà
nước của bọn đô hộ. Nhà nước phải bằng lòng với những con số của làng xã, để rồi qua đó bắt chúng nộp
lên cho mình bao nhiêu thóc, vải, tiền bạc, bao nhiêu phu dịch, và lính tráng theo tỉ lệ và tiêu chuẩn. Nhà
nước cứ 3 năm hay 6 năm bắt khai hay duyệt hộ khẩu, thỉnh thoảng mở những “chiến dịch” khám đạc
điền thổ, điều tra dân số. Nhưng thực tế vẫn không tài nào nắm vững nội tình thay đổi của từng nơi.
Chúng còn đặt ra những điều luật trị rất nghiêm khắc tội lậu đinh lậu điền”, nhưng cũng không thế
mà biết được một cách sáng sủa hơn. Cho nên, nói chung con số thuế má, binh dịch, phu dịch, bổ cho các
làng trong thời phong kiến tính cách khoán trắng rệt. Chẳng hạn: - Thời Trần đã lúc áp dụng
biện pháp “sinh ra không kể, chết đi không trừ” đối với ngạch thuế binh, có nghĩanhà nước lấy con số
hộ khẩu duyệt trong một năm nào đó làm con số cố định. - Về thuế điều, trong khi làng số ruộng
lậu” thì những làng lại “điền bất cập bạ”. những làng chịu nộp một thứ đặc sản nào đó, hay
nhận lấy việc cắt cỏ voi, ngựa, gi đền chùa, hay nộp thợ thủ công,... Để được nhà nước miễn sưu hay
thuế v..v..
1.3. Nhà nước phong kiến thường bắt nhân dân liên đới trách nhiệm với làng xã: Lấy làng làm đơn vị
cống phú binh dịch, nhà nước phong kiến dùng biện pháp bắt nhân dân làng phải liên đới trách
nhiệm. Tính chất này được thể hiện rất rõ vào lúc một vài thành viên thiếu thuế, đào ngũ, nhà nước vẫn cứ
tróc vào làng ấy bắt nộp bù. những làng những người dân biệt phạm tội trộm cướp hoặc
“làm giặc”, nhà nước thường thói bắt tội cai phó tổng, trưởng (như năm 1856 đời Tự Đức) hoặc trị
tội cả làng, thậm chí “làm cỏ” cả làng. Làng Lai Cách, làng Da Giá Thượng thời Lê Trịnh, làng Sơn Âm
đời Minh Mạng, làng Cổ Am, làng Yên Phủ thời Pháp thuộc đềunhững làng bị bọn thống trị “thi hành
kỷ luật” tàn khốc, ít nhất cũng bằng cách triệt hạ. Chính nhờ luật liên đới trách nhiệm nhà nước
ngày xưa mới có thể buộc được tất cả làng xã phục tùng; tuy không cần đi thẳng đến từng người dân, từng
đám đất mà vẫn có đầy đủ những đảm phụ.
1.4. Nhà nước không nhúng tay vào việc làng nhưng đưa đẳng cấp vào tận nông thôn: Việc chọn lọc
những phần tử ưu trao cho họ quyền hành tước lộc đã gián tiếp tạo ra sự cách bậc trong nông thôn
và buộc các làng khác phải chấp nhận. Khi về làng, những phần tử ưu tú giành những địa vị cao và quyền
lợi nhiều hơn các thành viên khác. Luật lệ đã tlâu của làng là: người nhiều tuổi nhất tiên chỉ (thủ
chỉ) sẽ người nắm giữ mọi quyền hành của làng xã. Còn luật lcủa nhà nước thì địa vị đó phải dành
cho những người thi đậu, quan tước cao trong các thành viên. Nhưng luật lệ làng nói chung vẫn
không chị để tự thủ tiêu một cách dễ dàng, “triều đình dụng tước, hương đảng dụng xỉ”. Một sự giằng co
xảy ra. Cuối cùng cũng mặc nhiên đi đến một sự thỏa thuận: có lúc bên cạnh vai trò tiên chỉ còn có cai trò
xã quan (cũng chỉ có nơi gọi là đại toát, tiểu toát). Đời Nguyễn đó là những chức hương quan hoặc hương
thân: có lúc làng xã chịu để cho những người đồ đạt được ưu tiên vượt lên trên thứ tự đăng ký của họ theo
tiêu chuẩn (ví dụ ở Nam Đàn - Nghệ An đỗ tú tài được nhắc lên trên 10 người, đỗ cử nhân 15 người, phó
bảng 20 người, tiến sĩ 30 người….) để những người ấy được giữu chức tiên chỉ trước tuổi mà không hoàn
toàn phá vỡ nề nếp của làng xã: có lúc làng chịu để những ngườichức phận những quyền lợi tương
đương hoặc cao hơn chút ít những ngườituổi tác (ví dụ Cao Xá- Thái Bình lúc chia phần thịt tế,
cái thủ cái cổ thường chia đôi: một nửa cho các cụ già, một nửa cho những người thi đỗ (khoa tràng) hoặc
làm quan (sắc mệnh).
1.5. Nhà nước gián tiếp tham gia vào việc phân phối ruộng đất của làng xã: Chúng ta đều biết, mỗi một
làng đều ruộng đất công, một thứ tài sản tập thể lâu đời. Thi hành quyền sở hữu, làng cứ mấy
năm một lần chia đều cho các thành viên. Nhưng đằng sau quyền sở hữu đó còn quyền sở hữu tối cao
về ruộng đất của nhà nước (tức của vua). Cái quyền sau thể tước đoạt cái quyền trước, “đất của
vua, chùa của bụt”. Nhà nước tham gia ngày một sâu vào việc phân phối ruộng đất cho các thành viên đặc
biệt đựa vào đó tiêu chuẩn cấp bậc, làm cho những thành viên nào chức sắc cao thấp sẽ được phần
ruộng nhỏ hơn, nhưng vẫn lướn hơn ruộng của thành viên thường. Thực chất nhà nước lấy một phần
ruộng làng xã làm lộc bổ sung cho phần tử ưu tú (các quan) và lương ăn cho quân đội. Số còn lại mới chia
cho các thành viên làm nông nghiệp, nhưng nhà nước lại cọi việc phân phối này một phương diện của
việc trả công cho những người gánh vác nghĩa vụ đối với nhà nước: nông đân được chia ruông vừa phải
nạp thuế nạp xâu, vừa phải thay nhau đi phu, đi lính cho nhà nước. Đó chính sách làm cho người nông
dân làng xã phụ thuộc vào nhà nước phong kiến một cách cách chặt chẽ. Không phải ngẫu nhiên triều đại
nào cũng cố gắng duy trì và tìm nguồn bổ sung cho ruộng công làng xã. Như vậy, chi phối ruông đất làng
xã, nhà nước cuối cùng cũng biến một hội bình đẳng dân chủ xưa kia thành một hội cấp bậc.
ràng nạn tranh nhau ngôi thứ cứ tủn mủn diễn ra trong làng xã, nạ cường hào,… là hậu quả bi đát cử hành
động trên. Tóm lại, nhà nước đã có những thành công nhất định trong việc đẳng cấp hóa làng xã.
1.6. Nhà nước nghĩa vụ với làng như làng đối với Nhà nước: Nghĩa vụ đó bảo vệ sản xuất
bảo vệ an ninh cho nhân dân nói chung, cho các làng xã nói riêng. Chống ngoại xâm, trị thủy là nhiệm vụ
hàng đầu của nhàớc Việt Nam. Một nhiệm vụ vào hàng thứ yếunhà nước tăng năng suất, tăng sản
lượng thường tìm cách tăng diện tích cày cấy, lập làng mới để giải quyết nạn nhân mãn, nạn du dân.
Ngoài ra, những lúc nhân dân đói kém, tật dịch, nhà nước còn còn có nhiệm vụ tìm cách chẩn cứu, những
lúc trộm cướp nhà nước phải tìm cách liễu trừ. Dân mất mùa nhà nước phải giảm sưu thuế, dân phiêu
tán nhà nước phải tìm cách chiêu hồi,… Trải qua các triều đại, nhà nước đều thi hành chính sách trọng
nông ức thương, hết sức hạn chế các cuộc kinh doanh to lớn, hạn chế tích lũy tài sản thể. đây thể
hiện rất nh chất bảo thủ phản động của nhà nước phong kiến. Không phải ngẫu nhiên ta thấy thi
thoảng nhà nước lại trưng thu ruộng biến thành ruộng công ( Hồ Quý Ly, Minh Mạng). Nhà nước hết
sức khuyến khích việc chiêu dân lập p nhưng lại hạn chế bọn giàu lập trang trại riêng (thời sơ).
Khi có nạn đói kém hay khi có việc cần đến tiền thóc, nhà nước thường có chế độ quyên góp đổi lấy nhân
phẩm, hoặc khen thưởng những hành động gương mẫu trong làng của những người những hộ bỏ tiền
nhân để cứu giúp tập thể, giúp nước cũng như để xây dựng đền chùa các công trình công cộng…
Tất cả đều hành động như thế để phản ánh xu hướng cổ vũ biểu dương tinh thần tập thể, tinh thần hào
hiệp, nhưng mặt khác, ít nhiều trong đó cũng mang ý thức bình quân, nói cách khác ý thức hạn chế sự
phân hóa giai cấp cưứ phát triển một cách tự phát, không theo ý muốn chủ quan của nhà nước. Khi quy
luật kinh tế hàng hóa phát triển thì quan hệ đẳng cấp được nước khuyến khích, quan hệ công xã được làng
xã bảo lưu: cả ba đúc thành một mối quan hệ áp bức bóc lột khá nặng nề nhưng lại được ngụy trang bằng
những cái lốt như quan hệ thân thuộc, quan hệ láng giềng, những cái lốt đẹp đẽ êm dịu này che khuất
cái ruột gớm ghiếc, có nghĩa là chúng làm mờ tính chất giai cấp trong quan hệ giữa người với người trong
làng xã.
2. Về phía Làng:
2.1. Làng tính chủ động linh hoạt một cách rõ nét: Làng không phải một thực thể cứng đờ, bị
động rất linh hoạt, chủ động, biết phản ứng khi va chạm, t động mai phục, ngụy trang,
chống trả,… khi cần thiết thì không phải chỉhành động, thái độ của vài người. thể nói đó một
thể trọn vẹn, gần như một con người, nhưng một con người phi giai cấp. Trong thể người” trọn
ven đó còn ẩn giấu một linh hồn, một tâm ý thức cộng đồng còn một cá tính riêng, nét riêng
đặc sắc về tính cách. Chúng ta chẳng những nghe được những câu tục ngữ trình bày nhận xét tính
của một số làng xã như : “Trai Cầu Vòng Yên Thế, gái Nội Duệ Cầu Lim”. “ Văn chương Xuân Mỹ, lý sự
Thủy Khuê” ,… tất nhiên, trong những nhận xét trên cũng có những trường hợp cường điệu, nhưng về cơ
bản vẫn phản ánh được tính biệt lập của địa phương. Tính biệt lập này có nguồn gốc từ đặc trưng khép kín
của công xa xưa, làm cho làng phần nào bằng quan với các đơn vị xung quanh nó, nuôi
dưỡng đầu óc địa phương.
2.2. Làng thuộc nước, nhưng làng vẫn độc lập: Một mặt, làng phục tùng Nhà nước, một mặt lại giấu
giếm thực chất bản thân, mục đích để giảm binh lương thuế khóa nhà nước phong kiến đổ vào đầu
người dân. Đâu có phải chỉ có một vài thứ phú dịch mà ta thường biết. Bóc lột siêu kinh tế vốn là một đặc
trưng của chế độ phong kiến. Cho nên, ngoài “binh lương thuế khóa” ra, còn nhiều món bóc lột khác
rất tùy tiện và đềuvào làng xã. Bọn quan lại lính tráng thường cứ dựa vào khả năng, nghĩadựa trên
con số dân cư, ruộng đất, tài sản v.v... các làng đã khai báo, tức đã đăng với nhà nước, để
quân phân theo tỷ lệ một cách rất máy móc. Nhưng nếu chỉ thế thì chẳng nói làm gì. Thói tục “bán
hàng nói thách, làm khách trả rẻ” thường được áp dụng một cách linh động vào quan hệ giữa nhà nước
với làng xã. Có nghĩa là mỗi lần có những phú dịch bất thường ngoài phú dịch thường kỳ, thì bọn quan lại
các huyện thường nâng mức phân phối lên cao hơn một ít (ví dụ đáng trưng thu 100 cây tre thì nâng
lên 120) để cho làng xã xin hạ bớt xuống, hoặc để trừ hao đi (vì có thể có những địa phương không kham
nổi) thì vừa. Cho nên, nói chung làng xã rất sợ cách làm việc tùy tiện của bọn quan lại, và họ cũng không
quên còbớt một thêm hai. Từ đó nó tạo cho làng xã một thói quen co mình lại, và viện hết cớ này đến
cớ khác để kêu ca. thể nói giả nghèo giả khổ thái độ phổ biến của làng xã. Về phía bọn thống trị,
chúng thường chia làng làm nhiều loại, trong đó bốn loại làm vất vả chúng hơn cả “xung” (lắm
việc), “phiền” (phức tạp), “bì” (mệt mỏi), “nan” (khó khăn). Không những thói quen co mình lại,
làng còn có thói quen lẩn tránh hoặc gan lì. O-ri (Ory) một tên thực dân nghiên cứu làng Việt
Nam – mới kể rằng “khi một làng nào đó được tin có một ông quan bản xứ đi qua, tất cả đàn ông đều lẩn
tán trốn biệt cho đến khi quan đi khỏi”. Roi vọt, giam chấp, trưng thu những biện pháp thúc bách làng
phải làm theo ý định của bề trên, nhưng những biện pháp ấy không phảilúc nào cũng hiệu quả.
“Đầu chày máy, đít thớt”, câu tục ngữy miêu tả tình trạng nhữngơng chức ngày xưa thường đóng
vai “bung xung” chịu đòn thay cho dân làng để từ chối phần nào những yêu sách từ trên xuống.
2.3. Làng thường quan hệ thù địch với những nhân hoặc tập thể nào thường xâm phạm đến nó.
Truyện Phụng Hiểu hàng loạt những truyện dân gian khác đều phản ánh sự tranh giành địa phận
đẫm máu giữa hai làng. Chẳng những thế, làng còn không muốn để cho những người ngoài đến “xâm
canh”. Tài liệu của thực dân cho ta biết một mẩu chuyện thú: một viên quan lớn thế lực tậu nhiều
ruộng tại một làng nọ Đông. Ruộng đều loại nhất đẳng. Thế nhưng năm nào cũng vậy, thu hoạch
chẳng gì. Thế tại làm sao? Về sau mới vỡ lẽ dân làng không muốn địa chủ thế lực ngoài
làng tới lũng đoạn ruộng đất làng mình, nên đã tìm cách phá hoại bằng việc giăng một sợi chỉ cho chạy
lướt qua ngọn lúa mỗi lần lúa trổ. Phấn (hoặc mao)mất đi thì lúa trở nên không hạt (lép), người nông
dân dĩ nhiên đã nắm chắc qui luật ấy của tự nhiên. Thậm chí nó còn không muốn, cũng không chịu để cho
một kẻ nào cười cợt, nói xấu đến mình. Vào năm 1935, hai làng Tam Kỳ (Quảng Nam) suýt đánh
nhau to một bài thơ trào phúng (người bên này làm thơ chế giễu đám hương bên kia bày chuyện
khánh thành trường học để kiếm chác, và bên kia họa lại để trả đũa bên này).
2.4. Làng dễ phản ứng mỗi lần nhà nước thi hành một chính sách đụng chạm đến lợi ích của nó.
Mỗi một yêu cầu mới của chính quyền phong kiến ngoài phú thuế thường kỳ, thường vấp phải ít nhiều sự
chống đỡ của làng xã. Thậm chí làng nghi ngờ đến cả những công việc tính chát lợi ích chung.
Gu-ru một học giả thực dân viết Người nông dân đồng bằng Bắc Bộ từng nói đến một làng nọ đã góp
nhau số tiền 200 đồng để chạy chọt với quan, xin quan tránh cho con đường đê không đi qua địa phận
làng mình. Không phải là họ ngốc mà có lẽ vì sợ mất một diện tích ruộng đất nào đó, cũng có lẽ vì sợ con
đường ấy sẽ là con đường thuận tiện đi vào làng, do đó, quan nha lính tráng sẽ quấy nhiễu làng nhiều hơn
trước. Sự phản ứng của làng xã còn bộc lộ tích cực hơn. Ví dụ có những làng ở An Quảng thời Hồng Đức
liên kết lại chống quân đội nhà nước kéo về khám đạc điền thổ đã đến lúc không thể ẩn lậu được mãi
về diện tích ruộng đất của mình. Hay những làng Nghệ An, Quảng Bình, bằng những thủ đoạn
ranh mãnh khác nhau đã buộc bọn vua chúa phải chấm dứt những lệ cống đặc sản (ví dụ cá rô bầu Nón,
Nam Đàn; mắm hâm hương, Cảnh Dương v.v...) Lịch triều hiến chương loại chí chép năm 1773 khi Trịnh
Sâm buộcc làng phải khai thật đúng số đinh, thì “dân chúng bốn phương không đâu không xôn
xao ơ...ư mạn đông nam nhiều người làm phản, có kẻ tự xưng “Đinh suất đại vương” để dụ quần chúng”.
Việc ấy cuối cùng đành phải tạm gác lại. Như vậy là không phải bất cứ lúc nào nhà nước cũng buộc được
các làng tuân theo ý chí của nó. Nói một cách khác, làng thời xưa cũng lúc đấu tranh kết quả
để buộc nhà nước làm theo ý chí của mình
2.5 Mâu thuẫn trong phong trào nông dân làng xã nhiều lúc không hoàn toàn đứng về phía nông dân trong
cùng làng, một bộ phận tham gia tích cực một bộ phận tham gia miễn cưỡng, rất ít trường hợp có làng
dám chống lại nhà nước một cách cực đoan không những thế ,đối với những việc thiết thân với quyền lợi
của mình làng còn tỏ ra chấp hành một cách tích cực chẳng hạn về đất đai, về quyên góp khi
kháng chiến chống ngoại xâm hay việc dựng thôn xã thành những cơ sở chống giặc giữ làng xây dựng
thương nghĩa thương trong kháng chiến chống Nguyên các làng đời Trần đã chấp hành mệnh lệnh
nhà nước một cách gần như tuyệt đối chứng minh rõ nhất là sau thắng lợi năm 1288 chỉ thấy nhà nước thi
hành kỷ luật có hai hương Ba Điểm Bạng về tội đầu hàng tập thểthôi tinh thần kỷ luật cũng
như tinh thần hy sinh chịu đựng của làng xã đời Trần như vậy phải nói làng xã đã đóng góp ngăn chặn
bước tiến của giặc góp phần việc bưng tay bịt mắt tuyệt luôn giặc thời đại cũ ,chỉ có làng xã với một tinh
thần tập thể trách nhiệm cao mới thực hiện việc đồng không nhà trống việc di chuyển từ nơi này sang nơi
khác một cách đồng loạt nhanh chóng được . Đó việc nếu chỉ nhân hay gia đình không thôi
không sức mạnh truyền thống của cộng đồng làng để lại thì không thể làm được điều đó, như vậy
trước thời đại hội chủ nghĩa chúng ta đã những lúc quan hệ giữa Nhà nước với Làng quan hệ
nhất trí sự nhất trí tạo nên sức mạnh đó là nguồn gốc của những thắng lợi tuyệt vời trong công cuộc chống
ngoại xâm Đó cũng là lý do tồn tại khá lâu dài của những triều đại phong kiến trong phong trào nông dân
làng xã đã nhiều lúc tỏ ra không hoàn toàn đồng ý đứng về phía nông dân sự thật đã có những thời kỳ
những cuộc khởi nghĩa nông dân từng lôi kéo được Cả làng cùng đồng loạt nổi dậy họ được sự đồng ý
của Hào trưởng và theo chịu sự ảnh hưởng chịu sự lãnh đạo của Hào trưởng nhưng do sự phân hóa xã hội
trong nội bộ là ngày càng sâu sắc nên về sau những cuộc khởi nghĩa nông dân thường sự tập hợp của
những nhân hay những nhóm cùng chí hướng cùng thành phần hội các làng khác nhau lại
thành một tổ chức ngay trong một làngbộ phận tham gia tích cựcbộ phận Miễn Cưỡng cũng
bộ phận không theo hoặc chống lại do đó thái độ thái độ của Làng xã đối với cuộc khởi nghĩa cũng không
dứt khoát trừ những làng nào mà bộ phận tham gia chiếm ưu thế có sức mạnh lôi kéo hoặc cô lập được bộ
phận chống đối sự ảnh hưởng không triệt để hoặc thái độ hay mang của Làng Thường đầu mối thất
bại của phong trào nông dân nói chung
Có thể thấy rằng phép nước và làng là hai mặt của một thể chế chính trị phản ánh mối tương quan giữa sự
thống nhất quốc gia và quyền tự quản của các cộng đồng làng xã làm quân bình sự phát triển của mọi mặt
đời sống chính trị kinh tế văn hóa hội của Làng xãcả nước. Con người Việt Nam luôn tồn tại trong
mối quan hệ chi phối giữa làng nước Do vậy việc làm việc ớc luôn là mối quan tâm của cả cộng
đồng và lợi ích của làng luôn gắn bó với lợi ích của nước chúng vừa thống nhất vừa mâu thuẫn nhau
CÂU 8: VĂN HÓA TỔ CHỨC NHÀ NƯỚC VIỆT NAM TRUYỀN THỐNG
GIÁO TRÌNH TRANG 104
CÂU 9: CÁC ĐẶC ĐIỂM CỦA ĐÔ THỊ TRUYỀN THỐNG VIỆT NAM
Đặc trưng 1: Xét về nguồn gốc, đô thị Việt Nam phần lớn do nhà
nước sản sinh ra, vì vậy đô thị Việt Nam trước hết là trung tâm chính
trị, rồi sau đó mới là kinh tế, văn hóa.
