




Preview text:
Dẫn chiếu pháp luật là gì? Ví dụ về dẫn chiếu pháp luật
1. Định nghĩa Dẫn chiếu ngược hay dẫn chiếu đến
Dẫn chiếu ngược hay dẫn chiếu đến pháp luật của nước thứ ba là hiện tượng
khi cơ quan có thẩm quyền của nước A áp dụng quy phạm xung đột dẫn
chiếu đến pháp luật nước ngoài (nước B), nhưng pháp luật nước B lại quy
định vấn đề phải được giải quyết theo pháp luật nước A hoặc được giải quyết
theo pháp luật của một nước thứ ba.
Theo BLDS Việt Nam “năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân nước ngoài
được xác định theo pháp luật của nước nơi pháp nhân đó thành lập”. Doanh
nghiệp A là doanh nghiệp nước ngoài và thành lập tại Đức. Vậy pháp luật
Đức là pháp luật điều chỉnh năng lực pháp luật dân sự của doanh nghiệp A.
Nhưng theo pháp luât Đức, vấn đề này được điều chỉnh bởi pháp luật nơi
doanh nghiệp có trụ sở thực tiễn và trong thực tế thì doanh nghiệp A có trụ
sở tại Bỉ. Do đó, pháp luật Đức dẫn đến pháp luật Bỉ. Vậy hiện tượng dẫn
chiếu đến pháp luật nước thừ ba có thể xảy ra ở Việt Nam.
Dẫn chiếu đến pháp luật nước thứ ba, một hình thức áp dụng pháp luật nước
ngoài theo quy định của pháp luật; trong trường hợp áp dụng pháp luật nước
ngoài mà pháp luật nước đó dẫn chiếu đến pháp luật nước thứ ba thì áp
dụng pháp luật của nước thứ ba. Dẫn chiếu pháp luật nước thứ ba là Trường
hợp đối với một quan hệ xã hội cần được điều chỉnh nhưng có xung đột pháp
luật mà nước thứ nhất đã chỉ dẫn việc áp dụng pháp luật của nước thứ hai,
nhưng nước thứ hai lại có quy phạm xung đột về việc chỉ dẫn áp dụng pháp
luật của nước thứ ba thì phải áp dụng pháp luật của nước ấy. Ở đây, coi như
nước thứ hai đã chuyển quyền điều chỉnh cho nước thứ ba
Tư pháp quốc tế của Việt Nam cũng như của đa số các nước trên thế giới
đều áp dụng hình thức này.
Dẫn chiếu ngược hay dẫn chiếu đến pháp luật của nước thứ ba là hiện tượng
khi cơ quan có thẩm quyền của nước A áp dụng quy phạm xung đột dẫn
chiếu đến pháp luật nước ngoài (nước B), nhưng pháp luật nước B lại quy
định vấn đề phải được giải quyết theo pháp luật nước A (gọi là dẫn chiếu
ngược hay dẫn chiếu cấp độ 1) hoặc được giải quyết theo pháp luật của một
nước thứ ba (nước C – dẫn chiếu cấp độ 2).
Theo quy định tại khoản 3 điều 676 Luật dân sự 2015 có quy định:” Trường
hợp pháp nhân nước ngoài xác lập, thực hiện giao dịch dân sự tại Việt Nam
thì năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân nước ngoài đó được xác định
theo pháp luật Việt Nam”.
Ví dụ: Như doanh nghiệp A là doanh nghiệp nước ngoài và thành lập tại Anh.
Vậy pháp luật Anh là pháp luật điều chỉnh năng lực pháp luật dân sự của doanh nghiệp A.
2. Nguyên nhân của hiện tượng dẫn chiếu
Thứ nhất, quy phạm xung đột có hai bộ phận cấu thành: phần phạm vi và
phần hệ thuộc. Hiện tượng dẫn chiếu xuất hiện khi một vấn đề pháp lý thuộc
phần phạm vi của hai quy phạm xung đột của hai nước có phần hệ thuộc
khác nhau hay là do có sự quy định khác nhau trong các quy phạm xung đột
của các nước về nguyên tắc chọn luật áp dụng cho cùng một vấn đề pháp lý.
Nguyên nhân thứ hai có khả năng làm phát sinh dẫn chiếu là việc giải thích
các hệ thuộc luật của các nước có thể rất khác nhau. có thể dẫn đến khả
năng một vấn đề pháp lý sẽ được hệ thống pháp luật của hai nước đều cho
rằng, sẽ được áp dụng (gọi là xung đột tích cực), hoặc cả hai nước đều từ
chối áp dụng, cho ràng pháp luật của nước mình không có thẩm quyền áp
dụng (gọi là xung đột tiêu cực).
Một số tác giả cho rằng, có sự “ủy quyền” của pháp luật trong nước cho pháp
luật nước ngoài trong việc áp dụng giải quyết tình huống pháp lý phát sinh.
Và như vậy, có thể coi các quy phạm xung đột nước ngoài dẫn chiếu ngược
chở lại pháp luật nước có tòa án thụ lý là một bộ phận cấu thành trong hệ
thống pháp luật của nước có tòa án đó.
