









Preview text:
LẤY VÍ DỤ CHỨNG MINH CÁC ĐẶC TRƯNG TRONG VĂN HÓA ẨM
THỰC CỦA NGƯỜI VIỆT VÀ SỰ THAY ĐỔI CỦA NHỮNG ĐẶC
TRƯNG NÀY TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ I Khái niệm
- Văn hóa ẩm thực là một khái niệm khá phức tạp và mới mẻ.
Chúng ta có thể hiểu văn hóa ẩm thực như sau: Văn hóa ẩm
thực là những tập quán và khẩu vị ăn uống của con người;
những ứng xử của con người trong ăn uống; những tập tục
kiêng kỵ trong ăn uống; những phương thức chế biến, bày biện
món ăn thể hiện giá trị nghệ thuật, thẩm mỹ trong các món ăn;
cách thức thưởng thức món ăn…
- Trong bữa ăn của người Việt thường xuất hiện 3 thành phần
chính : cơm – rau – cá .
II Những điều kiện hình thành văn hóa ẩm thực.
- Trước khi đến với các đặc trưng văn hóa ẩm thực ta cùng nói
sơ qua về những điều kiện hình thành văn hóa ẩm thực
2.1 Điều kiện tự nhiên. A, Vị trí, địa lý B, Khí hậu 2.2 Điều kiện xã hội A, Lịch sử B, Kinh tế C, Tôn giáo
D, Văn hóa ẩm thực ảnh hưởng bởi yếu tố ngoại lai.
III Đặc trưng trong văn hóa ẩm thực của người Việt
1 Tính cộng đồng và tính mực thước.
- Tính cộng đồng và tính mực thước trong nghệ thuật ẩm thực
của người Việt, thể hiện:
+ Người Việt còn có lễ phép theo tinh thần tôn kính và nhường
nhịn trong khi ăn, được thể hiện qua câu tục ngữ “Ăn trông nồi,
ngồi trông hướng”. Tính chất cộng đồng cũng thấy trong cách
dùng bát, đũa, nồi và mâm ăn chung vì khi đó, các thành viên
của bữa ăn liên quan mật thiết với nhau, phụ thuộc chặt chẽ vào nhau.
Trong lúc ăn uống, người Việt Nam rất thích chuyện trò. (thú uống rượu cần).
+ Qua nồi cơm và chén nước mắm mà trong bữa ăn ai cũng
dùng. Nồi cơm là tinh hoa của đất, nước mắm là tinh hoa của
nước (là cái khởi đầu và trung tâm trong ngũ hành). hoặc múc
riêng ra từng bát nhỏ từ bát chung ấy. Người Việt Nam cùng
múc một bát canh, cùng gắp món ăn từ đĩa, cùng chung một nồi cơm.
+ Tính cộng đồng trong văn hóa ẩm thực Việt Nam khác hẳn
phương Tây - nơi mọi người hoàn toàn độc lập với nhau, ai có
suất người ấy và tránh nói chuyện trong bữa ăn.
- Tính tổng hợp trong nghệ thuật ẩm thực của người Việt được thể hiện:
+Trong cách chế biến đồ ăn: món ăn thường có đủ ngũ chất
(bột, nước, khoáng, đạm, béo) đảm bảo dinh dưỡng; đủ ngũ vị
(chua, cay, ngọt, mặn, đắng); đẹp hài hoà của ngũ sắc (trắng, xanh, vàng, đỏ, đen).
+ Trong cách ăn: mâm cơm của ngưòi Việt bao giờ cũng có
nhiều món, tác động vào các giác quan. Cái ngon của bữa ăn là
sự tổng hợp của nhiều yếu tố: thức ăn, thời tiết, chỗ ngồi, người
ăn cùng, không khí bữa ăn.
- Tính linh hoạt trong nghệ thuật ẩm thực của người Việt, thể hiện:
+ Trong cách ăn: có bao nhiêu món ăn và bao nhiêu người ăn là
có bấy nhiêu cách tổng hợp khác nhau.
