là chính bn thân nhà thơ: Mt lão không vy cũng đ
I. Mở i:
THU M
Năm gian nhà cỏ thấp le te,
Ngõ tối đêm u đóm lập loè.
Lưng giậu phất phơ màu khói nhạt,
Làn ao lóng lánh bóng trăng loe.
Da trời ai nhuộm xanh ngắt,
Mắt lão không vầy cũng đỏ hoe.
Rượu tiếng rằng hay hay chả mấy,
Độ năm ba chén đã say nhè.
Dàn ý phân tích bài thơ Thu ẩm
Thu ẩm một trong ba bài thơ thu nổi tiếng của Nguyễn Khuyến.
Bài thơ cho thấy dáng thu, hồn thu của làng quê đồng bằng Bắc Bộ; đồng thời thể hiện tâm trạng băn
khoăn, u uất của nhà t trước tình cảnh đau thương của đất nước.
II. Thân i:
+ Hai câu đề:
“Ba gian nhà cỏ thấp le te,
Ngõ tối đêm sâu, đóm lập loè.”
Cảnh thu ban đêm nơi làng quê nghèo khó với những hình ảnh quen thuộc được quan sát miêu tả qua
đôi mắt đầy tâm trạng của thi nhân: Ba gian nhà cỏ (lợp tranh hoặc rạ), thấp le te rất thấp, tưởng như bị
bóng tối đè nặng nên biến dạng.
Ánh sáng lập loè của đom đóm làm cho ngõ hẹp càng thêm tối đêm thêm sâu (khuya).
+ Hai câu thực:
“Lưng giậu phất phơ màu khói nhạt,
Làn ao lóng lánh bóng trăng loe.”
Quan sát cảm nhận của thi rất tinh tế: sương thu như màu khói nhạt phủ quanh lưng giậu. (Giậu
bờ rào bằng cây, thường trồng cúc tần hay dâm bụt). Bóng trăng soi trên mặt ao lãn tăn gợn sóng, lúc tụ
lại, lúc tản ra, tạo cảm giác bóng trăng loe.
Các phụ âm đầu / đứng gần nhau (Làn, lóng lánh, loe) đặc tả cảnh đó thể hiện tài năng sử dụng ngôn
ngữ của Nguyễn Khuyến.
+ Hai câu luận:
“Da trời ai nhuộm xanh ngắt,
Mắt lão không vầy cũng đỏ hoe.”
Đối tượng miêu t thứ nhất bầu trời xanh ngắt như chất chứa cái đó bên trong, khiến nhà thơ băn
khoăn tự hỏi: ai nhuộm xanh ngắt. Đại từ phiếm chỉ ai lấp lửng một mối hoài nghi không lời giải đáp.
Đối tượng miêu tả thứ hai hoe. Đôi mắt chứa chất
đầy tâm trạng.
+ Hai câu kết:
“Rượu tiếng rằng hay hay chẳng mấy,
Chỉ dăm ba chén đã say nhè.”
Từ hay hai nghĩa: hay uống rượu (thường xuyên); hay tức tửu lượng cao. ô câu thơ này, từ hay mang
nghĩa thứ hai. Rượu tiếng rằng hay nhưng Chỉ dăm ba chén đã say nhè. Say do rượu thì ít say do tâm
trạng thì nhiều. Nhà thơ muốn mượn rượu để quên đi nỗi buồn đang đầy ắp trong tâm hồn.
* Nghệ thut của bài thơ:
Bài thơ làm theo thể thất ngôn bát Đường luật, niêm luật rất chỉnh nhưng vẫn dung dị, tự nhiên
Nguyễn Khuyến nhiều sáng tạo trong cách gieo vần sử dụng từ ngữ, hình ảnh đậm đà tính chất dân
tộc.
III. Kết bài:
Tâm trạng u hoài của nhà thơ Nguyễn Khuyến thấm đượm vào cảnh vật, đồng điệu với dáng thu, hồn thu
của làng cảnh quê hương.
Nhà thơ buồn bã, day dứt khôn nguôi trước tình cảnh lệ của dân tộc, đất nước mình thì lực bất tòng
tâm. Mượn rượu giấi sầu nỗi sầu càng thêm chồng chất.
Bài làm
1. Mở bài: M1: Tác giả Nguyễn Khuyến, tên thật Nguyễn Thắng. Ông được biết đến một vị quan
phẩm chất thanh cao thanh liêm, chính trực. Trong dân gian, đã rất nhiêu gia thoại thú vị kể về s
gắn của nhà thơ Nguyễn Khuyến với người dân. Không chỉ một vị quan chính trực, hết lòng nhân
dân, Nguyễn Khuyến còn là một người tâm hồn nhạy cảm, giàu cảm xúc luôn rộng mở gắn với
thiên nhiên, làng quê quê hương đất nước.
M2: Hình như trong thi ca nhắc đến mùa thu nhắc đến nỗi buồn nỗi buồn trải ra với đầy đủ cung
bậc: từ buồn thương, buồn nhở, buồn man mác… Nhưng với mỗi thi nhân, nỗi buồn lại gắn với một tâm
sự khác nhau. Đến với Thu ẩm của Nguyễn Khuyến nhà t của làng cảnh Việt Nam người đọc lại
được chiêm ngưỡng một bức tranh thu với với đủ sắc màu âm thanh dưới cái nhìn, dưới con mắt của
một thi nhân, của một con người đang đơn độc nâng chén với cuộc đời. Nhan đề “Thu ẩm” mùa thu
uống rượu nhãn tự, nơi nói lên nội dung chính của bài thơ.
M3:
“Năm gian nhà cỏ thấp le te,
Ngõ tối đêm sâu đóm lập e.
Lưng giậu phất phơ u khói nhạt,
Làn ao lóng lánh bóng trăng loe.
Da trời ai nhuộm xanh ngắt,
Mắt lão không vầy cũng đỏ hoe.
Rượu tiếng rằng hay hay chả mấy
Độ năm ba chén đã say nhè.”
Cứ mỗi khi nhắc tới mùa thu con người ta lại cảm thấy trong đó cả thế giới của một kiểu tâm trạng
hết sc đc trung trong văn hc, đó là
D
ow
m
nlo
t
a
r
d
e
n
d
g
b y
b
N g
u
u
y e
n
n
,
L i
b
n h
u
(
v j t
n
5 @
th
g m
ư
a
ơ
i l . c
n
o
g
m
,
)
bun nh, bun man mácbun.
Downloaded by Nguyen Linh (vjt5@gmail.com)
kia my dòng như vy là có ý so sánh đế nhìn đưc r
hu m này, đây, dáng thu, hn thu và c tâm tư nhà
Với đủ những cách thức để đi đến những tâm trạng đó, các nhà t đã sử dụng một cách khéo léo, tinh tế
những yếu tố của phong cách ngôn ngữ nghệ thuật để bày tỏ, để diễn tả tâm trạng của mình qua bức tranh
thu buồn kia. Đến với nhà thơ Nguyễn Khuyến, nhà t đã được mệnh danh người đã vẽ nên những
bức tranh làng q vùng Bắc Bộ Việt Nam vào mùa thu đầy đủ đẹp đẽ nhất, người đọc lẽ sẽ nhắc tới
ngay bài thơ “thu ẩm” trong chùm thơ thu rất nổi tiếng của ông. Nhan đề bài thơ “thu ẩm” nghĩa
mùa thu uống rượu nhãn tự, nơi nói lên nội dung chính của bài thơ, đây, bài t một bức
tranh mùa thu với đủ sắc màu âm thanh dưới i nhìn, dưới con mắt của một thi nhân, của một con
người đang đơn độc nâng chén với cuộc đời. Năm câu t đầu tiên, nhà thơ mở ra một khung cảnh làng
quê vào mùa thu trong một thời điểm cùng đặc biệt, đó ban đêm.
M4: Nguyễn Khuyễn một nhà thơ tài năng, cốt cách thanh cao, một lòng yêu nước thương dân, từng từ
bỏ chốn quan trường vốn nơi thể tu chí lập nghiệp chán ghét chính quyền thực dân Pháp bộ
máy nhà nước phong kiến thối nát. Ông một sự nghiệp thơ từ đ sộ bao gồm cả chữ Hán Nôm,
trong đó nổi tiếng nhất phải k đến chùm thơ thu bằng chữ Nôm Thu ẩm một trong ba bài t nức
danh đó.
M5: Thu ẩm nghĩa mùa thu uống rượu. Đây một trong ba bài t Nôm nói về mùa thu nổi tiếng
của Nguyễn Khuyến: Thu điếu (Mùa thu câu cá), Thu vịnh (Mùa thu làm thơ), Thu ẩm (Mùa thu uống
rượu). Chùm thơ này dáng thu, hồn thu của đồng bằng Bắc Bộ thời xưa. Mỗi bài thơ mang những dáng
thu riêng những nét tâm tình riêng. Thấm đượm vào cảnh vật tâm trạng băn khoăn, u uất của nhà thơ
trước tình cảnh đất nước rơi vào tay giặc.
M6: Nguyễn Khuyến một trong những nhà thơ nổi tiếng của nền văn học dân tộc, nhiều bài thơ viết
về mùa thu bằng chữ Hán chữ Nôm. Thu ẩm một trong ba bài thơ Nôm nổi tiếng: Thu điếu, Thu ẩm
Thu vịnh. Chùm thơ này đã tôn vinh Nguyễn Khuyến lên v trí hàng đầu trong các nhà thơ viết v mùa
thu của q hương, làng cảnh Việt Nam.