3. Hệ quả của việc dẫn chiếu
Trong khoa học Tư pháp quốc tế vấn đề dẫn chiếu đến pháp luật nước ngoài
hiện nay có hai quan điểm:
Quan điểm thứ nhất, nếu hiểu dẫn chiếu đến pháp luật nước ngoài là dẫn
chiếu chỉ đến quy phạm pháp luật thực chất của nước đó thì sẽ loại trừ vấn
đề dẫn chiếu ngược. Nói cách khác là không bao giờ xảy ra dẫn chiếu ngược
và luật thực chất của nước được dẫn chiếu đến sẽ được áp dụng.
Quan điểm thứ hai, nếu hiểu dẫn chiếu đến pháp luật nước ngoài là dẫn
chiếu đến toàn bộ hệ thống pháp luật của nươc đó (kể cả luật thực chất, cả
luật xung đột) thì có nghĩa là sẽ chấp nhận dẫn chiếu ngược trở lại cũng như
dẫn chiếu đến pháp luật nước thứ ba.
Trong Tư pháp quốc tế các nước, một số nước không chấp nhận dẫn chiếu
(bao gồm cả dẫn chiếu ngược và dẫn chiếu đến pháp luật nước thứ ba) như
Kê-béc (Canada), Ý (trước ngày 31 tháng 5 năm 1995), Bắc Âu, Hy Lạp
(BLDS năm 1940), Hà Lan, Brazin (BLDS năm 1942), Ai Cập (BLDS năm
1948), Siry (BLDS năm 1949), …; tuy nhiên còn một số nước khác lại chấp
nhận dẫn chiếu như Pháp, Đức (BLDS năm 1896), Anh, Bỉ, Nhật Bản (BLDS
năm 1898), Thụy Điển v.v…
Như vậy, có thể thấy, khi gặp hiện tượng dẫn chiếu thì phải xét hai trường hợp cơ bản:
Trường hợp thứ nhất: Pháp luật của quốc gia không chấp nhận dẫn chiếu
ngược và dẫn chiếu đến pháp luật của nước thứ ba, có nghĩa là quốc gia đó
theo quan điểm thứ nhất, cho rằng việc dẫn chiếu đến pháp luật nước ngoài
ở đây phải là sự dẫn chiếu đến quy phạm pháp luật thực chất của nước ngoài.
Trong trường hợp này, về nguyên tắc pháp luật được áp dụng ở đây sẽ là
pháp luật của nước mà được pháp luật quốc gia này dẫn chiếu đến, và áp
dụng các quy phạm pháp luật thực chất của nước đó để giải quyết quan hệ xã hội phát sinh.
Trường hợp thứ hai: Pháp luật của quốc gia chấp nhận dẫn chiếu ngược và
dẫn chiếu đến pháp luật của nước thứ ba, có nghĩa là quốc gia đó theo quan
điểm thứ hai, cho rằng sự dẫn chiếu đến pháp luật nước ngoài phải là sự dẫn
chiếu đến toàn bộ hệ thống pháp luật của nươc đó (kể cả quy phạm luật thực
chất, cả luật xung đột). Trong trường hợp này, về nguyên tắc chung, pháp
luật sẽ áp dụng là pháp luật của chính quốc gia mà được pháp luật của quốc
gia kia dẫn chiếu ngược trở lại hoặc pháp luật của nước thứ ba.
Ngoài ra, vấn dề dẫn chiếu ngược và dẫn chiếu đến pháp luật của nước thứ
ba cũng sẽ không tồn tại trong trường hợp khi các quốc gia ký kết với nhau
các hiệp định song phương (thường là các hiệp định tương trợ tư pháp) trong
đó quy định các quy phạm xung đột thống nhất thì về nguyên tắc, các quy
phạm xung đột thống nhất sẽ được ưu tiên áp dụng.
4. Áp dụng pháp luật dẫn chiếu
4.1 Chấp nhận dẫn chiếu
Một số nước không chấp nhận dẫn chiếu như Siry (BLDS 1949), Ai Cập
(BLDS 1948)… bởi quan điểm của họ thì khi dẫn chiếu là chỉ dẫn chiếu tới
các quy phạm luật thực chất của nước đó chứ không phải toàn bộ hệ thống
pháp luật của nước đó như các nước chấp nhận dẫ chiếu như Anh, Nhật Bản (BLDS 1898), Thụy Điển.
Ở Việt Nam về nguyên tắc thì dẫn chiếu được chấp nhận. Khoản 3 Điều 759
BLDS 2005: “nếu pháp luật nước đó (pháp luật nước ngoài được quy định
hoặc viện dẫn) dẫn chiếu trở lại pháp luật nước CHXHCN VN, thì áp dụng
pháp luật CHXHCN VN”. Tương tự theo Điều 5 nghị định số 68/2002/NĐ-CP
ngày 10/7/2002 cũng quy định về vấn đề này.