Trái với hầu hết các đô thị phương Tây, đô thị Việt Nam do nhà nước khai
sinh ra và thực hiện chức năng hành chính là chủ yếu. Vào các giai đoạn khác
nhau, các đô thị lớn nhỏ ra đời như Văn Lang, Cổ Loa, Luy Lâu, Thăng Long,
Phú Xuân (Huế)... đều hình thành theo con đường như thế. Ví dụ, Cổ Loa – một
đô thị quan trọng thời cổ đại, được hình thành từ việc vua An Dương Vương dựa
trên những thuận lợi về mặt địa lý, dời đô từ vùng núi và xây dựng thành trì to
lớn tại đây.
Đặc trưng 2: Xét về chức năng, đô thị Việt Nam thực hiện chức năng
hành chính là chủ yếu và chịu sự quản lý trực tiếp của nhà nước
phong kiến.
“Trong đô thị có bộ phận quản lí và bộ phận làm kinh tế (buôn bán);
thường thì bộ phận quản lí hình thành trước theo kế hoạch, rồi dần dần, một
cách tự phát, bộ phận làm kinh tế mới được hình thành. Thậm chí trong nhiều
trường hợp, bộ phận quản lí của đô thị đã hoạt động rồi mà bộ phận làm kinh tế
vẫn không phát triển được hoặc phát triển rất yếu ớt như trường hợp các kinh đô
Hoa Lư của nhà Đinh, phủ Thiên Trường của nhà Trần, Tây Đô của nhà Hồ,
Lam Kinh của nhà Lê, Phượng Hoàng Trung Đô của nhà Tây Sơn..”
1
Như vậy,
trong khi đô thị phương Tây thực hiện chức năng kinh tế là chủ yếu thì đô thị
của ta thực hiện chức năng hành chính là chủ yếu. Khi nhà nước có nhu cầu mở
trung tâm hành chính thì họ thường chọn một trong những đô thị có sẵn như đô
thị Athens tại Hy Lạp, đô thị Babylon – thành quốc của Lưỡng Hà cổ đại
Đặc trưng 3: Xét về quy mô, số lượng và quy mô của đô thị ở Việt
Nam không đáng kể so với nông thôn
Cho đến tận thế kỷ XVI, Đại Việt mới chỉ có một đô thị, một trung tâm
chính trị - kinh tế - văn hóa là Kẻ Chợ (Thăng Long). Từ sau thế kỷ XVI, xuất
hiện thêm một số đô thị mà chủ yếu là gắn với ngoại thương (Phố Hiến, ThanhHà, Hội An, Nước
Mặn, Sài Gòn…)
2
. Từ giữa thế kỷ XX đến nay, khu vực
nông thôn vẫn chiếm tỉ trọng lớn hơn nhiều so với đô thị, khoảng 90% diện tích
đất đai vẫn thuộc nông thôn. Thêm vào đó, từ năm 1960 tới nay, tại Việt Nam, tỉ
lệ dân số thành thị chưa vượt quá 50%.
Đặc trưng 4: Xét về mối quan hệ nông thôn - đô thị, đô thị phụ
thuộc vào nông thôn, và bị nông thôn hóa, tư duy nông nghiệp, căn
tính nông dân đã in đậm dấu ấn trong văn hóa đô thị của Việt Nam.
3
Đến tận ngày nay, ảnh hưởng của nông thôn vẫn còn gây khó khăn rất
nhiều cho việc quản lí đô thị. Trong Hội nghị Đô thị toàn quốc lần thứ II (tổ
chức tại Tp. Hồ Chí Minh tháng 7-1995), Thủ tướng Võ Văn Kiệt nhận xét: “Mô
hình tổ chức của bộ máy nhà nước hiện nay ở các đô thị không khác gì tổ chức
bộ máy ở các huyện, xã. Về cung cách quản lí, nhiều nơi, nhiều cán bộ đang
quản lí hành chính ở đô thị không khác gì lề lối quản lí ở các làng xã”
4
Biểu hiện sự phụ thuộc đô thị vào nông thôn:
Tổ chức hành chính của đô thị Việt Nam được sao phỏng theo tổ chức
nông thôn. Đô thị truyền thống cũng chia thành các phủ, huyện, tổng, thôn. Cho
đến tận năm 1940, các làng quanh hồ Hoàn Kiếm vẫn còn chức tiên chỉ, thứ chỉ.
Không chỉ vậy, đô thị Việt Nam đã xuất hiện từ rất sớm một loại đơn vị đặc biệt
bắt nguồn từ nông thôn mà đến nay đã trở thành đơn vị hành chính cơ sở đô thị -
đó là phường
[1]
5
. hiện tượng tái phường hoá cũng xảy ra khá phổ biến khi một
dãy phố trước đây bán mặt hàng này, nay cả phố chuyểkin sang kinh doanh mặt
hàng khác. Điều này có thể được giải thích bởi tính cộng đồng và tính tự trị: (1)
Tính cộng đồng: cách tổ chức theo phường tỏ ra có lợi cho người bán. Họ có
điều kiện tương trợ giúp đỡ nhau trong việc định giá, giữ giá, vay mượn hàng, giới thiệu khách
hàng cho nhau....; (2)Tính tự trị dẫn đến nếp sống tự túc, dân
không có nhu cầu mua bán, vì vậy người buôn bán phải gian lận để kiếm sống.
Vậy nên, cách tổ chức theo phường tỏ ra có lợi cho người mua: tuy mất công đi
xa để mua hàng, nhưng bù vào đó, người mua có điều kiện khảo giá (không bị
mua đắt), và vì nhiều hàng ít có nguy cơ mua phải hàng giả.
6
Phố nằm xen kẽ với làng. Tại Hà Nội, trong lòng các đô thị, cho tới tận
bây giờ, vẫn còn tồn tại những lũy tre xanh giữa ốc đảo làng quê, có tiếng gà kêu
mỗi sáng.
Lối sống của đô thị Việt Nam cũng tương tự như ở nông thôn vì có tính
cộng đồng và tập thể cao. Ở Việt Nam, có những làng xã nông thôn thực hiện
chức năng kinh tế của đô thị - đó là các làng công thương. Làng Đại Bái (Bắc
Ninh) đúc đồng, làng Bát Tràng (Gia Lâm) làm đồ gốm, làng Nhị Khê (Hà Tây)
làm nghề tiện,... Nếu ở phương Tây thì những làng công thương đó sẽ phát triển,
mở rộng và tự phát chuyển thành đô thị. Tuy nhiên, ở Việt Nam thì mọi sinh
hoạt của làng vẫn giống một làng nông nghiệp thông thường. Đó là do tính cộng
đồng - cả làng làm cùng một nghề (sản xuất cùng một sản phẩm, buôn cùng một mặt hàng) và
tính tự trị - dân cư sống tự cấp tự túc, khép kín, không có nhu cầu
buôn bán, giao lưu. Không chỉ vậy, chất nông thôn của đô thị Việt Nam còn bộc
lộ ở tính cộng đồng (tập thể) của nó. Các đô thị Việt Nam vẫn rất phổ biến lối
kiến trúc “khu tập thể”(chung cư).
7
Như vậy, khác với phương Tây, ở Việt Nam làng xã nông nghiệp là một tổ
chức tự trị vững mạnh, còn đô thị lại yếu ớt, lệ thuộc. Đó là do ở nền văn hóa
Việt Nam nông nghiệp trọng tĩnh, làng xã là trung tâm, là sức mạnh, là tất cả,
cho nên làng xã có quyền tự trị. Còn ở các nền văn hóa châu Âu sớm phát triển
thương mại và công nghiệp, thì hiển nhiên là đô thị tự trị và có uy quyền.
CÂU 10: KHÁI NIỆM TÍN NGHƯỠNG, PHONG TỤC? ĐẶC ĐIỂM CỦA TÍN NGƯỠNG
VIỆT NAM, TÍN NGƯỠNG VÀ PHONG TỤC PHỔ BIẾN CỦA NGƯỜI VIỆT
Khái niệm
Tín ngưỡng là niềm tin của con người được thể hiện thông qua những lễ nghi gắn liền với phong tục,
tập quán truyền thống để mang lại sự bình an về tinh thần cho nhân cộng đồng. Niềm tin này
gắn với sự siêu nhiên nhưng chỉ lưu truyền trong một vùng lãnh thổ hoặc trong một cộng đồng dân
chúng nhất định. Có thể coi tín ngưỡng là dạng thấp hơn của tôn giáo.
Phong tục là toàn bộ những hoạt động sống của con người được hình thành trong quá trình lịch sử
ổn định thành nề nếp, được cộng đồng thừa nhận, truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Phong tục
không mang tính cố định, bắt buộc như nghi thức, nghi lễ, nhưng cũng không tùy tiện như hoạt động
sống thường ngày. trở thành một tập quán hội tương đối bền vững tương đối thống nhất.
Phong tục thể một dân tộc, địa phương, tầng lớp hội hay thậm chí một dòng họ, gia tộc.
Phong tục là một bộ phận của văn hóa và có thể chia thành nhiều loại. Hệ thống phong tục liên quan
đến vòng đời của con người, như phong tục về sinh đẻ, trưởng thành, cưới xin, mừng thọ và lên lão...
Hệ thống phong tục liên quan đến hoạt động của con người theo chu kỳ thời tiết trong năm, hệ thống
phong tục liên quan đến chu kỳ lao động của con người...
Đặc điểm của tín ngưỡng ở việt nam
Ở việt nam có rất nhiều loại hình tín ngưỡng, từ các tín ngưỡng thờ phụng các vị thần thuộc về tự nhiên
như thần mưa, thần sấm, các vị thần thuộc về sông nước như cá ông, hà bá, thần cây. Ngoài ra còn thờ
mẫu, thờ tổ tiên, ông bà, thành Hoàng làng => Tạo nên sự đa dạng cho đời sống tín ngưỡng của con người
Việt Nam.
Thờ đa thần: Không chỉ đa dạng các loại tín ngưỡng mà ở Việt Nam còn thờ rất nhiều vị thần: thần tự
nhiên cho đến thần là con người, các vị nữ thần trong thờ mẫu. Thờ thành hoàng làng như các vị anh hùng
dân tộc, những người có công với làng xóm.
Gắn chặt với môi trường tự nhiên: Thờ cây, thờ sông nước
tín ngưỡng và phong tục phổ biến của người Việt
*Thứ nhất, TÍN NGƯỠNG
Tín ngưỡng dân gian Việt Nam từ cổ xưa đã bao hàm:
- Tín ngưỡng phồn thực
- Tín ngưỡng sùng bái tự nhiên
- Tín ngưỡng sùng bái con người
Con người cần sinh sôi, mùa màng cần tươi tốt để duy trì và phát triển sự sống, nên đã nảy sinh tín
ngưỡng phồn thực.
Ở Việt Nam, tín ngưỡng đó tồn tại lâu dài, dưới hai dạng biểu hiện:
- Thờ sinh thực khí nam và nữ (khác với ấn Độ chỉ thờ sinh thực khí nam)
- Thờ cả hành vi giao phối (người và thú, ngay ở Đông Nam Á cũng ít có dân tộc thờ việc này).
Dấu tích trên còn để lại ở nhiều di vật tượng và chân cột đá, trong trang trí các nhà mồ Tây Nguyên, trong
một số phong tục và điệu múa, rõ nhất là ở hình dáng và hoa văn các trống đồng cổ.
Nông nghiệp trồng lúa nước phụ thuộc vào nhiều yếu tố tự nhiên đã đưa đến tín ngưỡng sùng bái tự
nhiên.
Ở Việt Nam, đó là tín ngưỡng đa thần và coi trọng nữ thần, lại thờ cả động vật và thực vật.
Một cuốn sách nghiên cứu (xuất bản năm 1984) đã liệt kê được 75 nữ thần, chủ yếu là các bà mẹ, các
Mẫu (không những có Ông Trời, mà còn có Bà Trời tức Mẫu Cửu Trùng, ngoài ra là Mẫu Thượng Ngàn,
Bà chúa Sông v.v...).
Về thực vật được tôn sùng nhất là Cây lúa, sau đó tới Cây đa, Cây cau, Cây dâu, quả Bầu. Về động vật,
thiên về thờ thú hiền như hươu, nai, cóc, không thờ thú dữ như văn hóa du mục, đặc biệt là thờ các loài
vật phổ biến ở vùng sông nước như chim nước, rắn, cá sấu.
Người Việt tự nhận là thuộc về họ Hồng Bàng, giống Tiên Rồng (Hồng Bàng là tên một loài chim nước
lớn, Tiên là sự trừu tượng hóa một giống chim đẻ trứng, Rồng sự trừu tượng hóa từ rắn, cá sấu). Rồng
sinh ra từ nước bay lên trời là biểu trưng độc đáo đầy ý nghĩa của dân tộc Việt Nam.
Trong tín ngưỡng sùng bái con người, phổ biến nhất là tục thờ cúng tổ tiên, gần như trở thành một thứ tôn
giáo của người Việt Nam (trong Nam bộ gọi là Đạo Ông Bà).
Việt Nam trọng ngày mất là dịp cúng giỗ hơn ngày sinh. Nhà nào cũng thờ Thổ công là vị thần trông coi
gia cư, giữ gìn hoạ phúc cho cả nhà. Làng nào cũng thờ Thành hoàng là vị thần cai quản che chở cho cả
làng (thường tôn vinh những ngươì có công khai phá lập nghiệp cho dân làng, hoặc các anh hùng dân tộc
đã sinh hay mất ở làng).
Cả nước thờ vua tổ, có ngày giỗ tổ chung (Hội đền Hùng).
Đặc biệt việc thờ Tứ Bất Tử là thờ những giá trị rất đẹp của dân tộc: Thánh Tản Viên (chống lụt), Thánh
Gióng (chống ngoại xâm), Chử Đồng Tử (nhà nghèo cùng vợ ngoan cường xây dựng cơ nghiệp giầu có),
bà Chúa Liễu Hạnh (công chúa con Trời từ bỏ Thiên đình xuống trần làm người phụ nữ khát khao hạnh
phúc bình thường).
Mặc dù có trường hợp dẫn tới mê tín dị đoan, tín ngưỡng dân gian sống dẻo dai và hoà trộn cả vào các tôn
giáo chính thống.
*Thứ hai, TÔN GIÁO
* Phật giáo
Tiểu thừa được du nhập trực tiếp từ ấn Độ qua đường biển vào Việt Nam khoảng thế kỉ 2 sau Công
nguyên. Phật giáo Việt Nam không xuất thế mà nhập thế, gắn với phù chú, cầu xin tài lộc, phúc thọ hơn là
tu hành thóat tục.
Khi Phật giáo (Đại thừa) từ Trung Quốc vào nước ta, tăng lữ Việt Nam mới đi sâu hơn vào Phật học,
nhưng dần hình thành những tôn phái riêng như Thiền Tông Trúc Lâm đề cao Phật tại tâm.
Thời Lý-Trần, Phật giáo cực thịnh nhưng vẫn đón nhận cả Nho giáo, Lão giáo, tạo nên bộ mặt văn hóa
mang tính chất "Tam giáo đồng nguyên" (cả ba tôn giáo cùng tồn tại).
Qua nhiều bước thăng trầm, đạo Phật trở nên thân thiết với người Việt Nam, thống kê năm 1993 cho biết
vẫn có tới 3 triệu tín đồ xuất gia và khoảng 10 triệu người thường xuyên vãn chùa lễ Phật.
* Nho giáo
Thời Bắc thuộc, Nho giáo chưa có chỗ đứng trong xã hội Việt Nam, đến năm 1070 Lý Thái Tổ lập Văn
Miếu thờ Chu Công-Khổng Tử mới có thể xem là được tiếp
nhận chính thức.
Thế kỉ 15, do nhu cầu xây dựng đất nước thống nhất, chính quyền tập trung, xã hội trật tự, Nho giáo thay
chân Phật giáo trở thành quốc giáo dưới triều Lê.
Nho giáo, chủ yếu là Tống Nho, bám chắc vào cơ chế chính trị-xã hội, vào chế độ học hành khoa cử, vào
tầng lớp nho sĩ, dần chiếm lĩnh đời sống tinh thần xã hội. Nhưng Nho giáo cũng chỉ được tiếp thụ ở Việt
Nam từng yếu tố riêng lẻ - nhất là về chính trị-đạo đức, chứ không bê nguyên xi cả hệ thống.
* Đạo giáo
Đạo giáo thâm nhập vào Việt Nam khoảng cuối thế kỉ 2. Do thuyết vô vi mang tư tưởng phản kháng bọn
thống trị, nó được người dân dùng làm vũ khí chống phong kiến phương Bắc. Nó lại có nhiều yếu tố thần
tiên, huyền bí, nên hợp với tiềm thức con người và tín ngưỡng nguyên thuỷ.
Nhiều nhà nho cũ mộ khuynh hướng ưa thanh tĩnh, nhàn lạc của Lão - Trang. Nhưng từ lâu Đạo giáo như
một tôn giáo không tồn tại nữa, chỉ còn để lại di sản trong tin ngưỡng dân gian.
* Kito giáo
Kitô giáo đến Việt Nam vào thế kỉ 17 như một khâu môi giới trung gian của văn hóa phương Tây và của
chủ nghĩa thực dân.
Nó tranh thủ được cơ hội thuận lợi
- Chế độ phong kiến khủng hoảng
- Phật giáo suy đồi
- Nho giáo bế tắc
Trở thành chỗ an ủi tinh thần cho một bộ phận dân chúng nhưng trong một thời gian dài không hoà đồng
được với văn hóa Việt Nam.
Trái lại, nó buộc phải để giáo dân lập bàn thờ trong nhà. Chỉ khi hoà Phúc âm trong dân tộc, nó mới đứng
được ở Việt Nam. Năm 1993 có khoảng 5 triệu tín đồ công giáo và gần nửa triệu tín đố Tin Lành.
Các tôn giáo bên ngoài du nhập vào Việt Nam không làm mất đi tín ngưỡng dân gian bản địa mà hoà
quyện vào nhau làm cho cả hai phía đều có những biến thái nhất định.
Ví dụ Nho giáo không hạ thấp được vai trò người phụ nữ, việc thờ Mẫu ở Việt Nam rất thịnh hành.
Tính đa thần, dân chủ, cộng đồng được thể hiện ở việc thờ tập thể gia tiên, thờ nhiều cặp thần thánh, vào
một ngôi chùa thấy không chỉ thờ Phật mà thờ cả nhiều vị khác, thấn linh có mà người thật cũng có.
Và có lẽ chỉ ở Việt Nam mới có chuyện con cóc kiện cả ông Trời, cũng như môtíp người lấy tiên trong
các chuyện cổ tích. Đây chính là những nét riêng của tín ngưỡng Việt Nam.
PHONG TỤC
Thứ nhất, vấn đề ĂN, MẶC
Người Việt vốn thiết thực, chuộng ăn chắc mặc bền. Đầu tiên là ăn, "có thực mới vực được đạo", "trời
đánh còn tránh bữa ăn". Cơ cấu ăn thiên về thực vật, cơm rau là chính cộng thêm thuỷ sản. Luộc là cách
nấu ăn đặc sắc của Việt Nam. Nhưng cách thức chế biến món ăn lại giầu tính tổng hợp, kết hợp nhiều chất
liệu và gia vị. Ngày nay có nhiều thịt cá, vẫn không quên vị dưa cà.Người Việt hay dùng các chất liệu vải
có nguồn gốc thực vật, mỏng, nhẹ, thóang, phù hợp xứ nóng, với các sắc màu nâu, chàm, đen. Trang phục
nam giới phát triển từ đóng khố ở trần đến áo cánh, quần ta (quần Tàu cải biến).
Tuy nhiên, trang phục Việt sẽ có cải biến theo các giai đoạn và ngày càng cách tân. Nên cũng rất khó để
có thể đánh giá đặc trưng về văn hóa mặc của người Việt.
Nữ giới xưa phổ biến mặc yếm, váy, áo tứ thân sau này đổi thành chiếc áo dài hiện đại. Nói chung, phụ
nữ Việt Nam làm đẹp một cách tế nhị, kín đáo trong một xã hội "cái nết đánh chết cái đẹp". Trang phục
cũ cũng chú ý đến khăn, nón, thắt lưng.
Thứ hai, vấn đề Ở và ĐI LẠI
Ngôi nhà Việt Nam xưa gắn liền với môi trường sông nước (nhà sàn, mái cong). Sau đó là nhà tranh vách
đất, lợp rạ, vật liệu chủ yếu là tre gỗ, không cao quá để chống gió bão, quan trọng nhất là hướng nhà
thường quay về phía Nam chống nóng, tránh rét.
Nhà cũng không rộng quá để nhường diện tích cho sân, ao, vườn cây. Vả lại, người Việt Nam quan niệm
"rộng nhà không bằng rộng bụng". Các kiến trúc cổ bề thế thường ẩn mình và hoà với thiên nhiên.
Phương tiện đi lại cổ truyền chủ yếu là đường thuỷ. Con thuyền các loại là hình ảnh thân quen của cảnh
quan địa lý - nhân văn Việt Nam, cùng với dòng sông, bến nước.
Thứ ba, vấn đề LỄ NGHI
Các phong tục hôn nhân, tang ma, lễ tết, lễ hội của Việt Nam đều gắn với tính cộng đồng làng xã.