2. Khái quát: M1: Quá trình phân tích chùm t thu của Nguyễn Khuyến, chúng ta sẽ cảm nhận hơn
màu sắc thu đồng bằng Bắc bộ. Chùm thơ thu những bức tranh thu đặc sắc, với ngôn ngữ giàu tính
biểu cảm, thể hiện tình yêu thiên nhiên tha thiết của tác giả. Phân tích chùm thơ thu của Nguyễn Khuyến,
độc giả không thể không nhắc đến tác phẩm “Thu m”. Nếu như Thu điếu mùa thu câu thì Thu ẩm
mùa thu uống rượu.
M2: thể nói, trong ba bài thơ thu của Nguyễn Khuyến, chỉ bài Thu điếu nhất quán về không
gian, về thời gian. Còn bài Thu vịnh Thu ẩm khó thể xác định một không gian, thời gian cụ thể
nào. thể nhà thơ Nguyễn Khuyến uống rượu làm thơ trong một đêm thu nào đó nhưng cảnh thu không
nhất thiết cảnh đêm thu. Khi cái say men đã làm thi nhân hơi chếnh choáng thì các hình ảnh lần lượt
hiện về trong tâm trí dệt nên bức tranh thu đa dạng.
M3: Dáng thu trong Thu vịnh thăm thẳm, xa vời, quen lạ. Trời thu thì xanh ngát những mấy từng cao;
khóm tre thu nhỏ lại trong hinh ảnh cần trúc, sương như khói phủ thành tầng trên mặt nước, song thưa đ
mặc bóng tràng vào, hoa năm nay bỗng thành hoa năm ngoái, tiếng ngỗng thảng thốt, hổ… Hồn thu
như lắng chìm vào bôn trong, ẩn chứa chiều sâu.
Dáng thu, hồn thu bài Thu điếu lại chất chứa trong sự thu nhỏ lặng im của cảnh vật: chiếc thuyền câu
tẻo teo, nước biếc trên mặt ao chỉ gợn tí, vàng khẽ rơi vèo không thành tiếng, tiếng đớp động rất
nhẹ dưới chân bèo. Tất cả đều im lìm, tĩnh mịch. Tưởng chừng như ông câu cũng hoá đá trong thế tựa
gối ôm cần. Tâm cụ Tam Nguyên ngụ trong sự chờ đợi mỏi mòn giữa không k yên lặng gần như
tuyệt đối.
Trở lại với hai bài t thu õ hơn dáng thu, hồn thu
tâm nhà thơ trong bài T thơ khác.
Downloaded by Nguyen Linh (vjt5@gmail.com)
Cảnh vật vẫn những cảnh vật quen thuộc. Từ nhà, từ vườn của cụ Tam Nguyên nhìn ra cánh đồng, cái
ao, rặng tre, hàng giậu, ngõ xóm quanh co, hun hút, trời xanh trên đầu, khói phủ mặt nước, bóng trăng
trong ao. Khác một chút đây, Nguyễn Khuyến không còn nhà thơ, ông câu ông già khề khà
chén rượu giải sầu. Nhưng cũng chính cái khác ấy cảnh vật dường như biến đổi, đầy bất ngờ thú
vị .
M4: Nhan đề bài thơ “Thu ẩm” nghĩa mùa thu uống rượu. Đây một trong ba bài thơ Nôm nói về
mùa thu nổi tiếng của Nguyễn Khuyến: Thu điếu (Mùa thu câu cá), Thu vịnh (Mùa thu làm thơ), Thu ẩm
(Mùa thu uống rượu). Chùm thơ này dáng thu, hổn thu của đồng bằng Bắc Bộ thời xưa. Mỗi bài thơ
mang những dáng thu riêng những nét tâm tình riêng. Thấm đượm vào cảnh vật tâm trạng băn
khoăn, u uất của nhà t trước tình cảnh đất nước rơi vào tay giặc.
3. Luận điểm: M1: Trong bài Thu ẩm này, độc giả cảm nhận hồn thu, dáng thu tâm của n thơ.
Nhà thơ giới thiệu nhà, vườn ra tới cánh động, rặng tre, ao vườn, hàng giậu, ngõ xóm. Chúng mang dáng
vẻ hun hút, quanh co… Đọc những câu thơ, chúng t cảm nhận lúc này Nguyễn Khuyến không còn thi
nhân nữa trở thành ông già đang khề k chén rượu để giả sầu. Chính với cái nhìn say sưa đó cảnh
vật biến đổi đầy thú vị bất ngờ:
“Ba gian nhà cỏ thấp le te,
Ngõ tối đêm sâu, đóm lập loè.
Bức tranh thu của tác giả hiện lên với hình ảnh ngôi nhà cỏ thấp le te. Thấp le te nghĩa rất đơn
lụp xụp, mái tranh cũng xác rách nát. “Đã thế, lại điểm thêm những đốm sáng lập lòe của đom đóm
trong ngõi tối đêm sâu, trông càng heo hút, quạnh:
“Lưng giậu phất phơ u khói nhạt,
Làn ao lóng lánh bóng trăng loe.
Bức tranh thu ẩm ấy hiện lên sau lớp sương thu mỏng phớt phơ n làn khói mỏng. Khiến cho khung
cảnh trở nên thật mờ nhạt trong màu đêm chập choạng. Đặc biệt, hình ảnh ao thu đây không lạnh lẽo
trong veo nữa lóng lánh bóng trăng. nghĩa bóng trăng lúc dồn lại, lúc tỏa ra liên tiếp biến
dạng, trông thật t vị nhưng cũng đong đầy cảm xúc:
“Da trời ai nhuộm xanh ngắt,
Mắt lão không vẩy cũng đỏ hoe”.
Ban đêm thi nhân thấy bầu trời xanh ngắt, còn mắt không vầy cũng đỏ hoe. Thật kỳ lạ! Nhưng đó
chính xác diễn tả tâm trạng buồn chán chường, tìm đến rượu để giải sầu của tác giả. Chẳng thế
thi nhân mới nói “Rượu tiếng rằng hay hay chả mấy Độ năm ba chén đã say nhè”.
Không phải say túy lúy chỉ say nhè, say nhẹ, say rồi ngủ không tha, phá phách. thể thấy
theo Nguyễn Khuyến, mùa thu thật hợp để thể nhè đôi ba chén rượu.
M2: Vẫn bằng bút pháp hiện thực quen thuộc, bằng lời thơ bình dị, Nguyễn Khuyến mở đầu bài thơ bằng
cảnh:
“Năm gian nhà cỏ thấp le te
Ngõ tối đêm sâu, đóm lập lòe.”
Nơi nhà thơ đang uống rượu làm thơ không phải thư phòng, thư sảnh của lầu son gác tía nào chỉ
ngôi nhà đơn bình dị nơi thôn dã, một ngôi nhà lợp bằng rơm rạ “thấp le te”. Từ nơi ấy thi nhân
nhìn ra chỉ thấy màn đêm sâu thẳm.
Downloaded by Nguyen Linh (vjt5@gmail.com)
u li càng nh, li càng bun. Cái tôi tr tình ca nhà
Đó một đêm tối gợi lên chiều sâu không cùng, tối tăm, ánh sáng đom đóm mới lập lòe như thế. Trong
đêm thu trời tối, Nguyễn Khuyến trầm ngâm bên chén rượu, những cảnh thu nhiều nơi cứ lập lòe ẩn
hiện trong tâm trí của thi nhân. Đó là cảnh chiều thu quê hương yên ả, đầm ấm:
“Lưng giậu phất phơ màu khói nhạt.”
Đó cảnh đêm trăng mùa thu được cảm nhận từ phía ao nhà: Làn ao lóng lánh bóng trăng loe”. Đó
cảnh mùa thu trong một ngày nắng đẹp: “Da trời ai nhuộm màu xanh ngắt”. Cảnh trong tâm tưởng rất
thực, rất bình dị. Đó là cảnh quê, hồn quê từ lâu đã thấm sâu, hòa nhập vào tâm hồn Nguyễn Khuyến để
khi làm t thi hứng lại gọi về.
Trăng mùa thu thi liệu quen thuộc nhưng thi liệu ấy lại trở nên mới mẻ sinh động lạ thường khi được
nhìn qua đôi mắt của thi làng q Yên Đổ.
Nhà thơ Xuân Diệu cho đây “là một câu thơ hiếm có”, một phát hiện của nhà t i: “… câu Làn ao
lóng lánh bóng trăng loe, của một thi thật tài, bóng trăng vàng từ mặt nước ao sáng lóe ra, bốn chữ
khả năng (làn, lóng, lánh, loe) gợi chất vàng nước kim loại, ba dấu sắc khứ thanh (lóng, lánh, bóng) gợi
ánh bắn đi; từ loe, âm oe gợi cái tròn (tròn xoe) n cái ao chẳng hạn”.
Xuân Diệu đã phân tích rất tinh tế khả năng gợi tả của ngôn ngữ phương diện ngữ âm. Nhưng để cái
hay, cái đẹp, cái độc đáo ấy trước hết cách nhìn, hướng tiếp cận. Thi sĩ bao đời nay miêu t trăng
thu.