Pháp luật Việt Nam chỉ đề cập đến dẫn chiếu ngược trở lại pháp luật VN và
không cho biết dẫn chiếu đến pháp luật nước thứ ba có được chấp nhận hay
không. Tuy nhiên theo quy định tại Khoản 3 Điều 4 nghị định số
138/2006/NĐ-CP thì dẫn chiếu ngược trở lại và dẫn chiếu đến pháp luật nước
thứ ba được chấp nhận ở Việt Nam. Thực tế vấn đề này rất hiếm gặp, do các
quy phạm xung đột cũng có giới hạn và nhìn chung các quy phạm xung đột
của tư pháp quốc tế là thống nhất. Đa phần phụ thuộc vào cách giải thích và
ý chí của tòa án thụ lý vụ việc.
4.2 Các trường hợp không chấp nhận dẫn chiếu
Thứ nhất là trong lĩnh vực hợp đồng, hầu hết tất cả các quốc gia trên thế giới
đều không chấp nhận dẫn chiếu trong lĩnh vực này. Điều 15 Công Ước Rome
19/6/1980 về quy phạm xung đột thống nhất trong lĩnh vực hợp đồng đối với
một số nước châu Âu và Điều 2 Công Ước Lahaye 7/6/1955 về hợp đồng
mua bán quốc tế động sản, dẫn chiếu không được chấp nhận bởi nó sẽ làm
đảo lộn những dự tính, đi ngược lại ý chí của các bên khi họ thỏa thuận chọn
pháp luật áp dụng (luật nội dung, luật thực chất của hệ thống luật này) cho
hợp đồng. Khoản 1 Điều 769 BLDS 2005: “quyền và nghĩa vụ của các bên
theo hợp đồng được xác định theo pháp luật của nước mà các bên đã thỏa
thuận chọn”. nhưng không phải sự loại trừ dẫn chiếu là đương nhiên, tự động
mà cần dung hòa ý chí các bên và các quy phạm xung đột một cách thống nhất.
Thứ hai là khi có Điều ước quốc tế quy định. Theo Điều 39 Hiệp đinh tương
trợ tư pháp giữa Nga và Việt Nam, “quan hệ pháp luật về thừa kế động sản
do pháp luật của bên ký kết mà người để lại thừa kế là công dân vào thời
điểm chết điều chỉnh”. Ví dụ: một công dân Nga sống và làm ăn ở VN nhiều
năm, công dân này có vợ người VN và có một số động sản ở VN và Nga.
Công dân Nga qua đời đột ngột ở VN do tai nạn không để lại di chúc. Vậy
pháp luật Nga điều chỉnh quyền thừa kế vì khi người chết để lại tài sản thừa
kế là công dân của Nga dù tại Điều 1224 Khoản 1 BLDS Nga quy định: “thừa
kế (động sản) được điều chỉnh bởi pháp luật của nước mà người để lại thừa
kế có nơi cư trú cuối cùng”.
Hiện nay, về nguyên tắc dẫn chiếu ở Việt Nam đã được chấp nhận, theo
khoản 2 Điều 668 BLDS 2015 như sau:
“ Trường hợp dẫn chiếu đến pháp luật Việt Nam thì quy định của pháp luật
Việt Nam về quyền, nghĩa vụ của các bên tham gia quan hệ dân sự được áp dụng”.
Có thể thấy, khi gặp hiện tượng dẫn chiếu ngược và dẫn chiếu đến pháp luật
nước thứ ba, việc áp dụng pháp luật như thế nào sẽ căn cứ theo Tư pháp
quốc tế các nước trên thế giới, chúng ta phải phân biệt các trường hợp cụ thể
như đã nêu ở trên. Còn riêng trong Tư pháp quốc tế của Việt Nam, thì vấn đề
này được khẳng định là chấp nhận hiện tượng dẫn chiếu. Tuy nhiên cũng
phải khẳng định rằng đây là vấn đề rất quan trọng, phổ biến nhưng cũng rất
khó, rất phức tạp trong tư pháp quốc tế.
Qua việc tìm hiểu ở trên, có thể thấy dẫn chiếu là vấn đề rất quan trọng, phổ
biến nhưng cũng rất khó, rất phức tạp trong tư pháp quốc tế. Trong thời gian
tới, khi các Điều ước quốc tế ngày một gia tăng, việc thiết lập các quy phạm
xung đột thống nhất trong các Điều ước này sẽ làm mất đi những điều kiện
tồn tại của dẫn chiếu, có thể hiện tượng dẫn chiếu không cần phải đặt ra
trong tư pháp quôc tế nữa. Tuy nhiên, ở thời điểm hiện tại, dẫn chiếu vẫn
được áp dụng một cách thường xuyên và phổ biến, vì vậy chúng ta cần phải
tìm hiểu kỹ về vấn đề này để có thể áp dụng pháp luật hiệu quả nhất.
Document Outline
- Dẫn chiếu pháp luật là gì? Ví dụ về dẫn chiếu pháp
- 1. Định nghĩa Dẫn chiếu ngược hay dẫn chiếu đến
- 2. Nguyên nhân của hiện tượng dẫn chiếu
- 3. Hệ quả của việc dẫn chiếu
- 4. Áp dụng pháp luật dẫn chiếu
- 4.1 Chấp nhận dẫn chiếu
- 4.2 Các trường hợp không chấp nhận dẫn chiếu