Hôn nhân xưa không chỉ là nhu cầu đôi lứa mà còn phải đáp ứng quyền lợi của gia tộc, gia đình, làng xã,
nên kén người rất kỹ, chọn ngày lành tháng tốt, trải qua nhiều lễ từ giạm ngõ, ăn hỏi, đón dâu đến tơ
hồng, hợp cẩn, lại mặt, và phải nộp cheo để chính thức được thừa nhận là thành viên của làng xóm.
Tục lễ tang cũng rất tỉ mỉ, thể hiện thương xót và tiễn đưa người thân qua bên kia thế giới, không chỉ do
gia đình lo mà hàng xóm láng giềng tận tình giúp đỡ.
Việt Nam là đất nước của lễ hội quanh năm, nhất là vào mùa xuân, nông nhàn.
Các tết chính là tết Nguyên đán, tết Rằm tháng Giêng, tết Hàn thực, tết Đoan ngọ, tết Rằm tháng Bảy, tết
Trung thu, tết Ông táo...
Mỗi vùng thường có lễ hội riêng, quan trọng nhất là các lễ hội nông nghiệp (cầu mưa, xuống đồng, cơm
mới...), các lễ hội nghề nghiệp (đúc đồng, rèn, pháo, đua ghe...).
Ngoài ra là các lễ hội kỉ niệm các bậc anh hùng có công với nước, các lễ hội tôn giáo và văn hóa (hội
chùa). Lễ hội có 2 phần, phần lễ mang ý nghĩa cầu xin và tạ ơn và phần hội là sinh hoạt văn hóa cộng
đồng gồm nhiều trò chơi, cuộc thi dân gian.
CÂU 11: VĂN HÓA ỨNG XỬ VỚI MÔI TRƯỜNG TỰ NHIÊN CỦA NGƯỜI VIỆT
Đặc điểm văn hóa Việt Nam trong quan hệ với môi trường tự nhiên
*2 tính trội: -tính thực vật
- tính sông nước
(- Môi trường tự nhiên là tổng thể các nhân tố ngoại cảnh xung quanh chúng ta như: bầu khí quyển, thổ
nhưỡng, nước, thực vật, động vật, khoáng sản… Con người tồn tại trong môi trường tự nhiên, cùng phát
triển với môi trường tự nhiên nên mối quan hệ giữa con người với tự nhiên cũng là một mặt cơ bản của
đời sống văn hóa.
-Không khí con người hít thở, đồ ăn, nước uống… đều lấy từ môi trường tự nhiên. Vì vậy, những gì có lợi
cho mình thì con người sẽ thích nghi, tận dụng; còn những gì có hại thì con người sẽ cải tạo, ứng phó.
“Từng nền văn hóa, xét cho cùng, đều là hậu quả của việc từng cộng đồng để tồn tại, phải thích ứng với
thiên nhiên bao quanh nó” , “Con người là một sinh vật nhìn về phía trước, mắt hướng về tương lai”.
Ngay từ khi đặt chân trên trái đất này, con người đã không ngừng nỗ lực vượt lên trên các khả năng và
giới hạn của mình. Đó là đặc điểm tiến hóa của con người, để con người đứng trên mọi sinh vật khác, là
động vật bậc cao nhất. Con người sẽ dần thích nghi với những điều kiện sống mà môi trường tự nhiên áp
đặt và cả những thách thức mà con người tự đặt ra. Bằng bàn tay, khối óc và con tim… con người dần tạo
ra những biến đổi rộng khắp từ không khí, đất, nước, thảm thực vật, động vật… tạo thành môi trường
sống. Quá
trình thích nghi này góp phần hình thành những nét đặc thù của bản sắc văn hóa một dân tộc. Suy cho
cùng, sự khác nhau về văn hóa giữa các dân tộc, các cộng đồng người được quy định bởi nhiều yếu tố,
trong đó có yếu tố về môi trường sống. Chính sự khác nhau về môi trường sống này đã giúp các nhà
nghiên cứu về văn hóa Việt Nam trong và ngoài nước khẳng định sự hiện hữu của một nền văn minh và
văn hóa Việt Nam, bên cạnh nền văn minh và văn hóa Trung Hoa. Bản sắc văn hóa từng dân tộc được
khắc họa bởi điều kiện lịch sử, xã hội, tâm lí và điều kiện môi
trường tự nhiên. Theo nghĩa rộng, văn hóa là cái tự nhiên được biến đổi bởi con người, từ đó hình thành
một lối sống, tư duy, ứng xử, một thái độ tổng quát của con người đối với vũ trụ, thiên nhiên và xã hội; là
vai trò của con người trong vũ trụ đó, với một hệ thống chuẩn mực, giá trị, quan niệm mang dấu ấn riêng
của con người. Như vậy, nhìn nhận về cội nguồn và bản sắc văn hóa Việt Nam phải chú ý đến điều kiện
môi trường tự nhiên và sau đó là điều kiện lịch sử của Việt Nam.
-Việt Nam là quốc gia nằm trong khu vực Đông Nam Á, “là ngã tư đường của các cư dân và các nền văn
minh”. Điều kiện khí hậu nóng, ẩm, mưa nhiều và có gió mùa là hằng số tự nhiên của văn hóa Việt Nam.
Nó tạo nên đặc trưng văn hóa Việt Nam là văn hóa lúa nước. Hệ sinh thái thực vật rất phong phú, đa
dạng, trong đó, thực vật phát triển mạnh hơn động vật, vì động vật dễ bị dịch bệnh do khí hậu nóng ẩm
gió mùa. Vì vậy, trong thời kinh tế thu lượm thì hái lượm vượt trội hơn săn bắn. Thời kinh tế nông nghiệp
thì trồng trọt vượt trội hơn chăn nuôi.Tính chất thực vật và môi trường sông nước xét từ góc độ môi
trường tự nhiên ảnh hưởng khá re trong đời sống văn hóa của người Việt Nam ở nhiều phương diện như:
ăn, mặc, ở, đi lại…)
2.2.1. Văn hóa ăn uống của người Việt Nam
-Ăn uống (ẩm thực) là một trong những nhu cầu tối quan trọng của đời sống con người để duy trì sự sống.
Nhưng, khác xa với con vật, ăn uống của con người còn là một hành động mang tính văn hóa chứ không
chỉ dừng lại ở bản năng sinh tồn. Nếu các cư dân của nền văn hóa gốc du mục (phương Tây) thiên về ăn
thịt và các chế phẩm từ sữa động vật thì ăn uống của người Việt Nam lại bộc lộ rất rõ dấu ấn của truyền
thống văn hóa nông nghiệp lúa nước.
- Dấu ấn nông nghiệp trong cơ cấu bữa ăn: có thể nói, văn minh Việt Nam là nền văn minh thực vật.
Người Việt Nam không có truyền thống chăn nuôi đại gia súc lấy thịt ăn nên cơ cấu bữa ăn truyền thống
được mô hình: cơm - rau - cá (mắm). Trong bữa ăn thiên về thực vật ấy, lúa gạo đứng đầu bảng. Tục ngữ
có những câu như: Người sống về gạo, cá bạo về nước; Cơm tẻ là mẹ ruột; Đói thì thèm thịt thèm xôi, hễ
no cơm tẻ thì thôi mọi đường. Người Việt Nam gọi bữa ăn là bữa cơm.
- Trong bữa ăn của người Việt Nam, sau lúa gạo thì đến rau quả. Nằm ở một trong những trung tâm trồng
trọt, rau quả của Việt Nam mùa nào thức ấy, phong phú vô cùng. Đối với người Việt Nam thì Đói ăn rau,
đau uống thuốc; Ăn cơm không rau như đau không thuốc; Anh đi anh nhớ quê nhà, nhớ canh rau muống
nhớ cà dầm tương; Tương cà là gia bản…
- Đứng thứ ba trong cơ cấu bữa ăn của người Việt Nam là các loại thủy hải sản - sản vật của vùng sông
nước: Con cá đánh ngã bát cơm; Có cá đổ vạ cho cơm… Từ các loài thủy hải sản, người Việt Nam chế
tạo ra một thứ đồ chấm đặc biệt là nước mắm. Với người Việt Nam, từ bữa cơm thường trong gia đình
cho đến những bữa tiệc đãi khách sang trọng, nhất định không thể thiếu bát nước mắm.
- Ở vị trí cuối cùng trong bữa ăn người Việt Nam là các loại quả cây tráng
miệng, rồi đồ uống, hút như trầu cau, thuốc lào, nước chè, nước vối… hầu hết đều là những sản vật của
nghề trồng trọt Đông Nam Á.
- Ăn uống của người Việt Nam mang đậm dấu ấn văn hóa làng: tính cộng cảm,cộng đồng. Người Việt
Nam ăn chung cho nên các thành viên của bữa ăn liên quan và phụ thuộc chặt chẽ vào nhau (khác hẳn
người phương Tây ai có suất của người ấy, bộc lộ tính cá nhân rất rõ). Vì vậy, bữa ăn là dịp sum họp,
quây quần, người Việt Nam rất thích chuyện trò. Tính cộng đồng đòi hỏi ở con người một thứ văn hóa
cao trong ăn uống (Ăn trông nồi, ngồi trông hướng). Vì mọi người đều phụ thuộc lẫn nhau nên phải ý tứ
và mực thước khi ăn.
- Ăn uống của người Việt Nam mang đậm triết lí phương Đông: sự hòa hợp, tổng hợp, cân bằng âm-
dương. Điều này được thể hiện trong cách chế biến đồ ăn (pha chế tổng hợp trong món ăn, sử dụng
nguyên liệu theo mùa, dùng gia vị…); cách ăn (ăn và cảm nhận bằng đủ các giác quan, dùng đũa…)
2.2.2. Văn hóa mặc, ở và đi lại của người Việt Nam
- Quan trọng đối với con người, sau ăn là mặc. Mặc giúp cho con người ứng phó được với cái nóng, rét,
mưa, gió và quan trọng hơn, mặc còn để trang điểm, làm đẹp (Người đẹp về lụa, lúa tốt về phân; Quen sợ
dạ, lạ sợ áo…). Mỗi dân tộc có cách mặc và trang sức riêng, vì vậy, cái mặc trở thành biểu tượng của văn
hóa dân tộc. Văn hóa mặc của người Việt Nam mang đậm dấu ấn nông nghiệp. Để đối phó với khí hậu
nóng ẩm, người Việt Nam ưa sử dụng chất liệu may mặc mềm, mỏng, nhẹ, thoáng, thấm mồ hôi; cũng là
những chất liệu có nguồn gốc thực vật, sản phẩm của nghề trồng trọt nông nghiệp: tơ, lụa, lượt, là, gấm,
vóc, the, đXi, gai, bông, đay… Trong khi đó, người phương Tây ưa dùng chất liệu là
da, lông thú…
- Ở và đi lại cũng là biểu hiện của việc người Việt Nam ứng phó với môi
trường tự nhiên. Ngôi nhà là mái ấm để con người đối phó với nóng lạnh, nắng mưa, gió bão, là một trong
những yếu tố quan trọng nhất đảm bảo cho người Việt cuộc sống định cư ổn định. Có an cư thì mới lạc
nghiệp. Vì ngôi nhà chiếm vị trí quan trọng đặc biệt trong cuộc sống, cho nên trong tiếng Việt “nhà”(chỗ
ở) được đồng nhất với gia đình (gồm mọi người sống trong nhà). Ngôi nhà của người Việt Nam có những
đặc điểm sau:
+ Do khu vực cư trú là vùng sông nước nên ngôi nhà của người Việt Nam gắn liền với môi trường sông
nước. Những người sống bằng nghề sông nước (chài lưới, chở đò...) thường lấy thuyền, bè làm nhà ở, gọi
là nhà thuyền, nhà bè; nhiều gia đình quần tụ lập nên các xóm chài, làng chài. Nhiều người tuy không
sống bằng nghề sông nước nhưng cũng làm nhà sàn để ứng phó với ngập lụt, ẩmướt, bởi khí hậu nhiệt đới
có độ ẩm cao.
+ Để ứng phó với môi trường tự nhiên nóng ẩm nên người Việt Nam ưa thích nhà hướng Nam, nhà cao
cửa rộng. Tục ngữ có câu: Lấy vợ hiền hòa, làm nhà hướng Nam… Cấu trúc nhà như vậy, tạo không gian
thoáng mát, giao hòa với tự nhiên, khác với kiến trúc nhà phương Tây ở xứ lạnh, nhà đóng kín, trần thấp,
tường dày, cửa ít để giữ hơi ấm. Nhà của người Việt “cao” là để ứng phó với lụt lội, ẩm ướt, côn trùng…;
“cửa rộng” là để đón gió mát và tránh nắng.
+ Tính cộng đồng của văn hóa nông nghiệp thể hiện ở việc trong nhà không chia thành nhiều phòng nhỏ
biệt lập như nhà ở của người phương Tây. Người Việt Nam có truyền thống thờ cúng tổ tiên và hiếu
khách, cho nên đặc biệt chú ýđến không gian dành để thờ cúng tổ tiên và không gian dành cho việc tiếp
khách.
- Về đi lại, trong xã hội Việt Nam cổ truyền, do bản chất nông nghiệp sống định cư cho nên con người ít
có nhu cầu di chuyển; có đi thì chỉ đi gần (từ nhà ra đồng, từ nhà lên nương).mNhiều cụ già ở nông thôn,
suốt đời không hề bước chân ra khỏi làng mình. Vì vậy, dễ hiểu là tại sao ở Việt Nam trước đây, giao
thông, nhất là giao thông đường bộ kém phát triển.
-Việt Nam là vùng sông nước, nơi đây có hệ thống sông ngòi, kênh rạch chằng chịt và bờ biển rất dài. Vì
vậy mà phương tiện đi lại phổ biến từ ngàn xưa là đường thủy. Tục ngữ có câu: Nhất cận thị, nhị cận
giang. Phương tiện giao thông và chuyên chở trên sông nước ở Việt Nam rất phong phú: thuyền, ghe,
xuồng, bè, mảng, phà…
-Nói tóm lại, con người sống trong môi trường tự nhiên vừahụ thuộc, vừa
thích ứng với tự nhiên; nhưng mặt khác, con người tìm hiểu, khám phá, chinh phục, cải tạo tự nhiên, bắt
tự nhiên phục vụ cuộc sống của mình. Có nghĩa là, con người tạo ra môi trường nhân tạo, tạo ra giá trị
văn hóa. Văn hoá là sự biến đổi tự nhiên phục vụ cuộc sống con người.
CÂU 12: VĂN HÓA ỨNG XỬ VỚI MÔI TRƯỜNG XÃ HỘI
GIÁO TRÌNH TRANG 296
| 1/28

Preview text:

CÂU 1: VĂN HÓA, CÁC ĐẶC TRƯNG VÀ CHỨC NĂNG CỦA VĂN HÓA
1. Định nghĩa Văn hóa
Từ “văn hóa” có rất nhiều nghĩa. Trong tiếng Việt, văn hóa được dùng theo nghĩa thông dụng để chỉ học
thức (trình độ văn hóa), lối sống (nếp sống văn hóa); theo nghĩa chuyên biệt chỉ trình độ phát triển của
một giai đoạn (văn hóa Đông Sơn)… Trong khi theo nghĩa rộng thì văn hóa hóa gồm tất cả, từ những sản
phẩm tinh vi hiện đại cho đến tín ngưỡng, phong lục, lối sống, lao động…
Phân tích các cách tiếp cận văn hóa phổ biến hiện nay (coi văn hóa như tập hợp, như hệ thông, như giá trị,
như hoạt động, như kí hiệu, như thuộc tính nhân cách, như thuộc tính xã hội…), có thể xác định được 4
đặc trưng cơ bản mà tổng hợp lại, ta có thể nêu ra một định nghĩa văn hóa như sau:
Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy qua
quá trình hoạt động, thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội.

2. Các đặc trưng và chức năng của văn hóa
Văn hóa trước hết phải có tính hệ thống. Đặc trưng này cần để phân hiệt hệ thống với tập hợp nó giúp
phát hiện những mối liên hệ mật thiết giữa các hiện tượng, sự kiện thuộc một nền văn hóa; phát hiện các
đặc trưng, những quy luật hình thành và phát triển của nó.
Như có tính hệ thống mà văn hóa, với tư cách là một thực thể bao trùm mọi hoạt động của xã hội, thực
hiện được chức năng tổ chức xã hội. Chính văn hóa thường xuyên làm tăng độ ổn định của xã hội, cung
cấp cho xã hội mọi phương tiện cần thiết để ưng phó vơi môi trường tự nhiên và xã hội của mình. Nó là
nền tảng của xã hội – có lẽ chính vì vậy mà người Việt Nam ta dùng từ chỉ loại “nền” để xác định khái
niệm văn hóa (nền văn hóa).
Đặc trưng quan trọng thứ hai của văn hóa là tính giá trị. Văn hóa theo nghĩa đen nghĩa là “trở thành đẹp,
thành có giá trị”, tính giá trị cần để phân biệt giá trị với phi giá trị. Nó là thước đo mức độ nhân bản của xã hội và con người.
Các giá trị văn hóa, theo muc đích cố thể chia thành giá trị vật chất (phục vụ cho nhu cầu vật chất) và giá
trị tinh thần (phục vụ cho nhu cầu tinh thần), theo ý nghĩa có thể chia thành giá trị sử dụng, giá trị đạo đức
và giá trị thấm mĩ theo thời gian có thể phân hiệt các giá trị vĩnh cừu và giá trị nhất thời. Sự phân biệt các
giá trị theo thời gian cho phép ta có đươc cái nhìn hiện chứng– và khách quan trong việc đánh giá tính giá
trị của sự vật, hiện tượng; tránh được những xu hướng cực đoan – phủ nhận sạch trơn hoặc tán dương hết lời.
Vì vậy mà, về mặt đồng đại, cùng một hiện tượng có thể có giá trị nhiều hay ít tùy theo góc nhìn, theo
bình diện được xem xét. Muốn kết luận một hiện tượng có thuộc phạm trù văn hóa hay không phải xem
xét mối tương quan giữa các mức độ “giá trị” và “phi giá trị” của nó. về mặt lịch đại, cùng một hiện tượng
sẽ có thể có giá trị hay không tùy thuộc vào chuẩn mực văn hóa cùa từng giai đoạn lịch sử. Áp dụng vào
Việt Nam, việc đánh giá chế độ phong kiến, vai trò của Nho giáo, các triều đại nhà Hồ, nhà Nguyễn…
đều đòi hỏi một tư duy biện chứng như thế.
Nhờ thường xuyên xem xét các giá trị mà văn hóa thực hiện được chức năng quan trọng thứ hai là chức
năng điều chỉnh xã hội, giúp cho xã hội duy trì được trạng thái cân bằng động, không ngừng tự hoàn thiện
và thích ứng với những biến đổi của môi trường, giúp định hướng các chuẩn mực, làm động lực cho sự phát triển của xã hội.
Đặc trưng thứ ha của văn hóa là tính nhân sinh. Tính nhân sinh cho phép phân biệt văn hóa như một hiện
tượng xã hội (do con người sáng tạo, nhân tạo) với các giá trị tự nhiên (thiên tạo). Văn hóa là cái tự nhiên
được biến đổi bởi con người. Sự tác động của con người vào tự nhiên có thể mang tính vật chất (như việc
luyện quặng, đẽo gỗ…) hoặc tinh thần (như truyền thuyết về các cảnh quan tự nhiên).
Do mang tính nhân sinh, văn hóa trở thành sợi dây nối liền con người với con người, nó thực hiện chức
năng giao tiếp và có tác dụng liên kết họ lại với nhau. Nếu ngôn ngữ là hình thức của giao tiếp thì văn hóa là nội dung của nó.
Văn hóa còn có tính lịch sử. Nó cho phép phân biệt văn hóa như sản phẩm của một quá trình và được tích
lũy qua nhiều thế hệ với văn minh như sản phẩm cuối cùng, chỉ ra trình độ phát triển của từng giai đoạn.
Tính lịch sử tạo cho văn hóa tính bề dày một chiều sâu, nó buộc văn hóa thường xuyên tự điều chỉnh, tiến
hành phân loại và phân bố lại các giá trị. Tính lịch sử được duy trì bằng truyền thống văn hóa. Truyền
thông văn hóa là những giá trị tương đối ổn định (những kinh nghiêm tập thể) được tích lũy và tái tạo
trong cộng đồng người qua không gian và thời gian, được đúc kết thành những khuôn mẫu xã hội và cố
định hóa dưới dạng ngôn ngữ, phong tục, tập quán, nghi lễ, luật pháp, dư luận…
Truyền thông văn hóa tồn tại nhờ giáo dục. Chức năng giáo dục là chức năng quan trọng thứ tư của văn
hóa. Nhưng văn hóa thực hiện chức năng giáo dục không chỉ bằng những giá trị đã ổn định (truyền
thống), mà còn bằng cả những giá trị đang hình thành. Hai loại giá trị này tạo thành một hệ thống chuẩn
mực mà con người hướng tới. Nhờ nó mà văn hóa đóng vai trò quyết định trong việc hình thành nhân
cách (trồng người). Từ chức năng giáo dục, văn hóa có chức năng phái sinh là đảm bảo tính kế tục của
lịch sử. Nó là một thứ “gien” xã hội di truyền phẩm chất con người lại cho các thế hệ mai sau.