Nhìn trăng qua ao mới vẻ đẹp lóng lánh như thế, trăng từ trong ao hắt ánh sáng lên mới tạo ra những
chùm sáng lòe như thế. Một thi tài năng thì không đề tài nào mòn cũ, không câu chữ nào mất
đi sức sống.
Thu ẩm mùa thu uống rượu mãi cuối bài thơ mới thấy hình ảnh người uống rượu xuất hiện:
“Mắt lão không vầy cũng đỏ hoe
Rượu tiếng rằng hay, hay chả mấy
Độ năm ba chén đã say nhè.”
Đó chân dung tự họa của nhà t Nguyễn Khuyến trong những năm tháng ẩn dật quê nhà. Nỗi niềm
đang xót lòng xót dạ người nho ấy đến mức mắt đỏ hoe, rớm máu? Từ đôi mắt, người đọc nhìn thấu
nỗi buồn đau của cụ Tam Nguyên
Đã từng đỗ đầu thi hương, thi hội đã từng được vua ban chức này tước nọ Nguyễn Khuyến không chút
đắc ý về cuộc đời mình. lúc ông còn thấy việc học viển vông ích, việc làm quan trong thời
buổi ấy nỗi nhục. Tưởng trở về vườn xưa chốn để thanh thản nỗi lòng, nào ngờ đâu lòng vẫn nặng
buồn đau:
“Ngọn gió đông ngoảnh lại lệ đầm khăn
Tình thương hải tang điền qua mấy lớp.”
(Trở về vườn cũ)
Để dịu bớt cơn đau, để khuây khỏa nỗi buồn, Nguyễn Khuyến đã làm bạn với túi thơ, bầu rượu. Trung
Quốc nhà thơ Bạch làm nhiều bài thơ về rượu, nước Nam ta không ai nói về u trong t
nhiều như Nguyễn Khuyến.
Nhà thơ hay uống rượu nhưng chả uống được nhiều. Người ta uống rượu để quên, để say còn
Nguyễn Khuyến uống rượ thơ trong bài Thu ẩm bề
Downloaded by Nguyen Linh (vjt5@gmail.com)
ngoài thì vẻ say nhè nhưng thực chất rất tỉnh. Say nhè để quên mọi chuyện nhưng nhà thơ không
quên được nỗi đau buồn về non sông đất nước.
M3: Hai câu đề:
“Ba gian nhà cỏ thấp le te
Ngõ tối đêm sâu đóm lập lòe”
Nhà tranh gọi là nhà cỏ t giá trị đã hạ một bậc nhưng chữ nghĩa khác nhau chưa mấy. Nhưng thấp le
te đã thấp chẳng còn lành lặn, mái tranh đã rách nát, xác đổi dạng. Tiếp theo: Ngõ tối đêm
sâu cảnh bình thường nhưng lại ánh lửa đom đóm lập lòe làm cho ngõ tối đêm sâu lúc tối, lúc
sáng thành ra cũng biến dạng.
Hai câu thực cũng vậy:
“Lưng giậu phất phơ màu khói nhạt,
Làm áo lóng lánh bóng trăng loe.”
Sương thu lớt phớt như khói mỏng phủ bờ giậu khiến cho cây xanh cũng chẳng còn màu đêm. Câu thơ
đặc biệt miêu tả tài tình: Mặt ao cũng không còn phẳng lặng lăn tăn gợn sóng ánh trăng chiếu vào
nên lóng lánh; bóng trăng chiếu xuống nước gợn sóng cũng chẳng còn nguyên hình chao lại loe ra,
dồn lại, biến dạng liên tiếp.
“Da trời ai nhuộm xanh ngắt?
Mắt lão không vầy cũng đỏ hoe.”
Cảnh trời cảnh mình. Trời cũng như mình đều do ai đó làm cho biến đổi: Trời thì ai nhuộm xanh
ngắt, mắt mình không vầy cũng đỏ hoe? Người nghiên cứu bảo c Tam nguyên đau mắt, lần mắt đỏ
như máu, hay do rượu say? Say rượu cũng thường đỏ mắt.
Chữ “ai” lấp lửng một mối hoài nghi, nghe lửng nhưng chắc không phải ý. Bỗng dưng lại lấy một
thế lực nào đó bên ngoài tác động vào trời, nhuộm cả da trời, rồi bỗng dưng mắt mình “đỏ hoe nước mắt”.
Đây cũng nét tâm tư của n thơ?
cùng một mạch cảm thương như hoa năm nay nhìn ra hoa năm ngoái, tiếng ngỗng bay qua trời
mình nghĩ ngỡ ngỗng nước nào. Tâm n thơ không ngoài nét buồn đau trước cánh nước
mất, giặc gian giày xéo mình thì bất lực, bứt rứt không nguôi.
Cuối cùng tửu tượng cũng chẳng còn bình thường: Rượu tiếng rằng hay chả mấy nên chỉ dăm ba chén
đã say nhè. Nhìn chung tại sao lại sự biến hình đổi dạng này? Do rượu chăng? Sao nhìn vật một hóa
thành hai, ba, hoặc nhòa nhạt tất cả. Dáng hình biến đổi, màu sắc, đường nét nổi lên nhòe ra chập lại, lảo
đảo như say
Âm thanh cũng theo điệu ấy, có vẻ say. nhất và cũng bất ngờ nhất, t vị nhất tất cả các từ: le te,
lập lòe, đỏ hoe, say nhè. Cả câu: Làn ao lóng lánh bóng trăng loe đến bốn tiếng phụ âm l, càng tăng
gấp bội cái cảm giác ngửa nghiêng, chao đảo không chỉ bóng trăng dưới nước cả mặt ao, làn ao.
Từ đó cảm giác ngả nghiêng chao đảo ấy lan tỏa ra toàn bài để rồi kết thúc bằng hai chữ “say nhè”
chót câu cuối nhưng rồi âm thanh ý nghĩa lại dội ngược lên toàn bài.
Thế nhà thơ một mình đối diện với bầu rượu trong đêm thu này. Sau dăm ba chén, tâm đã nhòa ra,
thẩm thấu vào cảnh vật, khiến cho dáng thu, hồn thu đều cùng biến dạng, lảo đảo, say nhè. Cái hay, cái tài
của bài thơ Thu Ẩm này đó.
Downloaded by Nguyen Linh (vjt5@gmail.com)
Nhà t say nỗi buồn trước vận nước bứt rứt khôn nguôi trong lòng. Mượn vài chén rượu cho khuây
nhưng uống vào lại thấy nỗi niềm ấy hiện ra rệt hơn, làm lảo đảo cả cảnh vật đêm thu. lúc không
rượu tâm trạng chừng vui hơn, cụ Tam nguyên đã tự cười mình cũng thấy người nh như say:
Khấp khểnh ba chân dở tỉnh say kia mà!
M4: Nhan đề "Thu ẩm" đại khái được hiểu mùa thu, uống rượu, uống đây không phải nốc ừng ực
cả chai, cả bầu sự nhâm nhi thưởng thức đầy văn nhã của một thi nhân cảnh a thu trữ tình. Hai
câu đầu như sau:
"Năm gian n cỏ thấp le te,
Ngõ tối đêm sâu đóm lập loè."
Khác với Thu vịnh, cảnh mùa thu của Thu ẩm lại hiện lên trong đôi mắt của vị thi nhân ngà ngà men rượu
khung cảnh tối tăm, im ắng, đậm chất làng quê bình dị với "Năm gian nhà cỏ thấp le te". Nơi đây cũng
chẳng sáng bừng ánh đèn như chốn phồn hoa kinh thành thay vào đó những con "ngõ tối" cùng với
ánh sáng "lập lòe" của đom đóm đang dạo đêm kiếm bạn. những màn sương đêm giăng "phất phơ"
như màu "khói nhạt" bên lưng giậu, hình ảnh "bóng trăng loe" nhàn nhạt đang "lóng lánh" trên mặt ao
phẳng lặng trước sân nhà. hơn tất cả bầu trời mùa thu vẫn luôn điểm nhấn đặc sắc với một màu
"xanh ngắt" nền nã, trong trẻo, n được ai dồn hết cả tâm sức nhuộm lên. Trái ngược với cái màu
xanh thanh mát của trời thu sắc "đỏ hoe" ấm nóng trong đôi mắt của người đang âm thầm tởng rượu,
cảm nhận cái cảm giác được say.