+ Trong dụng cụ ăn: đó là đôi đũa - đó là sự mô phỏng động tác
của con chim nhặt hạt, xuất phát từ thói quen ăn những thứ
không thể nào dùng tay bốc hoặc mó tay vào, nơi có sẵn tre
làm vật liệu. Tập quán này đã hình thành nên triết lý: tính cặp đôi, tính tập thể. - Tính tận dụng
Ăn uống là văn hóa, chính xác hơn, đó là văn hóa tận dụng môi
trường tự nhiên. Và trong văn hóa ẩm thực của Việt Nam, người
Việt cũng sử dụng đến hết mọi khả năng có được, không bỏ phí
bất kì một thứ gì mà tự nhiên đã ban cho. Ví dụ như những thức
ăn mà người ngoại quốc vứt bỏ như mề gà, chân gà, tim gan
gà, lòng lợn, lòng chó... đều được người Việt tận dụng rồi chế
biến thành những món ăn bất hủ.
Ðặc biệt xương được ta chế biến thành những bát canh, nước
lèo, hay đồ nhắm rất ngon ngọt. Ðặc tính tận dụng này cũng
thấy nơi việc người Việt tận dụng mọi thức ăn, mọi loại rau cỏ
mà Trời cho. Rau muống (người Tàu gần đây mới ăn), rau dền,
rau lang, mướp đắng, rau dại... không có loại gì mà người Việt bỏ qua. - Tính thích ứng
Văn hóa ẩm thực của người Việt còn bao gồm nguyên lý thích
ứng, tức biến đổi trong nghệ thuật ăn uống.
Ăn theo mùa cũng là một biểu hiện của tính thích ứng của
người Việt do người Việt, tự bản tính, và do địa lý cũng như
hoàn cảnh, để có thể sinh tồn, bắt buộc phải có óc thực dụng,
và nhạy cảm thích ứng với hoàn cảnh.
VD ếch tháng ba, gà tháng mười.
- Tính biện chứng trong nghệ thuật ẩm thực của người Việt, thể
hiện ở sự đặc biệt chú trọng đến quan hệ âm dương của thức
ăn, của cơ thể và của con người với tự nhiên.
+ Để tạo nên những món ăn có sự cân bằng âm dương. Người
Việt phân chia thức ăn theo ngũ hành: hàn (lạnh - thuỷ), nhiệt
(nóng - hoả), ôn (ấm - mộc), lương (mát - kim), bình (trung tính
- thổ). Người Việt tuân thủ nghiêm ngặt luật âm dương bù trừ
và chuyển hoá khi chế biến. Tập quán dùng gia vị ngoài việc
kích thích dịch vị còn có tác dụng điều hoà âm dương (gừng đi
với bí đao, thịt chó với lá mơ , trứng vịt lộn rau răm,…)
+ Để tạo nên sự quân bình âm dương trong cơ thể, người Việt
sử dụng thức ăn như những vị thuốc điều chỉnh sự mất quân
bình âm dương trong cơ thể. Ví dụ: sốt cảm lạnh ăn cháo tía tô,
gừng; sốt cảm nắng thì ăn cháo hành.
+ Tính biện chứng trong ăn uống phải biết chọn đúng bộ phận
có giá trị (chuối sau, cau trước); đúng trạng thái có giá trị (tôm
nấu sống, bống để ươn); đúng thời điểm có giá trị. Thời điểm có
giá trị là lúc thức ăn đang trong quá trình âm dương cân bằng vì
vậy rất giàu chất dinh dưỡng.
IV SỰ THAY ĐỔI CỦA NHỮNG ĐẶC TRƯNG NÀY TRONG BỐI
CẢNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ
1 Tính hòa đồng ( khi nhắc đến đặc trưng ẩm thực Việt Nam
trong quá trình hội nhập ta nói đến một đặc trưng đặc biệt : Tính hòa đồng )
Tính hòa đồng trong ẩm thực của người Việt được thể hiện rõ
nét qua việc người Việt dễ dàng tiếp thu, du nhập văn hóa ẩm
thực của các dân tộc khác như: Hàn, Nhật, Trung Hoa, các nước
châu Âu… để có thêm những món ăn mới, cách chế biến mới
hoặc biến tấu thành những món ăn thuần Việt. Đây cũng là đặc
trưng nổi bật của ẩm thực nước ta từ Bắc chí Nam.
Vd: Bánh mỳ nguồn gốc từ Pháp nhưng khi về đến Việt Nam,
phần nhân ăn kèm bánh mì được biến tấu thành những món
đậm chất Việt Nam đã tạo nên hương vị rất riêng .
Vd: Bánh bao có xuất xứ từ Trung Quốc và khi về Việt Nam lại
trở thành món ăn chống đói khá bình dân của người Việt.