CÂU 2: MỐI LIÊN HỆ GIỮA ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM
GIÁO TRÌNH TRẦN QUỐC VƯỢNG TRANG 33
CÂU 3: CÁC ĐẶC ĐIỂM CỦA LOẠI HÌNH VĂN HÓA VIỆT NAM
LOẠI HÌNH VÀ ĐẶC ĐIỂM VĂN HÓA VIỆT NAM
1. Khái niệm loại hình văn hóa
- Khái niệm loại hình văn hoá được hình thành trên cơ sở về sự khác biệt của các
yếu tố: môi trường tự nhiên, phương thức sản xuất kinh tế, lối cư trú. Từ ba yếu
tố cơ bản này, giới nghiên cứu quy văn hoá nhân loại vào hai loại hình: văn hoá
gốc nông nghiệp và văn hoá gốc du mục (tương ứng là các nền văn hoá phương Đông và phương Tây)
2. Đặc điểm các loại hình văn hóa
Văn hóa gốc nông nghiệp:
-Chủ yếu ứng với môi trường sống
của các cộng đồng cư dân ở phương Đông.
Văn hóa gốc du mục:
-Chủ yếu ứng với môi trường sống
của các cộng đồng cư dân ở phương Tây.
-Môi trường tự nhiên: là xứ nóng sinh
ra mưa nhiều (ẩm), tạo nên nhiều con
sông lớn và các vùng đồng bằng trù phú.
-Môi trường tự nhiên: là xứ lạnh với
khí hậu khô, không thích hợp cho
thực vật sinh trưởng, trừ những vùng đồng cỏ rộng.
-Nghề nghiệp chính: sinh sống bằng
nghề trồng trọt là chính, do đó hình
thành lối sống định cư.
-Nghề nghiệp chính: sinh sống bằng
chăn nuôi là chính, do đó hình thành lối sống du cư.
-Tổ chức đời sống: lo tạo dựng cuộc
sống ổn định lâu dài, không xáo trộn.
-Tổ chức đời sống: lo tổ chức để
thường xuyên di chuyển gọn gàng, nhanh chóng, thuận tiện.
-Đặc trưng văn hóa: trọng tĩnh (cuộc
sống yên bình, ít di chuyển).
-Đặc trưng văn hóa: trọng động
(cuộc sống năng động, di chuyển nhiều).
- Ứng xử với môi trường tự nhiên:
tôn trọng, hòa hợp với thiên nhiên.
Người dân sống phụ thuộc nhiều vào
thiên nhiên, ở cố định một chỗ với cái
nhà, cái cây của mình nên có thức tôn
trọng,không dám ganh đua với tự
nhiên; sống hòa hợp với tự nhiên là
mong muốn của cư dân; tận dụng tự
nhiên: ăn thực vật là chủ yếu; ưu
điểm: con người giữ gìn được môi
trường sống tự nhiên; nhược điểm: rụt rè,
e ngại thậm chí tôn sùng tự nhiên
-Ứng xử với môi trường tự nhiên: coi
thường và luôn muốn chinh phục, chế ngự tự nhiên.
Cư dân du mục nếu thấy ở nơi này
không thuận tiện có thể dễ dàng bỏ đi
nơi khác, do vâỵ dẫn đến tâm lý coi
thường tự nhiên. Bởi vâỵ, người
phương Tây luôn có tham vọng chinh
phục và chế ngự tự nhiên ; tận dụng ;chủ yếu ăn động vật.
Uư điểm:khuyến khích con người dũng cảm đối mặt với tự nhiên, khuyến
khích khoa học phát triển; nhược
điểm: hủy hoại môi trường
-Lối nhận thức,tư duy: tổng hợp - biện chứng.
-Lối nhận thức,tư duy:phân tích - siêu hình.
- Hệ thống tri thức thu được bằng
con đường kinh nghiệm, chủ quan, cảm tính.
-Khoa học hình thành theo con
đường thực nghiệm , khách quan, lý tính
- Sức thuyết phục thấp, nhưng bao giờ
cũng diễn đạt ngắn gọn, súc tích,
thâm thúy. Do được hình thành một
cách tự nhiên (không bị giới hạn đối
tượng) và được kiểm chứng bằng kinh
nghiệm của nhiều thế hệ nên tính
đúng của tư duy tổng hợp - biện
chứng thường khá cao; ưu điểm: nhìn
nhận vấn đề toàn diện, luôn thấy
mối quan hệ giữa chúng; nhược điểm:
thiếu triệt để, sâu sắc.
-Tính chặt chẽ và sức thuyết phục
cao. Đây là lí do khiến khoa học phát
triển nhanh - tư tưởng trước sau sẽ có
tư tưởng sau thay thế; ưu điểm: có sự
sâu sắc, phát triển mạnh các ngành
khoa học chuyên sâu; nhược điểm: thiếu toàn diện.
-Xu hướng khoa học: thiên về thiên
văn, triết học tâm linh và tôn giáo.
-Xu hướng khoa học: thiên về khoa
học tự nhiên và kỹ thuật.
-Tổ chức cộng đồng: con người nông
nghiệp trọng tình, dẫn đến thái độ
trọng đức, trọng văn, trọng phụ nữ.
-Tổ chức cộng đồng: con người du
mục trọng lý trí, dẫn đến trọng sức
mạnh, trọng tài, trọng võ, trọng nam giới.
-Cách tổ chức cộng đồng: theo lối linh hoạt
-Cách tổ chức cộng đồng: theo nguyên tắc
-Con người cư xử bình đẳng ( dân chủ)
-Quyền lực nằm tuyệt đối trong tay
người cai trị- quân chủ.
-Tâm lí coi trọng tập thể, cộng đồng -Tâm lí coi trọng cá nhân
-Ứng xử với môi trường xã hội: thái
độ dung hợp trong tiếp nhận và mềm
dẻo, hiếu hòa trong đối phó.
-Ứng xử với môi trường xã hội: ứng
xử độc tôn trong tiếp nhận và cứng
rắn, hiếu thắng trong đối phó.
-Tôn giáo: tín ngưỡng đa thần cổ xưa -Tôn giáo: tín
ngưỡng đa thần sơ khai nhanh chóng chuyển sang nhất thần giáo và tôn giáo độc tôn
được kế tục bằng đa tôn giáo
-Văn học nghệ thuật: người gốc nông
nghiệp thiên về thơ, nhạc trữ tình.
-Văn học nghệ thuật: thiên về
truyện, kịch, múa sôi động.
------- Đây là hai loại hình văn hóa cơ bản, cố tính chất bao trùm, sự phân chia 2
loại hình văn hóa ở trên chủ yếu dựa vào văn hoá gốc.
Ngày nay, xu thế giao lưu văn hóa đa chiều khiến hai loại hình văn hóa ấy có sự
giao thoa, xích lại gần nhau.
CÂU 4: TIẾN TRÌNH VĂN HÓA VIỆT NAM (GIAI ĐOẠN VĂN HÓA BẢN ĐỊA)
Lớp văn hóa bản địa Lớp văn hóa bản địa được hình thành qua hai giai
đoạn: giai đoạn văn hóa tiền sử và giai đoạn văn hóa Văn Lang – Âu Lạc.
Thành tựu lớn nhất ở giai đoạn văn hóa tiền sử của cư dân Nam-Á là sự hình thành nghề nông nghiệp lúa nước.
Trong năm trung tâm xuất hiện cây trồng, Đông Nam Á chính là trung tâm nông nghiệp cổ xưa nhất. Còn
theo các tài liệu cổ thực vật học thì việc cây lúa có nguồn gốc từ đây là điều không còn nghi ngờ gì: trung
tâm thuần dưỡng lúa là vùng đông nam Himalaya và khu vực sông nước Đông Nam Á. Các tác giả Lịch
sửViệt Nam khẳng định: “Trên cơ sở kinh tế hái lượm phát triển ở vùng rừng nhiệt đới, các bộ lạc Hòa
Bình đã thực hiện một bước nhảy có ý nghĩa lớn lao trong đời sống nhân loại: phát minh nông nghiệp…
Đông Nam Á là một trong những trung tâm phát sinh nông nghiệp sớm nhất”.
Ngoài cây lúa và kĩ thuật trồng lúa, còn phải kể đến một số thành tựu đặc biệt khác của Đông Nam Á cổ đại:
a) Việc trồng dâu nuôi tằm để làm đồ mặc và tục uống chè;
b) Việc thuần dưỡng một số gia súc đặc thù như trâu, gà (trong cuốn Nguồn gốc các loài, E. Darwin đã
khẳng định rằng nguồn gốc của con gà nuôi là xuất phát từ con gà rừng Đông Nam Á);
c) Việc làm nhà sàn để ở và dùng các cây thuốc để chữa bệnh. Truyền
thuyết phương Nam đã đánh dấu giai đoạn văn hóa này bằng hình ảnh
Thần Nông, nhân vật thần thoại này đã được bổ sung vào kho tàng văn hóa Trung Hoa.
Giai đoạn văn hóa Văn Lang – Âu Lạc kế tục giai đoạn tiền sử cả về không gian văn hóa, thời gian văn
hóa và thành tựu văn hóa. Nếu dựa vào thư tịch cổ và truyền thuyết thì có thể hình dung giai đoạn này

khởi đầu từ khoảng giữa thiên niên kỉ III trước Công nguyên.
Về mặt thời gian, thiên niên kỉ thứ III trước Công nguyên ứng với giai đoạn đầu thời đại đồ đồng, cũng
chính là thời điểm hình thành chủng Nam-Á (Bách Việt).
Thành tựu văn hóa chủ yếu của giai đoạn Văn Lang – Âu Lạc, sau nghề nông lúa nước, chính là nghề
luyện kim đồng. Cả trên phương diện này, vai trò của vùng văn hóa Nam-Á đối với khu vực cũng hết sức
to lớn; đồ đồng Đông Sơn và ảnh hưởng của nó đã tìm thấy khắp nơi – từ nam Trung Hoa, Thái Lan đến
toàn bộ vùng Đông Nam Á hải đảo.
Giai đoạn từ 3-2 nghìn năm trước Công nguyên cho đến vài trăm năm trước Công nguyên đã tạo nên một
đỉnh cao rực rỡ trong lịch sử văn hóa dân tộc và có ảnh hưởng lớn đến toàn khu vực
.
Vào đầu giai đoạn này, đỉnh cao đó là thành tựu chung của các dân tộc Đông Nam Á cổ đại. Không phải
vô cớ mà D.V. Deopik gọi thế kỉ V trước Công nguyên là “thế kỉ của phương Nam”. Đúng như Ja.V.
Chesnov nhận xét: “Về hàng loạt phương diện của văn hóa – từ sản xuất nông nghiệp cho đến lĩnh vực
thần thoại – Đông Nam Á đã có những ảnh hưởng lớn, vượt rất xa ra ngoài ranh giới những láng giềng
trực tiếp của nó… Việc tạo nên những thứ như cây lúa trồng, nghề luyện kim đồng, hoặc những thành tựu
văn hóa khác… là kết quả sáng tạo của rất nhiều dân tộc lớn nhỏ đã tạo nên trong suốt chiều dài lịch sử
nhiều nghìn năm của mình cái thế giới độc đáo được gọi là Đông Nam Á”. Chính những thành tựu của thế
giới Đông Nam Á cổ đại mà trong đó có phần đóng góp của tổ tiên các dân tộc Việt Nam ấy đã làm nên
cái nền vững chắc cho sự phát triển của văn hóa Việt Nam sau này.
CÂU 5: TRIẾT LÝ ÂM DƯƠNG, NGŨ HÀNH TRONG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA NGƯỜI VIỆT
Triết lý Âm Dương đối với tính cách người Việt:
Việt Nam nằm ở khu vực Đông Nam Á - cái nôi sinh ra triết lý Âm Dương nguyên thủy
đồng thời chịu sự ảnh hưởng rất lớn từ văn hóa Trung Hoa - nơi phát triển và hoàn thiện
triết lý Âm Dương nên có thể thấy triết lý Âm Dương đã xuất hiện ở Việt Nam từ rất lâu và
người Việt cũng có những lý giải của mình về triết lý này.
Trong hai quy luật trong triết lý Âm dương thì quy luật “trong dương có âm và trong âm có
dương” ảnh hưởng rõ nét hơn với lối tư duy và lối sống của người Việt . Có rất nhiều quan
niệm dân gian thể hiện triết lý này như: trong cái rủi có cái may, trong dở có hay,… Từ đó
nó cũng hình thành nên “triết lý sông quân bình” cố gắng giữ lại sự hài hòa âm dương trong
các mặt của cuộc sống. Và cũng chính nhờ triết lý sống này đã tạo ra cộng đồng người Việt
luôn thích nghi cao với mọi hoàn cảnh sống và luôn lạc quan.
Quy luận “chuyển hóa âm dương” tuy không sâu sắc bằng nhưng ta vẫn có thể thấy nó biểu
hiện qua các văn học dân gian như: trèo cao ngã đau, khổ tận cam lai,
Triết lý Âm Dương đối với tư duy người Việt:
Một trong những tư duy đặc trưng của người Việt xuất phát từ triết lý Âm Dương là tư duy
“lưỡng phân lưỡng hợp”, âm dương luôn đi cùng với nhau. Tư duy này được thể hiện rõ nét
trong hầu hết các phương diện của người Việt khi mà mọi thứ thường đi theo đôi theo cặp
chứ ít khi nào đi đơn lẻ.Ví dụ như người Việt cho rằng tổ tiên của mình là con cháu Rồng-
Tiên, hay là loại bánh truyền thống của Việt Nam là bánh chưng - bánh dày cũng được đi
theo cặp để tượng trưng cho trời và đất,… Ngay cả một số khái niệm văn hóa khi du nhập
vào việc Nam cũng được nhân đôi lên để phù hợp với lối tư duy này. Ví dụ như ông Tơ
Hồng là người cai quản chuyện nhân duyên ở Trung Hoa thì khi du nhập vào Việt Nam đã
trở thành ông Tơ - bà Nguyệt.
Bên cạnh đó thì hai hình vuông và tròn - biểu tượng cho Âm và Dương cũng xuất hiện thành
cặp trong đời sống văn hóa của người Việt với quạn niệm của sự hoàn thiện. Ví dụ như khi
chúc mừng người phụ nữ sau sinh thì người Việt có câu “mẹ tròn con vuông” với ý mẹ con
đều mạnh khỏe bình an, hay như trong đồng tiền cổ Việt Nam sẽ có một lỗ vuông ở giữa
Ảnh hưởng của triết lý Âm Dương trong văn hóa ẩm thực người Việt:
Là một đất nước nằm ở khu vực thích hợp trồng trọt rất nhiều loại cây trái nên Việt Nam có
một nền ẩm thực vô cùng phong phú và hầu hết các món ăn đều là sự kết hợp cầu kỳ của
nhiều loại nguyên liệu khác nhau. Sự kết hợp này không chỉ chú ý hài hòa về mặt vị giác mà
nó còn được suy xét nhiều về đảm bảo hài hòa hai yếu tố Âm Dương. Sự hài hòa này được
thể hiện ở ba phương diện.
Thứ nhất, các thành phần và cách chế biến phải đảm bảo sự cân bằng Âm Dương trong món
ăn. Người Việt phân biệt thức ăn theo năm mức từ Âm đến Dương, đó là Hàn (lạnh), Lương 8
(mát), Bình (trung bình), Ôn (ấm), Nhiệt (nóng). Khi chế biến thức ăn cần tuân thủ nguyên
tắc này để đảm bảo thức ăn ngon miệng và tốt cho sức khỏe. Ví dụ như trong món cá kho
với cá thuộc tính hàn thì người Việt hay cho thêm một số nguyên liệu mang tính nhiệt như gừng, tiêu, ớt,…
Thứ hai, thức ăn đưa vào cơ thể cần đảm bảo sự cân bằng Âm Dương trong cơ thể. Theo
quan niệm của người Việt thì các bệnh tật sinh ra là do sự mất cân bằng Âm Dương trong cơ
thể nên khi bị ốm có thể giúp cơ thể khỏi bệnh bằng các món ăn giúp điều chỉnh sự mất cân
bằng này. Ví dụ như khi cơ thể bị cảm (quá âm) thì nên ăn các món ăn thuộc nhiệt như nước gừng, cháo hành,…
Thứ ba, cần đảm bảo hài hòa Âm Dương giữa con người và môi trường trong ẩm thực. Tùy
vào môi trường mà nên chọn các loại món ăn phù hợp. Ví dụ như trời nóng thì nên ăn các
món có tính âm còn trời lạnh thì nên ăn các món ăn có tính dương
Ngoài ra, các món ăn đặc trưng trong các dịp lễ quan trọng của người Việt thường hội đủ cả
yếu tố Âm và Dương với ý nghĩa toàn vẹn hòa hợp. Ví dụ như loại bánh phu thê xuất hiện 9
trong ngày cưới của người Việt là loại bánh hình tròn bọc trong khuôn hình vuông, ruột có
dừa trắng, đậu vàng, mè đen, lá xanh, buộc lạc đỏ. Đảm bảo có đầy đủ các yếu tố Âm
Dương và Ngũ hành với hy vọng cuộc sống hôn nhân hòa hợp, hạnh phúc.
Có thể thấy người Việt đã vận dụng những tư duy và lý giải của mình trong văn hóa ẩm
thực từ đó tạo nên những bữa ăn đa dạng, giàu dinh dưỡng nhưng vẫn mang nét đặc trưng
của nền nông nghiệp lúa nước.
Ảnh hưởng của triết lý Âm Dương trong văn hóa trang phục của người Việt:
Nếu trong ẩm thực người Việt coi trọng việc cân bằng Âm Dương thì ở một số phương diện
đời sống văn hóa khác người Việt lại có phần trọng Âm hơn. Điển hình như trong trang
phục truyền thống của người Việt thì thường có xu hướng chọn các màu tối, nhã nhặn và
được thiết kế với phong cách kín đáo, tế nhị. Ví dụ như các trang phục xưa ở miền Bắc
thường có màu nâu, màu gụ còn ở miền Nam thì là màu đen. Đây cũng có thể xuất phát từ
đặc điểm ngoại hình của người Á Đông với các nét đẹp mềm mại và nhu hòa chứ không
phải là nét đẹp sáng chói rực rỡ như người phương Tây. Và với các nét đẹp này thì người Á
Đông thường cho rằng nó sẽ thể hiện rõ nhất dưới một môi trường “thuộc Âm” khi mà mọi
thứ dường như tiềm ẩn dưới một lớp bụi mờ ảo.
Về sau với sự du nhập của văn hóa phương Tây - nơi cho rằng các vẻ đẹp đến từ sự rực rỡ
chói lọi, các trang phục của người Việt được cải tạo để có thể đưa thêm các yếu tố dương
vào. Có thể thấy rõ trong trang phục truyền thống của người Việt thời hiện đại, là áo dài. Áo
dài có thể nói là một trang phục hài hòa Âm Dương mà vẫn tôn nên nét đẹp nhu hòa kín đáo
của người Việt. Phần trên của áo dài thường được may bó sát để tôn nên các đường nét cơ
thể của người mặc, phần dưới lại lơi ra để nét đẹp trở nên kín đáo và thướt tha hơn. Màu sắc
của áo dài cũng đa dạng và có nhiều màu rực rỡ hơn chứ không chỉ là những màu thâm hoặc nâu như xưa
Ảnh hưởng của triết lý Âm Dương trong văn hóa ở của người Việt:
Trong văn hóa ở của Việt Nam thì sự xuất hiện của triết lý Âm Dương cũng thể hiện rõ nét
qua cách người Việt xây nhà và tổ chức không gian cảnh quan. Các kết cấu trong dựng nhà
như “kèo-cột, đấu-củng, xà-bảy,..” luôn là sự kết hợp của Âm Dương và là nét độc đáo
trong kiến trúc người Việt xưa. Trong việc tổ chức không gian cảnh quan quanh nhà thì
người Việt thường có một cái ao, hồ hay giếng là yếu tố Âm để cân bằng với yếu tố Dương
là công trình ở. Bởi có như vậy thì cuộc sống mới “người khang vật thịnh”. Ngoài ra khi xây
nhà thì người Việt thường coi trọng bên trái và các số lẻ hơn.
Bên cạnh đó thì khi làm nhà, chủ nhà thường coi trọng yếu tố phong thủy, lựa chọn hướng
nhà cho phù hợp với tuổi của gia chủ để giúp gia chủ có một cuộc sống thuận lợi hơn. Việc
này tuy hơi có phần mê tín nhưng nó đã hình thành trong nếp sống của người Việt từ lâu và
vẫn hiện vẫn được nhiều người coi trọng
Ảnh hưởng của triết lý Âm Dương trong văn hóa tinh thần của người Việt:
3.6.1. Về mặt tín ngưỡng 11
Tín ngưỡng phồn thực cũng một lần nữa khẳng định sử ảnh hưởng của triết lý Âm Dương
đối với đời sống văn hóa người Việt. Ở Việt Nam, tín ngưỡng này thờ cơ quan sinh dục nam
và nữ ( Âm và Dương) và thờ hành vi giao phối (sự hài hòa Âm Dương).
Với các tín ngưỡng đa thần khác thì người Việt thường lấy chất âm tính làm căn bản, dẫn tới
lối sống tình cảm trọng nữ. Một tín ngưỡng đặc trưng khác của Việt Nam cũng thể hiện rõ
tính chất này là tục thờ Mẫu. Ngoài ra một số tín ngưỡng khác khi du nhập vào Việt Nam
cũng có chút biến đổi cho phù hợp với tư duy này của người Việt. Như là các vị Phật ở Việt
Nam thường được nữ tính hóa cũng như khi nhắc đến đạo Phật ở Việt Nam người ta thường
để ý nhiều đến vị Quan Thế Âm Bồ Tát.