Bài thơ đặc biệt chỗ trong sáu câu thơ đầu tả cảnh, tả người, nếu tinh ý người ta sẽ nhận ra được những
nét bút cao thấp, gần xa, lúc đậm nhạt. Thấp trong "Năm gian nhà cỏ thấp le te", thấy được đ sâu của
bóng "đêm sâu" dài hun hút, ng thấy cả sương khói nhạt nhòa vương bên giậu c tần trồng trước nhà,
lại thấy được cả cái u "xanh ngắt" đậm đà trên nền trời cao thăm thẳm. Rồi cả cái mỏng nhẹ của ánh
trăng "lóng lánh" khi bóng trăng phủ lên mặt ao, "loe" ra một màu nhàn nhạt như dát vàng. Đến câu "Mắt
lão không vầy cũng đỏ hoe", ta lại chợt mường tượng ra một đôi mắt hơi sâu, chứa đựng trong đó một
cánh cửa tâm hồn màng trong men rượu, say trong cảnh mùa thu thanh tĩnh, dịu dàng.
hai câu thơ cuối:
"Rượu tiếng rằng hay hay chả mấy
Độ năm ba chén đã say nhè"
Đây lời thi nhân, nhận xét vu về rượu, nhà t thường nghe người đời ca tụng rượu t vui tao
nhã, uống vào khoan khái tâm hồn, nhưng với nhà t ông lại thấy "hay chả mấy", ý bảo chẳng như lời
đồn, làm chi thứ tuyệt diệu thế. Thú vị hơn, thi nhân cũng không phải người biết uống rượu, thế nên
"Độ năm ba chén đã say nhè", đôi khi ta suy nghĩ rằng liệu phải thi nhân lần đầu hoặc hiếm khi uống
rượu không nhỉ? Nếu vậy thì cớ sự nào khiến nhà thơ tìm đến rượu? Xưa nay người ta vẫn thường ví,
uống rượu, câu cá, làm t ba thú vui ta nhã của những kẻ ẩn dật, thong dong hay uống rượu, ngắm
hoa, vịnh trăng thú vui thanh cao tao nhã văn nhân, thi hay làm. đây nhà thơ say nhưng cái cốt
cách văn nhã, quân tử vẫn đó, chỉ bằng một từ nhẹ nhàng "say nhè", say nhưng không làm ồn ã, náo
động chỉ đơn giản yên ắng, âm thầm ngả lưng xuống chiếu, mở đôi mắt đỏ hoe ngắm trăng ngắm
trời rồi thiu thiu vào giấc ngủ. Cái khung cảnh uống rượu của Nguyễn Khuyến khiến chúng ta liên tưởng
đến sự đơn trống vắng trong từng cảnh vật cả trong tâm tưởng của nhà thơ. Bởi chỉ nhìn phong thái
uống rượu ta cũng đã nhận ra Nguyễn Khuyến buồn, thứ nhất bun trước thế s đổi thay, đất nước loạn
lạc, tiếp nữa buồn trước cảnh đơn của bản thân khi những người thân yêu lần lượt ra đi trước, chịu
cảnh kẻ đầu bạc tiễn người đầu xanh. Còn một mình nhà thơ lại sống lay lắt với những chứng bệnh tật
tuổi già, chẳng còn cách nào để quên, ông bèn tìm đến rượu, bởi với ông chỉ vài ba chén đã say, say
Downloaded by Nguyen Linh (vjt5@gmail.com)
thì ngủ, ngủ thì không nhớ, không sầu. Thật xót xa cho bậc quân tử lại tài năng mà gặp thời cuộc xui rủi,
nhiễu nhương.
M5: Trong bài Thu ẩm này, đây dáng thu, hồn thu cả tâm nhà t được đưa vào trong bài. Cảnh
vật vẫn những cảnh vật quen thuộc. Từ nhà, từ vườn của cụ Tam Nguyên nhìn ra nh đồng, cái ao,
rặng tre, hàng giậu, ngõ xóm quanh co, hun hút, trời xanh trên đầu, khói phủ mặt nước, bóng trăng trong
ao. Khác một chút đây, Nguyễn Khuyến không còn là nhà thơ, ông câu ông già khề khà chén
rượu giải sầu. Nhưng cũng chính cái khác ấy cảnh vật dường như biến đổi, đầy bất ngờ thú vị .
“Ba gian nhà cỏ thấp le te,
Ngõ tối đêm sâu, đóm lập loè.”
“Nhà cỏ”, dùng để chỉ ngôi nhà đơn sơ, nhưng thấp le te thì đã cho thấy lụp xụp chẳng còn lành lặn.
Mái tranh đã rách nát, xác xơ. Tiếp đến ngõ tối đêm sâu cảnh bình thường nhưng ánh lửa đom đóm
lập lòe lúc tối, lúc sáng làm cho ngõ tối đêm sâu cũng biến dạng.
“Lưng giậu phất phơ màu khói nhạt,
Làn ao lóng lánh bóng trăng loe”
Sương thu lớt phớt như làn khói mỏng phủ lên bờ giậu, khiến cho rặng cây cũng nhạt bớt màu đêm. Đặc
biệt tài tình hình ảnh mặt ao lăn tăn gợn sóng, lóng lánh bóng trăng. Bóng trăng trên mặt nước lúc dồn
lại, lúc loe ra, biến dạng liên tiếp.
“Da trời ai nhuộm xanh ngắt,
Mắt lão không vẩy cũng đỏ hoe.”
Da trời không biết ai nhuộm xanh ngắt, mắt mình không vầy sao cũng đỏ hoe? Hay do say rượu.
Hình ảnh trung tâm của bài thơ “Mắt lão không vầy cũng đỏ hoe”. Câu thơ đã diễn tả trạng thái ngà ngà
say đến “say nhè”: “Rượu tiếng rằng hay hay chả mấy Độ năm ba chén đã say nhè”. “Say nhè” say
êm, say nhẹ, say rồi ngủ quên đi lúc nào chẳng biết. Chẳng phải là say bét nhè, tha.
4. Nghệ thuật: M1: Bức tranh thi nhân uống rượu trong đêm thu khép lại với những vần t đầy xúc
động. bài thơ, ngoài nhan đề Thu ẩm chẳng thêm một chữ “thu” nào, thế hồn thu, hơi thu lan
tỏa khắp không gian, thấm vào vạn vật âm thu vẫn lan tỏa mãi trong lòng người đọc.
M2: Thu ẩm của Nguyến Khuyến cảnh thu, chén rượu đắng cay của thi nhân trước khốn cảnh cuộc đời.
Cả bài t ngoại trừ nhan đề, chẳng ai thấy tác giả nhắc đến chữ "thu" nào nữa cả, nhưng đấy lại cái
hay độc đáo của một bài thơ tưởng không phải mùa thu lại mùa thu. Một mùa thu nhẹ nhàng,
trầm lắng, man mác nỗi buồn, nỗi đơn của thi nhân, qua đó cũng thấy được s tinh tế tài năng trong
phong cách làm t của Nguyễn Khuyến.
5. Kết bài: M1: Mặc đã lui về ẩn, vui t điền viên nhưng tận sâu trong tâm hồn thi nhân vẫn đau
đáu nỗi lo vận mện của đất nước. Thông qua cảnh vật, nhà thơ muốn gửi gắm sự xót xa, tiếc nuối trước
tình cảnh nước nhà đang bị giặc ngoại xâm. Qua chùm thơ cũng thấy được tài năng thơ ca của tác giả.
Chỉ những người tâm hồn tinh tế mới thể viết nên những câu thơ lay động lòng người đến vậy.
M2: Với Thu ẩm, nhà thơ đã viết nên một áng thơ mang đậm dấu n âm hưởng riêng của một Nguyễn
Khuyến tài tình và tinh tế, qua đó bộc lộ tâm sự, nỗi buồn về vận nước. Niềm yêu nước của Nguyễn
Khuyến biểu hiện thâm trầm, kín đáo không kém phần sâu sắc.
M3: “Thu ẩm” bài thơ về mùa thu chén rượu. Nhưng đây không chỉ một bài thơ đơn thuần về văn
hóa uống rượu, còn một bức tranh về tâm hồn tình cảm của nhà thơ. Bài t như một lời tự sự
của Nguyễn Khuyến với những tình cảm buồn vui, sâu lắng trong đời sống.
Downloaded by Nguyen Linh (vjt5@gmail.com)
Cả bài thơ một chuỗi hình ảnh tươi đẹp về mùa thu chén rượu, từ hình ảnh bóng trăng loe tan ra trên
mặt ao đến màu khói nhạt bay phất phơ, từ những vòng tròn lóng lánh của đom đóm đến màu sắc đỏ hoe
của đôi mắt ngà ngà say. Những hình ảnh này đã tạo nên một không gian thơ mộng, đưa người đọc vào
một thế giới tĩnh lặng thanh bình của mùa thu.
Tuy nhiên, đằng sau những hình ảnh đó tâm trạng u buồn, đau thương của nhà thơ. Nguyễn Khuyến đã
sử dụng chén rượu như một phương tiện đ thể hiện nỗi buồn đơn quên đi những đau thương trong
cuộc đời. Từ “say nhè” đến “độ năm ba chén đã say nhè” đều tạo ra một tình cảm u uất, giống như những
giọt nước mắt tràn đầy chén rượu.

Preview text:

THU ẨM
Năm gian nhà cỏ thấp le te,
Ngõ tối đêm sâu đóm lập loè.
Lưng giậu phất phơ màu khói nhạt,
Làn ao lóng lánh bóng trăng loe.
Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt,
Mắt lão không vầy cũng đỏ hoe.
Rượu tiếng rằng hay hay chả mấy,
Độ năm ba chén đã say nhè.
Dàn ý phân tích bài thơ Thu ẩm I. Mở bài:
Thu ẩm là một trong ba bài thơ thu nổi tiếng của Nguyễn Khuyến.
Bài thơ cho thấy dáng thu, hồn thu của làng quê đồng bằng Bắc Bộ; đồng thời thể hiện tâm trạng băn
khoăn, u uất của nhà thơ trước tình cảnh đau thương của đất nước. II. Thân bài: + Hai câu đề:
“Ba gian nhà cỏ thấp le te,
Ngõ tối đêm sâu, đóm lập loè.”
Cảnh thu ban đêm nơi làng quê nghèo khó với những hình ảnh quen thuộc được quan sát và miêu tả qua
đôi mắt đầy tâm trạng của thi nhân: Ba gian nhà cỏ (lợp tranh hoặc rạ), thấp le te là rất thấp, tưởng như bị
bóng tối đè nặng nên biến dạng.
Ánh sáng lập loè của đom đóm làm cho ngõ hẹp càng thêm tối và đêm thêm sâu (khuya). + Hai câu thực:
“Lưng giậu phất phơ màu khói nhạt,
Làn ao lóng lánh bóng trăng loe.”
– Quan sát và cảm nhận của thi sĩ rất tinh tế: sương thu như màu khói nhạt phủ quanh lưng giậu. (Giậu là
bờ rào bằng cây, thường trồng cúc tần hay dâm bụt). Bóng trăng soi trên mặt ao lãn tăn gợn sóng, lúc tụ
lại, lúc tản ra, tạo cảm giác là bóng trăng loe.
– Các phụ âm đầu / đứng gần nhau (Làn, lóng lánh, loe) đặc tả cảnh đó và thể hiện tài năng sử dụng ngôn ngữ của Nguyễn Khuyến. + Hai câu luận:
“Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt,
Mắt lão không vầy cũng đỏ hoe.”
Đối tượng miêu tả thứ nhất là bầu trời xanh ngắt như chất chứa cái gì đó bên trong, khiến nhà thơ băn
khoăn tự hỏi: ai nhuộm mà xanh ngắt. Đại từ phiếm chỉ ai lấp lửng một mối hoài nghi không lời giải đáp.
Đối tượng miêu tả thứ hai là chính bản thân nhà thơ: Mắt lão không vầy cũng đỏ hoe. Đôi mắt chứa chất đầy tâm trạng. + Hai câu kết:
“Rượu tiếng rằng hay hay chẳng mấy,
Chỉ dăm ba chén đã say nhè.”
Từ hay có hai nghĩa: hay uống rượu (thường xuyên); hay tức là tửu lượng cao. ô câu thơ này, từ hay mang
nghĩa thứ hai. Rượu tiếng rằng hay nhưng Chỉ dăm ba chén đã say nhè. Say do rượu thì ít mà say do tâm
trạng thì nhiều. Nhà thơ muốn mượn rượu để quên đi nỗi buồn đang đầy ắp trong tâm hồn.
* Nghệ thuật của bài thơ:
Bài thơ làm theo thể thất ngôn bát cú Đường luật, niêm luật rất chỉnh nhưng vẫn dung dị, tự nhiên
Nguyễn Khuyến có nhiều sáng tạo trong cách gieo vần và sử dụng từ ngữ, hình ảnh đậm đà tính chất dân tộc. III. Kết bài:
Tâm trạng u hoài của nhà thơ Nguyễn Khuyến thấm đượm vào cảnh vật, đồng điệu với dáng thu, hồn thu
của làng cảnh quê hương.
Nhà thơ buồn bã, day dứt khôn nguôi trước tình cảnh nô lệ của dân tộc, đất nước mà mình thì lực bất tòng
tâm. Mượn rượu giấi sầu mà nỗi sầu càng thêm chồng chất. Bài làm
1. Mở bài: M1: Tác giả Nguyễn Khuyến, tên thật là Nguyễn Thắng. Ông được biết đến là một vị quan có
phẩm chất thanh cao và thanh liêm, chính trực. Trong dân gian, đã có rất nhiêu gia thoại thú vị kể về sự
gắn bó của nhà thơ Nguyễn Khuyến với người dân. Không chỉ là một vị quan chính trực, hết lòng vì nhân
dân, Nguyễn Khuyến còn là một người có tâm hồn nhạy cảm, giàu cảm xúc luôn rộng mở và gắn bó với
thiên nhiên, làng quê và quê hương đất nước.
M2: Hình như trong thi ca – nhắc đến mùa thu là nhắc đến nỗi buồn – nỗi buồn trải ra với đầy đủ cung
bậc: từ buồn thương, buồn nhở, buồn man mác… Nhưng với mỗi thi nhân, nỗi buồn lại gắn với một tâm
sự khác nhau. Đến với Thu ẩm của Nguyễn Khuyến – nhà thơ của làng cảnh Việt Nam – người đọc lại
được chiêm ngưỡng một bức tranh thu với với đủ sắc màu và âm thanh dưới cái nhìn, dưới con mắt của
một thi nhân, của một con người đang đơn độc nâng chén với cuộc đời. Nhan đề “Thu ẩm” – mùa thu
uống rượu – là nhãn tự, là nơi nói lên nội dung chính của bài thơ. M3:
“Năm gian nhà cỏ thấp le te,
Ngõ tối đêm sâu đóm lập lòe.
Lưng giậu phất phơ màu khói nhạt,
Làn ao lóng lánh bóng trăng loe.
Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt,
Mắt lão không vầy cũng đỏ hoe.
Rượu tiếng rằng hay hay chả mấy
Độ năm ba chén đã say nhè.”
Cứ mỗi khi nhắc tới mùa thu là con người ta lại cảm thấy trong đó là cả thế giới của một kiểu tâm trạng
hết sức đặc trung trong văn học, đó là Dtâowmnlotardạendgby bNguuồyenn,Libnhu(ồvjtn5@thgmưaơil.cnogm,) buồn nhớ, buồn man mác…buồn.
Với đủ những cách thức để đi đến những tâm trạng đó, các nhà thơ đã sử dụng một cách khéo léo, tinh tế
những yếu tố của phong cách ngôn ngữ nghệ thuật để bày tỏ, để diễn tả tâm trạng của mình qua bức tranh
thu buồn kia. Đến với nhà thơ Nguyễn Khuyến, nhà thơ đã được mệnh danh là người đã vẽ nên những
bức tranh làng quê vùng Bắc Bộ Việt Nam vào mùa thu đầy đủ và đẹp đẽ nhất, người đọc có lẽ sẽ nhắc tới
ngay bài thơ “thu ẩm” trong chùm thơ thu rất nổi tiếng của ông. Nhan đề bài thơ là “thu ẩm” có nghĩa là
mùa thu uống rượu là nhãn tự, là nơi nói lên nội dung chính của bài thơ, và ở đây, bài thơ là một bức
tranh mùa thu với đủ sắc màu và âm thanh dưới cái nhìn, dưới con mắt của một thi nhân, của một con
người đang đơn độc nâng chén với cuộc đời. Năm câu thơ đầu tiên, nhà thơ mở ra một khung cảnh làng
quê vào mùa thu trong một thời điểm vô cùng đặc biệt, đó là ban đêm.
M4: Nguyễn Khuyễn là một nhà thơ tài năng, cốt cách thanh cao, một lòng yêu nước thương dân, từng từ
bỏ chốn quan trường vốn là nơi có thể tu chí lập nghiệp vì chán ghét chính quyền thực dân Pháp và bộ
máy nhà nước phong kiến thối nát. Ông có một sự nghiệp thơ từ đồ sộ bao gồm cả chữ Hán và Nôm,
trong đó nổi tiếng nhất phải kể đến chùm thơ thu bằng chữ Nôm và Thu ẩm là một trong ba bài thơ nức danh đó.
M5: Thu ẩm có nghĩa là mùa thu uống rượu. Đây là một trong ba bài thơ Nôm nói về mùa thu nổi tiếng
của Nguyễn Khuyến: Thu điếu (Mùa thu câu cá), Thu vịnh (Mùa thu làm thơ), Thu ẩm (Mùa thu uống
rượu). Chùm thơ này là dáng thu, hồn thu của đồng bằng Bắc Bộ thời xưa. Mỗi bài thơ mang những dáng
thu riêng và những nét tâm tình riêng. Thấm đượm vào cảnh vật là tâm trạng băn khoăn, u uất của nhà thơ
trước tình cảnh đất nước rơi vào tay giặc.
M6: Nguyễn Khuyến là một trong những nhà thơ nổi tiếng của nền văn học dân tộc, có nhiều bài thơ viết
về mùa thu bằng chữ Hán và chữ Nôm. Thu ẩm là một trong ba bài thơ Nôm nổi tiếng: Thu điếu, Thu ẩm
và Thu vịnh. Chùm thơ này đã tôn vinh Nguyễn Khuyến lên vị trí hàng đầu trong các nhà thơ viết về mùa
thu của quê hương, làng cảnh Việt Nam.
2. Khái quát: M1: Quá trình phân tích chùm thơ thu của Nguyễn Khuyến, chúng ta sẽ cảm nhận rõ hơn
màu sắc thu ở đồng bằng Bắc bộ. Chùm thơ thu là những bức tranh thu đặc sắc, với ngôn ngữ giàu tính
biểu cảm, thể hiện tình yêu thiên nhiên tha thiết của tác giả. Phân tích chùm thơ thu của Nguyễn Khuyến,
độc giả không thể không nhắc đến tác phẩm “Thu ẩm”. Nếu như Thu điếu là mùa thu câu cá thì Thu ẩm là mùa thu uống rượu.