Với tư duy tin ngưỡng về con người thì người Việt cũng coi trọng mối quan hệ giữa con
người với Âm Dương đặc biệt là Âm. Theo người xưa, chết là việc linh hồn đi sang cõi âm
về với tổ tiên và người Việt cũng rất coi trọng Việt thờ cúng tổ tiên. Người Việt thường tổ
chức ngày giỗ hằng năm để tưởng nhớ người đã mất. Vào các dịp Tết thì bên cạnh Việt ăn
mừng năm mới thì người Việt còn coi nó là dịp đưa các linh hồn người đã mất về đoàn tụ với gia đình. 3.6.2. Về mặt phong tục:
Triết lý Âm Dương ảnh hưởng đến nhiều phong tục tập quán của người Việt và rõ nét nhất
là phong tục tang lễ. Trong tang lễ truyền thống người Việt chủ đa phần dùng màu trắng
(màu của hành Kim) thay vì màu đen như nhiều quốc gia khác, các nghi thức cúng, đưa tiễn
người chết đều được thực hiện theo đúng trình tự ưu tiên của ngũ hành.
Trong các lễ hội truyền thống lớn của người Việt luôn có hai phần là phần lễ và phần hội.
Phần lễ thường là sự giao tiếp với thế giới âm với ý muốn cầu nguyện và tạ ơn, còn phần hội
là thời gian để mọi người vui chơi giao lưu với nhau thuộc về phần dương. 3.6.3. Nghệ thuật:
Nghệ thuật thanh sắc ở Việt Nam thường tuân thủ theo nguyên tắc đôi xứng hài hòa, nghệ
thuật múa thường theo các đội hình vuông tròn và xây dựng dựa trên cơ sở tương quan giữa
các yếu tố Âm Dương. Các nhịp điệu thường được chia theo nhịp chẵn và nội dung cũng
mang đậm tính trữ tình như tính cách đặc trưng của người Việt Nam.
Trong văn học dân gian của người Việt luôn thể hiện rõ tư tưởng “trong âm có dương trong
dương có âm, âm cực sinh dương cực và dương cực sinh âm”. Ví dụ như: không ai giàu ba họ, không ai khó ba đời THUYẾT NGŨ HÀNH
Thuyết âm dương ngũ hành thể hiện nhiều trong văn hoá Việt Nam,
trong các khía cạnh đời sống và ảnh hưởng một cách sâu sắc đến bản sắc văn
hóa dân tộc, hình thành nên tính cách người Việt Nam.
Ứng dụng của thuyết ngũ hành trong đời sống văn hóa người Việt 1. Ẩm Thực
Người Việt Nam chúng ta phân biệt món ăn theo năm mức độ hay còn
gọi là năm mức âm dương ứng với ngũ hành, luật âm dương bù trừ và chuyển
hóa được tuân thủ nghiêm ngặt trong hầu hết các món ăn ngay từ khâu chế
biến. Người Việt chia thức ăn ra năm mức âm dương tương ứng với ngũ hành:
- Thực phẩm có tính Hàn (lạnh),âm
thịnh ứng với hành Thuỷ
- Thực phẩm có tính Nhiệt (nóng),
dương (thịnh) ứng với hành Hoả
- Thực phẩm có tính Ôn (âm),
dương ít ứng với hành Mộc
- Thực phẩm có tính Lương (mát), âm ít ứng với hành Kim
- Thực phẩm có tính Bình (trung tính) ứng với hành Thổ
Ẩm thực Việt rất nghiêm ngặt cũng rất chú trọng theo quy luật âm
dương, bù trừ và chuyển hóa khi chế biến món ăn. Người Việt có thói quen
sử dụng rất nhiều loại gia vị, gia vị giúp kích thích dịch vị, dậy lên mùi thơm
của món ăn, ngoài ra còn chứa kháng sinh thực vật giúp bảo quản thức ăn,
hạn chế sự sinh sôi này nở của các vi sinh vật, điều hòa âm dương, hàn nhiệt
trong thức ăn. Khi chế biến còn kết hợp rất nhiều loại nguyên liệu khác nhau
một cách hài hòa theo quy tắc âm dương ngũ hành để món ăn trở nên ngon và hấp dẫn hơn.
Ngoài ra còn tùy theo vùng miền mà cách chế biến món ăn được thay
đổi theo khẩu vị cũng như tính linh hoạt trong quy tắc âm dương ngũ hành
nhằm đảm bảo sự cân bằng âm dương giữa con người và môi trường. Người
Việt chúng ta cũng thường có thói quen ăn uống theo khí hậu và theo mùa:
- Mùa hè nóng nực mang tính nhiệt - hành hoả thì ăn các loại thức ăn tính
hàn (mát) , có nước (âm-hành thuỷ), vị chua (âm) dễ ăn, dễ tiêu hoá, giải nhiệt
- Mùa đông lạnh mang tính hàn ( âm) ăn các loại thức ăn khô, nhiều mỡ, cay
nồng như các món chiên, xào để vừa ngon vừa làm ấm cơ thể
Theo quan niệm của người Việt, con người mắc bệnh là do sự mất cân
bằng âm dương của cơ thể, và thức ăn thường lại chính là liều thuốc hữu hiệu
cho sự mất cân bằng âm dương ấy, giúp cơ thể phục hồi nhanh chóng.
Xôi ngũ sắc được xem như là một nét văn hóa trong ẩm thực người
Việt Nam chúng ta nói chung và các dân tộc thiểu số ít người như Tày, Nùng,
Mường nói riêng. Người xưa cho rằng sự tồn tại của năm vật chất kim, mộc,
thủy, hỏa, thổ tạo nên sự tươi tốt của thiên - địa - nhân, Năm màu xôi ngũ sắc
tượng trưng cho triết lý âm dương ngũ hành và con người hòa hợp với nhau,
Xôi ngũ sắc là món ăn truyền thống trong các dịp lễ, Tết. Ăn xôi năm màu sẽ
mang lại sự may mắn, tốt lành.
Xôi ngũ sắc hội tụ những giá trị truyền thống, hiện đại vừa mang ý
nghĩa về quan niệm vũ trụ vừa mang triết lý âm dương , vừa mang ý nghĩa
nhân sinh cao đẹp, Màu đỏ (hoả) tượng trưng cho khát vọng, Màu vàng
(thổ),màu tím đen (thuỷ) tượng trưng cho trái đất trù phú, Màu xanh (mộc
tượng trưng cho màu xanh của núi rừng Tây Bắc, Màu trắng (kim) tượng
trưng cho tình yêu trong trắng thủy chung. 2. Trang phục
Theo phong thuỷ, màu sắc trang phục đóng một vai trò không nhỏ
trong việc cân bằng, hỗ trợ và điều hoà yếu tố âm dương - ngũ hành. Mỗi một
hành theo phong thủy sẽ mang một hành trong Ngũ hành (Kim, Mộc, Thủy,
Hỏa, (Thổ) và mỗi hành ấy lại có một màu sắc riêng cho mình, liên quan đến
màu sắc của hành khác theo cơ chế sinh – khắc trong Hai hành.
Với việc hoạt động theo quy tắc khắc - sinh thì việc mặc đồ màu gì
cũng sẽ ảnh hưởng đến vận của mình có thể là xui xẻo, hoặc may mắn. Mặc
dùng màu và hợp mệnh sẽ gặp nhiều may mắn, tiền tài, thuận lợi trong công
việc. Màu sắc đóng vai trò quan trọng trong phong thủy cũng như cân bằng
mọi thứ trong cuộc sống. Đặc biệt là đối với những người làm văn phong,
làm ăn lớn trong các dự án thì việc áp dụng quy tắc ngũ hành vào là một điều
tất yếu. Về nguyên tắc, chọn các màu của hành sinh cho hành bản mệnh. Thứ
hai, màu của hành tương hòa với hành bản mệnh. Nếu không, có thể chọn
màu của hành bị hành bản mệnh khắc cũng được. Và ngược lại, sẽ kỵ các
màu của hành khắc hành bản mệnh, thứ hai là màu của hành được hành bản
mệnh sinh cho, vì khi sinh cho hành khác hành bản mệnh phải tiết khí nên bị suy yếu
Mệnh Kim: Mặc đồ có màu trắng, xám, sửa hay học sẽ thuận lợi trong
làm ăn, buôn bán. Ngoài ra, có thể lựa chọn những tông màu khác như
vàng, nâu (Thổ), nên tránh đỏ, cam (mệnh Hỏa) tương khắc.
Mệnh Mộc: Nên chọn những bộ đồ có thiên hướng xanh lá cây. Hoặc lựa
chọn những màu như đen, xanh nước biển (mệnh Thủy) để phối cùng 4
cũng rấ-t tất. Đối với người mệnh Mộc thì tránh các màu như xám, ghi (mệnh Kim) tương khắc.
Mệnh Hỏa: Người mệnh này mặc đồ có màu đỏ, hồng, tím, cam (màu
tương hợp) sẽ hợp và thuận lợi cho công việc, ngoài ra, có thể lựa chọn
màu xanh lá cây (mệnh Mộc). Nên tránh các màu như xanh biển, xanh da
trời (mệnh Thủy) tương khắc.
Mệnh Thổ:Nên chọn mặc đồ có màu vàng, nâu (màu tương hợp) sẽ rất
hợp và thuận lợi cho công việc. Bên cạnh đó người mệnh Thổ cũng có thể
lựa chọn những tông màu khác như đỏ, hồng, tím, cam (mệnh Hỏa) cũng
rất tốt. Và tránh những màu như xanh lá (mệnh Mộc) tương khắc.
Mệnh Thủy: Người mệnh Thuỷ sẽ rất thành công, thuận lợi trong công
việc, cũng như may mắn nếu chọn để có màu xanh nước biển, đen. Ngoài
ra mặc cùng những trang sức, giày dép có màu trắng, xám, ghi (mệnh
Kim) cũng rất tương thích. Ngược lại tránh các màu như nâu (mệnh thổ) tương khắc.
Như vậy có thể thấy màu sắc trang phục trong ngũ hành cũng đóng một
vai trò to lớn về mặt tâm linh, giúp cân bằng hài hòa âm dương, và cuộc sống chúng ta hơn
Có thể nói âm dương là hai mặt của cuộc sống, thể hiện sự đối lập,
trái ngược hoàn toàn nhau. Tuy nhiên chúng lại có tính thống nhất và bổ trợ
cho nhau về mọi mặt. Và trong kiến trúc nhà cửa cũng như thế, đặc biệt là
với những gia đình làm ăn lớn, kinh xe doanh mua bán, thì vấn đề phong
thủy luôn là điều mà họ cân nhắc trước khi mua nhà, xây nhà.
“Mộc” đối ứng với hướng đông, mùa xuân và màu xanh. Điều này
tương ứng với một sự khởi đầu, vạn vật sinh sôi nảy nở, ôn hòa hướng về
phía trước giống như thời điểm mặt trời bắt đầu mọc ở phương đông.
“Hỏa” đối ứng với hướng nam, mùa hạ và màu đỏ. Điều này tương
ứng với sự nóng bức, hướng lên trên, hướng về phía trước, thịnh vượng và
phát triển, giống như khi mặt trời đã nhô lên trên không trung.
“Kim” đối ứng với hướng tây, đối ứng với mùa thu và màu trắng.
Điều này tương ứng với sự mát lạnh, đìu hiu và suy thoái, giống như mặt
trời lặn ở phương tây.
“Thủy” đối ứng với hướng bắc, đối ứng với mùa đông và màu đen.
Điều này tương ứng giá rét, lạnh lẽo và hướng xuống phía dưới, đêm khuya dài đằng đẵng.
“Thổ” đối ứng với trung tâm, chỗ giữa nhất, đối ứng với giữa mùa hè
và màu vàng. Điều này tương ứng với sự dưỡng dục lâu dài và bền chắc.
Âm dương chính là hai bề mặt của cuộc sống cho nên nhà ở cũng cần
đảm bảo các nguyên tắc âm dương cân bằng. Trong kiến trúc, phần hướng ra
ngoài, thu nhận ánh sáng tốt, những mảng đạc, có những khối đường né
cứng rắn, vật liệu nhẵn bóng, mịn màng và có sắc nóng chính là phần
dương. Ngược lại thì phần lõm vào, có phần khuất tối, không nhận được
nhiều ánh sáng, có những mảng rỗng, đường nét uyển chuyển, vật liệu thô
ráp, sần sùi, và có màu sắc lạnh sẽ là phần âm.
Kiến trúc của ngôi nhà phải luôn đảm bảo được sự cân bằng âm
dương, nếu kiến trúc được xây ở hướng thuận dương nhiều thì dương khí
quá vương, người trong nhà bất ổn định, năng động, tinh thần, dễ phấn
khích dẫn đến hấp tấp, vội vàng, vì thế đã đưa ra những quyết định thiếu suy
nghĩ và lệch lạc trọng làm ăn, cuộc sống.
Nhà thuần dương có thể khiến cho người sống trong nhà thích đi lại
hoạt động nhiều hơn, thích sống bên ngoài hơn ở nhà nhất là đội với những
người có mệnh dương. còn nếu nhà của gia chủ âm thịnh dương suy, thì khi
đó dẫn đến mọi nơi trong nhà đều u ám, và nặng mùi không khí trì trệ, khiên
cho người sông trong ngôi nhà đó trở nên bảo thủ, lười nhát, ít vận động ít
suy nghĩ, và không quyết đoán trong những ngã rẽ của cuộc sống mình, ngại
đương đầu với khó khăn, không phân đầu, chỉ hài lòng với thứ mình đáng
có. thậm chí với những người mệnh âm còn xâu hơn, dễ gặp nhiều bệnh tật,
tai ương, biên cô trong cuộc sống.
Vì lẽ đó, một ngôi nhà mà làm cho gia chủ cảm thấy thoải mái,
phát triển bình thường và hài hòa trong cuộc sống thì ngôi nhà đây phải
được đảm bảo sự cân bằng giữa âm và dương. đó cũng chính là yếu tố cốt
lõi cho một công trình kiến trúc thời nay. 5. Y học
Trong y học cổ truyền, học thuyết ngũ hành được ứng dụng rộng rãi
và được xem là kim chỉ nam cho hoạt động khám chữa bệnh. Kết hợp học
thuyết âm dương với y học để hình thành nên học thuyết âm dương được
ứng dụng trong y học. Từ đó thuyết âm dương ngũ hành được phổ biến rộng
rãi, là một phạm trù không thể thiếu trong y học, ngoài nhiều nền y học phát
triển trên thế giới áp dụng thì nền y học Việt Nam cũng không là một ngoại lệ.
Về cấu tạo: Tổ chức bộ phận trên
cơ thể, yếu tố dượng đại diện cho
những bộ phận bên ngoài thường có
thể nhìn được băng mặt thường
như: mặt ngoài, tứ chi, bì mao, lục
phủ, yếu tố âm đại diện cho những
bộ phận bên trọng như: mặt trong tử
chỉ, cân cốt, ngũ tạng. trong các bộ phận đó lại có thể chia nhỏ với các
phần âm - dương luôn tồn tại.
Về thay đổi bệnh lí: Nhân tố gây bệnh được chia thành 2 loại âm tà,
dương tà,…về chẩn đoán bệnh tật, các chứng thuộc dương sẽ là: sắc
sáng, thạnh âm to rõ, tiếng thở thô, sốt, các chứng thuộc ẩm: sắc tối,
thanh âm thấp bé, tiếng thứ vũ lực, sợ lạnh.
Nguyên tắc điều trị: Có hai nguyên tắc chính, là: âm dương thiên thắng
và âm dương thiên suy. với âm dương thiên thăng thì dương thăng thì âm
bệnh và ngược lại, với âm dương thiên suy thì âm hư không chệ được
dương gây, chứng hư nhiệt, dương hư không chế được âm gây chứng hư hành.
Liên hệ với thuyết âm dương thì từ đó cũng sản sinh ra thuyết ngũ
hành ứng dụng trong y học đặc biệt là y học cổ truyền, được áp dụng nhiều
nơi thuyết ngũ hành với nằm đặc tính: kim, mộc, thuỷ, hoà, thổ. qua đó cách
chuẩn đoán bệnh cũng dựa trên các đặc tính này, dựa vào đó mà căn cứ biểu
hiện của sắc, vị. mạch để chẩn đoàn tạng bị bệnh, sắc mặt xanh thì thích ấn
độ chua, mạch huyền thì có thể chẩn đoán can bệnh, mặt sắc đỏ thì miệng
đặng, mạch hồng có thể chẩn đoán tầm hòa khang thịnh...về cách xác định
các nguyên tắc điều trị, ta căn cứ vào hai quy luật tương sinh, tương khắc trong ngu hành.
Quy luật tương sinh: Hư thì bố mẹ, ví dụ như thận âm bất túc không tư
dưỡng can mộc gây nên can âm bất túc, gọi là thuỷ không sinh mộc. Khi
điều trị không nên trực tiếp trị can mà phải bổ thận thuỷ để sinh can mộc.
Thực thì tả con, như can hoả tích thịnh, chỉ thăng không giáng, gây
chứng can thực hoả, khi điều trị nên tả tâm hoả để giúp tả can hoả.
Quy luật tương khắc: Ức cường dùng khi tương khắc thái quá, nếu can
khí hoành nghịch, phạm vị khác tỳ, gây nên can vị bất hoà, khi điều trị
dùng pháp sơ can, bình can. Hoặc nếu tỳ thổ phản khắc can mộc, làm can
khí mất điều đạt, phải dùng pháp kiện tỳ hoà vị để điều trị. Phù nhược
được dùng trong tương khắc bất cập, nếu can hư uất trệ, ảnh hưởng tỳ vị
vận hoá, gọi là mộc không sơ thổ, điều trị nên hoà can làm chủ, kiêm thi
kiện tỳ để tăng cường công năng của cả hai tạng.
Học thuyết âm dương và ngũ hành đều thuộc phạm trù trong phép
biện chứng duy vật cổ đại, sau khi được ứng dụng vào y học cổ truyền thì đã
trở thành một bộ phận trọng yếu của hệ thống lý luận y học, đòi hỏi phải có
sự kết hợp âm dương và ngũ hành mới có thế nhân thức chính xác mối quan
hệ tương hồ giữa các tạng phủ.
Y học việt nam cho rằng: mỗi bệnh tật đều do mất quân bình âm
dương mà ra; trong con người, quan trọng nhất là trục tâm – thân va thân là
trung tâm. Hải thượng lãn ông Lê Hữu Trác từng nói “bách bệnh đều ở tạng 9
thân”. Việt Nam ta đã và đang là một trong các nước áp dụng thuyết âm
dương và ngũ hành với sự hưởng ứng và tin tưởng từ nhân dân. 6. Tín ngưỡng
Tín ngưỡng là một phần không thể không nhắc đến khi nói về triết lý
âm dương ngũ hành. Theo quan niệm xưa của người Trung Quốc, ngũ hành
là sự vận hành của trời đất, vũ trụ bao gồm 5 yếu tố, là Kim, Mộc, Thủy,
Hỏa, Thổ. Mỗi yếu tố đều có sự tương sinh, tương khắc với nhau và dần
dần, triết lý âm dương ngũ hành đã được tín ngưỡng hóa, thờ phụng và
mang tính linh thiêng tại nhiều nước ở khu vực Á Đông, trong đó có cả Việt Nam.
Cùng với những tín ngưỡng dân gian đã có từ lâu đời, người Việt cổ
đã đưa thuyết ngũ hành vào trong thờ cúng với hình tượng đặc trưng là
Chúa Bà Ngũ Hành, hay còn gọi là năm mẹ ngũ hành: Đệ Nhất Chúa Bà
Kim Tinh Thần Nữ, Đệ Nhị Chúa Bà Mộc Tinh Thần Nữ, Đệ Tam Chúa Bà
Thủy Tinh Thần Nữ, Đệ Tứ Chúa Bà Hỏa Phong Thần Nữ, Đệ Ngũ Chúa Bà
Thổ Đức Thần Nữ. Năm vị thần này biểu trưng cho Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ. 5 chúa ngũ hành
Việc chuẩn bị lễ cúng như khi cúng các vị thần khác của Tứ Phủ
người ta cũng chuẩn bị lễ vật dâng hương lên Bà Chúa Ba vào những ngày
rằm tháng giêng với đầy đủ lễ vật tùy theo sở thích của từng người. Khi sắm
lễ vật cúng Bà Ngũ Hành phải mua đủ cho 5 bà với 5 loại màu lần lượt là
xanh, đỏ, vàng, trắng, đen.
CÂU 6: LỊCH ÂM DƯƠNG * Có 3 loại lịch chính:
- Lịch thuần âm: Xuất phát từ văn hóa Lưỡng Hà, dựa theo chu kỳ mặt trăng, một năm âm có 354 ngày
(ít hơn thuần dương 11 ngày). 3 năm thì lịch thuần âm hơn dương lịch 1 tháng, 36 năm sẽ nhanh hơn 1 năm.
- Lịch thuần dương: Phát sinh từ văn hóa Ai Cập (lưu vực sông Nil), dựa theo chu kỳ mặt trời, một năm có 365,25 ngày.
- Lịch âm dương: là lịch người Á – Đông thường dùng. Là lịch kết hợp của lịch Âm – Dương. Gồm 3 giai đoạn nhỏ sau:
+ Định các ngày trong tháng bằng sóc vọng: Sóc= bắt đầu – ngày mùng 1 hàng
tháng; vọng = ngẩng mặt nhìn trăng – ngày rằm 15 hàng tháng.
+ Định các tháng trong năm theo mặt trời: Xác định bằng các tiết, một năm gồm bốn tiết: đầu tiên là
Đông chí – Hạ chí (ngày lạnh nhất và nóng nhất, chí = tột cùng), sau đó thêm Thu Phân, Xuân Phân. Sau
đó thêm 4 ngày đầu của 4 tiết: lập Xuân, lập Hạ, lập Thu, lập Đông. Sau đó phân nhỏ, tổng cộng có 24
tiết. Sau này trở thành những ngày Tết.