M2: Có thể nói, trong ba bài thơ thu của Nguyễn Khuyến, chỉ có bài Thu điếu là nhất quán về không
gian, về thời gian. Còn ở bài Thu vịnh và Thu ẩm khó có thể xác định một không gian, thời gian cụ thể
nào. Có thể nhà thơ Nguyễn Khuyến uống rượu làm thơ trong một đêm thu nào đó nhưng cảnh thu không
nhất thiết là cảnh đêm thu. Khi cái say men đã làm thi nhân hơi chếnh choáng thì các hình ảnh lần lượt
hiện về trong tâm trí dệt nên bức tranh thu đa dạng.
M3: Dáng thu trong Thu vịnh thăm thẳm, xa vời, quen mà lạ. Trời thu thì xanh ngát những mấy từng cao;
khóm tre thu nhỏ lại trong hinh ảnh cần trúc, sương như khói phủ thành tầng trên mặt nước, song thưa để
mặc bóng tràng vào, hoa năm nay bỗng thành hoa năm ngoái, tiếng ngỗng thảng thốt, mơ hổ… Hồn thu
như lắng chìm vào bôn trong, ẩn chứa ở chiều sâu.
Dáng thu, hồn thu ở bài Thu điếu lại chất chứa trong sự thu nhỏ và lặng im của cảnh vật: chiếc thuyền câu
bé tẻo teo, nước biếc trên mặt ao chỉ gợn tí, lá vàng khẽ rơi vèo không thành tiếng, tiếng cá đớp động rất
nhẹ dưới chân bèo. Tất cả đều im lìm, tĩnh mịch. Tưởng chừng như ông câu cũng hoá đá trong tư thế tựa
gối ôm cần. Tâm tư cụ Tam Nguyên ngụ trong sự chờ đợi mỏi mòn giữa không khí yên lặng gần như tuyệt đối.
Trở lại với hai bài thơ thu kia mấy dòng như vậy là có ý so sánh đế nhìn được rõ hơn dáng thu, hồn thu và
tâm tư nhà thơ trong bài Thu ẩm này, ở đây, dáng thu, hồn thu và cả tâm tư nhà thơ có khác.
Downloaded by Nguyen Linh (vjt5@gmail.com)
Cảnh vật vẫn là những cảnh vật quen thuộc. Từ nhà, từ vườn của cụ Tam Nguyên nhìn ra cánh đồng, cái
ao, rặng tre, hàng giậu, ngõ xóm quanh co, hun hút, trời xanh trên đầu, khói phủ mặt nước, bóng trăng
trong ao. Khác một chút là ở đây, Nguyễn Khuyến không còn là nhà thơ, là ông câu mà là ông già khề khà
chén rượu giải sầu. Nhưng cũng chính vì cái khác ấy mà cảnh vật dường như biến đổi, đầy bất ngờ và thú vị .
M4: Nhan đề bài thơ “Thu ẩm” có nghĩa là mùa thu uống rượu. Đây là một trong ba bài thơ Nôm nói về
mùa thu nổi tiếng của Nguyễn Khuyến: Thu điếu (Mùa thu câu cá), Thu vịnh (Mùa thu làm thơ), Thu ẩm
(Mùa thu uống rượu). Chùm thơ này là dáng thu, hổn thu của đồng bằng Bắc Bộ thời xưa. Mỗi bài thơ
mang những dáng thu riêng và những nét tâm tình riêng. Thấm đượm vào cảnh vật là tâm trạng băn
khoăn, u uất của nhà thơ trước tình cảnh đất nước rơi vào tay giặc.
3. Luận điểm: M1: Trong bài Thu ẩm này, độc giả cảm nhận hồn thu, dáng thu và tâm tư của nhà thơ.
Nhà thơ giới thiệu nhà, vườn ra tới cánh động, rặng tre, ao vườn, hàng giậu, ngõ xóm. Chúng mang dáng
vẻ hun hút, quanh co… Đọc những câu thơ, chúng tả cảm nhận lúc này Nguyễn Khuyến không còn là thi
nhân nữa mà trở thành ông già đang khề khà chén rượu để giả sầu. Chính với cái nhìn say sưa đó mà cảnh
vật biến đổi đầy thú vị và bất ngờ:
“Ba gian nhà cỏ thấp le te,
Ngõ tối đêm sâu, đóm lập loè.
Bức tranh thu của tác giả hiện lên với hình ảnh ngôi nhà cỏ thấp le te. Thấp le te có nghĩa là rất đơn sơ và
lụp xụp, mái tranh cũng xác xơ và rách nát. “Đã thế, lại điểm thêm những đốm sáng lập lòe của đom đóm
trong ngõi tối đêm sâu, trông càng heo hút, cô quạnh:
“Lưng giậu phất phơ màu khói nhạt,
Làn ao lóng lánh bóng trăng loe.
Bức tranh thu ẩm ấy hiện lên sau lớp sương thu mỏng phớt phơ như làn khói mỏng. Khiến cho khung
cảnh trở nên thật mờ nhạt trong màu đêm chập choạng. Đặc biệt, hình ảnh ao thu ở đây không lạnh lẽo
trong veo nữa mà là lóng lánh bóng trăng. Có nghĩa là bóng trăng lúc dồn lại, lúc tỏa ra liên tiếp biến
dạng, trông thật thú vị nhưng cũng đong đầy cảm xúc:
“Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt,
Mắt lão không vẩy cũng đỏ hoe”.
Ban đêm mà thi nhân thấy bầu trời xanh ngắt, còn mắt không vầy mà cũng đỏ hoe. Thật kỳ lạ! Nhưng đó
chính xác là diễn tả tâm trạng buồn bã chán chường, tìm đến rượu để giải sầu của tác giả. Chẳng thế mà
thi nhân mới nói “Rượu tiếng rằng hay hay chả mấy – Độ năm ba chén đã say nhè”.
Không phải say túy lúy mà chỉ say nhè, say nhẹ, say rồi ngủ mà không bê tha, phá phách. Có thể thấy
theo Nguyễn Khuyến, mùa thu thật hợp để có thể lè nhè đôi ba chén rượu.
M2: Vẫn bằng bút pháp hiện thực quen thuộc, bằng lời thơ bình dị, Nguyễn Khuyến mở đầu bài thơ bằng cảnh:
“Năm gian nhà cỏ thấp le te
Ngõ tối đêm sâu, đóm lập lòe.”
Nơi nhà thơ đang uống rượu làm thơ không phải là thư phòng, thư sảnh của lầu son gác tía nào mà chỉ là
ngôi nhà cô đơn sơ bình dị nơi thôn dã, một ngôi nhà lợp bằng rơm rạ “thấp le te”. Từ nơi ấy thi nhân
nhìn ra chỉ thấy màn đêm sâu thẳm.
Downloaded by Nguyen Linh (vjt5@gmail.com)
Đó là một đêm tối gợi lên chiều sâu không cùng, tối tăm, ánh sáng đom đóm mới lập lòe như thế. Trong
đêm thu trời tối, Nguyễn Khuyến trầm ngâm bên chén rượu, những cảnh thu ở nhiều nơi cứ lập lòe ẩn
hiện trong tâm trí của thi nhân. Đó là cảnh chiều thu quê hương yên ả, đầm ấm:
“Lưng giậu phất phơ màu khói nhạt.”
Đó là cảnh đêm trăng mùa thu được cảm nhận từ phía ao nhà: “Làn ao lóng lánh bóng trăng loe”. Đó là
cảnh mùa thu trong một ngày nắng đẹp: “Da trời ai nhuộm màu xanh ngắt”. Cảnh trong tâm tưởng mà rất
thực, rất bình dị. Đó là cảnh quê, hồn quê từ lâu đã thấm sâu, hòa nhập vào tâm hồn Nguyễn Khuyến để
khi làm thơ thi hứng lại gọi về.
Trăng mùa thu là thi liệu quen thuộc nhưng thi liệu ấy lại trở nên mới mẻ sinh động lạ thường khi được
nhìn qua đôi mắt của thi sĩ làng quê Yên Đổ.
Nhà thơ Xuân Diệu cho đây “là một câu thơ hiếm có”, một phát hiện của nhà thơ có tài: “… câu Làn ao
lóng lánh bóng trăng loe, là của một thi sĩ thật có tài, bóng trăng vàng từ mặt nước ao sáng lóe ra, bốn chữ
khả năng (làn, lóng, lánh, loe) gợi chất vàng nước kim loại, ba dấu sắc khứ thanh (lóng, lánh, bóng) gợi
ánh bắn đi; từ loe, âm oe gợi cái gì tròn (tròn xoe) như cái ao chẳng hạn”.
Xuân Diệu đã phân tích rất tinh tế khả năng gợi tả của ngôn ngữ ở phương diện ngữ âm. Nhưng để có cái
hay, cái đẹp, cái độc đáo ấy trước hết là ở cách nhìn, ở hướng tiếp cận. Thi sĩ bao đời nay miêu tả trăng thu.
Nhìn trăng qua ao mới có vẻ đẹp lóng lánh như thế, trăng từ trong ao hắt ánh sáng lên mới tạo ra những
chùm sáng lòe như thế. Một thi sĩ tài năng thì không có đề tài nào là mòn cũ, không có câu chữ nào là mất đi sức sống.
Thu ẩm là mùa thu uống rượu mà mãi cuối bài thơ mới thấy hình ảnh người uống rượu xuất hiện:
“Mắt lão không vầy cũng đỏ hoe
Rượu tiếng rằng hay, hay chả mấy
Độ năm ba chén đã say nhè.”
Đó là chân dung tự họa của nhà thơ Nguyễn Khuyến trong những năm tháng ẩn dật ở quê nhà. Nỗi niềm
gì đang xót lòng xót dạ người nho sĩ ấy đến mức mắt đỏ hoe, rớm máu? Từ đôi mắt, người đọc nhìn thấu
nỗi buồn đau của cụ Tam Nguyên
Đã từng đỗ đầu thi hương, thi hội đã từng được vua ban chức này tước nọ mà Nguyễn Khuyến không chút
đắc ý về cuộc đời mình. Có lúc ông còn thấy việc học cũ là viển vông vô ích, việc làm quan trong thời
buổi ấy là nỗi nhục. Tưởng là trở về vườn xưa chốn cũ để thanh thản nỗi lòng, nào ngờ đâu lòng vẫn nặng buồn đau:
“Ngọn gió đông ngoảnh lại lệ đầm khăn
Tình thương hải tang điền qua mấy lớp.” (Trở về vườn cũ)
Để dịu bớt cơn đau, để khuây khỏa nỗi buồn, Nguyễn Khuyến đã làm bạn với túi thơ, bầu rượu. Ở Trung
Quốc có nhà thơ Lí Bạch làm nhiều bài thơ về rượu, ở nước Nam ta không có ai nói về rượu trong thơ
nhiều như Nguyễn Khuyến.
Nhà thơ hay uống rượu nhưng chả uống được nhiều. Người ta uống rượu để mà quên, để mà say còn
Nguyễn Khuyến uống rượu lại càng nhớ, lại càng buồn. Cái tôi trữ tình của nhà thơ trong bài Thu ẩm bề
Downloaded by Nguyen Linh (vjt5@gmail.com)
ngoài thì có vẻ say nhè nhưng thực chất là rất tỉnh. Say nhè để quên mọi chuyện nhưng nhà thơ không
quên được nỗi đau buồn về non sông đất nước. M3: Hai câu đề:
“Ba gian nhà cỏ thấp le te
Ngõ tối đêm sâu đóm lập lòe”
Nhà tranh mà gọi là nhà cỏ thì giá trị đã hạ một bậc nhưng chữ nghĩa khác nhau chưa mấy. Nhưng thấp le
te đã rõ là thấp và chẳng còn lành lặn, mái tranh đã rách nát, xác xơ đổi dạng. Tiếp theo: Ngõ tối và đêm
sâu là cảnh bình thường nhưng lại có ánh lửa đom đóm lập lòe làm cho ngõ tối và đêm sâu lúc tối, lúc
sáng thành ra cũng biến dạng. Hai câu thực cũng vậy:
“Lưng giậu phất phơ màu khói nhạt,
Làm áo lóng lánh bóng trăng loe.”
Sương thu lớt phớt như khói mỏng phủ bờ giậu khiến cho cây xanh cũng chẳng còn màu đêm. Câu thơ
đặc biệt miêu tả tài tình: Mặt ao cũng không còn phẳng lặng mà lăn tăn gợn sóng và ánh trăng chiếu vào
nên lóng lánh; bóng trăng chiếu xuống nước gợn sóng cũng chẳng còn nguyên hình mà chao lại loe ra,
dồn lại, biến dạng liên tiếp.
“Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt?
Mắt lão không vầy cũng đỏ hoe.”
Cảnh trời và cảnh mình. Trời cũng như mình đều do ai đó làm cho biến đổi: Trời thì ai nhuộm mà xanh
ngắt, mắt mình không vầy mà cũng đỏ hoe? Người nghiên cứu bảo cụ Tam nguyên đau mắt, có lần mắt đỏ
như máu, hay là do rượu say? Say rượu cũng thường đỏ mắt.
Chữ “ai” lấp lửng một mối hoài nghi, nghe lửng lơ nhưng chắc không phải vô ý. Bỗng dưng lại lấy một
thế lực nào đó bên ngoài tác động vào trời, nhuộm cả da trời, rồi bỗng dưng mắt mình “đỏ hoe nước mắt”.
Đây cũng là nét tâm tư của nhà thơ?
Nó cùng một mạch cảm thương như hoa năm nay mà nhìn ra hoa năm ngoái, và tiếng ngỗng bay qua trời
mình mà nghĩ mà ngỡ là ngỗng nước nào. Tâm tư nhà thơ không ngoài nét buồn đau trước cánh nước
mất, lũ giặc lũ gian giày xéo mà mình thì bất lực, bứt rứt không nguôi.
Cuối cùng là tửu tượng cũng chẳng còn bình thường: Rượu tiếng rằng hay chả mấy nên chỉ dăm ba chén
đã say nhè. Nhìn chung tại sao lại có sự biến hình đổi dạng này? Do rượu chăng? Sao nhìn vật một hóa
thành hai, ba, hoặc nhòa nhạt tất cả. Dáng hình biến đổi, màu sắc, đường nét nổi lên nhòe ra chập lại, lảo đảo như say
Âm thanh cũng theo điệu ấy, có vẻ say. Rõ nhất và cũng bất ngờ nhất, thú vị nhất là ở tất cả các từ: le te,
lập lòe, đỏ hoe, say nhè. Cả câu: Làn ao lóng lánh bóng trăng loe có đến bốn tiếng có phụ âm l, càng tăng
gấp bội cái cảm giác ngửa nghiêng, chao đảo không chỉ ở bóng trăng dưới nước mà ở cả mặt ao, làn ao.
Từ đó mà cảm giác ngả nghiêng chao đảo ấy lan tỏa ra toàn bài để rồi kết thúc bằng hai chữ “say nhè” ở
chót câu cuối nhưng rồi âm thanh và ý nghĩa lại dội ngược lên toàn bài.
Thế là nhà thơ một mình đối diện với bầu rượu trong đêm thu này. Sau dăm ba chén, tâm tư đã nhòa ra,
thẩm thấu vào cảnh vật, khiến cho dáng thu, hồn thu đều cùng biến dạng, lảo đảo, say nhè. Cái hay, cái tài
của bài thơ Thu Ẩm này là ở đó.
Downloaded by Nguyen Linh (vjt5@gmail.com)
Nhà thơ say vì nỗi buồn trước vận nước và bứt rứt khôn nguôi trong lòng. Mượn vài chén rượu cho khuây
nhưng uống vào lại thấy nỗi niềm ấy hiện ra rõ rệt hơn, làm lảo đảo cả cảnh vật đêm thu. Có lúc không
rượu mà tâm trạng chừng vui hơn, cụ Tam nguyên đã tự cười mình và cũng thấy người mình như say:
Khấp khểnh ba chân dở tỉnh say kia mà!
M4: Nhan đề "Thu ẩm" đại khái được hiểu là mùa thu, uống rượu, uống ở đây không phải là nốc ừng ực
cả chai, cả bầu mà là sự nhâm nhi thưởng thức đầy văn nhã của một thi sĩ nhân cảnh mùa thu trữ tình. Hai câu đầu như sau:
"Năm gian nhà cỏ thấp le te,
Ngõ tối đêm sâu đóm lập loè."
Khác với Thu vịnh, cảnh mùa thu của Thu ẩm lại hiện lên trong đôi mắt của vị thi nhân ngà ngà men rượu
là khung cảnh tối tăm, im ắng, đậm chất làng quê bình dị với "Năm gian nhà cỏ thấp le te". Nơi đây cũng
chẳng sáng bừng ánh đèn như chốn phồn hoa kinh thành mà thay vào đó là những con "ngõ tối" cùng với
ánh sáng "lập lòe" của đom đóm đang dạo đêm kiếm bạn. Là những màn sương đêm giăng "phất phơ"
như màu "khói nhạt" bên lưng giậu, là hình ảnh "bóng trăng loe" nhàn nhạt đang "lóng lánh" trên mặt ao
phẳng lặng trước sân nhà. Và hơn tất cả bầu trời mùa thu vẫn luôn là điểm nhấn đặc sắc với một màu
"xanh ngắt" nền nã, trong trẻo, như được ai dồn hết cả tâm sức mà nhuộm lên. Trái ngược với cái màu
xanh thanh mát của trời thu là sắc "đỏ hoe" ấm nóng trong đôi mắt của người đang âm thầm thưởng rượu,
cảm nhận cái cảm giác được say.