+ Điều chỉnh bằng chu kỳ: Vì mỗi năm theo mặt trời dài hơn mặt trăng, nên sau 3 năm sẽ điều chỉnh bằng
cách đặt 1 tháng nhuận (19 năm sẽ có 7 năm nhuận). Muốn tính năm nhuận, ta lấy năm đó chia cho 19, số
dư là 0,3,6,9,11,14,17 thì đó là năm nhuận. •
Lưu ý: Lịch thuần dương: 4 năm nhuận 1 ngày, Thuần âm: 2 tháng nhuận 1 ngày, lịch âm dương: 3 năm nhuận 1 tháng. •
Tháng nhuận: Là sự phản ánh phối hợp giữa mặt trời và mặt trăng, tạo nên thời tiết có tính chu kỳ.
CÂU 7: CÁC NGUYÊN TẮC TỔ CHỨC NÔNG THÔN VIỆT NAM? TÍNH CHẤT CƠ
BẢN CỦA LÀNG? MỐI QUAN HỆ GIỮA LÀNG VÀ NƯỚC? LÀNG NAM BỘ GIÁO TRÌNH TRANG 89
Các nguyên tắc tổ chức nông thôn Việt Nam;
-Tổ chức nông thôn theo huyết thống: Gia đình và Gia tộc
+Gia đình: Những người cùng huyết thống gắn bó mật thiết với nhau thành đơn vị cơ sở là gia đình và
đơn vị cấu thành là gia tộc.
+Gia tộc: Quan hệ huyết thống là quan hệ theo hàng dọc, theo thời gian. Nó là cơ sở cho tính “tôn ti”
trong xã hội cổ truyền Việt Nam.
-Tổ chức nông thôn theo địa bàn cư trú: Xóm và Làng
+Làng, xóm: Những người sống gần nhau, có xu hướng liên kết chặt chẽ với nhau. Sản phẩm của lối liên
kết này là khái niệm làng, xóm.
+ Cách tổ chức nông thôn dựa trên địa bàn cư trú, dựa trên quan hệ hàng ngang, theo không gian. Nó là
nguồn gốc của tính dân chủ.
-Tổ chức nông thôn theo nghề nghiệp và sở thích: Phường và Hội
+Phường: Trong một làng, phần lớn người dân đều làm nông nghiệp, tuy nhiên nhiều làng, có
những bộ phận dân cư sinh sống bằng nghề khác, họ liên kết chặt chẽ với nhau khiến cho nông
thôn Việt Nam có thêm một nguyên tắc tổ chức thứ ba là tổ chức theo nghề nghiệp, tạo thành đơn vị gọi là Phường.
+Hội: Bên cạnh Phường là Hội - tổ chức liên kết những người cùng sở thích, thú vui, đẳng cấp: hội tư
văn, hội văn phả, hội võ phả,...
+So với hội, phường mang tính chuyên môn sâu hơn và phạm vi thường nhỏ hơn. Phường và hội là sự
liên kết theo chiều ngang, tạo nên tính dân chủ của nông thôn Việt Nam cổ truyền.
-Tổ chức nông thôn theo truyền thống nam giới: Giáp
+Hình thức tổ chức xuất hiện muộn hơn so với các đơn vị liên kết ở trên. Đứng đầu mỗi giáp là cai giáp;
giúp việc cho cai giáp là các ông lềnh: lềnh nhất, lềnh hai, lềnh ba.
+Đặc điểm của giáp: i) Chỉ có đàn ông tham gia; ii) Có tính cha truyền con nối (cha ở giáp nào thì con ở giáp ấy).
+ Mỗi giáp phân biệt thành các lớp tuổi: ti ấu, đinh và lão.
+ Giáp là hình thức tổ chức, liên kết vừa theo chiều dọc lại vừa theo chiều ngang, tạo nên tính tôn ti đồng
thời là tính dân chủ trong làng xã Việt Nam cổ truyền.
-Tổ chức nông thôn theo đơn vị hành chính: Thôn và Xã
+Thôn: Xét về phương diện hành chính, làng được gọi là xã (đôi khi một xã có thể có vài làng), xóm
được gọi là thôn (đôi khi một thôn có thể có vài xóm).
+ Xã: Trong xã, có sự phân biệt rất rõ giữa dân chính cư (dân gốc ở làng ấy) với dân ngụ cư (người từ nơi khác đến trú ngụ).
+ Bộ máy hành chính làng xã VN cổ truyền dựa vào đơn vị giáp nên có tổ chức khá gọn nhẹ. Đứng đầu
ban lí dịch là lý trưởng (xã trưởng), dưới lý trưởng là phó lý, hương trưởng và trương tuần.
+ Phương tiện quản lý chủ yếu của lí dịch là 2 loại sổ - sổ đinh và sổ điền: một tay nắm nhân lực (trai
đinh) và một tay nắm kinh tế (ruộng đất).
- MỐI QUAN HỆ GIỮA LÀNG VÀ NHÀ NƯỚC
1.Nhà nước thực thi chính sách của mình thông qua làng xã:
Để các chính sách của mình đến được với người dân, Nhà nước không thể tự mình thực hiện được mà
phải thông qua tổ chức Làng xã. Làng xã có một hội đồng quản trị do dân cử để làm việc cho nó và để
liên hệ với nhà nước, đứng đầu không phải là người có chức cao, học giỏi mà là một vài người nhiều tuổi
nhất gọi là “bô lão”, bên cạnh đó là “Hội đồng Kỳ mục”. Thông qua Hội đồng kỳ mục, mọi thứ phú thuế,
bất cứ một nghĩa vụ gì, nhà nước thường chia ra cho các làng xã, bắt đóng góp nguyên vật liệu và sức lao
động. Làng xã đến lượt lại chia ra cho những người dân nam hay các hộ…Tóm lại, nhà nước chỉ biết có
tập thể làng xã mà không biết đến từng cá nhân hay từng gia đình; cũng không quan tâm gì đến sự phân phối các nghĩa vụ đó.
1.2. Nhà nước chỉ biết nội tình làng xã một cách đại khái, khái quát: Do nhà nước không đi tới từng người
dân, từng đám đất, nên nhà nước không có khả năng kiểm soát làng xã một cách chặt chẽ, chính xác. Nó
chỉ nắm được một cách mơ hồ. Con số trong sổ sách của nhà nước chỉ là con số ước lệ, nếu không nói là
một con số ma. Đó là chỗ yếu của nhà nước bất kỳ triều đại nào - dù là nhà nước phong kiến hay nhà
nước của bọn đô hộ. Nhà nước phải bằng lòng với những con số của làng xã, để rồi qua đó bắt chúng nộp
lên cho mình bao nhiêu thóc, vải, tiền bạc, bao nhiêu phu dịch, và lính tráng theo tỉ lệ và tiêu chuẩn. Nhà
nước cứ 3 năm hay 6 năm bắt khai hay duyệt hộ khẩu, và thỉnh thoảng mở những “chiến dịch” khám đạc
điền thổ, điều tra dân số. Nhưng thực tế vẫn không tài nào nắm vững nội tình thay đổi của từng nơi.
Chúng còn đặt ra những điều luật trị rất nghiêm khắc tội “ lậu đinh lậu điền”, nhưng cũng không vì thế
mà biết được một cách sáng sủa hơn. Cho nên, nói chung con số thuế má, binh dịch, phu dịch, bổ cho các
làng xã trong thời phong kiến có tính cách khoán trắng rõ rệt. Chẳng hạn: - Thời Trần đã có lúc áp dụng
biện pháp “sinh ra không kể, chết đi không trừ” đối với ngạch thuế binh, có nghĩa là nhà nước lấy con số
hộ khẩu duyệt trong một năm nào đó làm con số cố định. - Về thuế điều, trong khi làng xã có số “ ruộng
lậu” thì có những làng lại có “điền bất cập bạ”. Có những làng xã chịu nộp một thứ đặc sản nào đó, hay
nhận lấy việc cắt cỏ voi, ngựa, giữ đền chùa, hay nộp thợ thủ công,... Để được nhà nước miễn sưu hay thuế v..v..
1.3. Nhà nước phong kiến thường bắt nhân dân liên đới trách nhiệm với làng xã: Lấy làng xã làm đơn vị
cống phú và binh dịch, nhà nước phong kiến dùng biện pháp bắt nhân dân làng xã phải liên đới trách
nhiệm. Tính chất này được thể hiện rất rõ vào lúc một vài thành viên thiếu thuế, đào ngũ, nhà nước vẫn cứ
tróc vào làng xã ấy bắt nộp bù. Có những làng xã có những người dân cá biệt phạm tội trộm cướp hoặc
“làm giặc”, nhà nước thường có thói bắt tội cai phó tổng, lý trưởng (như năm 1856 đời Tự Đức) hoặc trị
tội cả làng, thậm chí “làm cỏ” cả làng. Làng Lai Cách, làng Da Giá Thượng thời Lê Trịnh, làng Sơn Âm
đời Minh Mạng, làng Cổ Am, làng Yên Phủ thời Pháp thuộc đều là những làng bị bọn thống trị “thi hành
kỷ luật” tàn khốc, ít nhất cũng bằng cách triệt hạ. Chính nhờ ở luật liên đới trách nhiệm mà nhà nước
ngày xưa mới có thể buộc được tất cả làng xã phục tùng; tuy không cần đi thẳng đến từng người dân, từng
đám đất mà vẫn có đầy đủ những đảm phụ.
1.4. Nhà nước không nhúng tay vào việc làng xã nhưng đưa đẳng cấp vào tận nông thôn: Việc chọn lọc
những phần tử ưu tú trao cho họ quyền hành và tước lộc đã gián tiếp tạo ra sự cách bậc trong nông thôn
và buộc các làng khác phải chấp nhận. Khi về làng, những phần tử ưu tú giành những địa vị cao và quyền
lợi nhiều hơn các thành viên khác. Luật lệ đã từ lâu của làng xã là: người nhiều tuổi nhất – tiên chỉ (thủ
chỉ) sẽ là người nắm giữ mọi quyền hành của làng xã. Còn luật lệ của nhà nước thì địa vị đó phải dành
cho những người thi đậu, có quan tước cao trong các thành viên. Nhưng luật lệ làng xã nói chung vẫn
không chị để tự thủ tiêu một cách dễ dàng, “triều đình dụng tước, hương đảng dụng xỉ”. Một sự giằng co
xảy ra. Cuối cùng cũng mặc nhiên đi đến một sự thỏa thuận: có lúc bên cạnh vai trò tiên chỉ còn có cai trò
xã quan (cũng chỉ có nơi gọi là đại toát, tiểu toát). Đời Nguyễn đó là những chức hương quan hoặc hương
thân: có lúc làng xã chịu để cho những người đồ đạt được ưu tiên vượt lên trên thứ tự đăng ký của họ theo
tiêu chuẩn (ví dụ ở Nam Đàn - Nghệ An đỗ tú tài được nhắc lên trên 10 người, đỗ cử nhân 15 người, phó
bảng 20 người, tiến sĩ 30 người….) để những người ấy được giữu chức tiên chỉ trước tuổi mà không hoàn
toàn phá vỡ nề nếp của làng xã: có lúc làng xã chịu để những người có chức phận những quyền lợi tương
đương hoặc cao hơn chút ít những người có tuổi tác (ví dụ ở xã Cao Xá- Thái Bình lúc chia phần thịt tế,
cái thủ cái cổ thường chia đôi: một nửa cho các cụ già, một nửa cho những người thi đỗ (khoa tràng) hoặc làm quan (sắc mệnh).
1.5. Nhà nước gián tiếp tham gia vào việc phân phối ruộng đất của làng xã: Chúng ta đều biết, mỗi một
làng xã đều có ruộng đất công, một thứ tài sản tập thể lâu đời. Thi hành quyền sở hữu, làng xã cứ mấy
năm một lần chia đều cho các thành viên. Nhưng đằng sau quyền sở hữu đó còn có quyền sở hữu tối cao
về ruộng đất của nhà nước (tức của vua). Cái quyền sau có thể tước đoạt cái quyền trước, vì là “đất của
vua, chùa của bụt”. Nhà nước tham gia ngày một sâu vào việc phân phối ruộng đất cho các thành viên đặc
biệt là đựa vào đó tiêu chuẩn cấp bậc, làm cho những thành viên nào có chức sắc cao thấp sẽ được phần
ruộng nhỏ hơn, nhưng vẫn lướn hơn ruộng của thành viên thường. Thực chất là nhà nước lấy một phần
ruộng làng xã làm lộc bổ sung cho phần tử ưu tú (các quan) và lương ăn cho quân đội. Số còn lại mới chia
cho các thành viên làm nông nghiệp, nhưng nhà nước lại cọi việc phân phối này là một phương diện của
việc trả công cho những người gánh vác nghĩa vụ đối với nhà nước: nông đân được chia ruông vừa phải
nạp thuế nạp xâu, vừa phải thay nhau đi phu, đi lính cho nhà nước. Đó là chính sách làm cho người nông
dân làng xã phụ thuộc vào nhà nước phong kiến một cách cách chặt chẽ. Không phải ngẫu nhiên triều đại
nào cũng cố gắng duy trì và tìm nguồn bổ sung cho ruộng công làng xã. Như vậy, chi phối ruông đất làng
xã, nhà nước cuối cùng cũng biến một xã hội bình đẳng dân chủ xưa kia thành một xã hội cấp bậc. Rõ
ràng nạn tranh nhau ngôi thứ cứ tủn mủn diễn ra trong làng xã, nạ cường hào,… là hậu quả bi đát cử hành
động trên. Tóm lại, nhà nước đã có những thành công nhất định trong việc đẳng cấp hóa làng xã.
1.6. Nhà nước có nghĩa vụ với làng xã như làng xã đối với Nhà nước: Nghĩa vụ đó là bảo vệ sản xuất và
bảo vệ an ninh cho nhân dân nói chung, cho các làng xã nói riêng. Chống ngoại xâm, trị thủy là nhiệm vụ
hàng đầu của nhà nước Việt Nam. Một nhiệm vụ vào hàng thứ yếu là nhà nước tăng năng suất, tăng sản
lượng mà thường tìm cách tăng diện tích cày cấy, lập làng mới để giải quyết nạn nhân mãn, nạn du dân.
Ngoài ra, những lúc nhân dân đói kém, tật dịch, nhà nước còn còn có nhiệm vụ tìm cách chẩn cứu, những
lúc có trộm cướp nhà nước phải tìm cách liễu trừ. Dân mất mùa nhà nước phải giảm sưu thuế, dân phiêu
tán nhà nước phải tìm cách chiêu hồi,… Trải qua các triều đại, nhà nước đều thi hành chính sách trọng
nông ức thương, hết sức hạn chế các cuộc kinh doanh to lớn, hạn chế tích lũy tài sản cá thể. Ở đây thể
hiện rất rõ tính chất bảo thủ phản động của nhà nước phong kiến. Không phải ngẫu nhiên mà ta thấy thi
thoảng nhà nước lại trưng thu ruộng tư biến thành ruộng công ( Hồ Quý Ly, Minh Mạng). Nhà nước hết
sức khuyến khích việc chiêu dân lập ấp nhưng lại hạn chế bọn giàu có lập trang trại riêng (thời Lê sơ).
Khi có nạn đói kém hay khi có việc cần đến tiền thóc, nhà nước thường có chế độ quyên góp đổi lấy nhân
phẩm, hoặc khen thưởng những hành động gương mẫu trong làng xã của những người những hộ bỏ tiền
cá nhân để cứu giúp tập thể, giúp nước cũng như để xây dựng đền chùa và các công trình công cộng…
Tất cả đều hành động như thế để phản ánh xu hướng cổ vũ biểu dương tinh thần vì tập thể, tinh thần hào
hiệp, nhưng mặt khác, ít nhiều trong đó cũng mang ý thức bình quân, nói cách khác là ý thức hạn chế sự
phân hóa giai cấp cưứ phát triển một cách tự phát, không theo ý muốn chủ quan của nhà nước. Khi quy
luật kinh tế hàng hóa phát triển thì quan hệ đẳng cấp được nước khuyến khích, quan hệ công xã được làng
xã bảo lưu: cả ba đúc thành một mối quan hệ áp bức bóc lột khá nặng nề nhưng lại được ngụy trang bằng
những cái lốt như quan hệ thân thuộc, quan hệ láng giềng, … những cái lốt đẹp đẽ êm dịu này che khuất
cái ruột gớm ghiếc, có nghĩa là chúng làm mờ tính chất giai cấp trong quan hệ giữa người với người trong làng xã. 2. Về phía Làng:
2.1. Làng có tính chủ động và linh hoạt một cách rõ nét: Làng xã không phải là một thực thể cứng đờ, bị
động mà nó rất linh hoạt, chủ động, biết phản ứng khi có va chạm, nó tự động mai phục, ngụy trang,
chống trả,… khi cần thiết thì không phải chỉ là hành động, là thái độ của vài người. Có thể nói đó là một
cơ thể trọn vẹn, gần như một con người, nhưng một con người phi giai cấp. Trong “ cơ thể người” trọn
ven đó còn ẩn giấu một linh hồn, một tâm lý ý thức cộng đồng mà còn có một cá tính riêng, có nét riêng
đặc sắc về tính cách. Chúng ta chẳng những nghe được những câu tục ngữ trình bày nhận xét vê cá tính
của một số làng xã như : “Trai Cầu Vòng Yên Thế, gái Nội Duệ Cầu Lim”. “ Văn chương Xuân Mỹ, lý sự
Thủy Khuê” ,… tất nhiên, trong những nhận xét trên cũng có những trường hợp cường điệu, nhưng về cơ
bản vẫn phản ánh được tính biệt lập của địa phương. Tính biệt lập này có nguồn gốc từ đặc trưng khép kín
của công xã xa xưa, nó làm cho làng xã phần nào bằng quan với các đơn vị ở xung quanh nó, nó nuôi
dưỡng đầu óc địa phương.
2.2. Làng thuộc nước, nhưng làng vẫn độc lập: Một mặt, làng xã phục tùng Nhà nước, một mặt lại giấu
giếm thực chất bản thân, mục đích là để giảm binh lương thuế khóa nhà nước phong kiến đổ vào đầu
người dân. Đâu có phải chỉ có một vài thứ phú dịch mà ta thường biết. Bóc lột siêu kinh tế vốn là một đặc
trưng của chế độ phong kiến. Cho nên, ngoài “binh lương thuế khóa” ra, còn có nhiều món bóc lột khác
rất tùy tiện và đều gõ vào làng xã. Bọn quan lại lính tráng thường cứ dựa vào khả năng, nghĩa là dựa trên
con số dân cư, ruộng đất, tài sản v.v... mà các làng xã đã khai báo, tức là đã đăng ký với nhà nước, để
quân phân theo tỷ lệ một cách rất máy móc. Nhưng nếu chỉ có thế thì chẳng nói làm gì. Thói tục “bán
hàng nói thách, làm khách trả rẻ” thường được áp dụng một cách linh động vào quan hệ giữa nhà nước
với làng xã. Có nghĩa là mỗi lần có những phú dịch bất thường ngoài phú dịch thường kỳ, thì bọn quan lại
ở các huyện thường nâng mức phân phối lên cao hơn một ít (ví dụ đáng lý trưng thu 100 cây tre thì nâng
lên 120) để cho làng xã xin hạ bớt xuống, hoặc để trừ hao đi (vì có thể có những địa phương không kham
nổi) thì vừa. Cho nên, nói chung làng xã rất sợ cách làm việc tùy tiện của bọn quan lại, và họ cũng không
quên cò kê bớt một thêm hai. Từ đó nó tạo cho làng xã một thói quen co mình lại, và viện hết cớ này đến
cớ khác để kêu ca. Có thể nói giả nghèo giả khổ là thái độ phổ biến của làng xã. Về phía bọn thống trị,
chúng thường chia làng xã làm nhiều loại, trong đó có bốn loại làm vất vả chúng hơn cả là “xung” (lắm
việc), “phiền” (phức tạp), “bì” (mệt mỏi), “nan” (khó khăn). Không những có thói quen co mình lại, mà
làng xã còn có thói quen lẩn tránh hoặc gan lì. O-ri (Ory) – một tên thực dân nghiên cứu làng xã Việt
Nam – mới kể rằng “khi một làng nào đó được tin có một ông quan bản xứ đi qua, tất cả đàn ông đều lẩn
tán trốn biệt cho đến khi quan đi khỏi”. Roi vọt, giam chấp, trưng thu là những biện pháp thúc bách làng
xã phải làm theo ý định của bề trên, nhưng những biện pháp ấy không phải là lúc nào cũng có hiệu quả.
“Đầu chày máy, đít thớt”, câu tục ngữ này miêu tả tình trạng những hương chức ngày xưa thường đóng
vai “bung xung” chịu đòn thay cho dân làng để từ chối phần nào những yêu sách từ trên xuống.
2.3. Làng xã thường có quan hệ thù địch với những cá nhân hoặc tập thể nào thường xâm phạm đến nó.
Truyện Lê Phụng Hiểu và hàng loạt những truyện dân gian khác đều phản ánh sự tranh giành địa phận
đẫm máu giữa hai làng. Chẳng những thế, làng xã còn không muốn để cho những người ngoài đến “xâm
canh”. Tài liệu của thực dân cho ta biết một mẩu chuyện lý thú: một viên quan lớn có thế lực tậu nhiều
ruộng tại một làng nọ ở Hà Đông. Ruộng đều là loại nhất đẳng. Thế nhưng năm nào cũng vậy, thu hoạch
chẳng có gì. Thế là tại làm sao? Về sau mới vỡ lẽ là dân làng không muốn có địa chủ có thế lực ở ngoài
làng tới lũng đoạn ruộng đất làng mình, nên đã tìm cách phá hoại bằng việc giăng một sợi chỉ cho chạy
lướt qua ngọn lúa mỗi lần lúa trổ. Phấn (hoặc mao) mà mất đi thì lúa trở nên không hạt (lép), người nông
dân dĩ nhiên đã nắm chắc qui luật ấy của tự nhiên. Thậm chí nó còn không muốn, cũng không chịu để cho
một kẻ nào cười cợt, nói xấu đến mình. Vào năm 1935, có hai làng ở Tam Kỳ (Quảng Nam) suýt đánh
nhau to vì một bài thơ trào phúng (người bên này làm thơ chế giễu đám hương lý bên kia bày chuyện
khánh thành trường học để kiếm chác, và bên kia họa lại để trả đũa bên này).
2.4. Làng xã dễ có phản ứng mỗi lần nhà nước thi hành một chính sách đụng chạm đến lợi ích của nó.
Mỗi một yêu cầu mới của chính quyền phong kiến ngoài phú thuế thường kỳ, thường vấp phải ít nhiều sự
chống đỡ của làng xã. Thậm chí có làng xã nghi ngờ đến cả những công việc có tính chát lợi ích chung.
Gu-ru một học giả thực dân viết Người nông dân đồng bằng Bắc Bộ từng nói đến một làng nọ đã góp
nhau số tiền 200 đồng để chạy chọt với quan, xin quan tránh cho con đường đê không đi qua địa phận
làng mình. Không phải là họ ngốc mà có lẽ vì sợ mất một diện tích ruộng đất nào đó, cũng có lẽ vì sợ con
đường ấy sẽ là con đường thuận tiện đi vào làng, do đó, quan nha lính tráng sẽ quấy nhiễu làng nhiều hơn
trước. Sự phản ứng của làng xã còn bộc lộ tích cực hơn. Ví dụ có những làng ở An Quảng thời Hồng Đức
liên kết lại chống quân đội nhà nước kéo về khám đạc điền thổ vì đã đến lúc không thể ẩn lậu được mãi
về diện tích ruộng đất của mình. Hay là có những làng ở Nghệ An, Quảng Bình, bằng những thủ đoạn
ranh mãnh khác nhau đã buộc bọn vua chúa phải chấm dứt những lệ cống đặc sản (ví dụ cá rô bầu Nón,
Nam Đàn; mắm hâm hương, Cảnh Dương v.v...) Lịch triều hiến chương loại chí chép năm 1773 khi Trịnh
Sâm buộc các làng xã phải khai thật đúng số đinh, thì “dân chúng bốn phương không đâu là không xôn
xao ơ...ư mạn đông nam nhiều người làm phản, có kẻ tự xưng “Đinh suất đại vương” để dụ quần chúng”.
Việc ấy cuối cùng đành phải tạm gác lại. Như vậy là không phải bất cứ lúc nào nhà nước cũng buộc được
các làng xã tuân theo ý chí của nó. Nói một cách khác, làng xã thời xưa cũng có lúc đấu tranh có kết quả
để buộc nhà nước làm theo ý chí của mình
2.5 Mâu thuẫn trong phong trào nông dân làng xã nhiều lúc không hoàn toàn đứng về phía nông dân trong
cùng làng, một bộ phận tham gia tích cực một bộ phận tham gia miễn cưỡng, rất ít trường hợp có làng xã
dám chống lại nhà nước một cách cực đoan không những thế ,đối với những việc thiết thân với quyền lợi
của mình làng xã còn tỏ ra chấp hành một cách tích cực chẳng hạn về đất đai, về quyên góp có khi có
kháng chiến chống ngoại xâm hay việc dựng thôn xã thành những cơ sở chống giặc giữ làng xây dựng xã
thương và nghĩa thương trong kháng chiến chống Nguyên các làng xã đời Trần đã chấp hành mệnh lệnh
nhà nước một cách gần như tuyệt đối chứng minh rõ nhất là sau thắng lợi năm 1288 chỉ thấy nhà nước thi
hành kỷ luật có hai hương Ba Điểm và Bạng Hà về tội là đầu hàng tập thể mà thôi tinh thần kỷ luật cũng
như tinh thần hy sinh chịu đựng của làng xã đời Trần là như vậy phải nói làng xã đã đóng góp ngăn chặn
bước tiến của giặc góp phần việc bưng tay bịt mắt tuyệt luôn giặc thời đại cũ ,chỉ có làng xã với một tinh
thần tập thể trách nhiệm cao mới thực hiện việc đồng không nhà trống việc di chuyển từ nơi này sang nơi
khác một cách đồng loạt nhanh chóng được . Đó là việc mà nếu chỉ cá nhân hay gia đình không thôi
không có sức mạnh truyền thống của cộng đồng làng xã để lại thì không thể làm được điều đó, như vậy
trước thời đại xã hội chủ nghĩa chúng ta đã có những lúc quan hệ giữa Nhà nước với Làng xã là quan hệ
nhất trí sự nhất trí tạo nên sức mạnh đó là nguồn gốc của những thắng lợi tuyệt vời trong công cuộc chống
ngoại xâm Đó cũng là lý do tồn tại khá lâu dài của những triều đại phong kiến trong phong trào nông dân
làng xã đã nhiều lúc tỏ ra không hoàn toàn đồng ý đứng về phía nông dân sự thật đã có những thời kỳ mà
những cuộc khởi nghĩa nông dân từng lôi kéo được Cả làng cùng đồng loạt nổi dậy họ được sự đồng ý
của Hào trưởng và theo chịu sự ảnh hưởng chịu sự lãnh đạo của Hào trưởng nhưng do sự phân hóa xã hội
trong nội bộ là ngày càng sâu sắc nên về sau những cuộc khởi nghĩa nông dân thường là sự tập hợp của
những cá nhân hay những nhóm cùng chí hướng cùng thành phần xã hội ở các làng xã khác nhau mà lại
thành một tổ chức ngay trong một làng xã có bộ phận tham gia tích cực có bộ phận Miễn Cưỡng cũng có
bộ phận không theo hoặc chống lại do đó thái độ thái độ của Làng xã đối với cuộc khởi nghĩa cũng không
dứt khoát trừ những làng nào mà bộ phận tham gia chiếm ưu thế có sức mạnh lôi kéo hoặc cô lập được bộ
phận chống đối sự ảnh hưởng không triệt để hoặc thái độ hay mang của Làng xã Thường là đầu mối thất
bại của phong trào nông dân nói chung
Có thể thấy rằng phép nước và làng là hai mặt của một thể chế chính trị phản ánh mối tương quan giữa sự
thống nhất quốc gia và quyền tự quản của các cộng đồng làng xã làm quân bình sự phát triển của mọi mặt
đời sống chính trị kinh tế văn hóa xã hội của Làng xã và cả nước. Con người Việt Nam luôn tồn tại trong
mối quan hệ chi phối giữa làng và nước Do vậy việc làm việc nước luôn là mối quan tâm của cả cộng
đồng và lợi ích của làng luôn gắn bó với lợi ích của nước chúng vừa thống nhất vừa mâu thuẫn nhau
CÂU 8: VĂN HÓA TỔ CHỨC NHÀ NƯỚC VIỆT NAM TRUYỀN THỐNG GIÁO TRÌNH TRANG 104
CÂU 9: CÁC ĐẶC ĐIỂM CỦA ĐÔ THỊ TRUYỀN THỐNG VIỆT NAM
Đặc trưng 1: Xét về nguồn gốc, đô thị Việt Nam phần lớn do nhà
nước sản sinh ra, vì vậy đô thị Việt Nam trước hết là trung tâm chính
trị, rồi sau đó mới là kinh tế, văn hóa.
Trái với hầu hết các đô thị phương Tây, đô thị Việt Nam do nhà nước khai
sinh ra và thực hiện chức năng hành chính là chủ yếu. Vào các giai đoạn khác
nhau, các đô thị lớn nhỏ ra đời như Văn Lang, Cổ Loa, Luy Lâu, Thăng Long,
Phú Xuân (Huế)... đều hình thành theo con đường như thế. Ví dụ, Cổ Loa – một
đô thị quan trọng thời cổ đại, được hình thành từ việc vua An Dương Vương dựa
trên những thuận lợi về mặt địa lý, dời đô từ vùng núi và xây dựng thành trì to lớn tại đây.
Đặc trưng 2: Xét về chức năng, đô thị Việt Nam thực hiện chức năng
hành chính là chủ yếu và chịu sự quản lý trực tiếp của nhà nước phong kiến.
“Trong đô thị có bộ phận quản lí và bộ phận làm kinh tế (buôn bán);
thường thì bộ phận quản lí hình thành trước theo kế hoạch, rồi dần dần, một
cách tự phát, bộ phận làm kinh tế mới được hình thành. Thậm chí trong nhiều
trường hợp, bộ phận quản lí của đô thị đã hoạt động rồi mà bộ phận làm kinh tế
vẫn không phát triển được hoặc phát triển rất yếu ớt như trường hợp các kinh đô
Hoa Lư của nhà Đinh, phủ Thiên Trường của nhà Trần, Tây Đô của nhà Hồ, 1
Lam Kinh của nhà Lê, Phượng Hoàng Trung Đô của nhà Tây Sơn..” Như vậy,
trong khi đô thị phương Tây thực hiện chức năng kinh tế là chủ yếu thì đô thị
của ta thực hiện chức năng hành chính là chủ yếu. Khi nhà nước có nhu cầu mở
trung tâm hành chính thì họ thường chọn một trong những đô thị có sẵn như đô
thị Athens tại Hy Lạp, đô thị Babylon – thành quốc của Lưỡng Hà cổ đại
Đặc trưng 3: Xét về quy mô, số lượng và quy mô của đô thị ở Việt
Nam không đáng kể so với nông thôn
Cho đến tận thế kỷ XVI, Đại Việt mới chỉ có một đô thị, một trung tâm
chính trị - kinh tế - văn hóa là Kẻ Chợ (Thăng Long). Từ sau thế kỷ XVI, xuất
hiện thêm một số đô thị mà chủ yếu là gắn với ngoại thương (Phố Hiến, ThanhHà, Hội An, Nước 2
Mặn, Sài Gòn…) . Từ giữa thế kỷ XX đến nay, khu vực
nông thôn vẫn chiếm tỉ trọng lớn hơn nhiều so với đô thị, khoảng 90% diện tích
đất đai vẫn thuộc nông thôn. Thêm vào đó, từ năm 1960 tới nay, tại Việt Nam, tỉ
lệ dân số thành thị chưa vượt quá 50%.
Đặc trưng 4: Xét về mối quan hệ nông thôn - đô thị, đô thị phụ
thuộc vào nông thôn, và bị nông thôn hóa, tư duy nông nghiệp, căn 3
tính nông dân đã in đậm dấu ấn trong văn hóa đô thị của Việt Nam.
Đến tận ngày nay, ảnh hưởng của nông thôn vẫn còn gây khó khăn rất
nhiều cho việc quản lí đô thị. Trong Hội nghị Đô thị toàn quốc lần thứ II (tổ
chức tại Tp. Hồ Chí Minh tháng 7-1995), Thủ tướng Võ Văn Kiệt nhận xét: “Mô
hình tổ chức của bộ máy nhà nước hiện nay ở các đô thị không khác gì tổ chức
bộ máy ở các huyện, xã. Về cung cách quản lí, nhiều nơi, nhiều cán bộ đang 4
quản lí hành chính ở đô thị không khác gì lề lối quản lí ở các làng xã”
Biểu hiện sự phụ thuộc đô thị vào nông thôn:
Tổ chức hành chính của đô thị Việt Nam được sao phỏng theo tổ chức
nông thôn. Đô thị truyền thống cũng chia thành các phủ, huyện, tổng, thôn. Cho
đến tận năm 1940, các làng quanh hồ Hoàn Kiếm vẫn còn chức tiên chỉ, thứ chỉ.
Không chỉ vậy, đô thị Việt Nam đã xuất hiện từ rất sớm một loại đơn vị đặc biệt
bắt nguồn từ nông thôn mà đến nay đã trở thành đơn vị hành chính cơ sở đô thị - [1] 5 đó là phường
. hiện tượng tái phường hoá cũng xảy ra khá phổ biến khi một
dãy phố trước đây bán mặt hàng này, nay cả phố chuyểkin sang kinh doanh mặt
hàng khác. Điều này có thể được giải thích bởi tính cộng đồng và tính tự trị: (1)
Tính cộng đồng: cách tổ chức theo phường tỏ ra có lợi cho người bán. Họ có
điều kiện tương trợ giúp đỡ nhau trong việc định giá, giữ giá, vay mượn hàng, giới thiệu khách
hàng cho nhau....; (2)Tính tự trị dẫn đến nếp sống tự túc, dân
không có nhu cầu mua bán, vì vậy người buôn bán phải gian lận để kiếm sống.
Vậy nên, cách tổ chức theo phường tỏ ra có lợi cho người mua: tuy mất công đi
xa để mua hàng, nhưng bù vào đó, người mua có điều kiện khảo giá (không bị 6
mua đắt), và vì nhiều hàng ít có nguy cơ mua phải hàng giả.
Phố nằm xen kẽ với làng. Tại Hà Nội, trong lòng các đô thị, cho tới tận
bây giờ, vẫn còn tồn tại những lũy tre xanh giữa ốc đảo làng quê, có tiếng gà kêu mỗi sáng.
Lối sống của đô thị Việt Nam cũng tương tự như ở nông thôn vì có tính
cộng đồng và tập thể cao. Ở Việt Nam, có những làng xã nông thôn thực hiện
chức năng kinh tế của đô thị - đó là các làng công thương. Làng Đại Bái (Bắc
Ninh) đúc đồng, làng Bát Tràng (Gia Lâm) làm đồ gốm, làng Nhị Khê (Hà Tây)
làm nghề tiện,... Nếu ở phương Tây thì những làng công thương đó sẽ phát triển,
mở rộng và tự phát chuyển thành đô thị. Tuy nhiên, ở Việt Nam thì mọi sinh
hoạt của làng vẫn giống một làng nông nghiệp thông thường. Đó là do tính cộng
đồng - cả làng làm cùng một nghề (sản xuất cùng một sản phẩm, buôn cùng một mặt hàng) và
tính tự trị - dân cư sống tự cấp tự túc, khép kín, không có nhu cầu
buôn bán, giao lưu. Không chỉ vậy, chất nông thôn của đô thị Việt Nam còn bộc
lộ ở tính cộng đồng (tập thể) của nó. Các đô thị Việt Nam vẫn rất phổ biến lối 7
kiến trúc “khu tập thể”(chung cư).
Như vậy, khác với phương Tây, ở Việt Nam làng xã nông nghiệp là một tổ
chức tự trị vững mạnh, còn đô thị lại yếu ớt, lệ thuộc. Đó là do ở nền văn hóa
Việt Nam nông nghiệp trọng tĩnh, làng xã là trung tâm, là sức mạnh, là tất cả,
cho nên làng xã có quyền tự trị. Còn ở các nền văn hóa châu Âu sớm phát triển
thương mại và công nghiệp, thì hiển nhiên là đô thị tự trị và có uy quyền.
CÂU 10: KHÁI NIỆM TÍN NGHƯỠNG, PHONG TỤC? ĐẶC ĐIỂM CỦA TÍN NGƯỠNG Ở
VIỆT NAM, TÍN NGƯỠNG VÀ PHONG TỤC PHỔ BIẾN CỦA NGƯỜI VIỆT Khái niệm
Tín ngưỡng là niềm tin của con người được thể hiện thông qua những lễ nghi gắn liền với phong tục,
tập quán truyền thống để mang lại sự bình an về tinh thần cho cá nhân và cộng đồng. Niềm tin này
gắn với sự siêu nhiên nhưng chỉ lưu truyền trong một vùng lãnh thổ hoặc trong một cộng đồng dân
chúng nhất định. Có thể coi tín ngưỡng là dạng thấp hơn của tôn giáo.
Phong tục là toàn bộ những hoạt động sống của con người được hình thành trong quá trình lịch sử và
ổn định thành nề nếp, được cộng đồng thừa nhận, truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Phong tục
không mang tính cố định, bắt buộc như nghi thức, nghi lễ, nhưng cũng không tùy tiện như hoạt động
sống thường ngày. Nó trở thành một tập quán xã hội tương đối bền vững và tương đối thống nhất.
Phong tục có thể ở một dân tộc, địa phương, tầng lớp xã hội hay thậm chí một dòng họ, gia tộc.
Phong tục là một bộ phận của văn hóa và có thể chia thành nhiều loại. Hệ thống phong tục liên quan
đến vòng đời của con người, như phong tục về sinh đẻ, trưởng thành, cưới xin, mừng thọ và lên lão...
Hệ thống phong tục liên quan đến hoạt động của con người theo chu kỳ thời tiết trong năm, hệ thống
phong tục liên quan đến chu kỳ lao động của con người...
Đặc điểm của tín ngưỡng ở việt nam
Ở việt nam có rất nhiều loại hình tín ngưỡng, từ các tín ngưỡng thờ phụng các vị thần thuộc về tự nhiên
như thần mưa, thần sấm, các vị thần thuộc về sông nước như cá ông, hà bá, thần cây. Ngoài ra còn thờ
mẫu, thờ tổ tiên, ông bà, thành Hoàng làng => Tạo nên sự đa dạng cho đời sống tín ngưỡng của con người Việt Nam.
Thờ đa thần: Không chỉ đa dạng các loại tín ngưỡng mà ở Việt Nam còn thờ rất nhiều vị thần: thần tự
nhiên cho đến thần là con người, các vị nữ thần trong thờ mẫu. Thờ thành hoàng làng như các vị anh hùng
dân tộc, những người có công với làng xóm.
Gắn chặt với môi trường tự nhiên: Thờ cây, thờ sông nước
tín ngưỡng và phong tục phổ biến của người Việt
*Thứ nhất, TÍN NGƯỠNG
Tín ngưỡng dân gian Việt Nam từ cổ xưa đã bao hàm: - Tín ngưỡng phồn thực
- Tín ngưỡng sùng bái tự nhiên
- Tín ngưỡng sùng bái con người
Con người cần sinh sôi, mùa màng cần tươi tốt để duy trì và phát triển sự sống, nên đã nảy sinh tín ngưỡng phồn thực.
Ở Việt Nam, tín ngưỡng đó tồn tại lâu dài, dưới hai dạng biểu hiện:
- Thờ sinh thực khí nam và nữ (khác với ấn Độ chỉ thờ sinh thực khí nam)
- Thờ cả hành vi giao phối (người và thú, ngay ở Đông Nam Á cũng ít có dân tộc thờ việc này).
Dấu tích trên còn để lại ở nhiều di vật tượng và chân cột đá, trong trang trí các nhà mồ Tây Nguyên, trong
một số phong tục và điệu múa, rõ nhất là ở hình dáng và hoa văn các trống đồng cổ.
Nông nghiệp trồng lúa nước phụ thuộc vào nhiều yếu tố tự nhiên đã đưa đến tín ngưỡng sùng bái tự nhiên.
Ở Việt Nam, đó là tín ngưỡng đa thần và coi trọng nữ thần, lại thờ cả động vật và thực vật.
Một cuốn sách nghiên cứu (xuất bản năm 1984) đã liệt kê được 75 nữ thần, chủ yếu là các bà mẹ, các
Mẫu (không những có Ông Trời, mà còn có Bà Trời tức Mẫu Cửu Trùng, ngoài ra là Mẫu Thượng Ngàn, Bà chúa Sông v.v...).
Về thực vật được tôn sùng nhất là Cây lúa, sau đó tới Cây đa, Cây cau, Cây dâu, quả Bầu. Về động vật,
thiên về thờ thú hiền như hươu, nai, cóc, không thờ thú dữ như văn hóa du mục, đặc biệt là thờ các loài
vật phổ biến ở vùng sông nước như chim nước, rắn, cá sấu.
Người Việt tự nhận là thuộc về họ Hồng Bàng, giống Tiên Rồng (Hồng Bàng là tên một loài chim nước
lớn, Tiên là sự trừu tượng hóa một giống chim đẻ trứng, Rồng sự trừu tượng hóa từ rắn, cá sấu). Rồng
sinh ra từ nước bay lên trời là biểu trưng độc đáo đầy ý nghĩa của dân tộc Việt Nam.
Trong tín ngưỡng sùng bái con người, phổ biến nhất là tục thờ cúng tổ tiên, gần như trở thành một thứ tôn
giáo của người Việt Nam (trong Nam bộ gọi là Đạo Ông Bà).
Việt Nam trọng ngày mất là dịp cúng giỗ hơn ngày sinh. Nhà nào cũng thờ Thổ công là vị thần trông coi
gia cư, giữ gìn hoạ phúc cho cả nhà. Làng nào cũng thờ Thành hoàng là vị thần cai quản che chở cho cả
làng (thường tôn vinh những ngươì có công khai phá lập nghiệp cho dân làng, hoặc các anh hùng dân tộc
đã sinh hay mất ở làng).
Cả nước thờ vua tổ, có ngày giỗ tổ chung (Hội đền Hùng).
Đặc biệt việc thờ Tứ Bất Tử là thờ những giá trị rất đẹp của dân tộc: Thánh Tản Viên (chống lụt), Thánh
Gióng (chống ngoại xâm), Chử Đồng Tử (nhà nghèo cùng vợ ngoan cường xây dựng cơ nghiệp giầu có),
bà Chúa Liễu Hạnh (công chúa con Trời từ bỏ Thiên đình xuống trần làm người phụ nữ khát khao hạnh phúc bình thường).
Mặc dù có trường hợp dẫn tới mê tín dị đoan, tín ngưỡng dân gian sống dẻo dai và hoà trộn cả vào các tôn giáo chính thống. *Thứ hai, TÔN GIÁO * Phật giáo
Tiểu thừa được du nhập trực tiếp từ ấn Độ qua đường biển vào Việt Nam khoảng thế kỉ 2 sau Công
nguyên. Phật giáo Việt Nam không xuất thế mà nhập thế, gắn với phù chú, cầu xin tài lộc, phúc thọ hơn là tu hành thóat tục.
Khi Phật giáo (Đại thừa) từ Trung Quốc vào nước ta, tăng lữ Việt Nam mới đi sâu hơn vào Phật học,
nhưng dần hình thành những tôn phái riêng như Thiền Tông Trúc Lâm đề cao Phật tại tâm.
Thời Lý-Trần, Phật giáo cực thịnh nhưng vẫn đón nhận cả Nho giáo, Lão giáo, tạo nên bộ mặt văn hóa
mang tính chất "Tam giáo đồng nguyên" (cả ba tôn giáo cùng tồn tại).
Qua nhiều bước thăng trầm, đạo Phật trở nên thân thiết với người Việt Nam, thống kê năm 1993 cho biết
vẫn có tới 3 triệu tín đồ xuất gia và khoảng 10 triệu người thường xuyên vãn chùa lễ Phật. * Nho giáo
Thời Bắc thuộc, Nho giáo chưa có chỗ đứng trong xã hội Việt Nam, đến năm 1070 Lý Thái Tổ lập Văn
Miếu thờ Chu Công-Khổng Tử mới có thể xem là được tiếp nhận chính thức.
Thế kỉ 15, do nhu cầu xây dựng đất nước thống nhất, chính quyền tập trung, xã hội trật tự, Nho giáo thay
chân Phật giáo trở thành quốc giáo dưới triều Lê.
Nho giáo, chủ yếu là Tống Nho, bám chắc vào cơ chế chính trị-xã hội, vào chế độ học hành khoa cử, vào
tầng lớp nho sĩ, dần chiếm lĩnh đời sống tinh thần xã hội. Nhưng Nho giáo cũng chỉ được tiếp thụ ở Việt
Nam từng yếu tố riêng lẻ - nhất là về chính trị-đạo đức, chứ không bê nguyên xi cả hệ thống. * Đạo giáo
Đạo giáo thâm nhập vào Việt Nam khoảng cuối thế kỉ 2. Do thuyết vô vi mang tư tưởng phản kháng bọn
thống trị, nó được người dân dùng làm vũ khí chống phong kiến phương Bắc. Nó lại có nhiều yếu tố thần
tiên, huyền bí, nên hợp với tiềm thức con người và tín ngưỡng nguyên thuỷ.
Nhiều nhà nho cũ mộ khuynh hướng ưa thanh tĩnh, nhàn lạc của Lão - Trang. Nhưng từ lâu Đạo giáo như
một tôn giáo không tồn tại nữa, chỉ còn để lại di sản trong tin ngưỡng dân gian. * Kito giáo
Kitô giáo đến Việt Nam vào thế kỉ 17 như một khâu môi giới trung gian của văn hóa phương Tây và của chủ nghĩa thực dân.
Nó tranh thủ được cơ hội thuận lợi
- Chế độ phong kiến khủng hoảng - Phật giáo suy đồi - Nho giáo bế tắc
Trở thành chỗ an ủi tinh thần cho một bộ phận dân chúng nhưng trong một thời gian dài không hoà đồng
được với văn hóa Việt Nam.
Trái lại, nó buộc phải để giáo dân lập bàn thờ trong nhà. Chỉ khi hoà Phúc âm trong dân tộc, nó mới đứng
được ở Việt Nam. Năm 1993 có khoảng 5 triệu tín đồ công giáo và gần nửa triệu tín đố Tin Lành.
Các tôn giáo bên ngoài du nhập vào Việt Nam không làm mất đi tín ngưỡng dân gian bản địa mà hoà
quyện vào nhau làm cho cả hai phía đều có những biến thái nhất định.
Ví dụ Nho giáo không hạ thấp được vai trò người phụ nữ, việc thờ Mẫu ở Việt Nam rất thịnh hành.
Tính đa thần, dân chủ, cộng đồng được thể hiện ở việc thờ tập thể gia tiên, thờ nhiều cặp thần thánh, vào
một ngôi chùa thấy không chỉ thờ Phật mà thờ cả nhiều vị khác, thấn linh có mà người thật cũng có.
Và có lẽ chỉ ở Việt Nam mới có chuyện con cóc kiện cả ông Trời, cũng như môtíp người lấy tiên trong
các chuyện cổ tích. Đây chính là những nét riêng của tín ngưỡng Việt Nam. PHONG TỤC
Thứ nhất, vấn đề ĂN, MẶC
Người Việt vốn thiết thực, chuộng ăn chắc mặc bền. Đầu tiên là ăn, "có thực mới vực được đạo", "trời
đánh còn tránh bữa ăn". Cơ cấu ăn thiên về thực vật, cơm rau là chính cộng thêm thuỷ sản. Luộc là cách
nấu ăn đặc sắc của Việt Nam. Nhưng cách thức chế biến món ăn lại giầu tính tổng hợp, kết hợp nhiều chất
liệu và gia vị. Ngày nay có nhiều thịt cá, vẫn không quên vị dưa cà.Người Việt hay dùng các chất liệu vải
có nguồn gốc thực vật, mỏng, nhẹ, thóang, phù hợp xứ nóng, với các sắc màu nâu, chàm, đen. Trang phục
nam giới phát triển từ đóng khố ở trần đến áo cánh, quần ta (quần Tàu cải biến).
Tuy nhiên, trang phục Việt sẽ có cải biến theo các giai đoạn và ngày càng cách tân. Nên cũng rất khó để
có thể đánh giá đặc trưng về văn hóa mặc của người Việt.
Nữ giới xưa phổ biến mặc yếm, váy, áo tứ thân sau này đổi thành chiếc áo dài hiện đại. Nói chung, phụ
nữ Việt Nam làm đẹp một cách tế nhị, kín đáo trong một xã hội "cái nết đánh chết cái đẹp". Trang phục
cũ cũng chú ý đến khăn, nón, thắt lưng.
Thứ hai, vấn đề Ở và ĐI LẠI
Ngôi nhà Việt Nam xưa gắn liền với môi trường sông nước (nhà sàn, mái cong). Sau đó là nhà tranh vách
đất, lợp rạ, vật liệu chủ yếu là tre gỗ, không cao quá để chống gió bão, quan trọng nhất là hướng nhà
thường quay về phía Nam chống nóng, tránh rét.
Nhà cũng không rộng quá để nhường diện tích cho sân, ao, vườn cây. Vả lại, người Việt Nam quan niệm
"rộng nhà không bằng rộng bụng". Các kiến trúc cổ bề thế thường ẩn mình và hoà với thiên nhiên.
Phương tiện đi lại cổ truyền chủ yếu là đường thuỷ. Con thuyền các loại là hình ảnh thân quen của cảnh
quan địa lý - nhân văn Việt Nam, cùng với dòng sông, bến nước.
Thứ ba, vấn đề LỄ NGHI
Các phong tục hôn nhân, tang ma, lễ tết, lễ hội của Việt Nam đều gắn với tính cộng đồng làng xã.
Hôn nhân xưa không chỉ là nhu cầu đôi lứa mà còn phải đáp ứng quyền lợi của gia tộc, gia đình, làng xã,
nên kén người rất kỹ, chọn ngày lành tháng tốt, trải qua nhiều lễ từ giạm ngõ, ăn hỏi, đón dâu đến tơ
hồng, hợp cẩn, lại mặt, và phải nộp cheo để chính thức được thừa nhận là thành viên của làng xóm.
Tục lễ tang cũng rất tỉ mỉ, thể hiện thương xót và tiễn đưa người thân qua bên kia thế giới, không chỉ do
gia đình lo mà hàng xóm láng giềng tận tình giúp đỡ.
Việt Nam là đất nước của lễ hội quanh năm, nhất là vào mùa xuân, nông nhàn.
Các tết chính là tết Nguyên đán, tết Rằm tháng Giêng, tết Hàn thực, tết Đoan ngọ, tết Rằm tháng Bảy, tết Trung thu, tết Ông táo...
Mỗi vùng thường có lễ hội riêng, quan trọng nhất là các lễ hội nông nghiệp (cầu mưa, xuống đồng, cơm
mới...), các lễ hội nghề nghiệp (đúc đồng, rèn, pháo, đua ghe...).
Ngoài ra là các lễ hội kỉ niệm các bậc anh hùng có công với nước, các lễ hội tôn giáo và văn hóa (hội
chùa). Lễ hội có 2 phần, phần lễ mang ý nghĩa cầu xin và tạ ơn và phần hội là sinh hoạt văn hóa cộng
đồng gồm nhiều trò chơi, cuộc thi dân gian.
CÂU 11: VĂN HÓA ỨNG XỬ VỚI MÔI TRƯỜNG TỰ NHIÊN CỦA NGƯỜI VIỆT
Đặc điểm văn hóa Việt Nam trong quan hệ với môi trường tự nhiên
*2 tính trội: -tính thực vật - tính sông nước
(- Môi trường tự nhiên là tổng thể các nhân tố ngoại cảnh xung quanh chúng ta như: bầu khí quyển, thổ
nhưỡng, nước, thực vật, động vật, khoáng sản… Con người tồn tại trong môi trường tự nhiên, cùng phát
triển với môi trường tự nhiên nên mối quan hệ giữa con người với tự nhiên cũng là một mặt cơ bản của đời sống văn hóa.
-Không khí con người hít thở, đồ ăn, nước uống… đều lấy từ môi trường tự nhiên. Vì vậy, những gì có lợi
cho mình thì con người sẽ thích nghi, tận dụng; còn những gì có hại thì con người sẽ cải tạo, ứng phó.
“Từng nền văn hóa, xét cho cùng, đều là hậu quả của việc từng cộng đồng để tồn tại, phải thích ứng với
thiên nhiên bao quanh nó” , “Con người là một sinh vật nhìn về phía trước, mắt hướng về tương lai”.
Ngay từ khi đặt chân trên trái đất này, con người đã không ngừng nỗ lực vượt lên trên các khả năng và
giới hạn của mình. Đó là đặc điểm tiến hóa của con người, để con người đứng trên mọi sinh vật khác, là
động vật bậc cao nhất. Con người sẽ dần thích nghi với những điều kiện sống mà môi trường tự nhiên áp
đặt và cả những thách thức mà con người tự đặt ra. Bằng bàn tay, khối óc và con tim… con người dần tạo
ra những biến đổi rộng khắp từ không khí, đất, nước, thảm thực vật, động vật… tạo thành môi trường sống. Quá
trình thích nghi này góp phần hình thành những nét đặc thù của bản sắc văn hóa một dân tộc. Suy cho
cùng, sự khác nhau về văn hóa giữa các dân tộc, các cộng đồng người được quy định bởi nhiều yếu tố,
trong đó có yếu tố về môi trường sống. Chính sự khác nhau về môi trường sống này đã giúp các nhà
nghiên cứu về văn hóa Việt Nam trong và ngoài nước khẳng định sự hiện hữu của một nền văn minh và
văn hóa Việt Nam, bên cạnh nền văn minh và văn hóa Trung Hoa. Bản sắc văn hóa từng dân tộc được
khắc họa bởi điều kiện lịch sử, xã hội, tâm lí và điều kiện môi
trường tự nhiên. Theo nghĩa rộng, văn hóa là cái tự nhiên được biến đổi bởi con người, từ đó hình thành
một lối sống, tư duy, ứng xử, một thái độ tổng quát của con người đối với vũ trụ, thiên nhiên và xã hội; là
vai trò của con người trong vũ trụ đó, với một hệ thống chuẩn mực, giá trị, quan niệm mang dấu ấn riêng
của con người. Như vậy, nhìn nhận về cội nguồn và bản sắc văn hóa Việt Nam phải chú ý đến điều kiện
môi trường tự nhiên và sau đó là điều kiện lịch sử của Việt Nam.
-Việt Nam là quốc gia nằm trong khu vực Đông Nam Á, “là ngã tư đường của các cư dân và các nền văn
minh”. Điều kiện khí hậu nóng, ẩm, mưa nhiều và có gió mùa là hằng số tự nhiên của văn hóa Việt Nam.
Nó tạo nên đặc trưng văn hóa Việt Nam là văn hóa lúa nước. Hệ sinh thái thực vật rất phong phú, đa
dạng, trong đó, thực vật phát triển mạnh hơn động vật, vì động vật dễ bị dịch bệnh do khí hậu nóng ẩm
gió mùa. Vì vậy, trong thời kinh tế thu lượm thì hái lượm vượt trội hơn săn bắn. Thời kinh tế nông nghiệp
thì trồng trọt vượt trội hơn chăn nuôi.Tính chất thực vật và môi trường sông nước xét từ góc độ môi
trường tự nhiên ảnh hưởng khá re trong đời sống văn hóa của người Việt Nam ở nhiều phương diện như: ăn, mặc, ở, đi lại…)
2.2.1. Văn hóa ăn uống của người Việt Nam
-Ăn uống (ẩm thực) là một trong những nhu cầu tối quan trọng của đời sống con người để duy trì sự sống.
Nhưng, khác xa với con vật, ăn uống của con người còn là một hành động mang tính văn hóa chứ không
chỉ dừng lại ở bản năng sinh tồn. Nếu các cư dân của nền văn hóa gốc du mục (phương Tây) thiên về ăn
thịt và các chế phẩm từ sữa động vật thì ăn uống của người Việt Nam lại bộc lộ rất rõ dấu ấn của truyền
thống văn hóa nông nghiệp lúa nước.
- Dấu ấn nông nghiệp trong cơ cấu bữa ăn: có thể nói, văn minh Việt Nam là nền văn minh thực vật.
Người Việt Nam không có truyền thống chăn nuôi đại gia súc lấy thịt ăn nên cơ cấu bữa ăn truyền thống
được mô hình: cơm - rau - cá (mắm). Trong bữa ăn thiên về thực vật ấy, lúa gạo đứng đầu bảng. Tục ngữ
có những câu như: Người sống về gạo, cá bạo về nước; Cơm tẻ là mẹ ruột; Đói thì thèm thịt thèm xôi, hễ
no cơm tẻ thì thôi mọi đường. Người Việt Nam gọi bữa ăn là bữa cơm.
- Trong bữa ăn của người Việt Nam, sau lúa gạo thì đến rau quả. Nằm ở một trong những trung tâm trồng
trọt, rau quả của Việt Nam mùa nào thức ấy, phong phú vô cùng. Đối với người Việt Nam thì Đói ăn rau,
đau uống thuốc; Ăn cơm không rau như đau không thuốc; Anh đi anh nhớ quê nhà, nhớ canh rau muống
nhớ cà dầm tương; Tương cà là gia bản…
- Đứng thứ ba trong cơ cấu bữa ăn của người Việt Nam là các loại thủy hải sản - sản vật của vùng sông
nước: Con cá đánh ngã bát cơm; Có cá đổ vạ cho cơm… Từ các loài thủy hải sản, người Việt Nam chế
tạo ra một thứ đồ chấm đặc biệt là nước mắm. Với người Việt Nam, từ bữa cơm thường trong gia đình
cho đến những bữa tiệc đãi khách sang trọng, nhất định không thể thiếu bát nước mắm.
- Ở vị trí cuối cùng trong bữa ăn người Việt Nam là các loại quả cây tráng
miệng, rồi đồ uống, hút như trầu cau, thuốc lào, nước chè, nước vối… hầu hết đều là những sản vật của
nghề trồng trọt Đông Nam Á.
- Ăn uống của người Việt Nam mang đậm dấu ấn văn hóa làng: tính cộng cảm,cộng đồng. Người Việt
Nam ăn chung cho nên các thành viên của bữa ăn liên quan và phụ thuộc chặt chẽ vào nhau (khác hẳn
người phương Tây ai có suất của người ấy, bộc lộ tính cá nhân rất rõ). Vì vậy, bữa ăn là dịp sum họp,
quây quần, người Việt Nam rất thích chuyện trò. Tính cộng đồng đòi hỏi ở con người một thứ văn hóa
cao trong ăn uống (Ăn trông nồi, ngồi trông hướng). Vì mọi người đều phụ thuộc lẫn nhau nên phải ý tứ và mực thước khi ăn.
- Ăn uống của người Việt Nam mang đậm triết lí phương Đông: sự hòa hợp, tổng hợp, cân bằng âm-
dương. Điều này được thể hiện trong cách chế biến đồ ăn (pha chế tổng hợp trong món ăn, sử dụng
nguyên liệu theo mùa, dùng gia vị…); cách ăn (ăn và cảm nhận bằng đủ các giác quan, dùng đũa…)
2.2.2. Văn hóa mặc, ở và đi lại của người Việt Nam
- Quan trọng đối với con người, sau ăn là mặc. Mặc giúp cho con người ứng phó được với cái nóng, rét,
mưa, gió và quan trọng hơn, mặc còn để trang điểm, làm đẹp (Người đẹp về lụa, lúa tốt về phân; Quen sợ
dạ, lạ sợ áo…). Mỗi dân tộc có cách mặc và trang sức riêng, vì vậy, cái mặc trở thành biểu tượng của văn
hóa dân tộc. Văn hóa mặc của người Việt Nam mang đậm dấu ấn nông nghiệp. Để đối phó với khí hậu
nóng ẩm, người Việt Nam ưa sử dụng chất liệu may mặc mềm, mỏng, nhẹ, thoáng, thấm mồ hôi; cũng là
những chất liệu có nguồn gốc thực vật, sản phẩm của nghề trồng trọt nông nghiệp: tơ, lụa, lượt, là, gấm,
vóc, the, đXi, gai, bông, đay… Trong khi đó, người phương Tây ưa dùng chất liệu là da, lông thú…
- Ở và đi lại cũng là biểu hiện của việc người Việt Nam ứng phó với môi
trường tự nhiên. Ngôi nhà là mái ấm để con người đối phó với nóng lạnh, nắng mưa, gió bão, là một trong
những yếu tố quan trọng nhất đảm bảo cho người Việt cuộc sống định cư ổn định. Có an cư thì mới lạc
nghiệp. Vì ngôi nhà chiếm vị trí quan trọng đặc biệt trong cuộc sống, cho nên trong tiếng Việt “nhà”(chỗ
ở) được đồng nhất với gia đình (gồm mọi người sống trong nhà). Ngôi nhà của người Việt Nam có những đặc điểm sau:
+ Do khu vực cư trú là vùng sông nước nên ngôi nhà của người Việt Nam gắn liền với môi trường sông
nước. Những người sống bằng nghề sông nước (chài lưới, chở đò...) thường lấy thuyền, bè làm nhà ở, gọi
là nhà thuyền, nhà bè; nhiều gia đình quần tụ lập nên các xóm chài, làng chài. Nhiều người tuy không
sống bằng nghề sông nước nhưng cũng làm nhà sàn để ứng phó với ngập lụt, ẩmướt, bởi khí hậu nhiệt đới có độ ẩm cao.
+ Để ứng phó với môi trường tự nhiên nóng ẩm nên người Việt Nam ưa thích nhà hướng Nam, nhà cao
cửa rộng. Tục ngữ có câu: Lấy vợ hiền hòa, làm nhà hướng Nam… Cấu trúc nhà như vậy, tạo không gian
thoáng mát, giao hòa với tự nhiên, khác với kiến trúc nhà phương Tây ở xứ lạnh, nhà đóng kín, trần thấp,
tường dày, cửa ít để giữ hơi ấm. Nhà của người Việt “cao” là để ứng phó với lụt lội, ẩm ướt, côn trùng…;
“cửa rộng” là để đón gió mát và tránh nắng.
+ Tính cộng đồng của văn hóa nông nghiệp thể hiện ở việc trong nhà không chia thành nhiều phòng nhỏ
biệt lập như nhà ở của người phương Tây. Người Việt Nam có truyền thống thờ cúng tổ tiên và hiếu
khách, cho nên đặc biệt chú ýđến không gian dành để thờ cúng tổ tiên và không gian dành cho việc tiếp khách.
- Về đi lại, trong xã hội Việt Nam cổ truyền, do bản chất nông nghiệp sống định cư cho nên con người ít
có nhu cầu di chuyển; có đi thì chỉ đi gần (từ nhà ra đồng, từ nhà lên nương).mNhiều cụ già ở nông thôn,
suốt đời không hề bước chân ra khỏi làng mình. Vì vậy, dễ hiểu là tại sao ở Việt Nam trước đây, giao
thông, nhất là giao thông đường bộ kém phát triển.
-Việt Nam là vùng sông nước, nơi đây có hệ thống sông ngòi, kênh rạch chằng chịt và bờ biển rất dài. Vì
vậy mà phương tiện đi lại phổ biến từ ngàn xưa là đường thủy. Tục ngữ có câu: Nhất cận thị, nhị cận
giang. Phương tiện giao thông và chuyên chở trên sông nước ở Việt Nam rất phong phú: thuyền, ghe, xuồng, bè, mảng, phà…
-Nói tóm lại, con người sống trong môi trường tự nhiên vừahụ thuộc, vừa
thích ứng với tự nhiên; nhưng mặt khác, con người tìm hiểu, khám phá, chinh phục, cải tạo tự nhiên, bắt
tự nhiên phục vụ cuộc sống của mình. Có nghĩa là, con người tạo ra môi trường nhân tạo, tạo ra giá trị
văn hóa. Văn hoá là sự biến đổi tự nhiên phục vụ cuộc sống con người.
CÂU 12: VĂN HÓA ỨNG XỬ VỚI MÔI TRƯỜNG XÃ HỘI GIÁO TRÌNH TRANG 296