Bài thơ đặc biệt ở chỗ trong sáu câu thơ đầu tả cảnh, tả người, nếu tinh ý người ta sẽ nhận ra được những
nét bút cao thấp, gần xa, lúc đậm nhạt. Thấp trong "Năm gian nhà cỏ thấp le te", thấy được độ sâu của
bóng "đêm sâu" dài hun hút, cũng thấy cả sương khói nhạt nhòa vương bên giậu cúc tần trồng trước nhà,
lại thấy được cả cái màu "xanh ngắt" đậm đà trên nền trời cao thăm thẳm. Rồi cả cái mỏng nhẹ của ánh
trăng "lóng lánh" khi bóng trăng phủ lên mặt ao, "loe" ra một màu nhàn nhạt như dát vàng. Đến câu "Mắt
lão không vầy cũng đỏ hoe", ta lại chợt mường tượng ra một đôi mắt hơi sâu, chứa đựng trong đó là một
cánh cửa tâm hồn mơ màng trong men rượu, say trong cảnh mùa thu thanh tĩnh, dịu dàng. Ở hai câu thơ cuối:
"Rượu tiếng rằng hay hay chả mấy
Độ năm ba chén đã say nhè"
Đây là lời thi nhân, nhận xét vu vơ về rượu, nhà thơ thường nghe người đời ca tụng rượu là thú vui tao
nhã, uống vào khoan khái tâm hồn, nhưng với nhà thơ ông lại thấy "hay chả mấy", ý bảo chẳng như lời
đồn, làm chi có thứ tuyệt diệu thế. Thú vị hơn, thi nhân cũng không phải người biết uống rượu, thế nên
"Độ năm ba chén đã say nhè", đôi khi ta suy nghĩ rằng liệu có phải thi nhân lần đầu hoặc hiếm khi uống
rượu không nhỉ? Nếu vậy thì cớ sự nào khiến nhà thơ tìm đến rượu? Xưa nay người ta vẫn thường ví,
uống rượu, câu cá, làm thơ là ba thú vui ta nhã của những kẻ ẩn dật, thong dong hay uống rượu, ngắm
hoa, vịnh trăng là thú vui thanh cao tao nhã mà văn nhân, thi sĩ hay làm. Ở đây nhà thơ say nhưng cái cốt
cách văn nhã, quân tử vẫn cò đó, chỉ bằng một từ nhẹ nhàng "say nhè", say nhưng không làm ồn ã, náo
động mà chỉ đơn giản là yên ắng, âm thầm ngả lưng xuống chiếu, mở đôi mắt đỏ hoe ngắm trăng ngắm
trời rồi thiu thiu vào giấc ngủ. Cái khung cảnh uống rượu của Nguyễn Khuyến khiến chúng ta liên tưởng
đến sự cô đơn trống vắng trong từng cảnh vật và cả trong tâm tưởng của nhà thơ. Bởi chỉ nhìn phong thái
uống rượu ta cũng đã nhận ra Nguyễn Khuyến buồn, thứ nhất là buồn trước thế sự đổi thay, đất nước loạn
lạc, tiếp nữa là buồn trước cảnh cô đơn của bản thân khi những người thân yêu lần lượt ra đi trước, chịu
cảnh kẻ đầu bạc tiễn người đầu xanh. Còn một mình nhà thơ ở lại sống lay lắt với những chứng bệnh tật
tuổi già, chẳng còn cách nào để quên, ông bèn tìm đến rượu, bởi với ông chỉ vài ba chén đã say, mà say
Downloaded by Nguyen Linh (vjt5@gmail.com)
thì ngủ, ngủ thì không nhớ, không sầu. Thật xót xa cho bậc quân tử lại tài năng mà gặp thời cuộc xui rủi, nhiễu nhương.
M5: Trong bài Thu ẩm này, ở đây dáng thu, hồn thu và cả tâm tư nhà thơ được đưa vào trong bài. Cảnh
vật vẫn là những cảnh vật quen thuộc. Từ nhà, từ vườn của cụ Tam Nguyên nhìn ra cánh đồng, cái ao,
rặng tre, hàng giậu, ngõ xóm quanh co, hun hút, trời xanh trên đầu, khói phủ mặt nước, bóng trăng trong
ao. Khác một chút là ở đây, Nguyễn Khuyến không còn là nhà thơ, là ông câu mà là ông già khề khà chén
rượu giải sầu. Nhưng cũng chính vì cái khác ấy mà cảnh vật dường như biến đổi, đầy bất ngờ và thú vị .
“Ba gian nhà cỏ thấp le te,
Ngõ tối đêm sâu, đóm lập loè.”
“Nhà cỏ”, dùng để chỉ ngôi nhà đơn sơ, nhưng thấp le te thì đã cho thấy là lụp xụp và chẳng còn lành lặn.
Mái tranh đã rách nát, xác xơ. Tiếp đến ngõ tối và đêm sâu là cảnh bình thường nhưng ánh lửa đom đóm
lập lòe lúc tối, lúc sáng làm cho ngõ tối và đêm sâu cũng biến dạng.
“Lưng giậu phất phơ màu khói nhạt,
Làn ao lóng lánh bóng trăng loe”
Sương thu lớt phớt như làn khói mỏng phủ lên bờ giậu, khiến cho rặng cây cũng nhạt bớt màu đêm. Đặc
biệt tài tình là hình ảnh mặt ao lăn tăn gợn sóng, lóng lánh bóng trăng. Bóng trăng trên mặt nước lúc dồn
lại, lúc loe ra, biến dạng liên tiếp.
“Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt,
Mắt lão không vẩy cũng đỏ hoe.”
Da trời không biết ai nhuộm mà xanh ngắt, mắt mình không vầy sao cũng đỏ hoe? Hay là do say rượu.
Hình ảnh trung tâm của bài thơ là “Mắt lão không vầy cũng đỏ hoe”. Câu thơ đã diễn tả trạng thái ngà ngà
say đến “say nhè”: “Rượu tiếng rằng hay hay chả mấy – Độ năm ba chén đã say nhè”. “Say nhè” là say
êm, say nhẹ, say rồi ngủ quên đi lúc nào chẳng biết. Chẳng phải là say bét nhè, bê tha.
4. Nghệ thuật: M1: Bức tranh thi nhân uống rượu trong đêm thu khép lại với những vần thơ đầy xúc
động. Có bài thơ, ngoài nhan đề Thu ẩm – chẳng có thêm một chữ “thu” nào, thế mà hồn thu, hơi thu lan
tỏa khắp không gian, thấm vào vạn vật và dư âm thu vẫn lan tỏa mãi trong lòng người đọc.
M2: Thu ẩm của Nguyến Khuyến là cảnh thu, chén rượu đắng cay của thi nhân trước khốn cảnh cuộc đời.
Cả bài thơ ngoại trừ nhan đề, chẳng ai thấy tác giả nhắc đến chữ "thu" nào nữa cả, nhưng đấy lại là cái
hay và độc đáo của một bài thơ tưởng không phải mùa thu mà lại là mùa thu. Một mùa thu nhẹ nhàng,
trầm lắng, man mác nỗi buồn, nỗi cô đơn của thi nhân, qua đó cũng thấy được sự tinh tế và tài năng trong
phong cách làm thơ của Nguyễn Khuyến.
5. Kết bài: M1: Mặc dù đã lui về ở ẩn, vui thú điền viên nhưng tận sâu trong tâm hồn thi nhân vẫn đau
đáu nỗi lo vận mện của đất nước. Thông qua cảnh vật, nhà thơ muốn gửi gắm sự xót xa, tiếc nuối trước
tình cảnh nước nhà đang bị giặc ngoại xâm. Qua chùm thơ cũng thấy rõ được tài năng thơ ca của tác giả.
Chỉ những người có tâm hồn tinh tế mới có thể viết nên những câu thơ lay động lòng người đến vậy.
M2: Với Thu ẩm, nhà thơ đã viết nên một áng thơ mang đậm dấu ấn và âm hưởng riêng của một Nguyễn
Khuyến tài tình và tinh tế, qua đó bộc lộ tâm sự, nỗi buồn về vận nước. Niềm yêu nước của Nguyễn
Khuyến biểu hiện thâm trầm, kín đáo mà không kém phần sâu sắc.
M3: “Thu ẩm” là bài thơ về mùa thu và chén rượu. Nhưng đây không chỉ là một bài thơ đơn thuần về văn
hóa uống rượu, mà còn là một bức tranh về tâm hồn và tình cảm của nhà thơ. Bài thơ như một lời tự sự
của Nguyễn Khuyến với những tình cảm buồn vui, sâu lắng trong đời sống.
Downloaded by Nguyen Linh (vjt5@gmail.com)
Cả bài thơ là một chuỗi hình ảnh tươi đẹp về mùa thu và chén rượu, từ hình ảnh bóng trăng loe tan ra trên
mặt ao đến màu khói nhạt bay phất phơ, từ những vòng tròn lóng lánh của đom đóm đến màu sắc đỏ hoe
của đôi mắt ngà ngà say. Những hình ảnh này đã tạo nên một không gian thơ mộng, đưa người đọc vào
một thế giới tĩnh lặng và thanh bình của mùa thu.
Tuy nhiên, đằng sau những hình ảnh đó là tâm trạng u buồn, đau thương của nhà thơ. Nguyễn Khuyến đã
sử dụng chén rượu như một phương tiện để thể hiện nỗi buồn cô đơn và quên đi những đau thương trong
cuộc đời. Từ “say nhè” đến “độ năm ba chén đã say nhè” đều tạo ra một tình cảm u uất, giống như những
giọt nước mắt tràn đầy chén rượu.
Downloaded by Nguyen Linh (vjt5@gmail.com)
Document Outline

  • THU ẨM
  • Dàn ý phân tích bài thơ Thu ẩm
    • II.Thân bài:
    • + Hai câu thực:
    • + Hai câu luận:
    • + Hai câu kết:
    • * Nghệ thuật của bài thơ:
    • III.Kết bài:
  • Bài làm
    • M3: